VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 339: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1083)
Từ tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 9, ngày Quý Mão, mùng 1, nhật thực.
[2] Chiếu rằng: “Các cơ quan trong ngoài hiện đang thi hành sắc, luật, lệnh, cách, thức văn, nếu có điều gì chưa thuận tiện với sự lý cần sửa đổi, đều phải tâu lên Thượng thư tỉnh để bàn bạc và tấu trình. Nếu tự ý vẽ chỉ thay đổi, sẽ bị phạt tù một năm. Nếu được chỉ thị trực tiếp, hoặc trong trường hợp xử lý tạm thời cần ghi thành luật, hoặc cần thay đổi, phải tùy theo cơ quan thuộc quyền mà tâu lên Trung thư tỉnh, Xu mật viện để xin xét duyệt. Nếu có truyền tuyên nội giáng hoặc yêu cầu, đều phải tâu lại để xin chỉ thị trước khi thi hành. Nếu quan chức của cơ quan trực tiếp nhận chỉ thị, phải ghi lại chỉ thị đã nhận và tấu trình, xin thực hiện nghiêm túc.”
Sau đó, hoàng đế tuyên dụ với các quan chấp chính rằng: “Pháp lệnh về truyền tuyên nội giáng và tâu lại chỉ thị trực tiếp đã nhiều lần giao cho các cơ quan thảo luận, nhưng vẫn chưa thỏa đáng. Nay thống nhất pháp lệnh trong ngoài thành một, cần xem xét kỹ lưỡng hơn.” Rồi thi hành. (Ngày 18 tháng 11 năm Nguyên Niên, ngày 13 tháng 5 năm thứ 3, ngày 22 tháng 10 và ngày 15 tháng 11 năm thứ 5.)
[3] Cùng ngày, Thượng thư hữu thừa Vương An Lễ tâu trực tiếp: “Gần đây, Thư Đản bị kết tội tự đạo tang vật đến mức bị cách chức, Dương Úy bàn luận cho rằng đó là sơ suất, nhưng các cơ quan lại e ngại chấp chính, nên kết tội tang vật. Bồ Tông Mãn xét việc Tây phủ, Dương Úy lại tấu rằng thần tự ý xử lý việc tỉnh, thỏa mãn ý riêng, làm bậy phá pháp, không còn kỷ cương. Khi lệnh cho Dương Úy điều tra, kết quả lại khác với lời tấu. Việc bàn luận trước sau không đúng sự thật, xin giao cho cơ quan hữu trách xét xử, hoặc giáng chức nặng.”
Hoàng đế phê: “Hôm nay An Lễ tâu rằng Ngự sử Dương Úy bàn việc thiên vị không công bằng, lý nên giao cho ngục, nếu không thì giáng chức nặng. Trẫm chưa xem xét kỹ tình trạng Dương Úy có thể bị cách chức, nếu các quan trong Tam tỉnh có ý kiến giống An Lễ, nên liệt kê tâu lên, sẽ giao cho cận thần bàn bạc, xử lý thỏa đáng.” Sau đó, Tam tỉnh tiến trình, bèn hạ chiếu cho Dương Úy giải trình.
[4] Giáp Thìn, Đông thượng các môn sứ Tào Yển tâu: “Các môn sứ, phó trước đây vì có kiêm nhiệm, nên luân phiên cử một người trực ngày, các quan khác sau khi tan triều đều về tư dinh. Nay chế độ mới thi hành, đã bãi bỏ kiêm nhiệm, tự nhiên phải theo Tam tỉnh, Xu mật viện, xin ban hành thành lệnh.” Được chấp thuận.
[5] Ất Tỵ, xuống chiếu cho Trung thư xá nhân phân chia phụ trách sáu phòng, tùy theo phận sự mà soạn mệnh từ.
(Bản Mặc chép rằng sau lại chia ngày. Bản Chu bỏ đi, nói rằng việc chia ngày lại là theo chỉ thị ngày 28 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất. Nay theo bản Chu.)
[6] Kinh lược ty Quảng Tây tâu: “Câu đương công sự Đàm Diễm nói: ‘Đào Tông Nguyên cho rằng đất đai Quảng Nguyên nhỏ hẹp, khó bàn việc phân chia, muốn tự làm chương tấu, xin triều đình quyết định.’ Tông Nguyên không nghe lệnh, đã trở về An Nam.” Xuống chiếu: “Hùng Bản chỉ huy kế nghị quan, nếu bàn bạc với Đào Tông Nguyên, phải căn cứ vào văn bản của triều đình, giữ vững đạo lý, thương lượng kỹ lưỡng, không được trì hoãn thúc ép, để tránh gây ra ý khinh nhờn của người man.”
(Tháng 6 Mậu Thân, tháng 7 Tân Hợi, tháng 8 Ất Hợi.)
[7] Cho con của Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Quả Châu thứ sử, Nhập nội áp ban Trương Doãn Thành là Tả ban điện trực Huyền làm Tả thị cấm, cháu là Chi Hùng, Chi Thuần đều làm Tam ban tá chức, vì có công phục vụ Tiên đế khi còn ở phiên để, đặc cách ban ân theo di biểu.
[8] Bính Ngọ, Công bộ tâu: “Đô đại đề cử Thanh Hà liễn vận ty xin dùng lại sông Quảng Tế cũ và sông Thanh Hà để vận chuyển.” Xuống chiếu: “Trừ nước hồ Vụ Trạch, lệnh cho Công bộ xem xét các nguồn nước khác có thể tiếp ứng cho sông Quảng Tế vận chuyển hay không rồi tâu lên.”
(Sông Quảng Tế và sông Thanh Hà cùng vận chuyển, cần xem xét. Ngày 11 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 5, lần đầu bãi bỏ vận chuyển bằng sông Quảng Tế; ngày 20 tháng 7, Vương Hoàn nói; ngày 19 tháng 8 năm thứ 7.)
[9] Vua phê: “Đề cử Hà Đông lộ bảo giáp Vương Sùng Chửng kiến nghị, lộ này dạy người cưỡi ngựa lấy mười phần làm suất, lấy hai phần từ trên[1], theo giá chợ của Lân Phủ lộ, mỗi con ngựa quan cấp 25.000 tiền, bắt mua ngựa đạt tiêu chuẩn, trong vòng 5 năm mua đủ. Căn cứ số người quản lý hiện có, hai phần sẽ được 6.918 con, giá tiền là 172.950 quan, có thể chi từ tiền lãi muối nửa đầu năm Nguyên Phong thứ 6 của Kinh Đông lộ, nếu không đủ thì tiếp tục chi tiền nửa cuối năm[2]. Lệnh cho Phó chuyển vận sứ Kinh Đông lộ Ngô Cư Hậu sắp xếp ngay, giao cho Vương Sùng Chửng, hàng tháng báo cáo số ngựa mua được. Khi cấp phát, quan hay tư có lấy hay cho dù một phân một hào, đều theo phép kho thóc ở kinh sư.”
(Bản chí cũng có đoạn này.)
