VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 341: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 6 (QUÝ HỢI, 1083)
Từ tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 6 đời Thần Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 11, mùa đông, ngày Nhâm Dần, mùng 1, Vua trai giới tại Đại Khánh điện.
[2] Ngày Quý Mão, dâng sách báu và tôn hiệu của Nhân Tông, Anh Tông lên Thái Miếu. (Hai kỷ sử chép vào ngày Quý Mão rằng: Dâng tôn hiệu Nhân Tông là…, Anh Tông là…).
[3] Ngày Giáp Thìn, Lễ tiến hưởng tại Cảnh Linh cung.
[4] Ngày Ất Tỵ, Lễ triều hưởng tại bảy gian thờ, Vua trai giới tại Thanh Thành ở phía nam Giao đàn.
[5] Ngày Bính Ngọ, Đông chí, tế Trời (Hạo Thiên Thượng Đế) tại Viên Khâu, lấy Thái Tổ làm phối hưởng, bắt đầu bỏ lễ hợp tế Trời Đất. Sau đó, Vua trở về ngự tại Tuyên Đức môn, đại xá thiên hạ. Theo lệ cũ, trước khi tế Giao, Vua mặc áo Thông Thiên quan, áo tía, ngồi xe ra đi; đến Cảnh Linh cung, dừng ở Đại thứ, mặc áo cổn miện để hành lễ; đến Thái Miếu và Viên Khâu cũng như vậy. Khi trở về, Vua ngồi xe Thái Bình, mặc áo như ban đầu. Đến lúc này, bắt đầu từ Đại thứ, Vua mặc thêm áo Đại cừu và khoác cổn miện để hành lễ.
(Bản Chu còn chép: Phù hợp với nghĩa cổ, bậc quân tử khen ngợi.)
[6] Quan Đề cử Đạo Lạc Thông Biện ty là Tống Dụng Thần tâu: “Theo chỉ dụ, mỗi năm vận chuyển 1 triệu thạch lương đến Tây Kinh. Hiện nay nước sông Lạc chảy êm, thật sự có thể vận chuyển bằng đường thủy. Đã tính toán điều chỉnh, chuyển một phần lương từ Đông Hà đến Lạc Khẩu, dùng thuyền nhỏ để chở, phối hợp với Ty Chuyển vận của bản lộ để bốc dỡ.” Vua đồng ý, nhưng đợi đến cuối năm sau, xem xét lợi hại rồi mới bàn việc bãi bỏ hay duy trì.
[7] Hi Hà Lan Hội Lộ Kinh lược An phủ Chế trí sứ ty tâu: “Bản lộ năm nay được sai phát ba lộ đoàn kết tương quân, tu sửa các thành, bảo, trại dọc theo vùng biên giới mới. Do công việc quá nhiều, hiện chỉ tính riêng bốn bảo Thắng Linh, Tây Quan, Lâm Đào, Cao Lan đã cần đến năm sáu mươi vạn công. Nếu chỉ dùng sáu chỉ huy quân Bảo Ninh để thi công, chắc chắn khó hoàn thành. Nếu sang xuân tiếp tục thi công, xin ban cấp thêm tiền bạc, nhân thời cơ chuẩn bị vật tư, và xin điều động thêm quân từ Hà Đông, Thiểm Tây, mỗi lộ cử một nghìn năm trăm người cùng tham gia công việc.” Chiếu rằng: “Từ khoản quân tu hiện có của Hi Hà Lan Hội Lộ, điều chuyển mười lăm vạn quan, thạch, tấm, lạng[1]. Nếu không đủ, thì lấy thêm từ khoản quân tu của các lộ lân cận. Các việc khác đều theo lời tâu.”
[8] Ngày Kỷ Dậu, Vua phê: “Đô đại Đề cử Thành Đô phủ các lộ Trà trường: Triều đình đặc biệt mở rộng các lộ phân phối độc quyền, nên đổi tên cơ quan. Người phụ trách tuy chức vụ chưa cao, nhưng không thể không xét đến, nên cho xếp ngang với Chuyển vận sứ.” Sau đó có chiếu: “Đô đại Đề cử ngang với Chuyển vận sứ, Đồng Quản câu ngang với Chuyển vận phán quan. Chức Kinh chế Hi Hà Lan Hội Biên phòng Tài dụng quan cũng theo quy định này.”
[9] Đô đại đề cử Thành Đô phủ, Vĩnh Hưng quân đẳng lộ Giác trà công sự Lục Sư Mẫn tâu: “Xin cho mỗi nơi đặt một viên Quản câu văn tự quan, cho phép không theo lệ thường tâu sai Thừa vụ lang trở lên hoặc tuyển người sung vào. Số viên Câu đương công sự quan hiện có bảy người, trong đó hai người do tâu sai, năm người do Lại bộ tuyển chọn, nay xin đều cho phép bản ty không theo lệ thường tâu sai. Chỉ sử năm người, trong đó có người do Lại bộ sai phái không đắc lực, nay xin được chỉ danh tâu đổi. Hàng năm cử người tuyển chọn để cải quan, nay theo điều lệ cũ tính chung, nên cử chín người, xin đặc biệt thêm ba người. Ngoài ra, số lượng huyện lệnh, tiểu sứ thần được thăng trắc, chỉ theo điều lệ cũ mà tính cử[2]. Bản ty trước đây chi đầu tử tiền bảy trăm quan làm công sứ, nay xin đặc biệt thêm ba trăm quan. Công sứ hợp dùng rượu, xin tùy theo châu quận đến đó mà đổi lấy để chi dùng, tính giá gạo, men, công mà trả lại.” Đều được chấp thuận.
