"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 336: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1083)

Bắt đầu từ tháng 6 nhuận năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 6 nhuận, ngày Ất Hợi, mùng một, Hạ quốc chủ Bính Thường dâng biểu xin tu sửa chức cống. Chiếu rằng: “Trẫm phong tước cho ngươi, đời đời làm phiên thần, việc chức cống tu sửa, năm tháng không lười biếng, triều đình đối đãi, ân điển càng thêm lớn. Gần đây vì quyền thế mạnh mẽ, dám làm việc phế bỏ và nhục mạ, đến tai Trẫm, thật đáng kinh ngạc. Đã từng sai biên châu đến hỏi, nhưng giấu không báo, lại tiếp tục xâm phạm biên giới, quân vương đi đánh, là để trừng trị kẻ có tội, nghĩa là cứu giúp nạn nhân, không phải là việc muốn làm. Nay, sai sứ đến triều đình, lời lẽ cung kính thuận theo, lại nghe rằng chính sự trong nước đều trở lại như cũ, lòng Trẫm thấy nhẹ nhàng, rất khen ngợi và chấp nhận, đã răn biên lại không được tùy tiện xuất quân. Ngươi hãy tuân thủ lời thề trước, càng thêm nỗ lực giữ gìn đạo làm tôi, mãi mãi hưởng phúc lộc, để đáp lại sự quan tâm của Trẫm.” Ban đầu, Tam tỉnh và Xu mật viện dâng bản thảo chiếu lên. Vua phê: “Ý từ đã được thỏa đáng, chỉ cần xem xét lại xem từ trước đến nay trong chiếu thư có từng xưng ‘Trẫm’ và ‘ngươi’ hay không.” Tam tỉnh và Xu mật viện tâu lại việc cũ, rồi dùng.

(Chiếu thư căn cứ theo 《Ngự tập》. Cả hai bộ sử đều chép Bính Thường xin tu sửa chức cống, được chấp thuận.)

[2] Ngày Bính Tý, chiếu rằng các sứ thần được tuyển từ bên ngoài Trung thư và Thượng thư tỉnh, không được ghi chính quan để xét duyệt và bổ nhiệm.

(Ngày Nhâm Ngọ nên gộp vào đây.)

[3] Ty chế trí Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Hoàng thành sứ, Thứ sử Hoàn Châu Lý Trung Kiệt có công đánh giặc phía Tây, nên thăng bốn bậc, xin chuyển ba bậc cho con là Nội tàng khố phó sứ A Mại, thăng làm Lục trạch sứ.”

(A Mại đã được nhắc đến vào ngày Quý Tỵ tháng 5.)

[4] Ty kinh lược Phu Diên lộ tâu: “Cung tiễn thủ ở các huyện gần đây có ruộng đất, lập hộ ở hai nơi, và có từ bốn đinh trở lên, xin lấy một đinh làm bảo giáp, một đinh làm cung tiễn thủ; có từ hai đến ba đinh, thì tạm thời cho làm cung tiễn thủ.” Chiếu rằng nếu bảo giáp nào muốn làm cung tiễn thủ thì cho phép, còn những người đang làm cung tiễn thủ và phải đóng thuế đinh, không được bỏ về làm bảo giáp. Thiểm Tây, Hà Đông cũng theo đó mà làm.

[5] Ngày Đinh Sửu, Thái thường tự tâu: “Bốn vị hoàng hậu được thăng phối thờ, trong ba thất cần tăng thêm bốn thạch thất, quy chế giống như hậu thất.” Vua nghe theo.

(Ngày Ất Tỵ mùng 1 tháng 6, ngày Ất Mão 12 tháng 7.)

[6] Ngày Mậu Dần, xuống chiếu cho Hoàng thành sứ, Đăng châu Phòng ngự sứ Tống Dụng Thần và một người con được nhập sĩ trong tương lai thăng một chức, ban 200 lượng bạc và lụa; Hoàng thành phó sứ Tào Di Tôn, Nội điện Sùng ban, Các môn Chi hậu Dương Diễm, Hữu thị cấm Nhậm Vĩ mỗi người thăng một chức. Đều vì có công khơi sông Thiên Nguyên, mà Dụng Thần là người đề cử.

[7] Chiếu cho Hữu ban Điện trực, Nam Bình quân Di giới Tuần kiểm Cúc Nãng Nhị thăng làm Nội điện Sùng ban, Di giới Đô tuần kiểm sứ, ban thưởng trăm lạng vàng, năm trăm tấm lụa; Nghĩa quân Chỉ huy sứ Cúc Nãng Đại làm Hữu ban Điện trực, Di giới Đồng tuần kiểm; Vương Dụng Tường làm Tam ban Tá chức, Quy Chính trại Giám áp; Tá chức Phùng Chính Phù làm Hữu ban Điện trực. Quỳ Châu lộ Chuyển vận Phán quan Tịch Nhữ Minh tâu lên công trạng đánh dẹp và bắn chết giặc lạo Ngụy Tòng Cách. Vua phê: “Nhữ Minh đốc thúc kinh doanh, chém được thủ cấp giặc lạo có công, có thể thăng một chức.”

(Ngày 2 tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 4, ngày 27, ngày 22 tháng 12, ngày 16 tháng 7 năm thứ 5, trong 《Ngự tập》 có hai việc của Tịch Nhữ Minh, nay đều ghi chép kèm, cần xem xét.

Quỳ Châu lộ Chuyển vận Phán quan Tịch Nhữ Minh tâu: “Nam Bình quân[1] Di giới Tuần kiểm Cúc Nãng Nhị, Nghĩa quân Chỉ huy sứ Cúc Nãng Đại tâu: Giặc man Khất Đệ gây loạn, Mộc Cầm Đại, Mộc Cầm Tam và Mộc Dao bắn tên giết chết Ngụy Trang trạch, nguyện bắt đưa về quan. Tự mình dùng mệnh bắt giết giặc lạo Mộc Bát, Mộc Tứ, Mộc Dao, Mộc Cầm Tam và con trai cùng thuộc hạ lạo tử tổng cộng tám người đưa về quan, và tiêu diệt sạch sẽ cả họ Mộc Cầm Tam, công lao không kém việc Dương Quang Chấn và em giết Tống A Ngoa.” Vua phê: “Có thể xem xét lại việc trước đây chém được Tống A Ngoa, triều đình ban thưởng danh mục vật phẩm cho Dương Quang Chấn, cùng bổng lộc hiện tại của Quang Chấn, liệt kê rõ ràng trình lên.” Ngày 9 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6 trình lên xong. Quỳ Châu lộ Chuyển vận Phán quan Tịch Nhữ Minh tâu Lô Châu An phủ ty tâu rằng: “Thần ở Nam Bình quân nhiều ngày, phụng chỉ lệnh thần trình bày nguyên nhân tâu lên. Thần phụng chỉ ủy thác tiếp ứng Cúc Nãng Đại, Vương Dụng Tường bắt được Mộc Cầm Ông, không ngừng thúc giục, giết được Mộc Cầm Nhị và con trai cùng thuộc hạ lạo nhân năm thủ cấp. Nam Bình quân vốn đất đai xấu, mùa xuân hè khí độc bốc lên, há muốn ở lâu nơi đó? Chỉ vì kính cẩn phụng mệnh Vua, sợ phiền triều đình phát binh. Nay đã bắt được Mộc Cầm Tam xong, thực không phải vô cớ ở lâu nơi đó.” Vua phê: “Tịch Nhữ Minh đốc thúc kinh doanh, chém được thủ cấp giặc lạo trước đây giết chết Tri quân Nam Bình Ngụy Tòng Cách có công, nên bàn thưởng trình lên.” Ngày 12 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6, đợi tâu lên xin chỉ.)

[8] Chiếu cho các Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông: “Nước Hạ dâng biểu, lời lẽ cung kính thuận phục, triều đình đã ban chiếu hồi đáp, cho phép thông hiếu cống như thường lệ. Có thể răn dặn quan lại biên giới, không được tùy tiện xuất quân. Ngoài việc vẫn giữ nguyên biên giới như cũ, các thành trại mới thu phục, chỉ được tuần tra phòng thủ trong phạm vi hai ba dặm, không được tiến sâu vào.” Lại chiếu cho Áp bạn sứ nước Hạ là Vương Chấn, dùng ý này để thuyết phục sứ giả và phó sứ.

(Hai kỷ đều chép vào ngày Mậu Dần: “Chiếu cho các lộ Thiểm Tây, Hà Đông không được tùy tiện xuất quân.”)

[9] Ngày Kỷ Mão, Kinh lược sứ Phu Diên lộ là Lưu Xương Tộ chỉ danh xin bổ nhiệm 36 viên sứ thần để lấp đầy các chức tướng quan và các thành, bảo, trại đang thiếu. Vua phê: “Dù có việc trái lệ, cũng có thể y theo lời tâu.”

[10] Chiếu cách chức Đông đầu cung phụng quan Nhập nội tỉnh là Cam Sư Nhan, vì tội tư ý sử dụng binh lính của Quân Dung Trực và thân binh của Hoàng thành ty.

[11] Quyền Khai phong phủ Thôi quan là Tổ Vô Pha tâu: “Theo chiếu, Ty đề cử kinh thành tâu rằng, đo đạc các bức tường trong kinh thành, cách chân tường 30 bước, nếu có nhà cửa đất đai của quan hay dân cản trở, thì giao cho thần chuyên trách việc xem xét bản đồ, đánh dấu các khu vực thuộc đất thuế và nhà cửa của dân, tham khảo khế ước cũ, và ước tính giá trị hiện tại để tâu lên. Nay đo đạc xong, trừ nhà cửa của quan không cần ước tính, còn đất thuế và nhà cửa của dân tổng cộng 130 hộ, trị giá 22.600 quan tiền, đã gửi văn thư cho Tướng tác giám.” Chiếu rằng: “Các nhà cửa cần sửa chữa ở các quán Tập Hi, giao cho Ty kinh thành quản lý; các nhà cửa của quan còn lại, giao cho Tướng tác giám sửa chữa; tiền nhà cửa của dân, giao cho Hộ bộ lấy tiền khoán mã để chi trả.”