[10] Ngày Mậu Thân, quyền phát khiển Kinh Đông lộ chuyển vận phó sứ Ngô Cư Hậu được bổ nhiệm làm Thiên Chương các đãi chế, Kinh Đông đô chuyển vận sứ. Trước đó, Cư Hậu tâu rằng: “Từ quý thu năm Nguyên Phong thứ ba đến cuối nửa đầu năm nay, lợi nhuận từ thuế rượu của bản lộ so với mức tổng định mức trong nhiệm kỳ của quan chức trước năm Nguyên Phong thứ hai đã tăng thêm 1.759.000 quan tiền[3]. Trong hai năm nhiệm kỳ của quan chức trước, thuế rượu so với mức tổng định mức bị thiếu hụt 210.000 quan tiền.” Vua phê rằng: “Cư Hậu nhận mệnh một đạo, không làm nhục sứ mệnh, không tham lam trên, không quấy nhiễu dưới, không ồn ào nơi nghe ngóng, mà trong hai ba năm đã ngồi yên thu được tài chính lên đến hàng triệu quan. Trước đây quan huyện khốn khó, một sớm một chiều đã trở nên dư dả. Ngoài kinh phí, lại còn có thể đáp ứng được những yêu cầu cấp bách. Trong ngoài, các bề tôi lo việc tài chính chưa có ai vượt qua được ông. Tam tỉnh nên bàn việc ban thưởng.” Vì thế có mệnh lệnh này.
(Cư Hậu vào tháng 6 năm thứ hai được bổ làm vận phán, tháng 6 năm thứ năm làm vận phó. Bản truyện của Cư Hậu chép: Cư Hậu liền tự mình đốc thúc việc đúc tiền ở hai giám Lai Vu và Lợi Quốc, cung cấp đủ cho cả lộ. Việc này xảy ra vào tháng 9 năm nay. Trần Quán nói…, nên kiểm tra kèm theo. Phạm Thuần Túy cuối năm Nguyên Phong làm Thiểm Tây lộ chuyển vận phán quan, lúc đó sau khi năm lộ đại cử, tài chính thiếu hụt, nhiều lần xin triều đình. Ngô Xu mật Cư Hậu lúc đó làm Kinh Đông đô chuyển vận sứ, đang được sủng ái vì việc luyện sắt đúc tiền, liền dâng số tiền dư 3 triệu quan để giúp quốc dụng. Thần Tông bèn ban cho Phạm, Phạm nhận được báo, buồn bã nói với thuộc hạ rằng: “Bộ ta tuy khó khăn, nhưng đâu nỡ lấy thứ máu mỡ thừa này?” Liền dốc sức từ chối, cuối cùng không nhận. Đây là chuyện được chép trong 《Thạch Lâm yến ngữ》 của Diệp Mộng Đắc. Xét: Chiếu chỉ muốn cấp 200.000 quan tiền lớn đúc ở Từ Châu cho Thiểm Tây, Phạm Thuần Túy tâu xin không nhận, là việc ngày 14 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ bảy.)
[11] Tam Môn, Bạch Ba đề cử liễn vận ty xin mượn một vạn quan tiền thượng cung của Phụ Tài giám thuộc ty này, cử quan đến các châu lân cận mua gỗ, tại xưởng đóng thuyền của ty đóng thuyền vận tải sáu trăm liệu, giao cho Thiểm Tây chuyển vận sứ chi trả theo số. Được chấp thuận.
[12] Nội giáng bản đồ Lan Châu giao cho Xu mật viện.
[13] Chiếu tay cho Lưu Xương Tộ: “Các lộ thám báo: giặc Hạ tập hợp đến sáu bảy mươi vạn quân. Tuy trong đó có tinh nhuệ và tạp binh, nhưng số lượng quân giặc nếu tập trung đánh một lộ, sẽ gấp mười lần ta. Nếu chúng bất ngờ đột nhập vào các châu quân gần đây, chưa biết làm sao ngăn chặn. Các suý thần các lộ đều mang trọng trách, cần phải dự liệu trước tình hình chưa xảy ra. Hãy trình bày hướng tiến của giặc và phương lược đối phó lên trên.”
[14] Kinh lược ty Tần Phượng lộ tâu: “Sắc lệnh giáng xuống cho các tướng, nhưng năm tướng của lộ này đều đóng quân ở ngoài, khó họp bàn. Lại vì chưa có sắc lệnh trực tiếp giao xuống từng tướng, xin chỉ thị.” Chiếu: “Các tướng Tần Phượng lộ mỗi người được cấp một bộ, ngoại trừ doanh trận pháp thì thi hành ngay, còn sắc lệnh thông dụng tạm cho đọc, đợi kinh lược ty xem xét chỉ thị.”
[15] Đề cử Hà Đông bảo giáp kiêm đề điểm hình ngục Vương Sùng Chửng tâu: “Những gia đình bảo đinh hạng tư trở xuống, nếu bị thiên tai mất mùa từ năm phần trở lên[4], xin được thi hành theo điều lệ Thường Bình.” Được chấp thuận, và lệnh cho Hà Bắc, Thiểm Tây, Khai Phong phủ giới đều thi hành theo[5].
[16] Ngày Kỷ Dậu, hoàng tử thứ mười một ra đời, sai Ung vương Hạo cáo tế ở Thái miếu.
(Cựu kỷ chép hoàng tử Ngu sinh. Tân kỷ không chép.)
[17] Chiếu: “Các lộ kinh lược an phủ, chuyển vận ty nếu cần gấp sử dụng bảo giáp, gửi văn thư đến đề cử ty, đề cử ty tùy loại đáp ứng: chiến đấu phòng thủ, sai người võ nghệ cao cường và hạng nhất; sai dịch, dùng người hạng sau.”
[18] Lại bộ tâu: “Hữu Thiên Ngưu Vệ tướng quân Sĩ Hiện, là con trưởng đích của Ngụy quốc công Trọng Lai, nên theo lễ lệnh tập phong.” Vua nghe theo.
[19] Quyền phát khiển Thiểm Tây chuyển vận phó sứ Phạm Thuần Túy tâu: “Theo chỉ dụ, lệnh cho Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng lộ kinh lược ty và Hi Hà, Lan Hội lộ an phủ chế trí sứ ty, từ quân tu tiền cấp 20 vạn quan tiền mặt, cử quan viên kịp thời mua lương thảo để dự trữ. Xin cho thần cùng Lưu Xương Tộ bàn bạc kỹ, căn cứ vào tình hình khẩn cấp của các thành trại, dùng tiền mua lương thảo trong năm của chuyển vận ty cùng quân tu tiền bạc và tiền mặt, công cứ tùy nghi phân bổ. Những nơi cần chuẩn bị, chỉ tổ chức một đợt mua, giao cho Lưu Xương Tộ cùng thần đốc thúc quan lại kịp thời tích trữ. Sau khi mua xong, tính toán chi tiết quân tu tiền bản trong năm, theo từng khoản mục quản lý. Ngoài số tiền dùng cho chi phí trong năm, số quân tu tiền vật còn lại mua được bao nhiêu, thực hiện theo điều khoản hiện hành. Chỉ dụ cấp 20 vạn quan quân tu tiền cho kinh lược ty, xin không thi hành nữa.” Vua phê: “Lời tâu bày rõ ràng lợi hại, nên theo như tấu.”
(Theo bản Chu. Ngày 6 tháng 8 Kỷ Mão và ngày 27 tháng này Kỷ Tỵ, đều nên tham khảo.)
[20] Ngày Canh Tuất, chiếu: “Cao Ly quốc vương Vương Huy mất, lệnh cho Minh Châu tại bản châu hoặc huyện Định Hải chọn chùa lớn, dùng 37 tăng nhân làm đạo tràng một tháng, đêm trước khi giải tán, tổ chức một hội thủy lục.”