[10] Nhập nội cung phụng quan, Câu đương Long đồ Thiên chương Bảo văn các Phùng Cảnh tâu: “Vâng chỉ đã sai sứ thần Cao Ly, lệnh sắp xếp sửa chữa thuyền qua sông, và xem xét đường biển thuận tiện. Nay đến Đăng châu, Mật châu hỏi biết hai nơi đường biển đều có thể phát thuyền đến Cao Ly, so với Minh châu thực sự thuận tiện hơn.” Chiếu cho Cảnh cùng quan lại Mật châu chiêu mộ thương nhân mang giấy tờ thử dò đường biển rồi tâu lên.
[11] Ngày Canh Tuất, Thiểm phủ Tây lộ Chuyển vận phó sứ Lý Sát xin cho các trường mua bán ở biên giới cực xa và gần biên giới của các ty đề cử, căn cứ vào số vốn mua có, đều chuyển về bản ty, cùng làm một trường, dùng diêm sao, tiền bạch để mua chung, sau khi ngừng mua, chia vốn mua ra từng phần để phong chứa.” Được chấp thuận.
[12] Ngày Quý Sửu, Trung thư xá nhân kiêm Thị giảng Thái Biện xin được xếp hàng dưới anh là Thái Kinh, được chấp thuận.
(Thái Kinh được bổ làm Trung thư xá nhân vào ngày Đinh Sửu, mùng 5 tháng 10.)
[13] Triệu Tiết xin được tùy nghi xử lý việc biên giới, chiếu rằng: “Nơi biên giới có động tĩnh, việc cần tấu bẩm mà không kịp, các quan coi giữ biên cương được tùy nghi thi hành.” Anh của Bỉnh Thường là Ngôi Danh Tế sai người đưa thư đến các tướng, thái độ kiêu ngạo, các bộ khác hoặc từ chối không nhận, hoặc nhận rồi bảo phải tấu lên triều đình. Tiết nhận được thư, nói với sứ giả rằng: “Ngươi về bảo thủ lĩnh: Quốc chủ đời đời nhận tước mệnh, sao dám tự ý phế truất? Triều đình hỏi tội, còn dám cứng đầu, nay lại ngông cuồng làm bậy, ngày diệt vong không xa.” Rồi quát đuổi đi.
(Việc này căn cứ vào bia thần đạo của Tiết, hoặc phụ vào lúc Lô Bỉnh tấu thư, cần xem xét kỹ hơn.)
[14] Ngày Giáp Dần, Hà Đông tiết độ sứ, Thủ Thái úy, Khai phủ nghi đồng tam ty, Phán Hà Nam phủ, Lộ quốc công Văn Ngạn Bác được làm Hà Đông Vĩnh Hưng tiết độ sứ, Thủ Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, về hưu. Khi đó Ngạn Bác xin miễn chức Thủ Thái sư và hai trấn tiết độ, Vua phê: “Cho phép bãi chức kiêm Vĩnh Hưng quân, chỉ giữ chức Hà Đông cựu trấn, Thủ Thái sư về hưu, vẫn dán tờ chiếu thi hành.”
(Theo 《Ngự Tập》, việc cho phép Ngạn Bác miễn hai trấn là chỉ huy ngày 7 tháng 12, nay theo 《Cựu Lục》 ghi chép. 《Triết Tông Lục》: Ngày 13 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8, lại có chiếu không cho Ngạn Bác miễn hai trấn, cần xem xét, có lẽ do ân điển ban rộng nên ra lệnh lại. 《Tân Kỷ》 cũng ghi Ngạn Bác làm Thái sư về hưu.)
[15] Các quan văn võ đều được gia ân theo sách xá của lễ Nam Giao.
[16] Ngự sử trung thừa Hoàng Lý tâu: “Theo chiếu, xét việc tiền nhiệm Lễ bộ thượng thư không nên phát đầu tử truyền lại sự của Thái thường tự, nay các cơ quan trong ngoài cũng dùng lệ này, khác với Hình bộ dùng thiếp tử truyền xuống cấp dưới.” Chiếu rằng Lý làm việc không ngay thẳng, phạt 20 cân đồng.
(Ngày Bính Tuất tháng 12, Triệu Ngạn Nhược nói thêm…)
[17] Ngày Ất Mão, Tây Thái Nhất cung sứ, Quan văn điện đại học sĩ, Kim tử quang lộc đại phu Hàn Giáng lại được làm Kiến Hùng quân tiết độ sứ, Tri Hà Nam phủ.
[18] Nhập nội cung phụng quan, ký Hoàng thành sứ, Đăng châu phòng ngự sứ, Câu đương nội đông môn ty Tống Dụng Thần Câu đương ngự dược viện.
(Điều này căn cứ vào Ngự tập thêm vào.)
[19] Ngày Bính Thìn, Quốc tử tư nghiệp Chu Phục tâu: “Thừa chiếu hiệu định sách 《Tôn Tử》, 《Ngô Tử》, 《Tư Mã binh pháp》, 《Vệ công vấn đối》, 《Tam lược》, 《Lục thao》. Các nhà chú giải sách 《Tôn Tử》 đều có chỗ được mất, chưa thể bỏ lấy, các sách khác tuy có chú giải nhưng nông cạn không đáng tham khảo. Thần cho rằng nên bỏ phần chú giải, chỉ dùng bản gốc, để người học tự tìm hiểu.” Chiếu rằng: “Sách 《Tôn Tử》 chỉ dùng chú giải của Ngụy Vũ Đế, các sách khác không dùng chú giải.” Sách 《Vệ công vấn đối》[3] xuất xứ từ nhà Nguyễn Dật, có lẽ Nguyễn Dật bắt chước binh pháp của Lý Tĩnh được ghi chép trong sách của Đỗ thị mà làm, không phải là toàn bộ sách của Lý Tĩnh.