[12] Chiếu rằng: “An phủ ty Hi Hà Lan Hội lộ gần đây sai Dương Cát ra khỏi biên giới đánh giặc, vượt sông mạo hiểm, quân ít mà chém giết nhiều, lệnh cho Chế trí ty ban thưởng ngoài định mức, những người chết đuối được ưu đãi phủ dụ.”

[13] Ngày Tân Tỵ, Lại bộ tâu: “Các quan từ Thừa vụ lang trở lên ở hai Quảng, nhậm chức ở nơi lam chướng, trừ chức Tri châu do triều đình bổ nhiệm, còn lại quá một năm xin cho nghỉ.” Theo lời tâu.

[14] Hi Hà Lan Hội Lộ Kinh lược An phủ Chế trí sứ ty tâu: “Bắt được người thám thính của giới Tây là bộ lạc tử Sách Mộc Đa Mãng, vì người này giỏi chế tạo yên ngựa, người biên giới khen ngợi, xin cho áp giải về kinh để chế tạo quân khí.” Được chấp thuận. Sau đó, Quân khí sở tâu rằng hai bộ yên ngựa do Sách Mộc Đa Mãng chế tạo thực sự có thể sử dụng, chiếu cho Sách Mộc Đa Mãng đặc biệt được miễn tội chết, nhưng phải bị thích chữ và đày đến lao thành Khâm Châu.

[15] Ngày Nhâm Ngọ, chiếu phạt Lý Tông, Chuyển vận phó sứ Lộ Tử Châu, 20 cân đồng, vì khi còn làm Phát vận sứ Giang Hoài, lúc tâu việc kế toán, đã xin ngừng nấu lục phàn ở Trì Châu, nhưng thực tế Trì Châu đã ngừng nấu từ năm Gia Hựu thứ 6.

[16] Chiếu rằng từ nay các chủ sự của Lục tào thuộc Thượng thư tỉnh không được kiêm nhiệm chính quan, chỉ được ghi nhận để xét duyệt thăng chức. (Có thể gộp với ngày Bính Tý).

[17] Ngày Quý Mùi, Khai Phong phủ tâu: “Vợ của Thị cấm Hác Sư Doãn tử trận là Lưu thị, xin cho con nuôi mang theo là Hác Đôn cùng với em chồng được hưởng ân điển như nhau.” Được chấp thuận.

[18] Hi Hà Lan Hội Lộ Chế trí sứ ty tâu: “Nghĩa Phủ, con của Trương Chi Gián, Kiềm hạt Binh mã Lộ Tần Phượng kiêm Tướng thứ ba, hiện giữ chức Tam ban Phụng chức, xin được giảm ba năm theo ân điển của cha, và giảm hai năm theo ân điển do bản thân đã lập công khi chỉ huy đội quân, đồng thời được thăng một chức.” Chiếu rằng: “Nghĩa Phủ có quân công, và cha cũng có chiến công được ban ân điển, có thể đặc biệt chấp thuận.”

[19] Chiếu cho Quách Công Ngạn, con của Quách Thế Cập, Tây đầu Cung phụng quan, được làm Tam ban Tá chức, vì Thế Cập theo quân Lộ Phu Diên thuộc Tướng thứ ba Kinh Tây xuất chinh, tử trận ở Bạch Diêm Trì.

[20] Chiếu rằng: “Nghe nói ở các lộ Thiểm Tây vẫn còn binh lính đào ngũ chưa ra đầu thú, hiện đang ở các làng xã, e rằng các quan ty địa phương không tích cực truy bắt, gây phiền nhiễu cho dân. Nên lệnh cho các Ty Đề hình Lộ Vĩnh Hưng Quân, Tần Phượng, ngoài việc đốc thúc các quan ty chức trách nhanh chóng bắt giữ, còn phải theo chỉ huy gần đây, tăng thưởng tiền, thông báo rộng rãi để mọi người truy bắt, sớm dẹp sạch.”

[21] Ngày Ất Dậu, Ngự sử đài tâu: “Trước đây theo chiếu, mỗi nửa năm luân phiên một viên Ngự sử[2] để lấy các sổ sách của các phòng thuộc Tam tỉnh, kiểm tra sự chậm trễ và sai sót. Tuy nhiên, chưa có quy định về việc luân phiên và thiết lập cơ quan để tuyển lại viên.” Chiếu rằng mỗi tỉnh trong Tam tỉnh cử một viên, trong số các quan ngôn sự và quan sát, luân phiên theo thứ tự, dùng lại viên của Ngự sử đài đến từng tỉnh để kiểm tra.

[22] Thái thường bác sĩ Vương Cổ[3] tâu rằng: “Thần thấy trong nghi thức tu định việc thăng phụ, bốn hoàng hậu không làm sách nữa. Thần nghĩ rằng việc dâng tôn hiệu cho hai đế và thăng phụ thần chủ của bốn hoàng hậu, tuy việc khác nhau, nhưng đều là đại lễ của tông miếu. Nay thăng phụ mà không phát sách, thì các việc như đại khánh triều thụ, thượng công chở xe, nghi vệ, cổ xúy đều vì thế mà bãi bỏ, chỉ còn việc quan hữu ty làm lễ ở Thái Miếu mà thôi. Như vậy, lễ gia hiệu thì rõ ràng, mà việc thăng phụ lại bị che khuất. Việc phát sách tuy là tiết văn của lễ phụ miếu, nhưng sự trọng đại của thăng phụ lại nhờ phát sách mà được rõ ràng. Nay đã làm thăng phụ mà lại bỏ đi lễ trọng, e rằng thiên hạ nghe thấy sẽ có người bàn luận về sự nặng nhẹ của triều đình. Có người nói: ‘Theo lệ cũ, dùng sách là vì có sửa đổi tôn thụy hoặc thêm bớt chữ, nay thụy hiệu của bốn hoàng hậu không thay đổi, nên không thể dùng sách.’ Nhưng thần nghĩ rằng việc dùng sách trong giao miếu đã nhiều, không nhất thiết phải đợi thay đổi thụy hiệu mới làm được. Nay từ biệt miếu mà thăng lên, bắt đầu chính vị trí đồng thất của đế hậu, quyết định nghi nghị của nhiều đời, cử hành đại lễ tông miếu, căn cứ kinh điển, xét cổ lễ, đến bệ hạ mới định, việc này rất trọng đại. Nếu để giảm bớt so với việc thay đổi thụy hiệu, chỉ để quan hữu ty dùng lời chúc thường cáo miếu, thì thần thấy nghi ngờ mà chưa dám quyết định. Thần ngu nghĩ rằng nếu triều đình muốn tạm theo ý kiến của quan lễ, nay không dùng sách, thì xin tham khảo điển cố, mọi tiết mục hành lễ, cố gắng làm cho long trọng tột bậc, để rõ ràng khác với lễ thường, hầu như trên hợp với ý nghiêm trang tông miếu của bệ hạ.”

Chiếu giao Thái thường tự bàn kỹ. Thái thường tự tâu: “Muốn theo lệ lễ an phụng thần ngự ở Cảnh Linh cung, sai trọng thần làm lễ, theo lễ thân tế Thái Miếu dùng trúc sách, tông thất dao quận thứ sử bưng sách, sử quan đọc sách, sai thân vương, sứ tướng trở xuống làm tam hiến, phối hưởng công thần và thất tự vẫn xin được dự lễ, tông thất từ chính nhiệm trở lên đều đứng ban; việc cáo thiên thần ngự, mỗi vị dùng 200 người cầm tế trượng.” Chiếu rằng thăng phụ bốn hoàng hậu dùng thái điện cáo thiên, sai tông thất làm lễ, và ngoài cửa Tây Linh Tinh cũng dùng nghi vật xứng với việc mà bày biện, còn lại đều theo đó.

(Ngày 25 tháng 4, ngày 1 tháng 6, ngày 3 tháng nhuận 6, ngày 12 tháng 7.)

[23] Chiếu cấp số tiền nợ thị dịch 6 vạn quan mà hạ giới đã nộp được cho thượng giới, và cấp thêm 1.000 độ điệp, trị giá 13 vạn quan, do thượng giới hiện đang thiếu vốn.

[24] Ngày Bính Tuất, chiếu cho Binh bộ: từ nay các quan văn từ chức Đãi chế, Lang quan các tỉnh, Chánh ngôn, Giám sát ngự sử, Đề điểm hình ngục trở lên; các quan võ từ chức Hoành hành và Lộ phân đô giám trở lên, mỗi người tiến cử một người ứng thi võ cử.

[25] Phó Đô chỉ huy sứ Bộ quân Lưu Vĩnh Niên tâu: “Nước sông Biện dâng cao đến 1 trượng 2 thước, theo phép được điều động 28 chỉ huy quân phòng hộ sông, từ Tây Sằn vụ dàn hai bờ đến Đông Sằn vụ. Nếu nước dâng đến 1 trượng 3 thước 2 tấc, lại điều thêm 2.000 quân dự bị. Thần nghĩ việc phòng hộ sông ở kinh thành rất quan trọng, xin từ nay gặp lúc nước lớn hoặc mưa dầm không ngớt, cho phép các địa phận tuần tra như phép chữa cháy, được tăng thêm 2-3 chỉ huy quân ở nơi thuận tiện, nếu không đủ thì tâu xin điều động thêm quân thuộc quyền, các khoản chi cấp và quy định đều theo như phép phòng hộ sông.” Được chấp thuận.