[21] Huy lập được 36 năm. Cương giới phía đông nam giáp biển, phía tây bắc tiếp giáp với Khiết Đan, Nữ Chân và Hắc Thủy. Từ khi Vương Kiến thống nhất đất đai của Tân La và Bách Tế đến nay đã hơn 170 năm. Vua ở quận Thục Mạc, gọi là Khai Châu, hiệu là Khai Thành phủ. Tân La gọi là Đông Châu, hiệu là Lạc Lãng phủ, làm Đông Kinh. Từ nơi Vua ở đi về phía đông bắc 20 ngày đường, Bách Tế gọi là Kim Châu, hiệu là Kim Mã quận; đi về phía nam 12 ngày đường, đất cũ của Phù Dư gọi là Công Châu, hiệu là Phù Dư quận; lại đi về phía nam 20 ngày đường, Bình Nhưỡng gọi là Hạo Châu, làm Tây Kinh. Sông Áp Lục là biên giới phía tây bắc, nước biển phía đông rất trong, nhìn xuống thấy được độ sâu 10 trượng. Đại để nước biển đến giới hạn Cao Ly thì trong; vào Đăng Châu, qua Thiên Lý Trường Sa thì đục. Đất lạnh, nhiều núi.
Khi quốc vương xuất hành, ở đất bằng thường đi xe do trâu kéo, hoặc dùng ngựa, khi qua vùng núi hiểm trở mới cưỡi ngựa. Quan chức có Trung thư tỉnh Trung xu viện Bình chương sự, Tham tri chính sự, Trung xu sứ, Hàn lâm học sĩ, Tri chế cáo, đại để bắt chước triều đình Trung Quốc. Quốc Tử Giám và Tứ Môn học có học giả đến hơn 6.000 người. Ba năm một lần tổ chức thi tiến sĩ, thí sinh làm bài thi thơ, phú, luận; thi minh kinh làm một bài đại kinh và một bài tiểu kinh. Thi tiến sĩ ban đêm, cấp ba ngọn đèn, mỗi ngọn tám lạng sáp, hết đèn mà chưa xong bài thì phải rút lui. Bảng vàng công bố 50 người đỗ. Sách có 《Đông Quan Hán Ký》. Bách quan lấy gạo làm bổng lộc, hoặc được cấp ruộng, khi thôi chức thì tùy theo chức vụ mà tăng giảm, đến khi về hưu mới thôi. Buôn bán cũng dùng bạc và gạo mà không dùng tiền. Không cấm dân nấu rượu. Binh lính tuyển từ dân, bảo vệ vương phủ. Người trong nước thích Phật pháp, ở Khai Thành phủ[6] có hơn 70 ngôi chùa, cùng với tăng chúng của chùa Vua là 1.500 người, quan phủ cấp 300 kết ruộng.
Tục lệ lấy ruộng vuông, mỗi cạnh 400 bước là một kết, ruộng tốt mỗi kết thu 200 thiêm, mỗi thiêm là 15 đấu, chính bằng một thạch của Trung Quốc. Trước niên hiệu Thiên Thánh, sứ giả đi qua Đăng Châu; từ niên hiệu Hi Ninh trở đi, đều đi qua Minh Châu, vì nói đường Đăng Châu có cát đá, không thể đi được. Từ Minh Châu trở về, gặp gió thuận, bốn ngày đêm đến Hắc Sơn, đã thấy được cảnh giới nước mình; từ Hắc Sơn vào các đảo, đi thuận gió, bảy ngày đến Kinh Khẩu; đi đường bộ hai ngày đến Khai Châu.
(Bản Chu, Mặc đều giống nhau. 《Chính Sử》 Cao Ly truyền chép về địa lý, khác với 《Thực Lục》, cần xem xét thêm.)
[22] Ngày Tân Hợi, Phó sứ Thiểm Tây chuyển vận Phạm Thuần Túy tâu: “Đất mới ở lộ Phu Diên thiếu thuế, xin cho phép thần không bị hạn chế bởi lệ cũ năm Nguyên Phong thứ ba, cân nhắc thuế của các châu huyện lân cận xa gần, chuyển đến nơi thiếu để nộp.” Triều đình đồng ý.
[23] Ghi chép việc con của Tứ phương quán sứ, Vinh Châu đoàn luyện sứ Cao Vĩnh Năng là Cung bị khố sứ Cao Thế Lượng được thăng làm Hoàng thành sứ, Thứ sử Trung Châu; cháu là Hữu ban điện trực Cao Xương Triều làm Hữu thị cấm, tá chức Cao Xương Tộ cùng làm Hữu ban điện trực; gia tặng Cao Vĩnh Năng làm Phòng Châu quan sát sứ, ban thưởng tang lễ tăng thêm một bậc.
[24] Ngày Nhâm Tý, thăng Huyện úy huyện Cám, châu Kiền là Mã Phòng làm Tuyên đức lang, vì bắt giặc đạt tiêu chuẩn.
[25] Ngày Quý Sửu, Ngự sử Dương Úy tâu: “Thần được chỉ phân tích việc Vương An Lễ nói. Việc thần bàn về Thư Đản chỉ xuất phát từ nhận thức của thần, không có ý gì khác. Đến khi Thư Đản bị tội, thần tự biết là không đúng, nên xin bị đày, may được bệ hạ tha thứ. Còn việc Vương An Lễ, thần xin nói sơ về việc thần bàn việc sửa chữa Tây phủ. Vì Tông Mạnh và An Lễ trao đổi thư từ, tuy Tông Mạnh phê duyệt trước, An Lễ ký qua, nếu phân biệt thủ phạm và đồng phạm, lý có thể chấp nhận, nhưng chỉ tội Tông Mạnh, thần không hiểu. Hơn nữa, việc phê duyệt chỉ huy là do quan lớn, An Lễ là phó, xử lý và thi hành, nên gọi là ‘tự tiện’; dùng lại nhân viên của phủ mình để thi hành, không qua cơ quan hữu trách, nên gọi là ‘thỏa mãn ý muốn’; vì là nơi mình ở, nên gọi là ‘tư lợi’; có pháp luật mà không dùng, nên gọi là ‘phá hoại pháp luật’; An Lễ đảm nhiệm chức vụ quản lý, làm như vậy, nên gọi là ‘không còn kỷ cương’; thần đã xét án và định tội An Lễ, nhưng vì triều đình bãi bỏ điều tra, nên không phải là ‘lời nói không giống nhau’. Thần nghe nói đại thần tuân theo pháp luật thì triều đình được tôn trọng, nên không tiếc sức lực để báo đáp.” Triều đình hạ chiếu cho Dương Úy làm Tông chính tự thừa, đồng thời ra chiếu rằng Tông chính tự từ nay trừ trưởng và phó ra, không được chuyên dụng quan lại họ tộc.
[26] Chiếu rằng: “Các quan phẩm đến Thượng thư tỉnh Lục tào, lên xuống ngựa đều theo thứ tự tạp áp. Đến Thượng thư tỉnh, thì Thái trung đại phu trở lên đến dãy nhà thứ nhất, Giám sát ngự sử trở lên đến cửa quá đạo; đến sảnh Thượng thư Lục tào, thì Thái trung đại phu trở lên đến bản sảnh, Giám sát ngự sử trở lên đến chỗ khách, còn lại đều ở ngoài cửa quá đạo.”
