"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 337: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1083)

Bắt đầu từ tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Ất Tỵ, Ty Đề điểm Tự vụ tâu: “Đã lệnh cho chùa Đại Tướng Quốc chia 62 viện, lấy 2 viện làm Thiền viện, còn lại làm Luật viện. Tên các viện cũ cùng với ân điển thí kinh, xin đều bãi bỏ.” Vua nghe theo.

[2] Lễ bộ tâu: “Tăng Đạo Trăn ở viện Tịnh Nhân phụng chiếu tuyển cử tăng Tông Bản ở viện Thụy Quang, châu Tô, và tăng Thường Tổng ở viện Đông Lâm, châu Giang, làm trụ trì hai Thiền viện.” Vua nghe theo, cấp 50 nghìn tiền hành lý, cho đi ngựa trạm đến kinh đô.

[3] Ngày Bính Ngọ, Kinh lược sứ và Chuyển vận ty lộ Hồ Bắc tâu: “Nền móng trị sở huyện Cừ Dương thấp trũng, gần đây lại bị lụt, xin dời trị sở huyện đến châu Thành, dựa vào thành mà xây dựng, để ổn định dân số hiện quản lý ở châu Thành, kiêm quản lý dân hộ ở Quán Bảo, Tiểu Do, v.v. Riêng Quán Bảo xin chọn đất ở trại khác để xây dựng.” Vua nghe theo.

[4] Ngày Đinh Mùi, xuống chiếu lấy ngày Bính Ngọ tháng 11 làm lễ tế Nam Giao.

[5] Ngày Mậu Thân, Môn hạ và Trung thư ngoại tỉnh tâu: “Từ khi thi hành quan chế đến nay đã được một năm, những lợi hại trong đó, quan lại đã quen biết. Nay biên soạn điều lệ, nên thu thập rộng rãi ý kiến, xin cho phép các quan đương chức tham gia bàn bạc, và cho phép người khác trình bày ý kiến về lợi hại, nộp đơn đến bản tỉnh. Nếu có ý kiến khả thi, sẽ tùy việc ban ân.” Vua nghe theo.

[6] Ngày Kỷ Dậu, Đô thủy sứ giả Phạm Tử Uyên tâu: “Ty Thừa ngoại giám trước đặt cục ở châu Thiền, chia làm hai ty Nam và Bắc. Các đê đập thuộc ty Bắc đều ở các châu quân phía Bắc, xin dời ty Bắc đến châu Ân[1].” Vua nghe theo.

[7] Tướng tác giám thừa Tống Bành Niên tâu: “Thần trước đây kiểm điểm việc Tây phủ Bồ Tông Mạnh sửa chữa nhà cửa, sử dụng nhiều binh lính và thợ thuyền, ban đầu không có chỉ dụ của triều đình, sau đó Ngự sử đài tra hỏi, việc liên quan đến thiếu giám Chung Tuấn và những người khác. Thần sao có thể tiếp tục làm đồng liêu với họ? Xin đổi một chức vụ khác.” Chiếu rằng: “Lời thỉnh cầu không được chấp thuận, còn Chung Tuấn là kẻ gian nịnh, vi phạm pháp luật, có thể cho cách chức trước.”

[8] Hộ bộ tâu: “Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự Phạm Tuân tấu rằng, các huyện hiện còn nợ thuế khóa, xin giới hạn trong một năm chia làm bốn kỳ để thu. Bộ này xem xét kỹ, muốn lấy số thuế còn nợ, cho dân chia làm ba năm hoặc hai năm, nộp cùng với thuế hạ và thuế thu. Nếu hết hạn mà còn nợ nhiều, huyện sẽ báo lên bộ này so sánh và tâu xin xét xử.” Chiếu rằng: “Trừ thuế ruộng chăn nuôi ra, tất cả các khoản nợ trong ba năm, giới hạn trong một năm, còn lại giới hạn trong ba năm. Việc so sánh và thu nợ, đều theo lời thỉnh cầu của Hộ bộ.”

[9] Hoành Hải quân lưu hậu, được tặng Chiêu Tín quân tiết độ sứ, Khai phủ nghi đồng tam ty, Nam Khang quận vương, thụy là Cung Hi, Tông Bá mất.

[10] Ngày Tân Hợi, Kinh lược sứ Quảng Nam Tây lộ Hùng Bản và các quan tâu rằng, việc huấn luyện động đinh ở châu Ung, xin tạm theo quy định cũ. Chiếu giao các điều ước do Tăng Bố sửa đổi và kế hoạch của Bành Thứ Vân cho bộ này xem xét và thi hành, rồi báo lại.

[11] Ngày Nhâm Tý, Kinh lược ty Hà Đông tâu: “Các bộ lạc ở lộ Lân Phủ có người nhờ lập công mà giả mạo chức vụ của cha ông để được thưởng, xin cho họ tự khai báo, được miễn tội và sửa đổi.” Chiếu rằng: “Giới hạn trong một mùa, cho phép người khác tố cáo, sẽ thưởng bằng chức vụ và bổng lộc của người đó.”

[12] Hộ bộ tâu: “Phát vận sứ các lộ Giang, Hoài là Tưởng Chi Kỳ tấu rằng, các chức tri châu, thông phán và giám sự quan hiện chưa có quy định thưởng phạt, xin lấy mức thuế ruộng tăng giảm qua các năm để chế trí ty so sánh. Bộ thần xin các châu thuộc các lộ Giang, Hoài, Hồ, Chiết, việc thu thuế muối, cuối năm báo lên phát vận ty tập hợp so sánh, trong mỗi lộ lấy hai nơi có số thu nhiều nhất và ít nhất, ghi tên các chức tri châu, thông phán, chức quan, lệnh, tá báo lên Hộ bộ. Việc thăng giảm của các chức đề cử giám sự quan trong mỗi lộ cũng theo cách này.” Chiếu giao cho ty Tường định trùng tu biên sắc căn cứ vào đây mà định thành lệnh. Chi Kỳ lại tâu: “Các lộ nợ tiền của bản ty khoảng hai trăm vạn quan, nếu triều đình không chủ trương đòi thì số tiền ấy đều không được trả. Xin cho bản ty được xử lý các khoản nợ của các lộ, áp dụng theo pháp lệnh về nợ tiền vật của triều đình; và xin từ năm nay chuyển vận ty Hoài Nam không được chuyển số lương thực định mức đến Trừ châu và huyện Thiên Trường, tất cả các khoản tiền vốn muối, tiền vận chuyển đường thủy, gạo ăn, vật liệu đóng tàu và các vật dụng cần thiết khác của bản ty, ngoài việc chuyển vận ty lo liệu cung ứng, không được xâm phạm[2].” Chiếu rằng những việc thuộc thời hạn do triều đình quy định, nếu vi phạm thì phạt tội đồ một năm, các việc khác đều theo lời tâu.

[13] Ngày Quý Sửu, chiếu rằng: “Các huyện thuộc phủ Khai Phong có nhiều sâu non, nay lúa sắp chín, sợ hại mùa màng, nên sai đề điểm hình ngục Phạm Tuân thân hành đốc thúc nhân công nhanh chóng diệt trừ.”

[14] Ngày Ất Mão, rước linh vị của các hoàng hậu Hiếu Huệ, Hiếu Chương, Thục Đức, Chương Hoài vào thờ chung trong miếu thất của Thái Tổ, Thái Tông và Chân Tông. Các hoàng hậu Hiếu Huệ, Hiếu Minh, Hiếu Chương, Thục Đức, Ý Đức, Minh Đức, Nguyên Đức, Chương Hoài, Chương Mục, Chương Hiến Minh Túc, Chương Ý đều được sắp xếp theo thứ tự kế thừa trước sau.

(Ngày 25 tháng 4, sở Tường định kiến nghị. Ngày 3 và 11 tháng 6 nhuận[3]. Cựu kỷ chép: Ngày Ất Mão, chiếu rằng Hoàng hậu Hiếu Huệ là kế hậu của Thái Tổ; Hoàng hậu Hiếu Chương, Thục Đức, Chương Hoài là nguyên phi của Thái Tông và Chân Tông, chưa thể vào thờ, bắt đầu rước vào miếu thất. Tân kỷ sửa lại: Bắt đầu rước các Hoàng hậu Hiếu Huệ, Hiếu Chương, Thục Đức, Chương Hoài vào thờ trong miếu thất của Thái Tổ, Thái Tông và Chân Tông.)