[26] Chiếu cách chức Tri châu Nghi Châu Tiền Sư Mạnh một bậc, Thông phán Tào Cấu hai bậc, đều bị cách chức; Suy quan Thôi Nghiêu Chương, Tư lý Trâu Trường Khanh mỗi người bị phạt 20 cân đồng, bị thay chức; Suy quan Tạ Ỷ, Tư hộ Lư Thúc Độ, Trương Dực đều bị thay chức: do tội cắt giảm việc tiếp đãi người Man gây sự, tuy đã bãi chức và được ân xá, nhưng đều bị xử phạt đặc biệt.

[27] Ty Đề cử Kinh độ Chế trí Mục mã tâu: “Phụng chỉ chọn mua ngựa cái và ngựa vằn mới nuôi ở các giám tại Hi Hà, Hà Đông lộ, xin sai quan đi các lộ chọn mua.” Chiếu cho Ty Đề cử mỗi lộ chọn một Đại sứ thần tâu lên tên tuổi. Hi Hà lộ sai quan Thừa thụ của ty là Nội cung phụng quan Phùng Cảnh, Hà Đông lộ sai quan Thừa thụ công sự của Ty Đề cử án duyệt bảo giáp là Nội điện đầu Vương Cấu, nhưng không đưa qua Môn hạ tỉnh.

(Theo《Ngự tập》.)

[28] Ngày Đinh Hợi, Phó sứ Thiểm Tây chuyển vận Phạm Thuần Túy tâu: “Hiện đang tu sửa hoàn thành thành Diên Châu, xin cho phép sử dụng vàng bạc, tiền lương dành cho quân nhu, nếu không đủ, xin dùng số tiền nhập tiện mà triều đình ban cấp để chi dùng. Các thành trại khác tuy đã được chỉ tu sửa, nhưng nếu không theo chỉ huy như Diên Châu đã được, sẽ không thể hoàn thành, mong triều đình xem xét kỹ.” Triều đình đồng ý.

[29] Ngày Mậu Tý, Lễ bộ tâu: “Theo chế độ cũ, Cống viện chuyên quản việc cống cử, có ấn riêng gọi là ‘Lễ bộ Cống cử viện chi ấn’, khi tổ chức thi cử thì quan chủ khảo nắm quyền tổng lĩnh. Trước đây Cống viện bị bãi bỏ, ấn cũng bị hủy, việc này được giao về Lễ bộ. (Việc ‘Cống viện bị bãi bỏ’, cần xem rõ ngày tháng.) Theo quy định, khi tổ chức khoa cử thì chỉ dùng ấn của Lễ bộ. Vì Lễ bộ quản lý nhiều việc, cống cử chỉ là một phần, nếu mỗi lần tổ chức thi cử đều phải xin dùng ấn, thì các việc khác sẽ bị thiếu sót, xin đúc ấn riêng gọi là ‘Lễ bộ Cống cử chi ấn’.” Triều đình đồng ý.

[30] Đô đại kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ biên phòng tài dụng ty tâu, bắt được người soạn thư nặc danh là Lý Phương. Vua phê: “Lời lẽ trong thư xúc phạm vô cùng, khinh trên nhục dưới, không gì là không làm. Nếu chỉ xử tội đồ, không đủ để trừng trị kẻ gian ác. Lệnh cho đề điểm hình ngục và kinh chế ty xét thực, nếu đúng là phạm nhân thì xử trảm ngay.”

[31] Kinh lược ty Quảng Tây tâu: “Người Khê Động ở Nghi Châu nói, con của Mạc Thế Nhẫn là Công Hiệu xin quy thuận, nhưng Nam Đan Châu lại tâu rằng Công Hiệu làm loạn, xin đưa một đoàn người đến Đằng Châu cấp ruộng đất an trí.” Chiếu cho Kinh lược ty Quảng Tây, lệnh Nghi Châu hỏi Mạc Thế Nhẫn: “Nay tội ác của Công Hiệu, pháp luật không thể dung thứ, nếu muốn xử theo luật, lệnh áp giải đến biên giới xử trảm; nếu vì tình cha con, muốn tha mạng, thì đưa về nguyên quán, lệnh đưa đến nơi xa xôi hiểm trở quản thúc[4].” Sau đó, Thế Nhẫn xin xử trảm Công Hiệu tại Nghi Châu, chiếu chỉ xử thích mặt và đày đến lao thành Giang Tây, nhưng miễn đánh đòn.

[32] Hi Hà Lan Hội Lộ chế trí sứ ty dâng tấu về công trạng của các quan văn vũ trong việc tăng cường xây dựng thành Định Tây và trại Thông Tây. Chiếu rằng: “Cả năm hạng đều được ban thưởng bạc, lụa: Hạng nhất bốn người, ba trăm tấm, lạng; hạng hai một người, hai trăm; hạng ba sáu mươi lăm người, một trăm năm mươi; hạng bốn mười ba người, một trăm; hạng năm hai mươi bảy người, bảy mươi.”

[33] Kinh Nguyên Lộ kinh lược sứ Lô Bỉnh dâng tấu về công trạng của Diêu Lân trong việc chỉ huy các tướng đánh dẹp Khâm Ca Bình vào ngày Ất Sửu tháng trước (21 tháng 6). Chiếu rằng: Chém được một thủ cấp thì thăng một bậc, bị thương nặng thăng một bậc, bắt được một trai tráng người Thổ phồn thì thăng một bậc, ban thưởng hai mươi tấm lụa. Do đó, chủ tướng Đông thượng các môn sứ, Thứ sử châu Anh Diêu Lân được ban sáu trăm lượng bạc và tấm lụa, lại ban sắc khen ngợi; tám tướng tham chiến là Sùng nghi sứ Trương Thế Củ v.v., bốn người thăng một chức, ba người giảm ba năm khảo hạch, một người giảm hai năm; hai người Tẩu mã thừa thụ mỗi người được ban năm mươi lượng bạc và tấm lụa; một viên Quản câu cơ nghi văn tự quan được ba mươi lượng bạc và tấm lụa; các ban trực mỗi người được mười tấm lụa; các quân Dũng cảm, Hiệu dụng, Cung tiễn thủ, Phiên binh mỗi người được năm tấm lụa; bốn mươi hai tướng bộ, đội, trong đó mười một người thăng một chức, ba người thăng hai chức, một người thăng ba chức, còn lại giảm năm khảo hạch và ban lụa theo thứ bậc.

[34] Triều tán lang Dương Thúc Nghi tấu: “Thần khám xét thấy đất chăn nuôi của sáu huyện thuộc châu Vận, gồm hai mươi sáu trại, tổng cộng hơn mười hai nghìn khoảnh đất thu thuế, chỉ có bốn trại đủ số thuế, còn hai mươi hai trại có hơn bảy mươi khoảnh đất bị lấn chiếm, dân chúng cày cấy trái phép đã nhiều năm. Thần bèn vạch kế hoạch trước hết xem xét đất chăn nuôi hiện có, theo dõi ranh giới, vẽ bản đồ hình thế, mới thấy rõ hình dạng đất chăn nuôi hiện có là nhọn, xiên, cong, khuyết. Triệu tập dân chúng, bảo họ dán giấy ghi chỗ chiếm đất bên cạnh bản đồ đất chăn nuôi hiện có, từ trong ra ngoài, rồi giải thích hình thế đất chăn nuôi, dấu vết xâm chiếm rõ ràng. Ngoài việc bọn hào cường chiếm đất, còn có ruộng chức điền của quan chức đương nhiệm, ruộng học điền của châu học chiếm đất chăn nuôi, trước hết thu hồi, để ngăn chặn ý đồ của dân chúng. Dân chúng bèn chịu nhận rằng chỗ đất chiếm nằm trong ranh giới đất chăn nuôi, đất ấy vốn màu mỡ, họ nguyện tiếp tục cày cấy, đổi thuế thành tô. Thần nay vẽ xong một tập bản đồ hình thế đất chăn nuôi mới và cũ của sáu huyện, kính mong được ban chỉ lấy xem.” Vua phê: “Có thể khám xét việc tâu bày là thực hay hư, có được thưởng theo quy định hay không, và xét tài năng người ấy, nếu có thể dùng được, nên đặc cách bổ làm Thừa, Chủ bộ Thái bộc tự, lấp chỗ khuyết, để khuyến khích người làm quan chăm lo việc công.”

[35] Ngày Kỷ Sửu, bổ nhiệm Thúc Nghi làm Thiếu giám Tướng tác.

(Tấu của Dương Thúc Nghi căn cứ vào《Ngự tập》[5],《Ngự tập》chỉ bổ làm Tự bạ, còn《Thực lục》lại bổ làm Thiếu giám, cần xét lại.)

[36] Ngày Tân Mão, chiếu cho Lưu Xương Tộ: “Gần đây nước Hạ tuy đã sai sứ xin tu sửa lời thề hòa hiếu, triều đình đã ban chiếu đáp cho phép thông hiếu cống nạp như thường, nhưng ranh giới mới vẽ, việc phòng thủ chưa ổn, việc giặc tuân mệnh hay nghịch mệnh, tình hình khó lường. Gần đến mùa thu phòng, lúa má ngoài đồng, lo rằng quan lại phòng thủ yên lòng với chiếu gần đây, cho rằng việc biên giới đã yên, lơ là phòng bị, có thể gây hại cho quốc gia, giao cho Xương Tộ xem xét kỹ việc này mà thi hành.”

[37] Chiếu cho Dương An Dân, Tẩu mã thừa thụ của Tần Phượng lộ, và Ty mua ngựa Thiểm Tây chọn 3.000 con ngựa đưa đến Kinh Nguyên lộ, vì các quân trong lộ này thiếu ngựa rất nhiều.