[27] Tri châu Quỳnh Lưu Uy tâu: “Đất quân Chu Nhai màu mỡ, xin giao cho bản quân, trừ những đất cũ của người Lê không cho xin chiếm, còn lại cho phép chiêu dụ khách hộ xin đất hoang của quan, ở nhà cày cấy, lại lập thưởng cách để khích lệ.” Theo lời tâu.
[28] Sở chế khám công sự châu Diên dâng án của Các môn sứ, Đoàn luyện sứ châu Đan, Tướng thứ hai lộ Phu Diên là Lý Phố, chiếu rằng: “Lý Phố được tha chết, miễn đánh đòn, không chích mặt, đày ra đảo Sa Môn, gặp ân xá không được tha về; Quyền Tổng quản Hoàn Khánh Khúc Trân phạt 20 cân đồng.” Phố vì dưới thành Vĩnh Lạc chưa đánh đã bỏ trại chạy trốn, mà Phó tướng Cao Sĩ Tài tử chiến, Phố không cứu viện được, lại đối với chế sứ không nói thật; Trân vì nghe lời Phố báo việc quân với chế sứ không đúng sự thật. Quyền phát khiển Kinh lược an phủ ty Lưu Xương Tộ tâu: “Phố am hiểu quân chính, xin tạm lưu lại bản lộ, chuẩn bị khi cần sử dụng.” Chiếu theo lời tâu.
(Xương Tộ tâu xin lưu Phố, căn cứ vào 《Ngự tập》 ngày 25 tháng 5, nên xét cùng.)
[29] Ngày Giáp Dần, Kinh lược ty Hà Đông tâu: “Bản lộ có việc sửa thành trì, tính công liệu rất lớn, ty Chuyển vận tiền lương có hạn, khó lòng đáp ứng. Xin ban 500 độ điệp, chia cho các châu quân biên giới, thuê quân dân sửa xong. Còn các châu quân thứ biên và gần trong, xin lệnh cho ty Chuyển vận nhân lúc nông nhàn tính công liệu, phát dân phu.” Theo lời tâu.
[30] Ngày Ất Mão, Kinh Đông đô chuyển vận sứ Ngô Cư Hậu xin hợp nhất Ty đề cử diêm thuế Kinh Đông lộ vào Ty chuyển vận để thành án diêm sự; lại xin cho 12 chức giám diêm quan ở Thanh Châu và các nơi khác, cho phép Ty này tâu xin bổ nhiệm hai lần, và những nơi không thuộc châu huyện mà thiếu quan viên, cũng cho Ty này được tuyển bổ. Đều được chấp thuận.
(Lúc đầu đặt Ty diêm thuế, cần tra cứu, có thể là do Trương Cảnh Hiến.)
[31] Ty đề cử kinh thành tâu: “Trước đây theo chỉ triều đình: phát động dân phu đào hào ngoài thành mới, khi khởi công, lệnh cho Ty đề điểm phủ giới Khai Phong cùng với quan Ty đề cử kinh thành cùng đề cử. Xét thấy Ty này đã kiểm kế phân phát công liệu, khó có thể cùng đề cử. Vì nay dân phu gần ở dưới chốn kinh thành, cần phải trấn phủ, mong được cử quan võ thần đại thần đều đại đề cử.” Chiếu cho phủ giới Khai Phong điều động 5 vạn dân phu, lại cử Quyền Khai Phong phủ suy quan Tổ Vô Pha, Đề điểm công sự huyện trấn phủ giới Khai Phong Phạm Tuân, Điện tiền đô ngu hậu Miêu Thụ đều đại đề cử biên lan.
[32] Ty đề cử Thiểm Tây mua ngựa và giám mục tâu, xin miễn tuyển chọn ngựa Phủng Nhật ở giám Sa Uyển, để lại làm giống ngựa. Được chấp thuận.
(Cuối tháng 7 có thể tra cứu.)
[33] Kinh Nguyên lộ kiềm hạt, Tri Trấn Nhung quân Diêu Lân tâu: Khi nhận được tin báo từ các lộ khác về việc giặc Tây xâm phạm, xin được thân chinh dẫn quân ra khỏi biên giới để khống chế. Được chấp thuận.
[34] Ngày Bính Thìn, Thừa nghị lang, Tả ty lang trung Dương Cảnh Lược làm sứ tế điện Cao Ly, Cung bị khố phó sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân Vương Thuấn Phong làm phó; Triều tán lang Tiền Hiệp làm sứ điếu uý, Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Tống Cầu làm phó.
(Hai kỷ đều chép: Vì Vua Cao Ly mất, sai sứ điếu tế.)
[35] Hộ bộ tâu: “Thị lang Kiển Chu Phụ nói: ‘Thuế muối ở Hà Bắc quá nhẹ, nên tăng gấp đôi tiền thuế, xin hạ lệnh cho các cơ quan liên quan tham khảo lập pháp.’ Bộ này muốn hạ lệnh cho Ty chuyển vận Hà Bắc xem xét.” Được chấp thuận.
(Theo thực lục, chữ đỏ và đen giống nhau, hội yếu ghi ngày 14 tháng 8 Đinh Hợi, nay không lấy.)
[36] Chiếu cấp 20 vạn quan tiền hiện có của Ty địch tiện Hà Bắc để ứng phó cho Ty chuyển vận mua lương thảo.
[37] Quản câu Hà Đông Duyên biên An phủ ty Lý Tông Sư tâu: “Xét thấy các thủ lĩnh cung thủ ở châu Lân, châu Phong mượn tiền lương của quan, thực là vì thiếu ăn, xin tạm ngừng việc đòi nộp.” Theo đó.
[38] Chiếu rằng: “Các cơ quan Môn hạ, Trung thư ngoại tỉnh, Bí thư tỉnh, theo như các ty khác, gặp ngày đại kỵ không được nghỉ, và không được theo các quan chấp chính ra sớm. Còn các ty Thượng thư tả hữu, Thừa chỉ ty của Xu mật viện, vào ngày đại kỵ ra sớm theo lệnh của quan chấp chính, nay bãi bỏ.”
[39] Chiếu rằng: “Các Cấp sự trung chia nhau quản lý sáu phòng, nếu có hai viên thì theo như tả hữu tào mà chia quản, các việc tấu chương, khai sách, khố phòng chế sắc, Tiến tấu viện, Thông tiến ty đều quản lý chung.”
[40] Kinh lược chế trí ty Hi Hà Lan Hội lộ xin lấy hai chỉ huy đông binh đang đóng ở Lan châu và Tần Phượng lộ thuộc về Hi Hà Lan Hội. Theo đó.
[41] Quan tước Lục trạch sứ người Thổ là Lý A Mại được giảm bốn năm khảo khóa, vì Kinh lược ty Hi Hà Lan Hội tâu rằng A Mại dẫn năm mươi kỵ binh ra ngoài biên giới do thám, lập công chém được thủ cấp.