[20] Tri châu Tần châu Lưu Cẩn tâu: “Kho thóc và bãi cỏ của bản châu, lương thực cho người và thức ăn cho ngựa chỉ đủ dùng trong ba đến năm tháng, cỏ chỉ đủ dùng chưa đầy nửa tháng. Chuyển vận ty thu mua lương thực với giá thấp, không ai chịu bán, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch năm.” Chiếu rằng, Chuyển vận ty hoàn toàn không có kế hoạch, nên giao cho Vương Khâm Thần phân tích. Khâm Thần tâu rằng, Cẩn mới đến, không biết rõ đầu đuôi, nên mới có lời tâu này. Hộ bộ tâu: “Xét thấy lời tâu của Cẩn và Khâm Thần không giống nhau, xin lệnh cho Khâm Thần đến Tần Phượng lộ xử lý, bảo Cẩn hợp lực ứng phó, nếu có thiếu sót, sẽ cùng bị luận tội.” Theo đó.
[21] Ngày Đinh Tỵ, Triều phụng lang Tiền Trưởng Khanh được làm Hiệu thư lang. Vua phê rằng “Trưởng Khanh dâng văn có nhiều từ hay” nên mới có lệnh này.
[22] Khai Phong phủ tâu: “Căn cứ vào lời của Ty lục ty và Để đương miễn hành sở, từ năm Hi Ninh thứ 10 bắt đầu lập mức thuế hàng năm, các điều khoản thưởng phạt, theo pháp của các trường vụ trên ba vạn quan. Từ năm Nguyên Phong nguyên niên đến năm thứ 5 đều tăng, nên lập mức thuế mới.” Hộ bộ xét rằng muốn lấy mức trung bình dùng năm Nguyên Phong thứ 2 là ba vạn chín nghìn bảy trăm quan làm mức thuế mới, theo đó.
[23] Ngày Mậu Ngọ, Xu mật đô thừa chỉ, Khách tỉnh sứ, Tú châu phòng ngự sứ Trương Thành Nhất được làm Minh châu quan sát sứ.
[24] Triều thỉnh lang Bồ Tông Mẫn được bổ làm Đô quan lang trung. Do có chỉ dụ của Vua rằng: “Trương Nhữ Hiền xét việc Tông Mẫn và Quách Mậu Tuấn tố cáo lẫn nhau, nhiều điều không đúng. Vì lúc mới thi hành phép trà, Tông Mẫn đã gắng sức làm việc, không bị các ý kiến khác làm dao động, nên có thể miễn tội, đặc cách bổ làm quan lang” nên mới có lệnh này.
[25] Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn tâu: “Phụng nghị lang Thái Diên Tự được bổ làm chức Bát phát cương vận sông Thái. Xét thấy: Diên Tự hình dáng kỳ dị, mỗi khi đứng trong hàng ngũ, nhiều người chỉ trỏ cười đùa, làm nhục đến việc tuyển chọn của triều đình.” Vua xuống chiếu bãi chức.
[26] Tri châu Mật là Phạm Ngạc tâu: “Trấn Bản Kiều thuộc huyện Cao Mật, nằm ngay bên bờ biển lớn, dân cư đông đúc, chợ búa giao dịch tấp nập, thương nhân tụ tập, phía đông có người từ hai xứ Quảng, Phúc Kiến, Hoài, Chiết, phía tây có người từ Kinh Đông, Hà Bắc ba lộ, qua lại nườm nượp. Tuy nhiên, thương nhân đi biển đến đây, phần lớn chỉ ở vài tháng rồi tính chuyện trở về, mà hàng hóa của họ đôi khi chưa kịp bán hết, nên các nhà giàu thường nhân lúc họ cần tiền mà mua với giá rẻ. Thương nhân đi biển chỉ được 4-5 phần giá trị, còn nhà giàu thì tích trữ chờ thời cơ để kiếm lợi gấp đôi.
Xin cho lập Ty Thị bạc ở châu này, lập Vụ Trừu giải ở trấn Bản Kiều, thu hồi quyền lợi độc chiếm của thương nhân về tay triều đình, có sáu lợi ích: Khiến thương nhân đóng góp lương thực ở biên giới để giúp chi phí quốc phòng, ở châu này xin mua hương liệu, tạp vật được miễn thuế đường, ắt sẽ có người hưởng ứng, đó là lợi ích thứ nhất; Việc mua sừng tê, ngà voi, trầm hương và các bảo vật, hàng năm cống nạp sẽ không còn tốn kém vận chuyển, cũng không lo bị mất mát, đổ vỡ trên đường biển, đó là lợi ích thứ hai; Thuế hương liệu, tạp vật, mỗi khi có đại lễ, trong có thể giúp kinh đô, ngoài có thể giúp Kinh Đông, Hà Bắc mấy lộ chi phí ban thưởng, đó là lợi ích thứ ba; Còn dư thì kịp thời đổi chác, chỉ vài tháng đã có lợi nhuận gấp đôi, đó là lợi ích thứ tư; Thương nhân vui vẻ buôn bán, qua lại không ngớt, thì thuế má ở Kinh Đông, Hà Bắc mấy lộ quận huyện sẽ tăng gấp đôi, đó là lợi ích thứ năm; Đường biển thông suốt, thì bảo vật các nước phương Nam sẽ đến dồi dào, hàng năm cống nạp, ắt sẽ gấp mấy lần hai châu Minh, Quảng, đó là lợi ích thứ sáu.
Có sáu lợi ích này, mà triều đình không tốn kém gì, việc ắt sẽ thành mà không nghi ngờ gì. Huống chi ở châu này và bốn huyện, kho Thường bình có không dưới mấy chục vạn quan tiền, xin mượn làm vốn quan, hạn trong năm năm trả lại.”