[38] Đô thủy giám thừa Trần Hữu Phủ tâu: “Đê Ngư Trì ở Hoạt Châu đang rất nguy cấp, vật liệu mua nộp đều đã cạn kiệt. Hiện toàn bộ sông đang đổ dồn về phía nam, nếu cứu hộ hết sức có thể ổn định, xin hạ lệnh cho Kinh Tây chuyển vận ty chuẩn bị 1 triệu bó cỏ, và Đô thủy giám cấp 10.000 sợi dây tre.” Được chấp thuận.

[39] Ban cho Ty mua thóc Hà Bắc 300 độ điệp để tu sửa kho Tế Thắng Đông và Tây ở Bắc Kinh.

(Có thể tra cứu ngự phê ngày 11 tháng 6.)

[40] Chiếu tay cho Kiển Chu Phụ: “Năm nay Hà Sóc mưa thuận gió hòa, mùa hạ chắc chắn được mùa, lúa mùa thu đang lên xanh tốt, nên nhân năm được mùa mà lo thu mua thêm, và báo cáo thời gian hoàn thành kho mới ở Định Châu và Doanh Châu.” Năm đó, kho Tế Thắng Đông và Tây ở Bắc Kinh, kho Diễn Tích và Bảo Doanh ở Định Châu cùng với kho ở Doanh Châu đều hoàn thành, mỗi kho có 2.000 gian.

(Theo bản chí, việc này thuộc tháng 6, nay ghi kèm sau việc ban độ điệp tu sửa hai kho ở Bắc Kinh ngày 17 tháng 6 nhuận. Ngày 21 tháng 7, Chu Phụ vào triều làm Hộ bộ thị lang.)

[41] Thái thường tự tâu: “Bác sĩ Vương Cổ xin từ nay các thần từ được gia phong, nếu chưa có tước hiệu thì ban cho tên miếu, đã có tên miếu thì gia phong tước, lần đầu phong Hầu, lần hai phong Công, lần ba phong Vương, thần linh sinh thời có tước vị thì theo tước cũ. Thần linh là nữ thì phong Phu nhân, lần hai phong Phi. Tước hiệu thì lần đầu hai chữ, lần hai thêm bốn chữ. Như vậy thì việc ban mệnh và quản lý thần linh sẽ có thứ tự. Những điều Vương Cổ nói đều hợp lý, xin thêm phong hiệu cho thần tiên, lần đầu là Chân nhân, lần hai là Chân quân.” Đều được chấp thuận.

[42] Ngày Nhâm Thìn, hoàng tử thứ chín là Tất được phong làm Tiết độ sứ Sơn Nam Đông đạo, tước Nghi Quốc công.

(Tân kỷ chỉ chép việc Tất được phong Nghi Quốc công, còn Cựu kỷ vẫn chép chức Tiết độ sứ.)

[43] Ngày Quý Tỵ, quyền phát khiển đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện trấn công sự Phạm Tuân lên điện tâu rằng tri huyện Ung Khâu là Hướng Tông Xác vi pháp, đã hặc tấu. Vua nói: “Đã đuổi rồi.” Nhân đó hỏi trong các huyện có ai đáng khen, Tuân tâu: “Phụng nghị lang, tri huyện Khảo Thành là Tôn Tải xử lý văn án nghiêm chỉnh, thuế khóa thu gom đầy đủ; Thông trực lang, tri huyện Hàm Bình là Chu Huân chưa mãn nhiệm mà rời đi, dân đến nay vẫn nhớ.” Vua nói: “Chu Huân từng được tiến cử làm việc ở Quảng Tây.” Tuân tâu: “Triệu Tiết đánh An Nam, từng tấu cho Chu Huân đi theo.” Vua nói: “Kẻ vi pháp đã bị đuổi, người có công lại được thăng chức, thì quan lại tự nhiên sẽ biết răn mình mà gắng sức.” Bèn hạ chiếu cho Trung thư tỉnh ghi tên Tôn Tải và Chu Huân.

[44] Kinh Đông chuyển vận ty tâu: “Quan mua muối của ty thần[6], Thị cấm Trương Bạch vì tội dẫn đầu dân làm muối mừng trời tạnh sau mưa dài, tổ chức cúng tế uống rượu, bắt giam hơn trăm người. Xét tình hình dân Hà Bắc không vui vì ty thần cử quan thu lợi, sợ gây xáo trộn khắp nơi, sau này quan lại cũng khó bắt họ làm việc. Còn Trương Bạch thi hành pháp lệnh về muối rất có hiệu quả, việc phạm tội là vì công, tình tiết không nghiêm trọng. Nếu phải xét tội, xin không truy cứu người làm chứng, để tránh việc dân làm muối bị bắt giam, khiến việc nấu muối bị thiệt hại, ảnh hưởng đến thuế năm.” Chiếu tha không hỏi tội.

[45] Ngự sử trung thừa Hoàng Lý tâu: “Nghe nói Tướng tác giám thừa Tống Bành Niên vào tháng 5 báo lên Giám, theo lệnh của Tả thừa Bồ Tông Mạnh, sai lại viên bắt giữ 5 người thợ, bắt giam các lại viên chuyên trách và thợ, gây trở ngại cho công việc của xưởng. Tướng tác giám đến tháng 6 mới gửi văn thư đến Đại Lý tự, nhưng Đại Lý tự không truy cứu, chỉ xử tội lại viên Hứa Kinh Thần. Thần nghe rằng pháp luật phải được thi hành từ người quyền quý trước. Bồ Tông Mạnh giữ chức vụ trong triều đình, không hết lòng hết sức để báo đáp, mà từ khi nhận trọng trách, về nhà chỉ chìm đắm trong rượu chè, sáng hôm sau tan triều thì mệt mỏi ngủ say, khi dậy ký văn bản cũng không xem xét kỹ. Nghe nói khi các quan chấp chính họp, Tông Mạnh thường không đến. Nay lại ỷ thế vi pháp, sai khiến binh lính, buông thả kiêu căng đến mức như vậy. Tướng tác giám đã biết việc sai khiến hơn trăm người mỗi ngày, lẽ ra phải xử lý ngay, nhưng đến 7 ngày sau mới làm; Đại Lý tự đã biết Tông Mạnh vi pháp, lẽ ra phải điều tra công minh, nhưng lại viên lại xử nhẹ tội, lại còn tha bổng vì lý do cá nhân, đều là sợ hãi quyền thế, coi thường pháp luật.” Chiếu cho Ngự sử đài xét thực rồi tâu lên. Lý lại tâu: “Việc của Tông Mạnh là do thần đàn hặc, xin đặc biệt giao cho quan ty xét xử.” Chiếu cho Đại lý thiếu khanh Hàn Tấn Khanh và Ngự sử Dương Úy đến đài xét tội rồi tâu lên.

[46] Chiếu rằng: “Giám đúc tiền Phụ Dân ở Quảng Đông mỗi năm đúc tiền, trừ vốn ra, đều thuộc khoản của Nội tàng khố, trước đây không có quan chuyên trách, thường bị Chuyển vận ty chiếm dụng, lại không kịp thời đốc thúc nộp, khiến triều đình phải cử quan chuyên trách vận chuyển. Từ nay nên giao cho Đề cử ty đốc thúc nộp, không cho Chuyển vận ty can thiệp.”

[47] Ngày Ất Mùi, Ty chế trí Hi Hà Lan Hội lộ dâng tấu công trạng của Tả Thị cấm Dương Cát cùng những người khác chiêu mộ binh lính người Phiên vượt sông đánh giặc Tây. Chiếu chỉ thăng Dương Cát làm Cung bị khố Phó sứ kiêm Cáp môn Thông sự Xá nhân, Quách Thắng và Vương Sư Đạo làm Cáp môn Chỉ hầu, Xuy Lăng Mật làm Tam ban Sai sứ, Sách Mộc Đa Cách làm Hạ ban Điện thị, Mã Lăng được thăng năm bậc và cho con cháu được thừa tập, những người khác bắt được tù binh và lập công đều được ban thưởng theo lệ[7], A Tích Đạt cùng bảy người khác cũng được thăng chức và cho con cháu được thừa tập. Những người được ban tặng: Mã Lăng ba trăm tấm lụa, A Tích Đạt một trăm tấm, từ Đô Ngu hậu đến các binh lính người Phiên dũng cảm mỗi người năm mươi tấm, những người lính người Phiên không chém được thủ cấp đều được thừa tập theo quy định, Văn Uất được ban sắc khen ngợi.

[48] Ban cho Phó sứ Phát vận Giang, Hoài đẳng lộ Tưởng Chi Kì áo tía. Ty Vận mỗi năm chở sáu trăm hai mươi vạn thạch lương[8], Chi Kì phụ trách việc chở lương, đến kinh sư vào tháng năm, vào triều yết kiến, Vua hỏi han ân cần, ban cho áo tía và nói: “Trẫm không bổ nhiệm người khác nữa, việc chở lương giao hết cho khanh.” Chi Kì từ chối, rồi trình bày ba mươi mấy việc lợi hại, đa phần được chấp nhận.

(Lý Trĩ nói: Tô Đãi kể rằng Tưởng Dĩnh Thúc[9] khi làm Phát vận Giang Hoài, tài trí hơn người, không ai lừa dối được, việc chở lương thông suốt. Tưởng là người Ngô, hiểu rõ phong thủy, từng dựng một lá cờ trước công đường gọi là “Chiếm phong kỳ”, sai người ngày ngày theo dõi, ghi chép vào sổ. Lại lệnh cho các đoàn thuyền ghi chép ngày tháng và thuận nghịch của gió. Vì sấm, mưa đá, sương mù, sương mai có khi không đều, nhưng gió thì khắp nơi đều có. Khi lương đến, lấy sổ ghi chép đối chiếu, trách phạt những người chậm trễ, các quan lại đều sợ phục. Tưởng Chi Kì đi rồi, Chiếm phong kỳ nay đã bỏ.)

[49] Ban cho Khai Phong phủ đề điểm ty 500 tờ độ điệp để mua vật liệu đắp đê ở Dương Vũ[10].