[15] Ty An phủ duyên biên Hà Đông tâu: “Chủ trại và Giám áp của 10 trại Dương Vũ thuộc châu Đại, mỗi trại có hai viên, xin cho phép Ty Kinh lược An phủ của bản lộ và bản ty được chọn một viên trong số các đại tiểu sứ thần, bảo đảm rõ ràng rồi trình lên Lại bộ để chỉ định; viên còn lại thì do Lại bộ bổ nhiệm.” Vua phê: “Địa phương giáp giới với Khiết Đan, việc này rất quan trọng, nên đặc cách theo lời tâu.”

[16] Ngày Bính Thìn, do việc rước linh vị bốn Hoàng hậu vào miếu, ban đức âm giảm tội cho tù nhân trong kinh kỳ, tội chết giảm xuống, tội lưu đày trở xuống được tha.

(Cả hai bộ kỷ đều chép việc này.)

[17] Chiếu rằng: “Ngày kỵ của bốn Hoàng hậu, từ nay theo lệ đại kỵ.”

[18] Thái trung đại phu, Tri Xu mật viện Tôn Cố được thăng làm Thông nghị đại phu, Quan văn điện học sĩ, nhậm chức Tri Hà Dương, vì Tôn Cố xin từ chức do bệnh.

(Tháng 8 năm thứ 3, con của Tôn Cố là Phác và Dã bị cách chức do liên quan đến việc của Chu Ốc.)

[19] Thái trung đại phu, Đồng tri Xu mật viện Hàn Chẩn làm Tri Xu mật viện, Thái trung đại phu, Thí Hộ bộ Thượng thư An Đào làm Đồng tri Xu mật viện. Vua từng sai nội thị Tăng Xử Hậu đến Lĩnh ngoại đốc thúc phát tiền bạc trong kho nội tàng, Xử Hậu xin đem tiền chiết nhị lớn sung vào việc cung cấp cho các lộ phía đông nam, lấy tiền nhỏ đã tích trữ để bồi thường. Đã tâu xong, An Đào nói tiền chiết nhị không thể lưu hành ở kinh sư, có được cũng không đủ để dùng thực tế, và nói: “Thần từ khi nhận chức ở phủ kế, tuy chi tiêu phi thường, không dám lấy một đồng làm phiền triều đình, nên thần nay cũng không dám vâng chiếu.” Vua nghe theo. (Điều này căn cứ theo 《An Đào hành trạng》. Hành trạng lại nói việc vượt thứ dùng An Đào, cần xét lại.) Việc dùng binh ở biên giới phía tây đã lâu, Vua càng chán, bèn vượt thứ dùng An Đào. An Đào cố từ chối nói: “Trước đây bệ hạ bổ nhiệm chức chấp chính, đều theo thứ tự; nay có người ở trên thần mà vội dùng thần, thần không dám nhận.” Vua nói: “Biên giới phía tây chưa yên, là việc trọng yếu nhất hiện nay, chính muốn nhờ khanh mưu tính.” Lúc đó người Hạ đến xin hòa, An Đào cho rằng nên nhân đó chiêu phủ, và dặn các quan biên giới không gây hấn. Sau lại xin trả lại đất đai, An Đào nói: “Những nơi vừa chiếm được không phải là chỗ yếu hại, vốn nên trả lại để tỏ ân huệ, nhưng tính người Khương không biết chán, hiện nay chưa thể, nên để họ biết ta tha thứ lỗi lầm và ngừng binh đao, không nên tỏ ý ta chán chiến tranh.”

(Điều này căn cứ theo 《Hành trạng》.)

[20] Lệnh cho Tể tướng Vương Khuê làm Nam giao đại lễ sứ, Lễ bộ Thị lang Lý Thường làm Lễ nghi sứ, Ngự sử Trung thừa Hoàng Lí làm Nghi trượng sứ, Binh bộ Thị lang Hứa Tướng làm Lỗ bạ sứ, Tri Khai Phong phủ Vương Tồn làm Kiều đạo đốn đệ sứ.

[21] Quốc tử tư nghiệp Chu Phục tâu: “Các châu học có nơi không đặt giáo thụ, xin giao cho trưởng lại chọn quan đương nhiệm kiêm nhiệm, trước hết đưa danh sách lên Lễ bộ, rồi do bản giám thẩm định, nếu đủ tư cách làm giáo thụ thì theo như lời xin. Các giáo thụ được bổ nhiệm trước đây đều bãi bỏ. Có ba đề sách của châu học Quân Châu, trái với ý chỉ kinh điển, nay sao lục dâng lên.” Lễ bộ tâu: “Xin lệnh cho bản giám nêu rõ cách thẩm định học hạnh của quan ngoại nhiệm có thể đảm nhiệm chức giáo thụ, và ngăn chặn tệ nạn tư tình thỉnh thác trước đây, sau đó mới lập pháp. Những người đang làm giáo thụ, đợi khi có quan mới thì bãi nhiệm. Giáo thụ quyền châu Quân Châu, giám thuế rượu bản châu Tô Triệt, xin lệnh cho lộ này cử quan khác kiêm quản câu.” Được chấp thuận.

[22] Ty chế trí Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Bộ lạc Phiên Đương Chi Mạt hư xưng nước Hạ gửi thư cho Đổng Chiên[4], muốn cùng xâm lấn.” Chiếu lệnh Lý Hiến trói Đương Chi Mạt giao cho Đổng Chiên và A Lý Cốt, để họ tự xử trí.

[23] Ty kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ biên phòng tài dụng tâu: “Xin ở Lan Châu thêm ty thị dịch, cấp tiền vốn, mua sắm hàng hóa, đáp ứng giao dịch của người Hán và Phiên, để giúp kế hoạch biên phòng.” Được chấp thuận.

[24] Ngày Đinh Tỵ, chiếu: “Lễ thăng phụ hoàn thành, nhà của bốn hoàng hậu cử một người lớn tuổi nhất, nếu đã làm quan thì thăng một bậc, chưa làm quan thì cho chức sơ đẳng.”

[25] Chiếu các ty kinh lược Thiểm Tây, Hà Đông: “Nghe nói các lộ quan Phiên dù được thăng làm đại sứ thần, vẫn xếp dưới quan Hán tiểu sứ thần. Triều đình thưởng công thăng chức để khích lệ, nếu hạ thấp như vậy thì ai biết vinh dự của thăng quan? Nên định thứ tự quan Hán và Phiên rồi tâu lên.” Sau đó, ty kinh lược Hà Đông tâu: “Quan Phiên chỉ huy binh lính trại bảo ra trận, thường bị quan Hán sai khiến, khó xếp ngang hàng với quan Hán.” Binh bộ tâu: “Xin lệnh cho quan Hán và Phiên không thuộc quyền thống hạt thì xếp ngang hàng[5].” Được chấp thuận.

[26] Ngày Mậu Ngọ, triều đình dâng lễ tại cung Cảnh Linh.

[27] Ngày Canh Thân, ban chiếu rằng: Chức Đồng tri Xu mật viện đứng dưới Thượng thư Hữu thừa.

[28] Chiếu rằng: “Chức Chủ bạ ở các tự, giám chỉ chuyên trách việc sổ sách, còn công việc thì từ chức Thừa trở lên cùng bàn bạc rồi thi hành. Nay xét hỏi các tự, giám có lệnh cho Chủ bạ ký tên vào công văn xử lý công việc gồm: Đại Lý tự có Trưởng, Nhị, Chính, Chủ bạ tám viên; Vệ Úy tự có Khanh, Chủ bạ hai viên; Tướng tác giám có Thiếu giám, Thừa, Chủ bạ năm viên; Đô thủy giám có Sứ giả, Thừa, Chủ bạ bốn viên; Thiếu phủ giám có Thiếu giám, Thừa, Chủ bạ ba viên; Ty nông tự có Thiếu khanh, Thừa, Chủ bạ bốn viên; Thái thường tự có Thừa, Chủ bạ hai viên; Quân khí giám có Thiếu giám, Thừa, Chủ bạ bốn viên. Trong đó, các chức Trưởng, Nhị, Chủ bạ đều giáng một bậc, chức Chính, Thừa đều hoãn xét thăng chức hai năm, dù đã thôi chức cũng không được miễn.”