[42] Ngày Đinh Tỵ, Vua phê gửi Lưu Xương Tộ: “Đã nhận được khí giới ngươi dâng lên, đã rõ. Nay ở kinh sư đang chế tạo quân khí, ban cho khanh mười cây cung Ô sao kim tuyến, hai cây cung Thần tí, một bộ giáp tướng quan, một bộ giáp mã quân, một bộ giáp thiên ai, năm cây thương hợp trúc, năm thanh đao mã quân, năm thanh đao bộ nhân, một tấm bài loan trúc, một thanh đao phụ bài, hai cây tiêu, một cọc nỏ hoàng mã hiết vĩ, để dùng khi ra trận. Khanh hãy xem xét kỹ, tâu lên xem có tiện dụng không.”
(Ngày 26 tháng 8, trước đã ban chiếu.)
[43] Hộ bộ thị lang là Kiển Chu Phụ tâu: “Đã nhiều lần dâng sớ xin không đóng cửa sông Ngự Hà tại khúc sông Từ Khúc, để thông suốt việc vận chuyển bằng đường thủy, và cho phép thuyền buôn của thương nhân đến vùng biên giới. Được sai quan Đề cử lộ Hà Bắc Đông Lộ là Dương Cảnh Phân, kiêm chức quan ủy của Ty Chuyển vận, cùng nhau điều tra, thấy rằng nên giữ lại một phần cửa sông, hạn chế mực nước, việc này rất rõ ràng. Được sai Thừa giám Đô thủy là Trần Hữu Phủ thực hiện, nhưng Hữu Phủ tính toán tiết kiệm vật liệu, không mở ngay cửa sông Từ Khúc, gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Ty Chuyển vận và Ty Thố trí. Xin chọn một viên quan am hiểu sông ngòi, không thuộc Đô thủy giám, để điều tra lại.” Chiếu cho An phủ, Đề điểm hình ngục ty của lộ này cùng quan Tri châu Ân Châu cùng điều tra rồi tâu lên.
[44] Ngày Mậu Ngọ, sai quan Nhập nội Đông đầu Cung phụng, Câu đương Long đồ Thiên chương các là Phùng Cảnh hội họp với Chuyển vận sứ lộ Kinh Đông là Ngô Cư Hậu tại Đăng Châu, sắp xếp việc đi đường biển của sứ thần nước Cao Ly.
[45] Ty Đề cử lộ Vĩnh Hưng Quân tâu rằng lộ này mùa thu năm nay được mùa, xin cho phép thu nộp tiền thuế và dịch vụ bằng hiện vật. Được chấp thuận.
[46] Ngày Kỷ Mùi, quan Quyền quản Kinh lược ty lộ Tần Phượng là Lữ Ôn Khanh xin luân phiên sai tướng quan đóng quân tại các trại ngoài thành, huấn luyện binh mã của các tay cung nỏ người Hán và người Phiên. Được chấp thuận, nhưng không được xây dựng thêm trụ sở[7].
[47] Ngày Canh Thân, chiếu cho quan Tây đầu Cung phụng, Cáp môn Chi hậu là Đồng Chính đổi làm Đông đầu Cung phụng, và giảm thời gian khảo hạch một năm. Vì Chính tự tâu rằng trước đây từng lập công khi đánh An Nam, được chỉ cho phép thăng chức và giảm thời gian khảo hạch, nên có mệnh lệnh này.
[48] Quan Thiêm thư Quân sự phán châu Hiệp là Trương Đào tâu: “Thấy rằng Điện trực là Thư Quang Quý được bổ nhiệm thêm chức Giám áp châu Hiệp, Quang Quý vốn là thủ lĩnh người Khê Động châu Nguyên quy thuận, e rằng không thể quản lý dân chúng một châu.” Chiếu cho Lại bộ điều động ông ta đến lộ Kinh Đông Tây nhận chức mới.
[49] Tri Diên Châu Lưu Xương Tộ tâu: “Tướng thứ hai Bành Tôn xin thưởng lụa cho những người bị thương khi bắt được thủ cấp, theo chỉ dụ triều đình xem xét mức độ để giảm bớt, xin tạm thời áp dụng theo quy định thưởng ban đầu.” Vua phê: “Việc ban thưởng quân đội, ảnh hưởng đến nhiều người, lo lắng về việc thay đổi nhiều lần, làm lung lạc lòng quân sĩ. Lời tâu của Xương Tộ rất hợp lý, nên theo lời tâu, các nơi khác cũng có thể áp dụng theo.”
(Sách Ngự tập ghi chép việc tâu trình rất chi tiết, nay chỉ theo bản chép tay.)
[50] Ngày Tân Dậu, chiếu rằng: “Những vàng bạc, tiền lụa nộp vào kho Nội tàng, nếu sử dụng trái năm hoặc chuyển sang việc khác, sẽ bị xử như pháp luật về việc tự ý chi tiêu tiền phong trang.”[8]
[51] Tân Tri Thái Châu Hoàng Hảo Khiêm tâu: “Thấy rằng sáu bộ Thượng thư, như Lại bộ Tả Hữu tuyển, Hộ bộ Tả Hữu tào, công việc đều rất bận rộn, quan lang từ sáng đến tối ký tên không ngừng, không có thời gian xem xét công việc, dẫn đến sai sót và chậm trễ. Xin cho hai viên quan lang xử lý công việc, các văn bản hành chính cũng cho phép viên ngoại lang ký tên.” Được chấp thuận.
(Ngày mồng 7 tháng này, Hảo Khiêm từ chức Tư huân lang trung được bổ nhiệm làm Tri Dương Châu, chưa đi nhậm chức, đổi làm Thái Châu. Sách Nam du ký cựu của họ Tằng ghi chép việc của Hảo Khiêm sai lầm, nay không lấy.)
[52] Quyền Phát Khiển Phu Diên Lộ An phủ ty công sự Lưu Xương Tộ tâu: “Các tướng bộ của bản lộ, cùng chủ trại, giám áp, bảo phố, bả tiệt, giám áp, bảo phố kiều tuần kiểm đều ở vùng biên giới xa xôi, không thể thiếu người. Trước đây do tử trận hoặc chuyển nhiệm quá hạn, chưa từng bổ nhiệm người thay thế, xin cho những sứ thần từ kinh thành đến và những người được chọn trong lộ, đều bổ nhiệm để lấp chỗ trống.” Được chấp thuận.
[53] Ngày Quý Hợi, chiếu rằng: “Lữ Hiếu Liêm, giáng chức Triều tán lang, giữ chức Đại Lý tự thiếu khanh, trước đây làm Kinh Đông Lộ chuyển vận phán quan, cùng quan trưởng bản ty chung sức hoàn thành công việc, khiến thu nhập tăng lên, có thể khôi phục chức vụ bị giáng, làm Kinh Đông Lộ chuyển vận phó sứ. Đổi chức chuyển vận phán quan, Triều tán lang Triệu Xưng làm Đề điểm hình ngục.”
[54] Thượng phê: “Cam Lăng là đất trọng yếu ở Hà Sóc, sĩ khí kiêu ngạo, thường cần người giỏi kiềm chế, để tránh sinh sự ngoài ý muốn. Gần đây bổ nhiệm Tri châu Phó Tiếp, tư chất và danh vọng e không đủ đảm đương nhiệm vụ này, nên chọn người khác.” Bèn lấy Triều tán đại phu Vương Hiếu Trung làm Tri Ân Châu.
[55] Chiếu cho Ty Điều Trí Hà Bắc: “Mỗi kỳ hạ thu, trước cấp 100 vạn quan tiền giao dẫn, cùng với tiền hiện có của ty này để mua lương, sau khi giao nhận xong, báo số lượng lên triều đình.”