[50] Xu mật viện tâu: “Tri châu Hi Châu là Triệu Tế tâu rằng, bắt được tên đào ngũ Nguyên Đức, giả xưng là sứ thần Quách Lượng, truyền lệnh của Lý Hiến mở cổng thành Hi Châu, đã giao cho cơ quan phụ trách xét xử. Xét Hi Châu là vùng biên giới xa xôi, mà Triệu Tế chỉ dựa vào lời giả mạo của Nguyên Đức là do Lý Hiến phái đến, liền mở cửa thành cho đi, làm sao có thể phát hiện được gián điệp?” Chiếu chỉ cho Triệu Tế từ nay mọi việc phải xem xét kỹ lưỡng, không được khinh suất, đồng thời ban bố rộng rãi cho các quan lại ở các châu, quân, thành, trại thuộc quyền quản lý, cũng phải tuân theo chỉ thị này. Còn Nguyên Đức thì giao cho chế trí sứ xét tội, chém đầu rồi báo cáo. Triệu Tế sau đó dâng tấu trình bày vụ án. Chiếu chỉ: “Nguyên Đức có thể còn có dấu hiệu liên lạc với gián điệp bên ngoài, cần phải điều tra kỹ lưỡng hơn. Nếu không có tình tiết gì khác, thì xử trảm.” Lại có chiếu chỉ: “Triệu Tế không thể phân biệt rõ ràng, lại không thẩm vấn kỹ càng, thực là mê muội. Có thể miễn tội nặng, chỉ phạt 40 cân đồng.”

[51] Ngày Bính Thân, Vũ Ninh quân tiết độ sứ, Thủ tư đồ, Khai phủ nghi đồng tam ty trí sĩ, Hàn quốc công Phú Bật mất.

(Cựu kỷ chép Phú Bật mất, Tân kỷ chép băng.)

[52] Trước đó, Bật dâng sớ bàn về yếu điểm của việc trị loạn, nói: “Thần nghe từ xưa đến nay, việc khiến thiên hạ thịnh trị hay loạn lạc, đại cương không ngoài hai hạng người: kẻ nịnh hót và người ngay thẳng. Kẻ nịnh hót được trọng dụng, Vua không nghe thấy lỗi lầm, chỉ làm điều xấu, nên dẫn đến loạn lạc; người ngay thẳng được trọng dụng, thì Vua ngày càng được mở mang, chỉ theo điều thiện, nên dẫn đến thịnh trị. Đây là đại lược khiến Vua đạt được trị hay loạn. Thần từ khi rời triều đình, lui về ở ẩn, thỉnh thoảng cũng nghe biết việc triều chính, đại để kẻ nịnh hót tranh nhau tiến cử, người ngay thẳng phần nhiều bị đẩy ra ngoài, dù có người ở trong triều, cũng sợ đụng chạm đến bọn gian nịnh, đều câm miệng không dám mở lời tâu bày. Lại nghe gần đây trong ngoài có việc gì đó, làm phiền lòng thánh thượng, mà bậc trung nghĩa chỉ ngửa mặt than thở, không thấy lời tâu lên trên, khiến bệ hạ không biết mà sửa đổi, đây thực không phải là phúc của triều đình. Chỉ mong bệ hạ mở đường cho trung chính, đóng cửa ngăn bọn gian tà, tìm cầu chính sách tốt, biến họa thành phúc, khiến thiên hạ được hưởng ơn, ngồi yên mà đạt thái bình. Đây là điều lão thần mong mỏi nơi bệ hạ, trong đó việc cần làm rất nhiều, cũng không dám tùy tiện liệt kê, chỉ nêu đại yếu, mong thánh quân lưu tâm mà chọn lấy. Nếu không, e rằng dần dần thấm sâu[11], họa loạn sắp đến, lúc ấy càng thêm phiền não lo lắng mà cũng không cứu vãn được gì. Lão thần với tấm lòng nhỏ mọn như chó ngựa, xin tóm tắt trình bày, kính mong thánh thượng đừng xem nhẹ mà suy nghĩ sâu xa, ra sức thực hiện, đó là may mắn của thiên hạ, phúc của xã tắc vậy.”

[53] Lại nói: “Thần trộm xét, phần lớn các bề tôi dâng sớ bàn việc, trong đó có kẻ mưu cầu hư danh, cũng có kẻ ham lợi lộc thực tế. Thần năm nay đã tám mươi tuổi, có thể gọi là già rồi. Gần đây càng thấy suy yếu, cử động phải nhờ người đỡ, ở nhà ngồi nằm, ngày càng gần với cái chết, huống chi đã về hưu hơn mười năm, đâu còn là lúc mưu cầu hư danh, ham lợi lộc. Chỉ vì lòng lo nước yêu Vua càng sâu càng thiết, nên không lượng sức vượt phận, đặc biệt dâng lời tâu này, mong bệ hạ xem xét, suy nghĩ rồi thi hành.”

[54] Sớ dâng lên, Vua nói với các quan phụ chính: “Phú Bật có sớ tới.” Chương Đôn hỏi: “Bật nói việc gì?” Vua đáp: “Nói bên cạnh Trẫm có nhiều tiểu nhân.” Đôn nói: “Sao không bảo ông ấy phân tích ai là tiểu nhân?” Vua nói: “Bật là lão thần ba triều, sao có thể bảo phân tích?” Vương An Lễ tiến lên nói: “Lời Bật nói là đúng.” Tan triều, Đôn trách An Lễ: “Hữu thừa đối đáp với Vua thật sai lầm.” An Lễ nói: “Chúng ta hôm nay nói ‘Thật như lời thánh dụ’, ngày mai nói ‘Thánh học không phải thần có thể theo kịp’, sao không gọi là tiểu nhân?” Đôn không biết trả lời sao.

(Đoạn này căn cứ vào 《Thiệu Bá Ôn kiến văn lục》 thêm vào. 《Thái Xác tân truyền》 chép “Bật tâu Xác là tiểu nhân, không nên ở bên cạnh bệ hạ”, có lẽ là sớ này, đã chú đầy đủ vào ngày Quý Dậu tháng 4 năm thứ 5.)

[55] Bật dâng sớ xong, lại điều trần những sai lầm trong chính sự, chờ Vua hỏi, niêm phong giao cho con là Thiệu Đình. Khi ông mất, Tư Mã Quang và Phạm Thuần Nhân đến viếng, Thiệu Đình báo rằng: “Đây có lẽ là di biểu.” Quang và Thuần Nhân nói: “Nên tâu lên ngay, đừng mở ra.” Không biết nội dung, sau này mới tìm được bản thảo, viết rằng:

[56] Thần nghe rằng nghĩa không tránh khó, trung không quên Vua, phàm là kẻ sĩ đều nên ghi nhớ điều này. Huống chi thần từng phụng sự ba đời thánh quân, giữ chức vị thượng công, tự mình phải hết lòng với triều đình, cùng vui buồn với đất nước, không dám vì lúc tiến thoái mà lo lắng trách nhiệm không được giao, liền tự đồng với mọi người, im lặng cầu an mà thôi. Nay tuy già yếu mệt mỏi, chỉ còn chờ ngày tàn, việc nhà việc đời không còn bận tâm, chỉ có lo nước yêu Vua càng sâu càng thiết, bởi vì lo lắng có chỗ đến, tai nghe có chỗ nghe, sợ hãi lo nghĩ, mệt mỏi bỏ ăn bỏ ngủ. Lại nghĩ rằng ngày nay từ các đại thần phụ chính trở xuống đến kẻ sĩ thường, sợ họa mưu lợi, tập thành thói xấu, lời trung luận thẳng không còn được báo lên, khiến bệ hạ thông minh bị che lấp, họa hoạn trong thiên hạ đã thành, vẫn chưa biết kinh sợ sửa đổi, tìm cách cứu chữa, ngày càng nghiêm trọng, sắp không kịp nữa, những người trung nghĩa đau lòng lạnh xương. Lúc này mà thần còn nỡ tiếc chút hơi tàn, lo kế sâu xa cho con cháu, ngồi yên nhìn, phụ lòng trời đất, không vì bệ hạ hết lòng thành mà trình bày, thì ai sẽ nói với bệ hạ? Nếu khiến kế sách lớn của xã tắc sai lầm, đẩy sinh linh vào cảnh lầm than, thì thần đâu chỉ còn sống thì hổ thẹn, chết thì ôm hận mà thôi? Thật cũng là kẻ trời đất không dung, tội nhân muôn đời. Chỉ mong bệ hạ xét thần già yếu sắp chết, còn cầu gì nữa, chỉ vì không nỡ phụ bậc thánh triều, nên đổ hết lòng thành, thương xót lòng ngu muội, cúi xin nghe theo, thì thiên hạ may mắn lắm thay!

[57] Nghĩ rằng kỷ cương triều đình, lợi hại thiên hạ, há lại có thể nói hết từng điều một? Bệ hạ thánh minh, vốn đã thấu suốt mọi việc, huống chi lão thần trước đây đã bàn luận rất kỹ, không cần nhắc lại nữa, chỉ xin lấy những điều nguy hại hiện nay mà thiên hạ cùng lo sợ, bàn luận về những việc cấp bách. Kính nghĩ bệ hạ thiên tư thông minh, thực sự vượt xa các bậc thánh trước, tự nhiên sẽ sánh ngang đức độ của hai đế, đưa nền trị vì đến thời thịnh trị của ba đời; nhưng vì lúc mới lên ngôi, bọn gian thần dâng lời, trong lúc mưu cầu trị quốc, nghe và dùng người không đúng, cho rằng có thể cự tuyệt mọi người, không để những ý kiến khác lọt vào, rồi sau đó thánh hóa sẽ vận hành, sự nghiệp sẽ thành công. Đây chính là bọn gian nhân tự mưu lợi bằng cách xu nịnh, còn những kẻ nắm quyền thì muốn chuyên quyền tự tung tự tác, để thỏa chí mình, từ đó làm lầm lạc bệ hạ, đuổi bỏ người trung trực, dùng bọn nịnh thần, lời trung bị bịt miệng, lời nịnh ngày càng nghe nhiều, ý trên muốn gì, dưới liền hưởng ứng, không còn tranh biện hay ngăn cản, dần thành mối họa lớn.