Chiếu cho Đô chuyển vận sứ Ngô Cư Hậu xem xét kỹ, trình bày rõ ràng. Cư Hậu tâu: “Quyền lợi thu chi nặng nhẹ, rõ ràng có thể thấy, hiện nay không có lý do gì không thể thi hành. Xin xuất một ít tiền của, bàn việc thu chi tiện lợi, xem xét lợi nhuận, rồi xin lập Vụ Giác dịch, đặt quan lại theo pháp nha bảo, xin từ tháng 3 năm thứ 7 thi hành.”
Cư Hậu lại tâu: “Trước đã theo chỉ dụ, muốn lập Vụ Giác dịch ở trấn Bản Kiều, để giao dịch với thương nhân các nước, thực không trở ngại gì với Ty Thị bạc châu Minh, Quảng. Lại theo chỉ dụ, muốn theo lời tâu của Phạm Ngạc, lập Vụ Trừu giải. Như thế, thì sẽ cản trở pháp chế đã thành ở hai châu Minh, Quảng, không tiện lợi cho công tư mấy lộ Chiết, Quảng, Giang, Hoài. Đường biển đến các nước phương Nam rất xa, Đăng, Lai phía đông bắc[4], gần với người Liêu, tuy có lập pháp chống buôn lậu, nhưng tình thế khó mà ngăn chặn được; mà Bản Kiều lại không phải là nơi thương nhân tụ tập, e rằng không thể thi hành được.”
(Tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 2, thi hành lời tâu của Ngạc.)
[27] Chiếu cho Trung thư tỉnh đặt điểm kiểm phòng, lệnh Xá nhân kiêm quản.
[28] Ngày Ất Mùi, làm lễ cung tạ ở cung Cảnh Linh.
[29] Lữ Công Trước, Tư chính điện học sĩ, giáng làm Chính nghị đại phu, được bổ làm Tri châu Dương Châu, theo lời xin của ông.
[30] Lữ Huệ Khanh, Thông nghị đại phu, Tri châu Đơn Châu, được bổ làm Tư chính điện học sĩ, Tri châu Định Châu.
(Ngày 22 tháng 12, đổi sang Thái Nguyên.)
[31] Ngày Canh Thân, làm lễ cung tạ ở quán Vạn Thọ, trên đường về ghé thăm Thượng thư tỉnh, dừng xe ở sảnh Lệnh, Vua quay lại nói với các quan chấp chính rằng: “Tòa Thượng thư tỉnh mới xây thật hùng vĩ, rất xứng với chế độ quan chức.” Vương Khuê và các quan đáp: “Quy mô và kiến trúc đều do thánh ý của bệ hạ.” Đến sảnh Bộc xạ, Vua lại nói: “Việc xây dựng Thượng thư tỉnh mới không phải là việc làm qua loa, các khanh nên khuyến khích thuộc hạ, cố gắng hoàn thành tốt công việc.” Sau đó, Vua triệu tập các quan từ Thượng thư, Thị lang trở xuống, hỏi han rất kỹ về công việc của từng người, rồi căn dặn: “Trẫm đối đãi và giao trách nhiệm cho các khanh không phải là nhẹ, các khanh nên tự nhắc nhở mình, hết lòng với công việc.” Rồi truyền chiếu: “Các quan chấp chính ở Thượng thư tỉnh và một người trong ngũ phục chưa làm quan được bổ làm Thừa vụ lang, các quan ở Lục tào đô ty, từ Thượng thư Lại bộ đến Viên ngoại lang được thăng một bậc lương, ban thưởng cho các lại sử có sai biệt.” Sau đó, Vua đến hồ Ngưng Tường, cung Trung Thái Nhất và quán Tập Hi.
(Sử mới chỉ chép việc Vua đến Thượng thư tỉnh, ban cho một người trong gia đình Bộc xạ và Thừa làm quan, thăng một bậc cho các quan từ Thượng thư trở xuống. Sử cũ chép cả lời chiếu.)
[32] Ngày Tân Dậu, Lý Trung, em của Lý Thanh, nguyên Chỉ huy sứ cung tiễn thủ ở bảo Tề Mã Khắc thuộc quân Thông Viễn, được bổ làm Tam ban tá chức. Trước đây, Lý Thanh bị giặc Tây bắt, nên cha của ông là Lý Dụng được bổ làm Phụng chức rồi về hưu. Sau đó, Lý Dụng tự xin nộp lại chức để nhường cho Lý Trung, nên có mệnh lệnh này.
[33] Ngày Giáp Tý, chiếu cấp 20 vạn quan tiền muối mạt cho Ty chuyển vận Thiểm Tây để mua cỏ và lương thực dự trữ.
[34] Kinh Đông Lộ chuyển vận ty tâu: “Hỏi được thương nhân ở Tuyền Châu biết đường biển nói rằng, hai lần đi sứ, nếu đến Sở Châu thuê thuyền, đi biển đến Mật Châu Bản Kiều trấn, chỉ mất khoảng hai ba ngày.” Chiếu rằng: “Các nội thần mới được sai đi đưa quốc thư và vật phẩm cho hai nước phiên, nhanh chóng sửa thuyền theo đường này mà khởi hành, lại lệnh cho chuyển vận ty cử quan viên theo đường mà chiếu cố.”