[56] Ngày Bính Dần, lệnh cho Triều thỉnh đại phu, Chủ khách lang trung Bàng Nguyên Anh thay Tiền Hiệp làm sứ điếu viếng Cao Ly. Nguyên Anh lấy cớ mẹ già từ chối, nên lại lệnh cho Hiệp. Chiếu cho Hiệp không cần đợi hết tang chế mà về triều, Vương Thuấn Phong cũng không cần đợi hết tang mới vào chầu.
[57] Thủ chiếu: “Môn hạ, Trung thư ngoại tỉnh đang tu chỉnh điều lệ của Lục tào thuộc Thượng thư tỉnh, đã nhiều ngày mà chưa xong. Vì quan nghị luận nhiều, mỗi người một ý, nếu không phân tào biên tu, chỉ tốn thời gian, khó có ngày hoàn thành. Nên lấy Lục tào phức tạp và đơn giản xen kẽ, mỗi hai tào cử một viên Tường định và Kiểm tường quan, để mỗi người đảm trách, triều đình mong sớm hoàn thành. Lấy Tường định quan Hàn Trung Ngạn, Lục Điền phụ trách Lại bộ, Binh bộ; Thái Kinh, Thái Biện phụ trách Hộ bộ, Lễ bộ; Triệu Ngạn Nhược, Vương Chấn phụ trách Hình bộ, Công bộ. Còn San định quan, mỗi hai tào đặt ba viên, lệnh cho Môn hạ, Trung thư ngoại tỉnh phân định rõ tên báo lên.”
[58] Ngự sử trung thừa Hoàng Lý tâu: “Đài này trước có hai viên Chủ bạ kiêm Kiểm pháp quan, xin khôi phục, để phân công xử lý công việc.” Chiếu cho mỗi chức đặt một viên.
[59] Chiếu: “Hàng năm ở Thục Châu cấp 200 ngàn quan tiền học, Đạo Giang huyện 100 ngàn quan, cấp cho phủ Thành Đô để nuôi sinh viên; ruộng hiện có tăng thêm thành 10 khoảnh.” Theo lời thỉnh cầu của Tri phủ Thành Đô Lã Đại Phòng.
[60] Lại bộ Thị lang Tô Tụng dâng lên sách 《Hoa Nhung Lỗ Vệ Tín Lục》 gồm 229 quyển, 5 quyển mục lục, tổng cộng 200 tập. Triều đình ra chiếu sao chép một bản gửi đến Xu mật viện, ban thưởng cho Tô Tụng 300 lượng bạc và lụa, thăng chức một bậc cho Kiểm thảo quan, Triều phụng lang Vương Nhữ Dực, và ban thưởng 60 lượng bạc và lụa cho Thông trực lang Lý Sĩ Kinh. Tô Tụng lại tâu: “Trước đây, thần đã xem xét văn bản tại Xu mật viện và các nơi khác, muốn phân loại theo từng mục để thành sách, rồi gửi đến kho Tuyên chỉ của Xu mật viện, đặt vào tủ và niêm phong.” Triều đình đồng ý. Trước đó, sứ giả nhà Liêu là Trịnh Chuyên đến chúc mừng lễ Chính đán năm thứ 5. Chuyên là người thông minh, biện luận giỏi, có tài trí. Tô Tụng làm quan tiếp đón, Vua sai Phó sứ Trương Sơn Phủ bảo Chuyên rằng gần đây đã lệnh cho Tô Tụng biên soạn sách 《Tín Lục》 để củng cố mối quan hệ hòa hảo giữa hai triều đình. Chuyên cảm kích, tỏ lòng biết ơn, gặp Tô Tụng càng thêm cung kính, lễ vật riêng tặng cũng khác hẳn mọi khi. Vua sai sứ truyền chỉ: “Nghe nói sứ giả phương Bắc vì khanh là người uyên bác về Nho học nên tặng lễ vật đặc biệt. Nay ban cho khanh trà Long và đồ thủy tinh, hãy tặng lại họ để đáp lễ.” Chuyên lại tặng Tô Tụng một tấm gấm quý, ngay hôm đó Tô Tụng dâng lên triều đình. Sau đó, khi bàn việc, Vua nói: “Trong cung không có thứ này.”
(Sách 《Tân Kỷ》 ghi riêng việc Lại bộ Thị lang Tô Tụng dâng sách 《Hoa Nhung Lỗ Vệ Tín Lục》, sách 《Cựu Kỷ》 không có chi tiết này.)
[61] Trung thư Xá nhân Triệu Ngạn Nhược và các quan tâu: “Công việc của sáu phòng, xin chia theo số lượng Xá nhân phụ trách, theo thứ tự Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Các phòng Chủ sự, Ban bạ, Chế sắc khố đều do họ quản lý chung.” [9] Triều đình đồng ý.
[62] Ngày Đinh Mão, ra chiếu: “Từ nay, khi ba tỉnh trình lên việc bổ nhiệm, nếu có chỉ dụ từ trong cung, chỉ do Trung thư tỉnh thi hành; nếu việc chưa hợp lý, tỉnh nhận được phải tâu lên đầy đủ.”
[63] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Theo lời báo của trại Thuận Ninh: Tiểu thủ lĩnh giữ cửa ải phía tây là Đông Chí, vu cáo rằng quân lộ Hoàn Khánh đã vào địa giới phía tây, giết hai người và ngựa lưu lạc.” Chiếu rằng: “Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh phải xác minh xem có quân vào địa giới phía tây để đánh giết và chém được đầu giặc hay không. Lại xét lời lộ Phu Diên rằng: ‘Giặc phía tây muốn đến báo thù, nên chọn người canh phòng, thường xuyên chuẩn bị sẵn sàng. Hơn nữa, sau tháng tám, bản lộ nhiều lần lấy danh nghĩa tuần phòng và thám sát, sai quân ra khỏi biên giới, đều có chém được đầu giặc và cướp được gia súc.’ Rõ ràng là không tuân theo chiếu chỉ trước đây về việc không được tùy tiện xuất quân. Lo rằng người phía tây sẽ lấy cớ này, nên thường xuyên răn đe các quan tướng và binh lính ở các thành trại biên giới tuân thủ chiếu chỉ trước, lại lệnh cho Xu mật viện không gửi đến Môn hạ tỉnh nữa, chỉ dùng kim bài phát đi.” [10] Kim bài dài hơn một thước, sơn đỏ, khắc chữ vàng, ghi “Văn tự ngự tiền không được vào trạm”, còn nhanh hơn cả dịch trạm khẩn cấp.
[64] Đô chuyển vận sứ Kinh Đông là Ngô Cư Hậu tâu: “Các tác viện lớn ở ba châu Từ, Vận, Thanh và các tác viện nhỏ ở các châu khác thuộc bản lộ, mỗi năm chế tạo các loại vũ khí và sắt thượng cung, số lượng rất lớn. Nay xin lấy sắt từ lợi tức hàng năm của giám Lợi Quốc ở châu Từ và giám Lai Vu ở châu Duyễn để sử dụng, nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều. Xin cho hai giám luyện sắt này theo lệ của hai châu Hình, Từ, đều do quan phụ trách, tính toán số thu được, so với trước có thể tăng gấp nhiều lần.” Được chấp thuận.