[58] Trộm nghĩ năm ngoái triều đình nghe theo lời bàn sai lầm của bề tôi nơi biên cương, huy động binh mã lớn để đánh dẹp Tây Nhung, việc xảy ra đột ngột, lòng người hoang mang lo sợ, lo lắng về điều chẳng lành, cuối cùng dẫn đến quân sĩ tan vỡ, hai lộ hỗn loạn. Nếu không nhờ thánh minh của bệ hạ kịp thời ngăn chặn việc xuất quân lần nữa, thì họa nạn xảy ra, còn nói sao cho xiết! Đây há chẳng phải là việc lớn của triều đình, liên quan đến sự an nguy hay sao? Lúc mới khởi sự, nếu các đại thần phụ chính cùng các quan Đài gián, Thị tòng có thể can gián hết lòng, quyết không để việc xảy ra, thì thánh tâm tự nhiên hồi chuyển, họa nạn tự nhiên tiêu tan. Thần không biết lúc ấy các bề tôi lớn nhỏ có ai dám hết sức tranh luận với bệ hạ rằng việc này không thể làm hay không? Nghe nói trên miếu đường, mọi người chỉ biết ca ngợi lẫn nhau, khoe khoang uy lược, xu nịnh thánh ý, thì việc đến nông nỗi này, còn gì đáng nghi nữa?

Thần cho rằng thất bại của quân Tây chinh, chỉ có bệ hạ lo lắng cho đại kế quốc gia, còn ai khác dám nghĩ đến? Quân Tây chinh chỉ là một việc, nếu không may có việc lớn hơn thế nữa xảy ra, cũng sẽ như vậy thôi. Một ngày kia việc xảy ra ngoài ý muốn, còn cứu vãn được chăng? Đó là do bệ hạ bịt tai bịt mắt, ngăn cách trên dưới, để rồi bị lừa dối. Xưa nay những gì dẫn đến họa diệt vong nhanh chóng, cũng không ngoài điều này. Bệ hạ há cho rằng lão thần già nua ngu muội, lời nói quá đáng hay sao? Nhưng sự tình rõ ràng, người ngoài đường cũng biết, bệ hạ há chẳng nghĩ đến mà lạnh lòng sao? Với sự thánh minh của bệ hạ, nếu rửa lòng hạ ý, đuổi bọn gian nịnh, chiêu mộ người ngay thẳng, để thiên hạ thấy rõ triều đình đã thay đổi, không ngại nhận tội nghe lời can gián, thì những lời trung ngôn chính luận ắt sẽ thấu đến tai bệ hạ. Bệ hạ hết lòng thành mà dùng, thì muôn việc chính đáng sẽ từ đó mà ra. Thần cho rằng nỗi lo của thiên hạ ngày nay, gốc ở chỗ thành ý không thông, đường can gián bị bế tắc. Thần xin vì bệ hạ hết lòng trình bày những điều trong lòng, trước hết nói về nguyên nhân dẫn đến họa hoạn, mong trên mở rộng thánh tâm, dưới xét lời bàn của lão thần. Nay xin liệt kê những việc lớn và cấp thiết hiện nay, mong bệ hạ đừng vì thần ngu muội mà vội bỏ qua, đặc biệt xem xét, thì thật là may mắn vô cùng!

[59] Thần cho rằng việc triều đình, không gì lớn hơn việc dùng người. Những chức vụ phụ tá, bàn luận nghị sự, đều nên chọn người tài giỏi nhất trong thiên hạ. Những kẻ tham lam quyền lợi, sợ mất địa vị, nhu nhược xu nịnh, há có thể dùng được? Việc một khi xuất phát từ trên, thì kẻ dưới không ai chịu trách nhiệm, tiểu nhân nhân đó mà thi hành mưu gian. Vì thế, việc thành thì kẻ dưới hưởng lợi, việc không thành thì Vua một mình gánh họa, há phải là ý nghĩa của trên dưới đồng lòng, Vua tôi một dạ sao? Đây là đại thể của triều đình, mong bệ hạ xét lời bàn của thần. Thần cho rằng thiên hạ rộng lớn, không thể dùng trí lực mà bao quát được, chỉ có lòng thành mới thông suốt được. Nếu trên có lòng thành thực thương xót, thì núi sâu biển rộng cũng cảm động, huống chi là triều đình? Nay tình ý trên dưới bế tắc không thông, kẻ làm tôi không thể hết lòng, dân chúng oán hận không nơi nương tựa mà không có cách nào thấu lên trên, còn việc thi hành chính lệnh, ban bố chiếu thư, không nghe thấy ý vui mừng tin phục, thần e rằng đây không phải là cách triều đình làm gương cho thiên hạ. Mong bệ hạ suy xét gốc rễ của đạo trung hậu, dùng lòng thành thông suốt trên dưới, thì đức thánh ngày càng lớn, không cần nói mà bốn phương đều tin. Đây cũng là đại thể của triều đình, mong bệ hạ xét lòng trung của thần.

[60] Thần cho rằng bậc quý tiện trong ngoài, nên dùng đúng chức phận thường lệ. Bề tôi trong cung, nếu giao cho việc nắm quyền binh, thống lĩnh phương diện, đều là không thích hợp. Ở ngoài thì ỷ quyền cậy thế, lấn át trên dưới, lòng người không phục, dễ dẫn đến thất bại; vào hầu cận bên cạnh, ân sủng bổng lộc quá nhiều, thì kiêu căng dễ sinh. Những kẻ địa vị ngang nhau, ganh ghét tranh giành lẫn nhau, lập bè kết đảng gây họa, đây là tình hình vậy, không thể không cảnh giác.

[61] Thần nghe rằng, người trị quốc lấy nghĩa làm lợi, chứ không lấy lợi làm lợi. Có nghe nói những kẻ bề tôi chuyên lo việc hưng lợi, những năm gần đây càng thêm quá đáng, làm tổn hại thể thống quốc gia, vì trên mà tích chứa oán hận, những lợi nhỏ trong dân gian đều tranh giành hết. Đến như lập trường để ngăn cản hàng hóa của dân, xây nhà mà che lấp nhà cũ, độc quyền chuyên chở thuyền bè trên sông, chiếm đoạt lợi từ phân trên đường, gấp gáp thu gom, khiến dân chúng trên đường đều than oán, đây không phải là ý của bậc trên đối với dân. Lại nghe rằng ngày nay dân chúng nghèo khổ, điều tệ hại nhất là tiền tụ lại nơi công phủ mà thu thuế không ngừng, nên giá gạo đắt đỏ, dân có kẻ chết đói. Ắt sợ rằng năm tháng càng lâu, sức dân càng kiệt, sự việc đến cực điểm, thì dân chúng lo lắng không thể bảo đảm không gặp họa. Đây là điều mọi người lo lắng, mong bệ hạ cùng dân chia sẻ của cải, để thông suốt lợi ích trong thiên hạ, đừng để dân chúng rơi vào cảnh cùng cực.

[62] Thần thấy rằng mối lo gần nhất hiện nay nằm ở phía Tây. Không chỉ người Hạ vì mối thù trước đây ắt sẽ nghĩ đến việc báo thù, mà vùng đất cũ dọc biên giới của họ cũng chưa dám yên ổn, huống chi quốc gia ta đã xây dựng thành trại trong lãnh thổ của họ, nhưng chưa nghe thấy chiếu chỉ ân xá nào để xóa bỏ và trả lại vùng đất cũ, nên việc họ xâm phạm biên thành trong tương lai là điều khó tránh khỏi. Hơn nữa, người Liêu tuy coi trọng chữ tín và tình hữu nghị, nhưng chưa dám dễ dàng đoạn tuyệt, lại mang nỗi lo sợ “răng lạnh”, lại dò xét những sai lầm trong hành động của ta, há chẳng phải sẽ nhân cơ hội này, âm thầm liên kết giúp đỡ nhau, gây hại sâu sắc cho ta sao? Thần sống ẩn dật, không thể nắm rõ sự thật, nhưng nghe đồn đại rằng[12], gần đây quân Tây tiến vào biên giới, cùng với thất bại ở Vĩnh Lạc, số binh lính, dân phu và những người vận chuyển lương thực chết vì đói rét có lẽ lên đến mấy chục vạn. Thần cũng e rằng các tướng lĩnh, quan giám sát, quan lại châu huyện chưa chắc đã báo cáo đúng sự thật lên triều đình, khiến Bệ hạ thương xót và vội vàng lo liệu. Nay nghe nói quân biên giới ít ỏi và yếu kém, làng mạc tiêu điều, binh sĩ không còn chí chiến đấu, khó có thể sử dụng được, quân lính đồn trú lâu ngày chưa được giải ngũ, lương thực không đủ, quân Đông đang hành quân có người về, có người ở lại, không khỏi buồn bã, chỉ lo rằng nếu lại có lệnh điều động, lòng quân dễ dao động, mà dân chúng sợ hãi cùng khốn, trước đây liên tiếp bị điều động, đã không tuân lệnh, xét tình hình này, há chẳng phải là lúc cần suy nghĩ sâu xa sao! Đây há chẳng phải là lúc che giấu lỗi lầm để chuốc lấy thất bại, không nghĩ đến việc cứu vãn tai họa sao?