[35] Đề điểm Kinh Tây Bắc Lộ hình ngục công sự Lương Đào tâu: “Huyện Y Dương thuộc Tây Kinh và huyện Lỗ Sơn thuộc Nhữ Châu mua gỗ để chế tạo quân khí và làm dây thừng, bán ra số lượng nhiều. Nay mùa đông nông nhàn, dân vào rừng lấy gỗ, đến mùa xuân nước dâng, nhân nước mà vận chuyển, trong khoảng thời gian đó sức dân ít có ngày nghỉ. Xin miễn cho hai huyện này phu dịch năm sau.” Theo lời tâu.
[36] Thiểm Tây chuyển vận ty tâu: “Xin hạ lệnh cho Hữu ty thuộc Hộ bộ, trong số tiền một triệu quan được ban cho Phu Diên Lộ để mua lương, Kim bộ trong số công cứ được cấp năm Nguyên Phong thứ sáu, đều in lại và cấp thêm mỗi loại mười vạn quan công cứ. Mỗi tờ công cứ này tương đương năm quan hoặc mười quan, sai sứ thần phụ trách, đưa đến Diên Châu nộp, đổi lấy công cứ do kinh sư cấp, đưa về tỉnh hủy bỏ, để kịp thời mua lương.” Theo lời tâu, lại lệnh in và cấp công cứ trong vòng năm ngày, sứ thần phải đến Diên Châu trong vòng mười ngày.
[37] Ngày Ất Sửu, phân mệnh các phụ thần cầu tuyết.
[38] Vương Khuê và các quan tâu: “Xa giá đến Thượng thư tỉnh, từ Thượng thư trở xuống đều được thăng chức tước. Thần đây giữ chức gần bên, há lại được cùng các ty hưởng ơn Vua? Trong lòng bất an, xin bãi bỏ.” Vua nói: “Quan hệ Vua tôi, chỉ là nghĩa mà thôi. Từ Thượng thư trở xuống đã được ban ơn, các khanh theo nghĩa đáng được, đừng từ chối nữa.”
[39] Thông trực lang, Đô đại đề cử Thành Đô phủ đẳng lộ trà trường Lục Sư Mẫn tâu: “Gần đây, Giả Chủng Dân lập lại pháp trà trường, dùng số tăng thêm ngoài định mức cuối năm, chiếu theo điều khoản thưởng bán muối của sáu lộ Giang, Hồ, Hoài, Chiết để chi thưởng. Việc định mức và so sánh tăng giảm còn lại để thưởng phạt đều theo pháp khóa lợi trường vụ, điều khoản riêng của ty trà trường không dùng nữa. Quan quản câu thưởng phạt giảm một nửa so với quan giám, nhưng không có pháp cấp thưởng. Thần xét kỹ ty này khác với các trường vụ khóa lợi trong thiên hạ, như muối, rượu đều lấy cả vốn lẫn lãi để định mức, còn ty này chỉ lấy lãi ròng làm mức. Nay dùng pháp của Chủng Dân, cần phải dùng cả vốn lẫn lãi để lập mức tổ riêng[5]. Nếu dùng nhiều vốn, thu ít lãi, so với mức tổ tăng thì được thưởng; dùng ít vốn, thu nhiều lãi, dùng lãi bù vốn, so với mức tổ không đạt thì bị phạt. Điều này gây hại lớn cho pháp trà, không thể thi hành.” Chiếu rằng: “Ty trà trường vẫn dùng điều khoản cũ. Hộ bộ bàn pháp không đúng, Thượng thư Lý Thừa Chi, Thị lang Kiển Chu Phụ mỗi người phạt 6 cân đồng, Kim bộ Lang trung Triều Đoan Ngạn, Viên ngoại lang Tỉnh Lượng Thái mỗi người phạt 8 cân đồng, lại viên Hộ bộ và Đô tỉnh đều phạt đồng theo mức khác nhau.”
(Sư Mẫn nói Giả Chủng Dân lập pháp, nhưng Chủng Dân lại được miễn phạt, cần xét lại.)
[40] Ngày Bính Dần, truy tặng Tây đầu cung phụng quan Quách Thế Cập làm Hoàng thành phó sứ, vì ông tử trận khi đánh giặc phương Tây.
[41] Ngày Đinh Mão, Xu mật đô thừa chỉ, Minh Châu quan sát sứ Trương Thành Nhất được cử làm Đề cử kinh độ chế trí mục mã.
[42] Tam Ban Phụng chức Hoàng Phủ Đán tâu: “Ban đầu giữ chức Tam Ban Tá chức, nhiều lần lập chiến công. Đến chức Như Kinh Phó sứ, Tần Châu Đệ tứ tướng. Khi đóng quân ở Giai Châu, binh sĩ dưới quyền là Tôn Hóa mưu phản, thần đã xét thực và chém chết, đồng thời tự nhận tội chuyên quyền giết người. Các quan xét rằng thần tuy là Giám lâm Chủ ty, nhưng theo pháp luật không được xử án, nên xử tội đánh chết người, đáng bị trượng tử. Nhờ ơn trên tha tội, đày ra đảo Sa Môn, lại được ơn cho phép thần hiệu dụng lập công, nhưng nhiều lần theo quân phụ, chưa được một lần ra trận đối địch. Nay Lý Hiến sai thần mang mệnh đến Đổng Chiên, A Lý Cốt, gọi Đạt Đát đến kinh đô, xin được xét lại.” Chiếu đặc cách cho thăng một chức vì có công xa xôi cần mẫn.
[43] Chiếu cho bộ quân nỏ thủ hạng nhất kiêm tập thần tí cung, theo lời thỉnh cầu của Quách Trung Thiệu.
(Bản chí có việc này, nhưng không ghi người thỉnh cầu.)