(Bản truyện của Cư Hậu lại ghi việc đúc tiền vào thời gian ông làm Chuyển vận phó, là sai. Ông làm Chuyển vận phó vào tháng bảy năm thứ năm.)
[65] Ngày Mậu Thìn, Khởi cư lang Thái Kinh tâu: “Trước đây, chức quan tu sửa sách Khởi cư chú có hai viên, không phân biệt tả hữu, mỗi tháng luân phiên một viên tu soạn. Nay Khởi cư lang và Xá nhân phân thuộc hai tỉnh, để chuẩn bị cho chức sử quan tả hữu, thì bên tả nên ghi chép việc làm, bên hữu nên ghi chép lời nói. Nay vẫn theo chế độ cũ, mỗi tháng luân phiên tu soạn, vì chức vụ chưa có sự phân biệt. Xin từ nay Khởi cư lang và Xá nhân tùy theo tả hữu mà phân công ghi chép lời nói và việc làm. Nếu được chấp thuận, những việc cần chỉnh sửa sẽ trình bày riêng.” Vua đồng ý.
[66] Chiếu rằng: “Nguyên là Kinh Đông lộ Chuyển vận sứ, Triều tán đại phu, Tập hiền hiệu lý, Tri Bạc châu Lưu Ban, trong nhiệm kỳ không thể hoàn thành chức trách, khiến kinh phí thiếu hụt, nhiều lần làm phiền triều đình ứng phó. Nay Ngô Cư Hậu đã hoạch định tài chính được khoảng vài trăm vạn, không chỉ đủ cho bản lộ mà còn có dư để ứng phó triều đình. Tội trạng của Lưu Ban không hoàn thành chức trách rất rõ ràng, có thể cách chức Tập hiền hiệu lý, giáng làm Triều thỉnh lang, tăng thêm chức Giám Hành châu diêm thương.”
[67] Chiếu rằng: “Kỳ thi thuyên chuyển mùa thu này, 77 người hạng trung và 88 người hạng hạ đều được phép bổ nhiệm làm quan, trong đó hạng trung không cần theo thứ tự.”
[68] Ngày Kỷ Tỵ, chiếu rằng: “Năm lộ Kinh lược ty Thiểm Tây, mỗi lộ cấp 20 vạn quan tiền quân nhu, cùng với Chuyển vận ty tính toán, mua lương thực để dự trữ.” Theo lời xin của Chuyển vận phó sứ Phạm Thuần Túy.
(Thuần Túy nguyên xin vào ngày 7 tháng này, tức ngày Kỷ Mão.)
[69] Lễ bộ tâu: “Theo nghi lễ cũ khi hoàng đế thân hành tế Nam Giao, sau khi dâng ngọc và lụa trước ngai vị Hoàng Thiên Thượng Đế xong, trở về vị trí; rồi lại lên đàn lần nữa, dâng lễ vật chín và hiến rượu một lần, lễ xong liền uống rượu phúc và nhận thịt tế. Nay nhận chỉ dụ đợi sau khi lễ hiến thứ hai và lễ hiến cuối cùng xong, rồi mới uống rượu phúc, thì hoàng đế phải lên đàn lần nữa. Xin đợi khi lễ hiến cuối cùng xong, hoàng đế trở về vị trí, rồi ở dưới đàn, trước bậc thềm hướng chính nam, quay mặt về hướng bắc để uống rượu phúc, xin sửa đổi trong nghi thức.” Lại tâu: “Theo 《Chu Lễ》, phàm khi có đại tế, Vua ra vào thì tấu nhạc Vương Hạ, rõ ràng là khi vào cửa miếu đã dùng nhạc. Nay đã dời lễ rửa tay trước khi tấu nhạc, hoàng đế đến chỗ rửa tay thì tấu nhạc Can An, vậy khi vào cửa cũng nên tấu nhạc Can An, để hợp với cổ chế. Và khi hoàng đế vào cửa cung Cảnh Linh và cửa Nam Giao, cũng xin tấu nhạc Can An.” Đều được chấp thuận.
[70] Ngày Canh Ngọ, ban chiếu: “Các sứ mệnh không thường xuyên của ba lộ, ngoài việc được cấp lộ phí theo quy định, còn được xin chỉ riêng để cấp thêm. Những nơi họ đến không được nhận quà biếu, nếu vi phạm, cả người tặng và người nhận đều bị phạt đi đày hai năm.”
[71] Hộ bộ tâu, tiền mua giấy muối ở trường mua bán giấy muối trong kinh đã hết, xin mượn 20 vạn quan tiền vốn muối để mua giấy muối của khách. Được chấp thuận, và theo chiếu ngày Ất Tỵ tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 4, đợi khi giá ổn định sẽ tâu xin chỉ đạo.
[72] Lễ bộ tâu: “Xu mật viện Đô thừa chỉ Trương Thành Nhất nói: ‘Thần thấy trong kho pháp vật triều phục có mũ khố điệp mới cấp cho Hiệp luật lang Thái thường và Thừa Thái lạc. Nay tra cứu các sách chí, chỉ có chế độ khố điệp là chưa rõ nguồn gốc. Thời cận đại, khi xa giá thân chinh, trong ngoài giới nghiêm thì mặc nó. Chế độ nhà Đường: Tam phẩm trở lên mặc điệp màu đỏ, thất phẩm trở lên mặc điệp màu xanh, cửu phẩm trở lên mặc điệp màu biếc; ngũ phẩm trở lên dùng chung lụa trừu, lục phẩm trở lên dùng chung lụa tiểu. Khi xem sách Lỗ bạ ký, chỉ thấy có mũ của Lệnh, Thừa Cổ xúy, chú rằng: làm bằng da sơn, có hai tai, chạm hoa, hình dáng như mũ Uỷ mạo trong sách Tam lễ đồ. Nay tục gọi là mũ khố điệp, được ghi chép trong sổ kho, nhưng không có căn cứ. Xin hạ lệnh cho quan Lễ khảo chính.'” Bèn hạ lệnh cho Thái thường tự, Thái thường tự tâu rằng: “Khố điệp vốn là quần áo dùng khi theo quân, dùng tên này để gọi mũ thì càng không có căn cứ. Hiệp luật lang phụ trách nhạc, Thái thường tự khi gặp tế tự, triều hội, đều mặc triều phục, tế phục theo phẩm cấp của mình; kiêm chức Thái lạc lệnh, Thừa nay chỉ mặc quan phục theo phẩm cấp, còn khố điệp đều không nên dùng.” Theo đó.
[73] Ngày Tân Mùi, chiếu cho Nội điện sùng ban Vương Cảnh và 7 người khác mỗi người thăng một chức[11], những người còn lại giảm số năm khảo khóa khác nhau, đều vì có công giám sát việc chế tạo giáp, mà 10 vạn bộ giáp bộ binh đã hoàn thành trước.
[74] Ngày Nhâm Thân, Binh bộ xin lấy số tiền bán ngựa quan không dùng được và ngựa chết đang để ở kho đường Xuyên, giao cho quan đề cử tính toán mua vải lụa chở về kinh, bốn lộ Xuyên, Thiểm cũng làm theo. Vua đồng ý.
Truyện cũ của Thái Xác chép việc của Xác, nên phụ chép vào mùa thu này. Sử thần đời Thiệu Hưng mới tu sửa 《Triết Tông thực lục》 đã biện luận rõ, nay đều phụ chép.