[63] Trước đây, triều đình đã dốc hết sức lực của công tư để tiến hành việc trừng phạt, nhưng chỉ làm tổn thương được một hai phần của người phương Tây. Họ chiếm được quân phản loạn của ta, lấy đi vũ khí, vàng bạc, lương thực của ta, số lượng không thể tính được. Họ sẽ dùng những thứ thu được đó để gửi tặng các nước láng giềng, mượn quân cầu viện, tạo thành mối lo nơi biên giới, điều này lại càng làm tăng thêm sức mạnh phòng thủ của họ. Thần không biết triều đình có kế sách gì để đối phó, nếu chẳng may giặc xâm phạm biên giới, quân chính quy không đủ dùng, dân binh lại không thể điều động, thì lấy gì để chống đỡ? Mối lo nơi Quan Thiểm, há có giới hạn! Quan Thiểm chấn động, thì Quan Đông cũng dao động, các châu quận đều không có quân bị, lòng người dễ bị kinh động, thì những điều đáng lo lại càng sâu xa. Việc này không có gì đảm bảo, chỉ trông cậy vào may mắn mà thôi.

Nay dùng những kẻ bạc bẽo trung nghĩa, ít liêm sỉ, dẫn dắt những người dân đầy oán hận, trong lúc nguy nan, mà mong tai họa không xảy ra, thật khó vậy! Nếu chẳng may xảy ra, thần không biết bệ hạ sẽ dựa vào ai để cùng chia sẻ nỗi lo này, và trong triều ai có thể cứu vãn được tai họa này. Mong bệ hạ suy nghĩ sâu xa và lên kế hoạch trước, thì may ra còn kịp, nếu không, dù có người tài giỏi cũng khó mà xoay chuyển được tình thế. Điều này chắc chắn người khác không dám một mình tâu lên, lão thần lại phụ lòng bệ hạ mà không bàn luận, thì ắt sẽ làm bệ hạ lầm lỗi. Thần vì thế mà lo lắng đau đầu, ngày đêm bồn chồn, không dám nghĩ đến tội bị giết chết. Mong bệ hạ mở rộng lượng trời đất, vì dân mà tính kế sâu xa, xem bọn tiểu nhân nơi biên cương đâu đáng để so đo được thua hơn kém? Kính mong bệ hạ sớm đổi ý trời, ban xuống chiếu thánh, giải thích nguyên nhân trước đây xuất binh, cho phép họ cải tâm quy thuận, trả lại đất đai xâm chiếm, khôi phục tước hiệu, chọn tướng trung tín nhân hậu, sai đi trấn phủ biên cương, nghiêm lệnh phòng thủ, để củng cố biên giới, tăng cường tin tưởng với nước địch, khiến họ hiểu rõ ý nghĩa của thánh chúa muốn ngừng binh đao để dân được nghỉ ngơi, thì tai họa có thể chấm dứt.

[64] Thần nghe rằng các châu quận Thiểm Tây nhiều năm liền mất mùa, sau khi có đại binh, công tư đều hao tổn, lương thực đắt đỏ, quân lính không có lương thực hiện có, binh lính đào ngũ và dân đói khổ dần dần kết thành bè đảng. Năm nay số lượng gieo trồng mùa thu không nhiều, lương thực cũ của dân gian đã cạn kiệt, dù lúa mạch mùa hè có được mùa thì cũng còn lâu mới đến, lòng dân (nguyên bản thiếu) không kịp lo lắng. Nay dân lưu tán đầy rẫy trên đường, không thể đếm xuể, không chỉ Thiểm Tây trống rỗng, một khi có cảnh báo biên giới, e rằng khó lòng chống đỡ. Huống chi những người già yếu nghèo khó không thể đi xa, sẽ chết nơi rãnh hố, thanh niên lưu vong cũng chỉ lang thang không nơi định cư. Chỉ sợ mùa xuân tới giá lương thực càng đắt, nếu vạn nhất lúa mạch mùa hè không được như ý, thì dân ở lại hay đi đều không có đường sống, mối lo này chắc chắn không nhỏ. Thần cũng chưa nghe triều đình có biện pháp gì, cũng nghĩ rằng các quan trong ngoài an phận sợ hãi, không dám tâu lên sự thật, khiến triều đình thờ ơ không để ý.

[65] Thần cho rằng việc xuất quân Tây Sư trước đây, dân Tần, Tấn đã chịu nhiều đau khổ, tai họa cũng đã quá lớn! Các làng xã tụ tập, tiếng khóc vang lên, cũng biết triều đình từng ban chiếu chỉ, không điều động dân phu nữa, nhưng rồi lại bàn kế xuất quân, lại sai phái thuê mướn, vừa nghe Kinh Nguyên giải tán quân, Phu Diên lại tự mình xây dựng, khiến lòng người nghi ngờ, không ai tin tưởng, điều này càng không thuận lợi cho hiện tại. Dân nghèo khó ngày ngày mong được yên ổn, triều đình nên hết lòng cứu giúp, ban ân đức, nhưng qua ngày tháng dài, chưa có lời nào nhắc đến, khiến oán khí tràn đầy, cho rằng triều đình không có ý bảo vệ họ. Trên dưới lừa dối nhau, không ai dám tâu lên điều không thể với bệ hạ, đó là lý do khiến lão thần lo lắng than thở sâu sắc.

[66] Kính mong Bệ hạ thương xót những sai lầm trong kế hoạch trước đây, ban chiếu thư đau buồn để an ủi lòng dân. Đối với những người còn ở lại quê hương, hãy chọn những quan lại hiền lương để tuyên truyền ý chỉ của Thánh thượng, miễn trừ nợ nần, mở rộng kế hoạch cứu tế, tìm kiếm những biện pháp thực tế để nuôi dưỡng dân chúng, đừng dùng văn bản suông làm mất lòng tin của dân; đối với những người lưu lạc ở nơi khác, cũng giao cho các địa phương chăm sóc, thống kê số nhân khẩu, ghi chép quê quán, hoặc cấp thêm lương thực từ kho thường bình, đợi đến mùa hè khi lúa mạch sắp thu hoạch, khuyên bảo họ trở về làm ăn. Điều này cũng đủ để giảm bớt gánh nặng lương thực ở Quan Trung, cung cấp lương thực cho quân dân. Hy vọng hàng triệu dân chúng sẽ được hồi sinh, điều này nằm trong tay Bệ hạ, một vị Vua nhân từ và thánh thiện, không khó để thực hiện, lòng già này của thần, tha thiết mong mỏi.

[67] Thần nghe rằng dân chúng Thiểm Tây, vừa qua đã phải ra biên ải, sau những tổn thất về nhân mạng, lại phải tổ chức lại bảo giáp, số lượng giảm quá nửa; tiếp đó lại tu sửa giáo trường, chuẩn bị tập hợp để huấn luyện, các châu huyện thi hành gấp rút như lửa cháy, không chỉ khiến lòng người hoang mang, khó lòng thúc đẩy họ chiến đấu, mà còn vì nghèo đói cùng cực, không có lương thực cung cấp, dẫn đến tình trạng lưu tán hàng loạt, đến nỗi bổ sung thêm dân đinh cũng phần lớn bỏ trốn, tính đến nay số người còn lại không nhiều, chỉ sợ khó có thể sử dụng được, chỉ làm cho dân chúng thêm hoảng loạn, mất đi những nông dân giỏi, không phải là kế sách hay. Nếu không tạm thời đình chỉ, để chiêu mộ và ổn định lại, thì e rằng dân chúng ra khỏi cửa quan sẽ không dám trở về làm ăn, dân nghèo không có nơi nương tựa, có thể sinh ra biến loạn khác, đây là vấn đề cấp bách của ngày hôm nay.

[68] Thần trình bày việc cấp bách để cứu vãn tình thế, còn đạo lý cốt yếu thì nằm ở tấm lòng thánh thiện của bệ hạ và sự phân biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân mà bệ hạ sử dụng. Mong bệ hạ xét kỹ tấm lòng của lão thần, suy xét kỹ tình thế thiên hạ. Chưa biết ý thánh của bệ hạ có cho rằng việc ngày nay không đáng lo ngại, hay cần phải suy nghĩ sâu xa để cứu vãn? Những người bệ hạ tin dùng có phải đều là quân tử, hay có kẻ tiểu nhân? Điều này há có thể thoát khỏi sự sáng suốt của thánh giám, chỉ cần không vì thuận theo mà vui vẻ, thì trung tà sẽ phân biệt rõ. Kính mong bệ hạ xem kỹ tấu chương của thần, đặc biệt lưu tâm, thì thiên hạ sẽ may mắn biết bao! (Tấu chương này nhắc đến “năm ngoái”“mùa xuân tới”, có lẽ được viết vào mùa đông năm Nguyên Phong thứ 5; lại nhắc đến “lúa mạch mùa hạ”, ắt hẳn là vào mùa xuân năm thứ 6.) Bật từ sớm đã có tiếng là bậc công phụ, thiên hạ đều gọi là “Phú công”. Danh tiếng vang xa đến tứ di, sứ giả Liêu mỗi lần đến đều hỏi thăm về xuất xứ và tình trạng an nguy của ông. Khi đối mặt với công việc, ông luôn thận trọng, suy tính kỹ lưỡng, không vội vàng hành động nếu chưa chắc chắn, nhưng khi cần nói thì dám nói, không ngại hy sinh thân mình, tính trung nghĩa càng về già càng kiên định. Ông sống tại gia hơn mười năm, nhưng chưa từng lúc nào quên triều đình. Khi tin ông mất đến, triều đình ngừng thiết triều ba ngày, tổ chức tang lễ ở hậu uyển, quần thần đến phúng viếng, truy tặng ông chức Thái úy, thụy hiệu là Văn Trung.