[44] Thượng phê: “Các quan tôn thất cũ đã qua đời, linh cữu còn tạm gửi ở chùa kinh đô, nhiều người chưa được an táng, muốn nhân dịp tang Quắc Vương Thế Thanh mới mất, chọn ngày tốt để đưa về phía tây, nên cho xem xét có thể hay không rồi tâu lên.” Thái sử tâu rằng trong năm không còn ngày đại táng, năm sau là Giáp Tý, năm hành niên của hoàng đế, không thể dùng.
[45] Ngày Mậu Thìn, chiếu cho Chuyển vận ty các lộ Thiểm Tây, Hà Đông cầu tuyết ở các danh sơn đại xuyên.
[46] Ngày Kỷ Tỵ, Đô thủy giám thừa Trần Hữu Phủ tâu: “Điền Phỉ khi nhậm chức Đề hình Hoài Nam, từng đề nghị đào sông, sau đó từ Hoài Âm đến Hồng Trạch đã hoàn thành công việc, chỉ còn đoạn từ Hồng Trạch trở lên chưa thể khởi công[6]. Nay thần xem xét, nếu không dùng đập ngăn nước, chỉ cần theo mực nước sông Hoài, đào sâu đáy sông, dẫn nước sông Hoài chảy thông suốt, thì việc này rất dễ dàng, lợi ích rất rõ ràng. Tính toán quãng đường 57 dặm, cần 2.597.000 công, huy động 92.000 dân phu làm trong một tháng, 2.900 binh phu làm trong hai tháng, chi phí 110.000 hộc lúa mạch, 110.000 quan tiền, thời hạn hai năm để đào sông.” Triều đình đồng ý, nhưng rút ngắn thời hạn còn một năm, lệnh cho Tưởng Chi Kỳ và Trần Hữu Phủ cùng đảm nhiệm việc này. Trước đó, Tưởng Chi Kỳ tâu rằng sông Hồng Trạch dài ở Hoài Nam thực sự có thể đào sửa, mong sớm khởi công, Vua xuống chiếu cho Trần Hữu Phủ đi xem xét, nên mới có chiếu này.
(Sách 《Cựu kỷ》 chép: đào sông Hồng Trạch. 《Tân kỷ》 không chép. Ngày 18 tháng 3 năm sau, ban thưởng công lao. Trần Hữu Phủ đi xem xét vào ngày Kỷ Mão tháng 8.)
[47] Kinh lược an phủ chế trí sứ Hi Hà Lan Hội lộ Lý Hiến tâu: “Các quan tâu rằng: ‘Việc phòng thủ Lan Châu cần đến một vạn người, hiện tại trong châu tổng cộng chỉ có sáu nghìn sáu trăm người, khi có việc mới xin thêm quân, e rằng sẽ lỡ việc.’ Bản ty xét thấy Lan Châu theo phép trăm bước, chỉ cần dùng sáu nghìn bốn trăm năm mươi sáu người, trong châu hiện có gần tám nghìn người, đã có thể phòng bị được. Tẩu mã thừa thụ Diêm Nhân Vũ vốn phải giữ quý Lan Châu, nhưng lại tỏ ra sợ hãi, nên không thể không gửi điệp cho Lương An Lễ đến đó. Vẫn lo rằng Nhân Vũ vốn không có gan dạ, tự mình hoảng sợ không dám làm gì, nên đã triệu hồi về Hi Châu, đồng thời thần đã cử em là Lý Vũ đến Lan Châu để trông coi. Kính mong hạ lệnh cho Nội tỉnh nghiêm khắc trách mắng con trai thần là Lý Cấu phải lập tức lên đường.” Vua phê: “Lý Cấu đã xuất phát, không cần chỉ thị thêm. Lương An Lễ đã theo tướng quan đến Lan Châu, còn Diêm Nhân Vũ thì cho trở về Hi Châu giữ quý.”
(Theo《Ngự tập》. Muốn biết số người phòng thủ Lan Châu, nên ghi lại việc này.)
[48] Ngày mùng một tháng 12, ngày Tân Mùi, Vua xuống chiếu miễn trừ khoản tiền nộp ngựa mà Thái úy Phú Bật còn nợ.
[49] Quan chức triều đình được thăng chức và ban thưởng huân chức, theo phép của tông thất, đều bắt đầu từ Vũ kị úy. Theo phép cũ, quan chức triều đình được thăng chức và ban thưởng huân chức, Nội điện sùng ban, Nội thường thị được ban huân chức, đều bắt đầu từ Kị đô úy.
(Bản Chu chép thêm: “Điều này chưa được duyệt định, nên bỏ đi. Nay vẫn giữ lại.”)
[50] Đề cử ty Hi Hà các lộ cung tiễn thủ doanh điền phiên bộ tâu: “Vùng đất mới thu phục, các thành trại đã tu sửa xong, có thể khai khẩn ruộng đồng. Trong đó, bốn nơi là Định Tây thành, Thông Tây trại, Kham Cốc trại, Du Mộc Bộn bảo đang thiếu hai trăm quân sương làm ruộng và mười sáu người quản lý, quân điển[7]. Xin theo phép tuyển bổ quân sương của Hi Hà lộ tu thành và Phượng Tường phủ giản trúng Bảo Ninh chỉ huy, cho phép bản ty được tuyển mộ quân sương và lính trạm ngựa từ ba lộ Tần Phượng, Kinh Nguyên, Hi Hà, mỗi người được cấp hai nghìn tiền trang bị.” Vua đồng ý.
[51] Chiếu tay cho Lý Hiến: “Gần đây theo các báo cáo từ biên giới, giặc Hạ đang tập trung binh lực, xưng là muốn xâm lược; và sứ giả tiến cống ngày Tết đã đến gần ngày mà chưa thấy vào biên giới, ắt là do có yêu cầu không được đáp ứng, lẽ ra phải hung hăng gây họa. Ngươi nên lấy việc đại họa làm trọng, ngày đêm suy nghĩ kế hoạch truy đuổi, đừng để việc phòng bị lớn nhỏ không cân xứng, làm hỏng việc trọng đại của quốc gia.”