[29] Lễ bộ tâu: “Thái thường tự trước đây định chế độ đàn Bắc giao, đàn Phương Khâu có ba tầng, mỗi tầng cao bốn thước. Bộ này từng xem xét kỹ, cho rằng đàn đã là Phương Khâu thì khó đặt tám bậc, xin chọn một gò ở giữa đầm làm đàn vuông, cao sáu thước, đặt bốn bậc. Nhưng Thái thường tự lại nói: ‘Chế độ đàn Phương Khâu đều không thấy ghi chép. 《Chu Lễ》 dùng ngọc Hoàng Tông để tế đất, Trịnh thị chú rằng “Tông có tám phương, tượng trưng cho đất“, nên đàn có tám bậc là có căn cứ.’ Họ kiên quyết giữ ý kiến trước, không chịu thay đổi. Bộ này xét lại: 《Chu Lễ》 tế đất ở đàn Phương Khâu, lại ở giữa đầm, là có căn cứ. Chế độ nhà Hán đặt bốn bậc, cao sáu thước, là phép có thể dùng. Bốn phía đàn đều đặt một bậc, thì bốn bậc với đàn vuông là hợp lý, lại cao sáu thước, không xa mặt đất, có ý gần gũi với đất. Xin giao cho cơ quan khác xem xét lại.” Chiếu rằng đàn cao một trượng hai thước, đặt bốn bậc, còn lại theo lời tâu.

[30] Chiếu rằng Tri châu Quỳnh châu Lưu Uy[6] bị cách chức, vì tội tự ý bắt huyện lệnh Quỳnh Sơn là Lý Hiếu Long đến chỗ người Lê ở quân Chu Nhai, gặp lúc đại xá.

[31] Thiểm Tây chuyển vận sứ tâu: “Dân phu ra khỏi biên giới trước đây bỏ mất vật của quan, phần lớn bị truy thu theo tên chủ thuê, thực sự rất khổ cực, xin được miễn trừ.” Chiếu cho các lộ chuyển vận ty Thiểm Tây xét thực rồi miễn trừ.

[32] Hùng Châu tâu: “Sông Cự Mã tràn, phá vỡ bờ nam bắc cửa Trường Sa, thường sai dân phu hai bên địa giới sửa chữa.” Vua phê: “Năm ngoái bị vỡ đê, hai bên giới phát dân phu, đã từng gây kiện tụng. Giao Hùng Châu xem xét kỹ xử lý, đừng để sinh sự.”

[33] Tri Trấn Nhung quân Trương Thế Củ tâu: “Trước đây từng tiến cử Tri Lân Châu Quách Trung Thiệu làm Lộ phân kiềm hạt, nay nhận được thư của Tri Lân Châu Ti Hổ nói: ‘Gần đây từng xuất quân, triều đình chỉ huy Trung Thiệu chiếu ứng cho Hổ, nhưng Trung Thiệu vì thế mà oán giận Vua cha.’ Xem việc này, rõ ràng không trung hiếu, xin không dùng lời tiến cử trước.” Chiếu rằng Thế Củ cáo luận việc không liên quan đến mình và nộp thư riêng[7], đặc biệt tha tội.

[34] Cơ quan Đề cử Hà Bắc Đông, Tây lộ Bảo giáp tâu rằng: “Việc tập hợp và huấn luyện bảo giáp cần chi phí, ngoài khoản do quan cấp, còn cần dùng các khoản tiền vật tạp phí, số lượng danh mục không ít, đều là những khoản cần thiết không thể bỏ qua. Nếu không chi tiền, ắt sẽ có tệ nạn nhũng nhiễu phạm pháp, nếu cứ chi tiền quan một cách tùy tiện, do các danh mục quá chi tiết, khó có thể xác định rõ ràng. Nay xin tóm tắt các danh mục tạp phí, cùng với kế hoạch của cơ quan chúng tôi, xin tâu lên.” Vua phê: “Đã xem xét và định ra các khoản tiền thu được từ việc quản lý bảo giáp các lộ mỗi năm, ngoài khoản dự phòng tạp phí, có thể xem xét số tiền tiết kiệm được từ việc huấn luyện bảo giáp các lộ: Tiết kiệm được 1.661.483 quan 560 văn 5 phân 4 ly, chi phí 313.166 quan 165 văn, sau khi trừ chi phí, còn lại 1.348.317 quan 395 văn 5 phân 4 ly để phong trang.

Ở phủ giới, tiết kiệm được 242.444 quan 16 văn, chi phí 85.339 quan 432 văn; 276 đô bảo, ngoài đô phó bảo chính và đại bảo trưởng, hiện quản lý 62.648 người: đô bảo chính 275 người, phó bảo chính 264 người, đại bảo trưởng 2.701 người, tiểu bảo trưởng 10.863 người, bảo đinh 51.785 người; số tiền tiết kiệm được, sau khi trừ chi phí, còn 157.104 quan 584 văn để phong trang; ước tính mỗi người thưởng 8 quan, mỗi năm dùng 120.000 quan để thưởng cho 15.000 người, còn lại 37.104 quan 584 văn để dùng vào các khoản tạp phí, ước tính 4 năm sẽ thưởng hết. Ở Hà Bắc Đông lộ, tiết kiệm được 328.761 quan 541 văn 5 phân 5 ly[8], chi phí 30.245 quan 616 văn; 551 đô bảo, ngoài đô phó bảo chính và đại bảo trưởng, hiện quản lý 115.546 người, đô bảo chính 232 người, đô phó bảo chính 518 người, (Trong sách của Lưu Hữu Đoan không phân biệt số lượng đô và phó bảo chính. Tây lộ cũng tương tự.) phó bảo chính 257 người, tiểu bảo trưởng 9.209 người, (Trong sách của Lưu Hữu Đoan không có tiểu bảo trưởng. Tây lộ cũng tương tự.) đại bảo trưởng 5.076 người, bảo đinh 106.337 người; số tiền tiết kiệm được, sau khi trừ chi phí, còn 298.515 quan 925 văn 5 phân 5 ly để phong trang; ước tính mỗi người thưởng 8 quan, mỗi năm dùng 240.000 quan để thưởng cho 30.000 người, còn lại 58.515 quan 925 văn để dùng vào các khoản tạp phí, ước tính 4 năm sẽ thưởng hết.

Ở Hà Bắc Tây lộ, tiết kiệm được 315.324 quan 636 văn, chi phí 26.626 quan 980 văn; 566 đô bảo, ngoài đô phó bảo chính và đại bảo trưởng, hiện quản lý 149.086 người: đô bảo chính 310 người, đô phó bảo chính 591 người, phó bảo chính 327 người, đại bảo trưởng 6.246 người, tiểu bảo trưởng 12.219 người, bảo đinh 136.871 người; số tiền tiết kiệm được, sau khi trừ chi phí, còn 288.697 quan 656 văn để phong trang; ước tính mỗi người thưởng 8 quan, mỗi năm dùng 240.000 quan để thưởng cho 30.000 người, còn lại 48.697 quan 650 văn để dùng vào các khoản tạp phí, ước tính 5 năm sẽ thưởng hết. Ở Hà Đông lộ, tiết kiệm được 208.627 quan 978 văn, chi phí 55.699 quan 56 văn; 649 đô bảo, ngoài đô phó bảo chính, đại bảo trưởng và các tướng hiệu Nghĩa đô dũng quân, hiện quản lý 159.770 người, tướng hiệu Nghĩa dũng 320 người, tiết cấp 796 người, (Nay đều tính vào tiểu bảo trưởng.) trưởng hành 17.295 người,

(Nay đều tính vào bảo đinh.)

Bảo giáp đô bảo chính 610 người, phó bảo chính 594 người, đại bảo trưởng 6.024 người, tiểu bảo trưởng 22.861 người, bảo đinh 118.818 người; số tiền tiết kiệm được, sau khi trừ chi phí, còn lại 152.928 quan 922 văn; ước tính mỗi người thưởng 8 quan, mỗi năm dùng 120.000 quan, thưởng cho 15.000 người, còn dư 32.928 quan lẻ, để dành cho các chi phí khác, ước tính trong 10 năm sẽ thưởng hết.