Truyện Xác chép: Xác làm Hữu bộc xạ, mùa thu năm thứ 6, cùng Trung thư thị lang Trương Tảo tâu việc ở điện Sùng Chính, Vua buồn không kìm được, bảo Xác rằng: “Việc thiên hạ chỉ có thế thôi!” Xác kinh hãi nói: “Xin hỏi vì sao?” Vua nói: “Con còn nhỏ, biết làm sao!” Xác nói: “Bệ hạ đang tuổi thanh xuân, bỗng nói lời không lành, thần không hiểu ý gì.” Vua nói: “Việc thiên hạ có nên để người lớn tuổi duy trì không?” Xác nói: “Diên An quận vương là con trưởng của bệ hạ, thần không biết gì khác, thần chỉ biết chết mà thôi, không dám vâng chiếu.” Vua nói: “Khanh quả thật vì xã tắc lo tính, nên sớm định đoạt.” Xác cùng Tảo đều tiến lên nói: “Thần đây xin liều chết giữ vững.” Vua nói: “Tốt.” Xác được ủy thác, bèn mưu xin Vua ra khỏi cung, lập thái tử; bàn không hợp, lại nghĩ Vua chỉ buồn bã vô cớ, do dự không quyết.
Mùa xuân năm thứ 7, Diên An quận vương ra dự yến ở điện Tập Anh, Xác mới tâu xin, vẫn muốn mùa xuân năm sau ra khỏi cung, Vua đồng ý. Sau có người tâu việc nhắc đến Xác, Vua nói: “Các quan đều là người tiên đế để lại cho Trẫm. Như Xác từ chức nhỏ, Trẫm tự tay đề bạt đến đây, ắt không phụ Trẫm, nhưng khí lực yếu, cần người phụ tá mới được.” Xác nghe thế càng tự phấn. Lâu ngày, tháng giêng năm thứ 8, bệnh Thần Tông đã hơn tháng, hoàng tự chưa lập, trong ngoài xôn xao. Xác bắt đầu sợ, bèn đem ý lập thái tử hỏi Tả bộc xạ Vương Khuê, Khuê không trả lời, Xác cũng sợ không biết làm sao. Việc càng gấp, nhân mẹ Xác được vào cung, Khâm Thánh Hiến Túc hoàng hậu bảo Xác, bảo bên ngoài nhờ quan chủ binh Yến Đạt giúp lập, lại nhờ nội thị Diêm Thủ Cần bảo sớm định đoạt. Có người bảo Xác: “Đây là việc lớn, xin cùng mọi người hỏi Khuê, nếu không nói, thì trị tội.” Lúc ấy, các phụ thần Hàn Chẩn, An Đào, Trương Tảo, Lý Thanh Thần ngầm giữ hai lối, im lặng không nói, Xác một mình hẹn với Môn hạ thị lang Chương Đôn cùng gắng sức. Ngày Quý Tỵ, các phụ thần họp ở sảnh, Xác nhìn Khuê, Khuê cũng không nói. Xác nói: “Mùa xuân năm ngoái, Diên An quận vương dự yến, từng có chỉ mùa xuân năm sau ra khỏi cung, việc đã định, sao không nói?” Đôn nói: “Nói đúng thì theo, không thì tôi cùng ông chết.” Khuê mới nói: “Vua có con, còn bàn gì nữa?” Hôm ấy chiều tối, bàn xong đến trước giường tâu rằng: “Mùa đông năm ngoái được chỉ, hoàng tử Diên An quận vương mùa xuân năm sau ra khỏi cung, xin lập làm hoàng thái tử, để nối ngôi thiên hạ.” Tâu ba lần, Thần Tông ba lần gật đầu đồng ý.
Thần đây biện rằng: Văn án quốc sử ở Bí thư tỉnh chép việc Thái hoàng thái hậu ngự điện Sùng Chính tuyên dụ Tam tỉnh giáng chức Xác, 713 chữ, rất rõ. Trong đó nói: “Hoàng đế là con trưởng Thần Tông, con nối nghiệp cha, lẽ đương nhiên. Trước Thần Tông uống thuốc đã lâu, từng nhân tể chấp vào chầu, ta từng đem kinh Phật hoàng đế viết ra cho xem, lúc ấy trong chúng chỉ có thủ tướng Vương Khuê, nhân đó tâu Diên An quận vương nên lập làm hoàng thái tử, người khác không nói gì, An Đào lúc ấy đều thấy.” Lại nói: “Hoàng đế là con trưởng tiên đế, nối ngôi là việc thường, ai có lời gì? Thái Xác đứng dưới Khuê, sao lại bảo riêng mình có công định sách?” An Đào tâu: “Lúc ấy chỉ có thủ tướng Vương Khuê một người tâu.” Thái hoàng thái hậu bèn khóc lóc kể lể, liền phê thánh dụ, các chấp chính khác từng nói gì? Huống năm trước Vua cho hoàng tử ra mắt quần thần, đủ biết ý tiên đế vốn đã định. Lại nữa, ngày ấy Tam tỉnh thời chính ký đã tu định như thế tiến trình, đâu để người ngoài dám nói bậy? Kính xét: Việc này đã chép vào ngày Đinh Hợi tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 4, việc Thái Xác bị giáng làm Anh châu biệt giá, an trí ở Tân châu, xem kỹ thì thấy truyện Xác trước chép rõ là vu báng. Nay bỏ từ “mùa thu năm thứ 6” đến “ba lần gật đầu đồng ý” 462 chữ.)
- chữ 'lấy' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 binh 22-10 bổ sung. ↵
- chữ 'tiền' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 binh 22-11 bổ sung. ↵
- Lợi nhuận từ thuế rượu so với mức tổng định mức trong nhiệm kỳ của quan chức trước năm Nguyên Phong thứ hai tăng thêm 1.759.000 quan tiền, chữ 'Tổ' nguyên bản viết là 'Tô', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 17-26 sửa lại. Dưới đây tương tự. ↵
- 'Phần' nguyên là 'sắc', theo 《Tống hội yếu》 binh 2-27 sửa ↵
- 'Giới' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung ↵
- Khai Thành phủ, chữ 'Thành' nguyên bản viết là 'Thành', căn cứ theo văn trên và 《Tống Sử》 quyển 487, Ngoại quốc truyện sửa lại. ↵
- Chữ 'tu' trong 'nhưng vô đắc sáng tu giải xá' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 binh 4-12 bổ sung. ↵
- Chữ 'luận' ban đầu bị thiếu, theo Tống hội yếu chức quan 27-13 bổ sung. ↵
- Trong câu 'Các phòng Chủ sự, Ban bạ, Chế sắc khố đều do họ quản lý chung', chữ 'Chủ' nguyên bản viết là 'Niên'. Xét: Sách 《Tống Sử》 quyển 161, chí về chức quan, Trung thư tỉnh có các phòng Chủ sự, Ban bạ, Chế sắc khố mà không có 'Niên sự phòng', chữ 'Niên sự' ở đây rõ ràng là sai, nên sửa lại. ↵
- 'Chỉ dùng kim bài phát đi', chữ 'bài' nguyên là 'điệp', theo 《Tống hội yếu》 phương vực 10.25 sửa lại. ↵
- Chiếu cho Nội điện sùng ban Vương Cảnh và 7 người khác mỗi người thăng một chức, chữ 'thăng' nguyên là 'tuyển', theo bản in hoạt tự sửa lại. ↵