[52] Ngày Nhâm Thân, chiếu cho Giám sát Ngự sử Trần Sư Tích đến Lại bộ. Sư Tích xin bãi bỏ khoa cử và thi luật nghĩa ở Thái học, để học giả chuyên tâm vào kinh thuật. Vua phê: “Triều đình những năm gần đây mở rộng trường học, đào tạo sĩ tử, vừa dùng kinh thuật, vừa dùng pháp lệnh, nuôi dưỡng nhân tài, để họ thành tựu, đủ sức đảm nhiệm. Làm quan lấy pháp lệnh làm gốc, Sư Tích không hiểu ý lớn của triều đình khi tạo ra pháp luật, lại muốn bãi bỏ việc học luật của học sinh, đưa ra lời lẽ sai lệch, làm rối loạn tâm trí sĩ tử.”
(Việc Sư Tích cần xem xét kỹ hơn. Tô Thức đầu niên hiệu Nguyên Hựu tiến cử Sư Tích vào chức thanh yếu thị tòng, tấu rằng: “Thần Tông chọn Sư Tích đỗ thứ ba, có ý trọng dụng. Sau làm quan đài, vì bàn về việc thi luật của cử nhân làm hại đạo đức giáo hóa, không hợp thời nghị, nên bị điều ra ngoài. Sau bãi thi luật, Tiên đế đầu tiên cho phục chức, ý trọng dụng càng kiên định.” Cần xem xét.)
[53] Chiếu: “Người bị đày ra đảo Sa Môn trước đây là Nhập nội Đông đầu Cung phụng quan, Câu đương Nội đông môn Hàn Vĩnh Thức đã bị đày lâu ngày, gần đây được đại xá, có thể đưa đến Lao thành Đường Châu, miễn xăm mặt.”
[54] Vua phê: “Sứ giả tế điện Cao Ly là Dương Cảnh Lược xin dùng Lý Chi Nghi làm Thư trạng quan, nghe nói Chi Nghi tuy thông thạo việc quan, có thể tùy tài sử dụng, nhưng tiếng tăm văn chương không nổi bật trong giới sĩ. Vì tục Cao Ly thích văn chương, văn phong Trung Hạ là điều họ noi theo, nên chọn người học rộng, dùng chữ chỉnh tề mới xứng với việc này. Có thể chiếu cho đến Trung thư thi thử dùng thư trạng tiến trình, việc chọn quan điếu viếng ngoại quốc cũng theo đó.”
[55] Ngày Quý Dậu, ban chiếu cho Lý Hiến: “Người Hạ đã nhiều lần gây hấn, không chịu triều cống. Gần đây đã ban chiếu thư và quốc thư cho Đổng Chiên và A Lý Cốt, khanh nên cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu Đổng Chiên chưa hòa hoãn với giặc Hạ, thì hãy ban chiếu thư, quốc thư và vật phẩm cho các thủ lĩnh bốn bộ Thát Đát và Hồi Cốt, ban cho Đổng Chiên và A Lý Cốt, đồng thời giải thích rõ ràng, sớm sai các thủ lĩnh bốn bộ trở về bộ tộc, tập hợp binh mã, tiến đánh giặc. Khi lập được đại công, chém được hơn vạn thủ cấp giặc, sẽ có ân mệnh ban cho Đổng Chiên và A Lý Cốt. Còn lại, hãy giải thích chi tiết, đừng để họ tin vào lời lừa dối của giặc, làm hỏng lời thề sâu nặng giữa nhà Hán và người Phiên.” Lại ban cho Đổng Chiên gấm hoa văn, đai vàng, đồ bạc, quần áo, v.v.
[56] Ghi chép: Người quy thuận ở Đàm Khê là Dương Thịnh Tượng được bổ làm Hữu ban Điện trực, Dương Thịnh Hướng làm Tam ban Phụng chức, Dương Xương Ty làm Tam ban Tá chức. Sau đó, Hồ Bắc Chuyển vận ty tâu rằng Dương Thịnh Hướng là thủ lĩnh lớn, thông minh lanh lợi, có thể điều khiển được quần chúng, nên lại bổ làm Tả ban Điện trực.
(Ngày 2, 3, 11 tháng 4; ngày 18 tháng 10.)
[57] Ban chiếu: Các Thượng thư và Thị lang của Lục bộ đã nhiều lần tâu xin loại bỏ lại sử, nên lập ngay pháp chế tuyển chọn và thi cử.
[58] Ban chiếu: Các quan ở Tự, Giám có thứ bậc cao hơn Thông trực lang, nếu được ân điển thì cho phép phong tặng.
[59] Chiếu tay gửi Lý Hiến: “Nhận được bản tấu chữ Tạng của Đổng Chiên và A Lý Cốt, xem xét tình hình và lời lẽ, thấy họ vừa trung thành vừa thông minh, so với các sĩ đại phu hưởng bổng lộc của Trung Quốc mà tâm huyết vì việc công, cũng không hơn được. Xem đi xem lại nhiều lần, càng thấy đáng khen ngợi vô cùng. Thêm vào đó, bản tâu của khanh trình bày rõ ràng, phù hợp với tình hình, rất đúng với ý định của triều đình. Nay giặc Hạ âm mưu không nhỏ, muốn tiêu diệt cả một lộ, tiến sâu vào nội địa, đánh vào chỗ yếu của ta, tuyệt đối không thể coi thường như những cuộc cướp bóc vài trăm kỵ binh thường ngày. Nên lập kế hoạch lớn, chuẩn bị đối phó rộng rãi, không để chúng đắc chí, gây họa về sau. Trước đây, thủ lĩnh Lục Cốc là Phan La Chi trung thành với triều đình, hợp lực đánh giặc, sau lập được công lớn, giết Lý Kế Thiên ở Tam Thập Cửu Tỉnh, lúc đó triều đình ban thưởng rất hậu. Nay Đổng Chiên và A Lý Cốt đã tỏ lòng trung thành như vậy, nên khích lệ thêm, để họ tiến sâu vào đất giặc, lập công như trên, xứng đáng với sự đối đãi hậu hĩnh của triều đình.”