Ở các lộ Vĩnh Hưng quân, số tiền tiết kiệm được là 380.716 quan 740 văn 9 phân 9 li, chi phí là 94.499 quan 605 văn; bảo giáp có 834 đô bảo, ngoài đô phó bảo chính, đại bảo trưởng và nghĩa dũng tướng hiệu, hiện quản lý 155.536 người, nghĩa dũng tướng hiệu 680 người, tiết cấp 1.404 người (nay đều tính vào số tiểu bảo trưởng), trưởng hành 28.686 người (nay đều tính vào số bảo đinh), bảo giáp đô bảo chính 601 người, phó bảo chính[9]707 người, đại bảo trưởng 6.565 người, tiểu bảo trưởng 21.581 người, bảo đinh 103.865 người; số tiền tiết kiệm được, sau khi trừ chi phí, còn lại 286.217 quan 135 văn 9 phân 9 li; ước tính mỗi người thưởng 8 quan, mỗi năm dùng 240.000 quan, thưởng cho 30.000 người, còn dư 46.217 quan 135 văn 9 phân 9 li, để dành cho các chi phí khác, ước tính trong 5 năm sẽ thưởng hết.

Ở các lộ Tần Phượng, số tiền tiết kiệm được là 185.608 quan 648 văn, chi phí là 20.755 quan 476 văn; bảo giáp có 290 đô bảo, ngoài đô phó bảo chính, đại bảo trưởng và nghĩa dũng tướng hiệu, hiện quản lý 76.355 người, nghĩa dũng tướng hiệu 414 người, tiết cấp 839 người (nay đều tính vào số tiểu bảo trưởng), trưởng hành 18.043 người (nay đều tính vào số bảo đinh), bảo giáp đô bảo chính 281 người, phó bảo chính 277 người, đại bảo trưởng 2.724 người, tiểu bảo trưởng 10.515 người, bảo đinh 46.958 người; số tiền tiết kiệm được, sau khi trừ chi phí, còn lại 164.853 quan 172 văn; ước tính mỗi người thưởng 8 quan, mỗi năm dùng 120.000 quan, thưởng cho 15.000 người, còn dư 44.853 quan 172 văn, để dành cho các chi phí khác, ước tính trong 5 năm sẽ thưởng hết. Còn việc Hà Bắc tâu xin thì không được chấp thuận.”

(Đoạn này được thêm vào từ 《Ngự tập》, để thấy rõ các điều khoản về việc thiết lập bảo giáp thời đó. 《Thực lục》 không có ghi chép. Có thể tham khảo ngày 12 tháng 9 năm thứ 5.)

[35] Ngày Tân Dậu, Hộ bộ tâu: “Các châu, quân, thành, trại dọc biên giới thuộc các lộ Thiểm Tây, vật phẩm công sứ cấp cho quan lại, xin đều theo lệ định, căn cứ giá thực tế trên thị trường để cấp tiền, số rượu trong đó cũng dựa vào nguyên liệu rượu có thể ủ được bao nhiêu thăng đấu mà cấp, đợi khi giá cả ổn định thì theo lệ cũ. Còn việc khao thưởng quân đội và bộ lạc thì không áp dụng cách này.” Được chấp thuận.

[36] Ngự sử Dương Úy tâu: “Chu Khắc Thành, Tả tri khách của Xu mật viện, kiêm quản Tây phủ, vào giờ Thân ngày Tân Hợi tháng hai, trình lên bản phủ rằng hai vị Tả hữu thừa sửa chữa sảnh đường, xin phê duyệt văn bản gửi Công bộ xuống cho Tướng tác giám. Nay xét thấy sau văn bản có ghi ‘theo như đã trình’, nhưng chỉ có Bồ Tông Mạnh và Vương An Lễ ký tên, dùng ấn của Thượng thư tỉnh, không qua chỗ Vương Khuê và Thái Xác ký duyệt, cũng không qua phòng Khai sách để ban hành. Đến giờ Dậu ngày Nhâm Tý, Công bộ xét duyệt và phê rằng ‘không đợi ký duyệt, in phát trước’, đêm đó vào lúc canh tư, quân tuần tra mang lệnh xuống cho Tướng tác giám. Theo quy định, Thượng thư tỉnh chịu trách nhiệm tiếp nhận và chuyển giao văn thư của sáu bộ và các cơ quan, nắm giữ kỷ cương và quy trình trong tỉnh, lại có văn thư trong ngoài trình lên phòng Khai sách của Đô tỉnh, do Tả hữu ty phân định, đóng dấu và phát đi; còn quy định của Công bộ, việc tu sửa xây dựng phải do cơ quan phụ trách bảo đảm và xin chỉ thị, có lệnh xin xem xét chỉ đạo, quy trình rất nghiêm ngặt, không thể tùy tiện, chức trách của Thượng thư tỉnh chỉ là nắm giữ mà thôi. Nay văn bản của Khắc Thành không qua Đô tỉnh, Tông Mạnh và An Lễ là Tả hữu thừa trực tiếp phán quyết, theo như trình mà dùng ấn tỉnh phát đi, còn Vương Khuê và Thái Xác là người đứng đầu trăm quan, ban đầu không được báo cáo, tư lợi làm hỏng pháp luật, không còn kỷ cương. Đại thần như vậy, làm sao giúp Vua chính đốn trăm quan! Còn Công bộ đã thấy văn bản không theo quy trình tiếp nhận và chuyển giao mà thiếu chữ ký của Bộc xạ, lẽ ra phải kiên trì ý kiến và báo cáo, sao có thể không xem xét kỹ? Lại không phải việc gấp rút, sao đến nỗi không đợi quan lang ký duyệt mà thi hành nhanh như lửa cháy? Nịnh quyền khinh pháp, không gì hơn thế! Kính xin cùng xét xử.”

Chiếu cho Trung thừa Hoàng Lý cùng Dương Úy và những người khác trong hạn mười ngày phải điều tra tường tận và tâu lên, Dương Úy không được phép tránh né.

[37] Bảo chương chính Phùng Sĩ An và các quan nói: “Phía nam Đại Nội xây dựng điện Thần Ngự ở cung Cảnh Linh, phía tây xây dựng Thượng Thư tỉnh. Vì Đại Nội là âm trạch, theo kinh sách, hình phạt ở phương tây, họa ở phương nam, phúc ở phương bắc, đức ở phương đông. Căn cứ theo 《Nhị Trạch Kinh》, phạm phương bắc thì báo ở phương nam, tu sửa phương đông thì trị phương tây. Nay phạm hình phạt và họa, nên gấp tu sửa phương đông và bắc thì tốt.” Chiếu chỉ gửi đến Bí thư tỉnh. Bí thư tỉnh tâu: “Rằng Thái sử cục các quan xác định lời của Sĩ An và các quan về việc tu sửa là theo phép tư trạch. Nay quốc gia xây dựng điện Thần Ngự và Thượng Thư tỉnh, là việc kinh quốc thể, xem xét địa thế, chọn ngày giờ rồi mới tiến hành, phép báo trị không thể áp dụng.” Chiếu chỉ giáng một bậc chức của Sĩ An và các quan.

[38] Ngày Nhâm Tuất, phân mệnh các phụ thần cầu tạnh.

[39] Chiếu chỉ giáng một chức của Lâm Tích, nguyên Tiền đề điểm Quảng Đông lộ hình ngục, vì khi tại nhiệm kiểm tra quân khí không tinh tế.

[40] Ngự sử Trạch Tư tâu: “Nghe nói chuyển vận ty Kinh Tây bắt các châu huyện yêu cầu thương nhân nộp giấy, quan dùng ấn nhỏ làm dấu, mỗi tờ giấy thu một tiền, dân nộp thuế nếu không có giấy ấn thì không nhận. Triều đình quản lý tài chính vốn có đạo lý, không nên hà khắc như vậy.” Chiếu chỉ yêu cầu chuyển vận ty trình bày rõ. Sau đó chuyển vận ty tâu đúng như lời Trạch Tư, bèn hạ chiếu ngừng việc này.