(Bản Chu đã bỏ đi, bản Mực cũng không ghi lại di tấu, nay xin chép lại đầy đủ. Bản Chu còn nói rằng Bật và Hàn Kỳ tranh chấp về việc lập người kế vị và công lao hoàn chính, đến khi chết vẫn không thông hiếu. Sử ký của Tư Mã cũng có ghi chép, nhưng có người cho rằng không phải vậy. Bản mới và phần khảo dị không dùng, bản Chu nay cũng không dùng. Sách 《Kiến văn lục》 của Thiệu Bá Ôn, quyển 9, có viết: “Phú công há vì không tham gia định sách mà oán hận Ngụy công sao?” Nay dẫn lời Phú công từ chối chức Thượng thư Hộ bộ, nhắc đến bảy người Hàn Kỳ và những người khác có công đức làm chứng[13].)

[69] Ngày Đinh Dậu, Cáp môn tâu: “Từ chức Sứ tướng trở xuống đến Tiết độ sứ khi được bổ nhiệm, có lệnh dẫn mạc ban cáo thư đưa đi, xin đặc cách ban cho theo lệ như Học sĩ, Xá nhân viện, cũng xin ngừng việc này.” Vua đồng ý.

[70] Lễ bộ tâu: “Dân châu Tuyền là Chu Tín cùng những người khác nói rằng, vào niên hiệu Khánh Lịch, các châu Tuyền, Phúc v.v. đã tìm kiếm khu vực mộ tổ ở núi Toái Thạch, nay tìm được tổ xa của triều đình ta là người núi Toái Thạch, huyện Mân, châu Phúc. Vào niên hiệu Cảnh Đức, cũng từng sai sứ đến châu Phúc tìm hiểu sự tích nhà cửa ở núi Toái Thạch. Núi Toái Thạch nay là chùa Chiên Đàn. Nhà của Triệu Chân Quân vẫn còn, dưới chân núi này có ruộng đất của họ Triệu, khế ước ghi tên họ, lại có minh văn trên chuông cổ làm bằng chứng, xin sai quan xác minh.” Vua sai Bí thư tỉnh tra xét lại mệnh lệnh trước đây, và lệnh cho Ty chuyển vận lộ Phúc Kiến lấy các chứng cứ mà Chu Tín đã trình. Sau đó, Bí thư tỉnh tâu rằng, vào niên hiệu Khánh Lịch không có mệnh lệnh nào sai lộ Phúc Kiến tìm kiếm lăng mộ tổ. Ty chuyển vận lộ Phúc Kiến tâu rằng, đã sai quan đi xem xét, lời tâu của họ đều sai lầm vô căn cứ. Vua ra chiếu tha tội cho Chu Tín vì đã được ân xá. Sau đó, họ lại đến Thượng thư tỉnh, tự nói rằng trong nhà có sách cổ có thể tra cứu, lấy xem thì là địa khế năm Trung Hòa thứ 7 đời Đường, phía sau liệt kê người họ Triệu, có tên là Lãng, chỉ đó là Thánh tổ, sự dối trá như vậy.

[71] Ty kinh lược lộ Hà Đông tâu: “Người Tây Hạ xin được như cũ vào cống, triều đình đã ban chiếu. Lộ này hiện đang tiếp đón người Tây Hạ, xin ban rõ mệnh lệnh.” Vua ra chiếu rằng mệnh lệnh chiêu phủ sứ giả không thi hành nữa, những người tự nguyện quy thuận thì có thể khuyên họ trở về, nếu sợ bị hại, không thể về được, thì nên an ủi giúp đỡ. Nếu có người ở biên giới đến đòi, thì không nên trả lời. Nếu thủ lĩnh hoặc người có quyền hành vì oán hận trong nước mà muốn quy phụ, thì thu nhận, tâu lên nghe chỉ. Đợi đến khi đã ban chiếu thề, sẽ nghe mệnh lệnh khác.

[72] Vua ra chiếu cho Hình bộ rằng những người bị đày đi xa, tội nhẹ thì 10 năm, nặng hơn thì 20 năm, gặp ân xá thì xét lại, cho về tự do. Lệnh Hình bộ ghi thành luật.

[73] Ngày Mậu Tuất, Phó sứ Chuyển vận lộ Quảng Nam Đông là Tôn Huýnh tâu: “Theo chiếu, sai Thừa tứ Đại Lý tự là Quách Khái đến Quảng Châu xét việc công, có văn thư yêu cầu thần tạm quyền xử án Cương thủ Quảng Châu là Vương Tuân và những người khác. Thần tuy chưa biết rõ chi tiết việc xét xử của Viện Chế khám, nhưng e rằng việc này xuất phát từ trong cung, thần nghi ngờ có kẻ vu cáo thần. Huống chi triều đình uy nghiêm, chắc chắn không để thần bị oan ức bởi lời vu khống. Thần muốn đợi khi mọi việc rõ ràng, mới dám tâu xin truy xét kẻ kết bè đảng, tạo lời vu cáo, để trừ tệ nạn lừa dối, bè phái.” Vua phê: “Việc ngục tù ở Quảng Châu, vốn do án của Huýnh phát hiện việc của Trần Dịch và những người khác, lâu không kết thúc, sau đó có quan lại tâu rằng Huýnh thiên vị, che chở, không có việc đặc biệt xuất phát từ trong cung, không biết Huýnh cho rằng việc gì là xuất phát từ trong cung, lời vu khống. E rằng Huýnh thực sự có tội ác, lại mượn lời vu khống để tự giải thoát, kẻ gian ác, tình hình phức tạp, không thể không xem xét. Nếu vì Thạch Lân can thiệp, làm thay đổi sự thật, thì Lân chức vị thấp kém, chưa từng được gần gũi bên cạnh, sao dám làm như vậy? Hơn nữa, căn cứ vào nguyên nhân sự việc, chưa thấy Lân phạm tội. Hãy lệnh cho Huýnh trình bày rõ việc xuất phát từ trong cung và kẻ kết bè đảng, tạo lời vu cáo để tâu lên.” Sau đó, Huýnh tâu rằng việc xét án Trần Dịch liên quan đến hoạn quan Thạch Lân, vì Lân đang ở Nội thị tỉnh, cho rằng Lân vu cáo việc này, nên mới có lời nói đó. Nhưng Vua xét thấy Lân thực sự không liên quan.

(Tháng tư, ngày Đinh Mùi, sai Quách Khái.)

[74] Ngày Canh Tý, Vương Khuê và những người khác xin tôn hiệu của Nhân Tông là “Thể Thiên Pháp Đạo Cực Công Toàn Đức Thần Văn Thánh Vũ Duệ Triết Minh Hiếu”, của Anh Tông là “Thể Can Ưng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thần Tuyên Hiếu”. Chiếu cho quần thần dâng lời xin ở miếu thờ và thất thờ.

[75] Ngày Nhâm Dần, Phụng nghị lang Tỉnh Lượng Thái tâu: “Các châu tâu án, xin giao cho Ty Đề điểm hình ngục của lộ mỗi tuần trình bày các việc đã tâu nhưng chưa được xử lý, tâu lên Thượng thư tỉnh, giao cho Hình bộ kiểm tra.” Theo lời tâu.

[76] Sở Tường định biên tu chư ty sắc thức tâu rằng: “Sắp tới đại lễ, xin tạm thời theo lệ cũ, sai quan chuyên trách đề điểm sự vụ một lần.” Vua phê: “Khi mới ban hành thức lệnh, thật lo rằng đến kỳ các cơ quan phụng hành sẽ nghi hoặc, dẫn đến sai sót có hại cho việc, khiến người soạn lệnh không vui, có thể mượn cớ đổ lỗi cho pháp chế đã thành. Hơn nữa, chỉ có quan lại của bản sở là am hiểu rõ đầu đuôi, đáng tin cậy nhất để kiểm sát và ứng tiếp. Nên theo lời tâu, chỉ sai quan của bản sở đề điểm các sự vụ thuộc phạm vi của thức lệnh.”


  1. Chữ 'Nam' trong 'Nam Bình quân' nguyên bản là 'An', căn cứ theo chính văn và quyển 328 năm Nguyên Phong thứ 5 tháng 7 ngày Ất Mùi sửa lại.
  2. Mỗi nửa năm luân phiên một viên Ngự sử, chữ 'luân' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 17-13 bổ sung.
  3. Thái thường bác sĩ Vương Cổ, 'Cổ' nguyên bản là 'Cát', căn cứ theo bản trong các bản và điều Tân Mão tháng nhuận sáu trong quyển này, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 79 về việc định rõ lễ văn giao miếu, và 《Tống sử》 quyển 320 truyện Vương Tố sửa lại.
  4. Lệnh đưa đến nơi xa xôi hiểm trở quản thúc, chữ 'lệnh' nguyên là 'kim', theo bản khác sửa
  5. Theo《Ngự tập》, chữ 'cứ' nguyên ở dưới chữ 'ngự tập', căn cứ vào các bản khác sửa lại.
  6. 'Mua' nguyên là 'Đặt', theo các bản khác sửa lại.
  7. Nguyên văn chữ 'lỗ' được sửa thành 'hoạch' theo bản trong các sách.
  8. Nguyên văn chữ 'ty' bị lặp, đã xóa theo 《Tục Tư trị thông giám》 quyển 77.
  9. Nguyên văn chữ 'dĩnh' được sửa thành 'dĩnh' theo 《Tống sử》 quyển 343, truyện Tưởng Chi Kì.
  10. 'Dương Vũ' nguyên bản viết là 'Dương Vũ', căn cứ vào các bản khác, bản in hoạt tự và 《Tống hội yếu》 phương vực 15/10 sửa lại
  11. E rằng dần dần thấm sâu 'thấm' nguyên là 'Hội', theo các bản sửa.
  12. Nghe đồn đại rằng 'đồn' nguyên bản là 'phó', theo bản sửa.
  13. nhắc đến bảy người Hàn Kỳ và những người khác có công đức làm chứng, chữ 'đẳng' nguyên bản viết là 'đệ', theo 《Thiệu thị văn kiến lục》 quyển 9 sửa lại

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.