[41] Kinh lược an phủ chế trí sứ Hi Hà Lan Hội Lý Hiến tâu:

[42] “Thần trước đây tâu rằng binh lính người Hồ ở bốn châu quân Hi, Lan, Dân, Thông Viễn, địa lý cách xa nhau, nên chia mỗi nơi thành một quân, để dễ dàng tập hợp gần đó, lại thuận tiện cho tình hình người Hồ. Thêm vào đó, trong số các bộ lạc người Hồ mới quy thuận ở Lan Châu và Định Tây, có rất nhiều người và ngựa khỏe mạnh, cũng nên tập hợp lại, cùng với bốn châu quân người Hồ thành năm quân, để khi cần kíp, mỗi nơi đều có quân Hán và quân Hồ phối hợp sử dụng. Xin tạm thời ở Hi Hà Lan Hội một lộ, vạch kế hoạch trình lên, thực hiện trước, đã được chấp thuận. Thần nay vạch kế hoạch, cho rằng việc đặt tướng cho quân Hồ, cần đơn giản và dễ thực hiện, pháp luật cần chi tiết và khó vi phạm. Thần nay cân nhắc tình hình người Hồ, soạn định kế hoạch và pháp lệnh gồm ba phần.”

[43] Các châu quân nên đặt hai viên tướng Đô đồng tổng lĩnh phiên binh, đóng quân tại châu quân đó, tổng lĩnh các bộ tộc phiên binh xuất chiến và người ngựa cung cấp trong phạm vi châu quân. Lại đặt mười viên sứ thần quản áp phiên binh, trong đó bốn viên do tướng đó chọn, trình lên Kinh lược sứ ty xét duyệt và bổ nhiệm; sáu viên còn lại cho phép tướng đó tại châu quân đóng quân chọn từ các sứ thần chuẩn bị sai sứ chỉ huy của Kinh lược ty, Tổng quản ty, Duyên biên an phủ ty, cùng các sứ thần tại thành, trại, quan, bảo dưới quyền quản lý để kiêm nhiệm. Khi không có việc thì không ảnh hưởng đến chức vụ chính, khi có việc thì tướng đó có quyền điều động. Tướng tổng lĩnh khi gặp cảnh báo biên giới, nếu không kịp báo lên Kinh lược ty, thì cùng với quan thủ châu quân đóng quân, tướng phó chính binh và quan quản câu Duyên biên an phủ ty thẩm định, nếu có thể chống địch thì điều động quân Hán và phiên cùng hợp lực chống cự; nếu tự ý phân biệt Hán – phiên dẫn đến sự cố thì sẽ bị xử phạt theo quy định, đồng thời báo cáo sự việc lên Kinh lược ty. Các tướng lập danh sách người giỏi thám sát trong các bộ tộc phiên dưới quyền để sẵn sàng cử đi. Việc thám sát được, ngoài báo lên Kinh lược ty, còn phải thông báo cho tướng phó chính binh tại châu quân đóng quân. Việc công của bộ tộc phiên liên quan đến tướng đó thì cho phép tướng Đô đồng tổng lĩnh xử lý, việc khác vẫn theo lệ cũ.

Các châu quân thuộc Kinh lược ty, Kinh chế ty, Duyên biên an phủ ty khi xử lý việc liên quan đến tướng tổng lĩnh, nếu là tri châu quân kiêm nhiệm và cần đi tuần tra, kiểm tra thì cho phép tạm giao việc châu quân cho thông phán luân phiên đi. Các quan phiên cấp cao dưới quyền tướng quản lý bộ tộc, khi điểm tập xuất quân, cùng với sứ thần quản áp phiên binh tham gia chỉ huy binh mã bộ tộc mình. Các châu quân đóng quân và quan, thành, bảo, trại dưới quyền, nếu không hợp tác trong việc của tướng, gây trở ngại, thì quan thành trại cho phép tướng Đô đồng tổng lĩnh tấu hặc xử lý, còn quan chức châu quân thì phải tâu trình sự việc.

Phiên binh xuất chiến tự chuẩn bị số lượng người ngựa, áo giáp, khí giới, lệnh cho tướng quan lập sổ; khi tuần tra, kiểm tra áo giáp, khí giới xuất chiến, lệnh cho tướng quan chuẩn bị trước. Ngoài số phiên binh các tộc tự chuẩn bị, số thiếu và cờ hiệu cần dùng thì báo lên Kinh lược ty lo liệu, lập kho cất giữ, khi điểm tập thì căn cứ số thiếu mà cho mượn. Phiên binh vốn luân phiên tuần tra biên giới, ngồi đồn, quan sát thì vẫn theo lệ cũ mà điều động. Phiên binh xuất chiến nếu vì lý do ra ngoài thì phải báo với quan phiên bộ tộc mình, và không được ra khỏi địa giới châu quân. Trong số người cung cấp dưới quyền phiên binh, nếu có người khỏe mạnh dũng cảm có thể xuất chiến thì cho phép tạm thời chọn thay thế phiên binh không đủ năng lực. Các tướng khi xuất quân, cho phép chọn kỵ binh mạnh làm quan đạp bạch mã. Sứ thần áp phiên, quan phiên, phó sứ các ty trở lên, không tính công dựa trên số thủ cấp tự tay chém được, mà dựa trên tỷ lệ thủ cấp của đội chính binh để luận thưởng. Năm châu quân xuất chiến, phiên binh người ngựa tự thành một tướng, khi xuất chiến thì dùng chính binh tiếp ứng phiên binh, cờ của họ cùng màu thân cờ với chính binh châu quân, nhưng màu viền cờ khác để phân biệt. Trên đây gọi là môn chức phận.

[44] Quân xuất trận của người Phiên được chia làm bốn bậc: lấy những người dũng cảm, võ nghệ xuất chúng làm kỳ binh; những người có chiến công, võ nghệ tinh thông làm bậc nhất; những người chưa từng lập công nhưng võ nghệ tinh thông làm bậc hai; những người võ nghệ còn non kém làm bậc ba. Giao cho các thủ lĩnh người Phiên của từng tộc căn cứ theo quy định mà sắp xếp, tổng lĩnh tướng lập sổ riêng, căn cứ theo bậc mà quản lý từng người, nếu có tăng giảm thì ghi chép vào sổ. Các tướng xuất trận của người Phiên được chia làm bốn bộ: tả, hữu, tiền, hậu. Khi điểm tập ra vào, từng tộc theo thủ lĩnh người Phiên của mình, mỗi bộ cử hai sứ thần quản áp quân Phiên, không được chia một tộc nhân mã vào hai bộ. Tổng lĩnh mỗi quý đến từng tộc gần đó để điểm duyệt, chỉ căn cứ theo kỹ năng của quân Phiên mà kiểm tra. Nếu trong bậc nhất có người võ nghệ xuất chúng thì lập riêng một bậc, sung làm kỳ binh, mỗi tướng lấy 200 người làm định mức; trong bậc hai có người xuất sắc thì thăng lên bậc nhất, mỗi tướng lấy 300 người làm định mức; trong bậc ba có người xuất sắc thì thăng lên bậc hai, mỗi tướng lấy 500 người làm định mức.

Sau khi điểm duyệt xong, căn cứ theo bậc mà ban thưởng và khao quân: kỳ binh được ban bát bạc, bậc nhất và bậc hai được ban đĩa bạc với mức khác nhau; những người được chọn làm kỳ binh và bậc nhất, bậc hai đều được ban áo chiến màu sắc và khăn lụa, để khích lệ lòng quân. Quân Phiên giao cho thủ lĩnh người Phiên của tộc mình huấn luyện, khi tướng quan tuần tra, nếu võ nghệ tinh thông, nhân mã hùng mạnh xuất chúng thì lập tức báo lên Kinh lược ty để khen thưởng. Tổng lĩnh tướng và sứ thần quản áp, nếu thuyết phục được thủ lĩnh người Phiên lôi kéo những gia đình chưa sung quân Phiên, hoặc chiêu mộ thêm nhân mã, thì được coi là có công, cuối năm giao cho Kinh lược ty căn cứ số tăng thêm mà tâu lên. Lấy 1.000 người làm chuẩn, mỗi ngựa vẫn tính bằng một người. Mỗi lần tăng thêm 200 người trở lên, tổng lĩnh tướng giảm thời gian khảo hạch ba năm, sứ thần giảm hai năm; nếu có người đào ngũ làm thiếu số, cứ 100 người, tướng quan kéo dài thời gian khảo hạch ba năm, sứ thần kéo dài hai năm. Các thủ lĩnh người Phiên của các tộc nếu trong tộc mình tuyển chọn hoặc chiêu mộ được nhân mã, cuối năm giao cho tướng quan báo số tăng thêm lên Kinh lược ty để thưởng.

Quân xuất trận của bộ lạc Tử không nhập vào bốn bộ, được quản lý riêng trong sổ quân Phiên, khi xuất trận thì lập thành một đội riêng[10], việc huấn luyện, tuần tra, thăng tiến bậc, ban thưởng đặc biệt đều theo quy định của quân Phiên. Quân xuất trận của bộ lạc Tử ở các châu quân Hi, Lan, Dân, Thông Viễn đều thuộc về châu quân đó, tổng lĩnh tướng đến tuần tra và kiểm tra. Ở Hà Châu tuy có tướng quản áp bộ lạc Tử, nhưng cũng thuộc về tổng lĩnh tướng. Khi tuần tra điểm duyệt quân Phiên, nếu có người già yếu hoặc bệnh tật không thể đi lính, cho người trẻ khỏe trong nhà thay thế, lập tức sửa tên trong sổ, mỗi quý đến điểm duyệt xong, báo số nhân mã tăng giảm của bộ tộc mình quản lý lên Kinh lược ty để khảo xét và tâu lên. Trên đây gọi là môn Sưu duyệt.

[45] Các thủ lĩnh quan lại người Phiên phải thống kê số lượng người và ngựa trong bộ tộc mình chiêu mộ được, mỗi quý và cuối năm phải báo cáo số lượng tăng thêm, cũng như việc huấn luyện người và ngựa trong bộ tộc trở nên tinh nhuệ, nếu thuộc diện được Kinh lược ty chi thưởng, thì bản ty phải dự tính số lượng và xin cấp phát, cử quan viên quản lý kho, nếu sử dụng vào việc khác, sẽ bị xử theo tội vi phạm chế độ.

Binh lính người Phiên đã đăng ký ra trận, nếu quản lý bộ lạc từ một nghìn người trở lên nhưng chưa đủ hai nghìn, mỗi năm được cấp một nghìn quan tiền công sứ; từ hai nghìn người trở lên nhưng chưa đủ ba nghìn, được cấp hai nghìn quan; từ ba nghìn người trở lên, được cấp ba nghìn quan là tối đa. Số tiền này lấy từ ngân sách tỉnh, chia làm hai kỳ trong năm, giao cho Tổng lĩnh tướng tùy nghi chi tiêu. Các tướng được phép đặt rượu tại châu quân nơi đóng quân. Tiền và vật phẩm trong kho công sứ của các tướng, được phép chọn sai viên liêu, thập tướng dưới quyền chính binh tướng tại châu quân đóng quân để phục vụ, đồng thời cử sứ thần áp phiền binh của bản tướng quản lý kho công sứ.

Khi các tướng điều động binh lính, tuần tra, kiểm tra bộ tộc, bàn việc công tại châu quân, thành trại, triệu tập quan lại người Phiên, hoặc khao thưởng bộ tộc người Phiên, đều được phép chi tiêu rượu thịt. Nếu sử dụng tiền công sứ không hợp lý hoặc biếu tặng riêng, sẽ bị xử theo tội tự ý chiếm đoạt của công. Khi Tổng lĩnh tướng hành quân, được phép chọn hai đội kỵ binh từ binh lính xuất trận hoặc dân binh người Hán dưới quyền tại châu quân đóng quân, mang theo vũ khí và ngựa đi theo.

Các tướng người Phiên phải bổ nhiệm lại viên để xử lý công vụ, nếu nhận hối lộ, sẽ bị xử theo luật Hà thương. Các tướng được phép chọn mười quan phiên dịch trong quân đội, và thêm mười người từ dân binh người Hán. Các tướng được phép cử y sĩ và thú y. Khi hành quân, được phép cử đô giáo đầu, người đánh trống vàng, người cầm cờ hiệu với số lượng tùy nghi. Binh lính người Phiên đã đăng ký ra trận, ngoài việc ứng phó tình huống khẩn cấp và kiểm tra định kỳ mỗi quý, không được điều động làm việc khác, nếu vi phạm, sẽ bị xử theo tội vi phạm chế độ, không được miễn tội dù có ân xá. Các tướng và sứ thần quản áp, nếu nhận quà biếu từ quan lại người Phiên trở xuống khi tuần tra, kiểm tra, sẽ bị xử theo tội tự ý chiếm đoạt của công. Những điều trên gọi là tạp điều môn. Đều được chấp thuận.

(5 năm, tháng 12, ngày Quý Sửu, nên tham khảo, nên chỉ dùng bản chép tay để ghi riêng. Bản chép tay viết: Kinh lược chế trí sứ Hi Hà Lan Hội Lộ Lý Hiến tâu: “Thần cho rằng việc tuyển chọn và quản lý quân Phiên, bố trí tướng lĩnh, vốn là việc đơn giản và dễ thực hiện, nhưng pháp luật cần chi tiết và khó vi phạm. Thần nay cân nhắc tình hình Phiên, đề xuất các điều khoản và quy định. Các châu quân đều đặt hai chức Đô đồng Tổng lĩnh Phiên binh tướng, đóng quân tại châu đó, quản lý các bộ tộc trong châu xuất chiến Phiên binh, cung cấp nhân mã. Mỗi nơi đặt 10 viên Quản áp Phiên binh sứ thần, 4 viên do tướng lĩnh chọn, trình Kinh lược ty xét duyệt và bổ nhiệm, 6 viên cho phép tướng lĩnh chọn từ các sứ thần tại châu quân đóng quân để kiêm nhiệm. Khi bình thường không ảnh hưởng đến chức vụ, khi có việc khẩn cấp thì điều động. Khi có tin báo khẩn cấp từ biên giới, nếu không kịp báo lên cấp trên, thì cùng với quan địa phương, tướng lĩnh chính binh và quan phụ trách an phủ biên giới xem xét. Nếu có thể chống địch, thì quân Hán và Phiên cùng phối hợp; nếu phân biệt đối xử dẫn đến sai sót, sẽ bị xử theo pháp luật. Các việc công của bộ tộc Phiên, nếu liên quan đến tướng lĩnh, thì cho phép Đô đồng Tổng lĩnh tướng xử lý. Các tướng lĩnh đóng quân tại châu quân và các quan, thành, bảo, trại, nếu không hợp tác, gây cản trở, thì quan thành trại được phép cùng Tổng lĩnh tướng tâu hặc, quan chức tại châu quân phải báo cáo sự việc. Các Quản áp Phiên binh sứ thần, quan Phiên, phó sứ trở lên, không tính công dựa trên số đầu giết được, mà tính theo tỷ lệ như tướng lĩnh chính binh.

Các quân Phiên xuất chiến tại năm châu quân, tự thành một đội, bố trí quân chính tiếp sau quân Phiên, cờ hiệu cùng màu với quân chính, chỉ khác ở viền cờ. Quân Phiên xuất chiến chia làm bốn loại: người dũng cảm, võ nghệ xuất chúng là kỳ binh; người có chiến công, võ nghệ tinh thục là hạng nhất; người chưa lập công, võ nghệ tinh thục là hạng nhì; người võ nghệ còn non là hạng ba. Các thủ lĩnh Phiên quan theo quy định xếp hạng, Đô đồng Tổng lĩnh tướng lập sổ riêng, ghi tên từng người theo hạng, chia thành bốn bộ: tả, hữu, tiền, hậu. Khi điểm quân, mỗi bộ tộc theo thủ lĩnh Phiên quan, mỗi bộ cử hai Quản áp Phiên binh sứ thần, không được chia một bộ tộc vào hai bộ. Quân Phiên xuất chiến do thủ lĩnh Phiên quan huấn luyện. Khi tướng quan tuần tra, nếu thấy quân Phiên võ nghệ tinh thục, nhân mã hùng mạnh, tướng quan báo lên Kinh lược ty để khen thưởng. Các Đô đồng Tổng lĩnh Phiên binh tướng và Quản áp Phiên binh sứ thần, nếu thuyết phục được thủ lĩnh Phiên quan tuyển thêm quân, hoặc chiêu mộ thêm nhân mã, sẽ được tính là công lao. Cứ mỗi 200 người tăng thêm, Đô đồng Tổng lĩnh tướng giảm 3 năm khảo hạch, Quản áp sứ thần giảm 2 năm; nếu có quân đào ngũ, tướng quan tăng 3 năm khảo hạch, Quản áp sứ thần tăng 2 năm.

Quân bộ lạc tử xuất chiến không xếp vào bốn bộ, ghi riêng trong sổ quân Phiên, khi có việc khẩn cấp thì tự thành một đội. Việc tuần tra, thăng tiến, khao thưởng đều theo quy định quân Phiên. Các tướng lĩnh quản lý quân Phiên xuất chiến, nếu quản hơn 1.000 người, mỗi năm cấp 1.000 quan tiền công sứ; hơn 2.000 người, 2.000 quan; hơn 3.000 người, 3.000 quan.” Được chấp thuận.

[46] Ghi chép con trai của Tịch Quyên, nguyên là Điện trực tả ban, là Cửu Chương làm Tá chức, vì Quyên theo quân Kinh Nguyên ra khỏi biên giới mà chết.

[47] Ngày Giáp Tý, triệu tập các quan phụ chính đến vườn sau xem lúa.

[48] Triều tán lang, Thủ tả ty lang trung Ngô Ung được bổ nhiệm làm Trực Long Đồ các, Chuyển vận sứ lộ Hà Bắc kiêm chức Thố trí địch tiện. Khi đó, Bảo Văn các đãi chế Kiển Chu Phụ từ chức Đô chuyển vận sứ Hà Bắc được triệu về làm Hộ bộ Thị lang, lệnh cho Ung thay thế. Việc bổ nhiệm chức vụ ở Đô ty bắt đầu từ Ung. Chu Phụ tâu: “Các kho lúa của Ty Nông, Thị dịch, Ứ điền, Thủy lợi ty nằm rải rác ở vùng biên giới, cách xa các kho mới ở Định, Doanh, xin giao số lúa đó cho Chuyển vận ty và thu lại tiền.” Được chấp thuận.

(Sách 《Thực hóa chí》 ghi việc này sau lời tâu của Lữ Công Trước vào tháng 8. Lời tâu của Công Trước đã ghi ngày 27, lời tâu của Chu Phụ nay phụ vào đây. Diệp Mộng Đắc nói: “Khi thi hành quan chế, Ngô Ung từ chức Tả ty lang trung được bổ làm Đô tào Hà Bắc. Lúc đó, Thần Tông đang lo việc phương Bắc, có ý tuần du, bí mật giao việc cho Ung, nên bổ làm Trực Long Đồ các. Việc bổ nhiệm chức vụ ở Đô ty bắt đầu từ Ung. Sau đó, Văn Cập Phủ từ chức Lại bộ ngoại lang, vì là con của Lộ công, cũng được bổ làm Trực Long Đồ các; Phạm Tử Kỳ, Phạm Thuần Túy đều theo lệ của Ung.”)

[49] Thăng chức cho Lý Quynh, Huyện úy huyện Thừa Thị, Châu Tào, làm Tuyên nghĩa lang, ban áo mũ màu đỏ, giữ chức Tri huyện Oan Cú[11], vì có công giết và bắt được hơn mười tên cướp.

[50] Ngày Ất Sửu, phục chức cho Đồng Chính, nguyên là Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu, vì từng phục vụ ở phủ đệ của Anh Tông. Chính vì tội bỏ nhiệm sở khi đang giữ chức Quyền Liêm, Khâm châu Duyên hải chiến trác đô tuần kiểm, đã được ân xá, nhưng bị cách chức, phải chờ thêm ba kỳ mới được phục chức. Đến nay, được phục chức.

[51] Ghi chép Phó sứ Như Kinh Phí Vạn, con rể là Trợ giáo Quế Châu Âu Dương Thích làm Tam ban Tá chức, vì có chỉ của Vua rằng: “Vạn trung dũng hy sinh, con côi không nơi nương tựa”, nên đặc biệt ghi chép.

(Ngự tập: Tri châu Hùng Bản tâu: “Theo trạng của Tú Dung huyện quân Sử thị: ‘Chồng là Phó sứ Như Kinh Phí Vạn, trước đây giữ chức Lộ phân Đô giám, vì việc công sứ văn lịch không rõ ràng nên bị cách chức. Đến kinh đô kêu oan, theo lệnh của Kinh lược ty, được triệu về châu cứu ứng chiến đấu, bị giặc giết hại, chỉ còn một con trai được bổ làm Tá chức. Xin tâu cho con rể là Trợ giáo Âu Dương Thích được đổi sang ban hàng, lại xin ban ơn cho hai con gái.’ Thần nghĩ rằng tội của Vạn tuy không đáng thương, nhưng ông đã không tiếc thân mình, ra sức chuộc tội, hy sinh nơi biên ải, thực đáng thương xót. Tuy vì bị cách chức nên giảm bậc, nhưng chưa thể hiện hết ý của triều đình trong việc thương xót người chết và nuôi dưỡng con côi. Kính mong Thánh từ xét kỹ, lại ban chỉ dụ.” Vua phê: “Phí Vạn trung dũng hy sinh, thực đáng thương xót. Nay con côi lưu lạc nơi biên ải, chưa có kế hoạch trở về, triều đình nên gia ân. Có thể ban thêm ân trạch cho hai người, một Tá chức, một Sai sứ.” Ngày 8 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6 ban hành.)

[52] Cung bị khố sứ Triệu Tư Tề lĩnh chức Thứ sử Vinh Châu. Tư Tề đã hoàn thành nhiệm vụ ở Hoàng thành ty, theo phép nên thăng chức, chiếu rằng vì Tư Tề là cháu trưởng của Phổ, nên đặc cách bổ nhiệm, người khác không được viện dẫn làm lệ.

(Theo Ngự tập.)

[53] Ngày Đinh Mão, chiếu rằng: “Văn thư của Lục tào chậm trễ, triều chỉ xét xử, mỗi năm lần, chức cấp của bản phòng sau khi xét án sẽ bị phạt theo mức độ.”

[54] Chuyển vận ty Hà Đông tâu: “Năm nay được mùa, giá lương thảo rẻ, các phủ, châu hiện có khoản tiền phong trang của triều đình khoảng 10 vạn quan, xin giao cho bản ty để bổ trợ việc mua bán.” Chiếu rằng: “Hà Đông hiếm khi được mùa, có thể theo lời xin, ngoài ra cần lập kế hoạch ứng phó.”

[55] Chiếu rằng: “Sau khi Bảo giáp được miễn theo điều lệ, nếu võ nghệ đạt chuẩn, nguyện đầu quân, người dưới 40 tuổi giảm một chỉ, dưới 30 tuổi giảm hai chỉ. Ngoài lệ vật, tăng thêm 2.000 quan tiền.”

[56] Ngày Mậu Thìn, bá quan đến Thái miếu, tấu cáo việc dâng tôn hiệu lên nhà thờ của Nhân Tông và Anh Tông.

[57] Tăng tiền công sứ ở Nghi Châu lên 2000 quan, để khao thưởng và bù đắp sự thiếu hụt cho người Man.

[58] Ngày Tân Mùi, chiếu rằng từ nay các Tể thần, Chấp chính quan khi chuyển sảnh, ngoài việc được cấp tiền thưởng, thì các ân trạch cho sứ thần đều giảm một nửa.

(Điều này căn cứ theo 《Ngự tập》 để bổ sung thêm.)

[59] Ngự sử Trạch Tư tâu: “Châu Đường trước đây vì đất đai cằn cỗi[12], người dân không canh tác. Những năm trước, Cao Phú làm Tri châu, chiêu tập lưu dân, cho họ tự do xin khai khẩn[13], theo lệ cũ của làng mà đánh thuế, cứ 100 mẫu đất thì nộp thuế 4 mẫu, từ đó đất đai dần được khai phá, gần như không còn đất bỏ hoang. Nghe nói gần đây Chuyển vận ty vì đất đai đã được khai phá, dân số tăng, nên thuế 100 mẫu tăng lên 20 mẫu, khiến dân tình xáo động. Hơn nữa, lưu dân phải phát cỏ khai hoang, những người vui với việc an cư, chỉ nhờ vào thuế nhẹ mới đủ tự nuôi sống. Nay đất tuy đã khai phá nhưng lợi ít, dân tuy đông nhưng chưa giàu. Quan lại đã thu nhiều[14], khiến dân không đủ nuôi sống, e rằng sẽ dẫn đến việc dân phải di cư. Như vậy, không chỉ số thuế tăng thêm trở thành hư ngạch, mà còn sợ mất đi số thuế đáng thu. Kính mong sắc cho sứ giả, nếu cần tăng thuế, thì nên tăng từ từ, để dân mới đến có thể yên ổn làm ăn.” Hộ bộ xin hạ lệnh cho Chuyển vận ty xem xét và tâu lên, được chấp thuận.

[60] Chiếu cho Vương Sùng Chửng, Khách tỉnh phó sứ, Đề cử bảo giáp ở Hà Đông lộ; Hoàng Liêm, Thừa nghị lang, Tập hiền hiệu lý, Đồng đề cử; Tống Tuyên, Cung bị khố phó sứ, Câu đương công sự; cùng 9 vị Giám giáo sứ thần, mỗi người được thăng một bậc, vì đã tập luyện võ nghệ cho bảo giáp đạt đến chín phần.

[61] Tri châu Vị là Lô Bỉnh tâu: “Trước đây sai quân ra khỏi biên giới, Cung phụng quan Diêu Hùng đi lại bàn bạc với Trương Thế Củ đánh dẹp, đạt được toàn thắng, xin thăng một chức.” Vua nghe theo. Hùng là con của Diêu Hủy.

[62] Vua phê: “Sứ giả nước Hạ đến xin hòa hiếu trở về, chưa đầy mười ngày, lại sai sứ giả đến tạ ơn. Xem ý họ rất gấp gáp, ắt có mưu gian. Hãy lệnh cho các ty Kinh lược an phủ Thiểm Tây, Hà Đông chỉ huy các quan ở biên giới, bố trí tuần tra xa, không để xảy ra sơ suất.”

[63] Ngày Nhâm Thân, Tri châu Diên là Lưu Xương Tộ tâu: “Xin giảm bớt số ngựa định mức hàng năm của ty Giám mục[15], tăng mua ngựa cao trên bốn thước bốn tấc có thể mặc giáp, tăng thêm quân kỵ binh Phiên Lạc.” Vua nghe theo, lại ở dưới quyền tướng thứ tám phủ Hà Trung tăng thêm ba chỉ huy quân kỵ binh Tả Hữu Phiên, bớt số quân bộ trong định mức của tướng đó.

[64] Xương Tộ nói: “Việc quân sự trước hết, không gì bằng chính sách về ngựa. Người tuy hàng trăm hàng nghìn, có thể gọi đến mà tập hợp; ngựa tuy chỉ mười con, há dễ dàng mà có được? Phải nuôi dưỡng từ trước, có sẵn sàng, mới có thể ứng phó với địch. Thêm nữa, Phu Diên so với các lộ khác không phải là nơi sản xuất ngựa, khó mà chăn nuôi được[16], Vĩnh Lạc một ngày mất sáu mươi con, không biết bình thường phải mất mấy ngày, tốn bao nhiêu, mới tập hợp được số đó. Dùng bao nhiêu tiền của không kể xiết, mất đi trong khoảnh khắc, há chẳng đáng tiếc sao! Tục ngữ nói ‘người mạnh ngựa khoẻ’, nếu được như vậy, có thể gọi là hai toàn, nếu mạnh yếu không đều, chỉ thành gánh nặng. Vì vậy, để xông pha ứng phó khẩn cấp giành thắng lợi, không có ngựa thì không được. Nay ngựa do Giám Mục Ty cấp phần nhiều nhỏ yếu bệnh tật, không đúng quy cách, xin cấp trước tiền, giao cho các tướng tự mua, lại tăng giá lên đến bốn năm chục nghìn.” Được chỉ: Đặc chuẩn thi hành ở lộ Phu Diên. Xương Tộ cho rằng vùng biên giới Phu Diên, từ phía đông Nghĩa Hợp đến phía tây Đức Tĩnh, kéo dài bảy trăm dặm, có hơn năm mươi đồn trại lớn nhỏ, dày thưa nhanh chậm không đều, phong hỏa không ứng hợp, bèn lập thành quy định, phàm việc cày cấy, huấn luyện, chiến đấu phòng thủ, đồn trú, xét mạnh yếu, chia địa vực, vẽ hình thế núi sông dâng lên. Vua khen ngợi và chấp nhận.

(Binh chí chép: “Tháng 7[17], Tri Diên Châu Lưu Xương Tộ xin giảm số ngựa định mức hàng năm của Giám Mục Ty, tăng giá mua ngựa cao trên bốn thước bốn tấc có thể đeo giáp, tăng thêm quân kỵ binh Phiên Lạc, giữ lại ngựa Phủng Nhật ở Sa Uyển Giám làm giống, theo lời xin.” Giữ ngựa giống vào ngày 13 tháng 9.)


  1. Xin dời ty Bắc đến châu Ân: 'Ân' nguyên bản là 'Huệ', theo các bản khác sửa lại
  2. Không được xâm phạm: chữ 'được' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản trong các để bổ sung.
  3. Chữ 'nhuận' trong ngày 3 và 11 tháng 6 nhuận ban đầu bị thiếu, căn cứ theo quyển 335 của sách này, ngày 3 và 11 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6 không thấy ghi chép, việc này được ghi trong quyển 336, ngày Đinh Sửu mùng 3 tháng 6 nhuận và ngày Ất Dậu 11 tháng 6 nhuận năm Nguyên Phong thứ 6, nay bổ sung.
  4. Hư xưng nước Hạ gửi thư cho Đổng Chiên, chữ 'dữ' nguyên là 'hưng', theo các bản, bản hoạt tự và 《Tống hội yếu》 Phiên di 6-18 sửa.
  5. Xin lệnh xếp ngang hàng, chữ 'vị' nguyên thiếu, theo các bản và bản hoạt tự bổ sung.
  6. Lưu Uy, chữ 'Uy' nguyên bản là 'Thành', căn cứ vào bản trong các và 《Tống hội yếu》 chức quan 66-24 sửa lại.
  7. Thế Củ cáo luận việc không liên quan đến mình, chữ 'luận' nguyên là 'dụ', theo các bản và 《Tống hội yếu》 tuyển cử 28-14 sửa.
  8. 328.761 quan 541 văn 5 phân 5 ly, nguyên văn là '12 vạn', căn cứ vào số tiền phong trang 298.515 quan 925 văn 5 phân 5 ly, cộng thêm chi phí 30.245 quan 616 văn, tổng cộng là 328.761 quan 541 văn 5 phân 5 ly, nên sửa lại.
  9. phó bảo chính 'chính' nguyên là 'trưởng', theo văn bản sửa lại
  10. Khi xuất trận thì lập thành một đội riêng, chữ 'đội' nguyên là 'lưu', căn cứ theo chú thích mà sửa.
  11. Chữ 'Oan' nguyên là 'Uyển', theo 《Tống hội yếu》 binh 12-10 và 《Nguyên Phong cửu vực chí》 quyển 1, Kinh Đông lộ, 《Tống sử》 quyển 85, Địa lý chí sửa lại.
  12. Châu Đường trước đây vì đất đai cằn cỗi, 'Đường' nguyên bản là 'Khang', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 thực hóa 70-15 và 《Tống sử》 quyển 174, chí về thực hóa sửa lại.
  13. Tự do xin khai khẩn, 'tiện' nguyên bản là 'canh', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 sửa lại.
  14. Quan lại đã thu nhiều, 'thu' nguyên bản là 'thủ', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 sửa lại.
  15. Xin giảm bớt số ngựa định mức hàng năm của ty Giám mục, chữ 'giám' nguyên bản là 'diêm', căn cứ vào văn dưới và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 75 về chính sách ngựa sửa lại.
  16. so với các lộ khác không phải là nơi sản xuất ngựa, khó mà chăn nuôi được 'khó mà chăn nuôi được' nguyên ở trước 'không phải là nơi sản xuất ngựa', theo sách trên đổi lại.
  17. Tháng 7 'Thất' nguyên là 'Thập', theo sách trên đổi lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.