[60] Chiếu rằng: “Binh lính kỵ binh dưới 50 tuổi, võ nghệ còn kém, cho thời gian tập luyện mà không thành, hoặc người béo phì hay tay chân có bệnh, có thể tập luyện võ nghệ bộ binh, đều đổi sang làm bộ binh.”
[61] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu lên những người có công trong chiến trận, chiếu rằng: “Quan Tạng Tả Thị Cấm Chu Nê (Khẩu Lăng) thăng bốn bậc, ban tặng 50 tấm lụa; Bội Khiết Diệt Vĩ thăng ba bậc, ban 30 tấm lụa; Ất Mạch Ất (Khẩu Lăng) thăng hai bậc, ban 20 tấm lụa. Những người bị thương nặng nhẹ đều được thưởng theo quy định. Ai đoạt được ngựa, ngoài việc được giữ ngựa, còn được ban thêm 10 tấm lụa.”
[62] Chiếu tay gửi Lý Hiến: “Thủ lĩnh giặc Tây hung ác nhất là Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh, từ trước đến nay thường xuất hiện ở vùng biên giới tây nam nước ta, chắc chắn trong số các bộ lạc Tạng ở đó có người nhận ra hình dáng của hắn. Nên chọn nhiều tướng tá, chiêu mộ những người Tạng có khả năng nhận diện, bí mật kết hợp với những người dám chết, gặp cơ hội thì bắt sống; nếu không, chém đầu mang về, sẽ được thưởng bằng chức Đoàn luyện Phiền bộ Kiềm hạt và Hoàng thành sứ Phiền binh Tướng quan.”
[63] Ngày Ất Hợi, phân công các quan phụ chính cầu tuyết.
[64] Chiếu tay cho Lý Hiến: “Gần đây, người thám sự ở các lộ Lân Phủ, Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên báo rằng giặc phương Tây đang tập hợp quân mã ở các Giám quân ty Hà Nam, Hà Bắc, có nơi nói là năm phần, có nơi nói chín phần, và đều hẹn đến ngày 15 tháng 12 tập hợp ở sông Hồ Lô. Tuy chưa rõ chúng sẽ đánh vào lộ nào, nhưng việc chúng tập hợp quân ở nơi đó chắc chắn là thật, không thể không chuẩn bị rộng rãi. Vẫn giao cho Kinh lược ty Hi Hà Lan Hội lộ, nên cùng nhau suy nghĩ để chuẩn bị, đừng để lỡ việc trọng đại của triều đình.”
[65] Chiếu rằng: “Những người dư đinh trong giới bảo giáp ở Khai Phong phủ, nếu đã đầu quân mà không bị tra hỏi, hoặc đã bị xử tội và được tha về đã được một năm, thì cho phép tái ngũ. Nếu cha mẹ muốn tha về, thì không hạn chế thời gian. Ba lộ khác cũng áp dụng theo quy định này.”
[66] Lệnh cho Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn làm người tiếp đón sứ giả Liêu. Ban đầu, định cử Lễ bộ Thị lang Lý Thường, nhưng Vua phê rằng: “Việc biên giới phía Tây chưa yên, người phương Bắc đến kinh đô, chắc sẽ nhắc đến, sợ Thường không biết rõ đầu đuôi sự việc, nếu có việc gấp sẽ khó ứng đối.”
[67] Bổ nhiệm năm thủ lĩnh người Hồi Cốt và Thát Đát làm Quân chủ, mỗi năm cấp 20 tấm lụa lớn.
[68] Xu mật viện tâu: “Theo chiếu, Lý Sát Nhĩ Tiết, người dẫn đường cho sứ giả Hồi Cốt và Thát Đát do Đổng Chiên cử đến, có thể thăng một bậc. Lý Sát Nhĩ Tiết hiện là Đô quân chủ, nhưng trong thứ bậc chức vụ của quan chức người phiên không có chức nào cao hơn để thăng.” Chiếu rằng trên chức Đô quân chủ, thêm hai bậc là Phó đô chỉ huy sứ và Đô chỉ huy sứ.
[69] Ngày Bính Tý, sứ giả tiến cống của Đổng Chiên, Hồi Cốt, Thát Đát từ biệt. Hoàng đế nhìn thủ lĩnh Hồi Cốt hỏi: “Dân số các ngươi khoảng bao nhiêu?” Đáp: “Khoảng hơn ba mươi vạn.” “Số thanh niên có thể chiến đấu là bao nhiêu?” Đáp: “Khoảng hơn hai mươi vạn.” Hoàng đế lại nhìn thủ lĩnh Đổng Chiên hỏi: “Từ khi quy thuộc triều đình, các ngươi có thường giao hảo với Hạ quốc không?” Đáp: “Trước đây Hạ quốc nhiều lần đến nói: ‘Nếu quy thuộc ta, sẽ ban quan tước và ân huệ như ý.’ Thần đáp: ‘Từ khi thuộc thánh triều, được quốc gia ban ân sâu, nghĩa không dám phụ bạc.'” Hoàng đế hỏi: “Có từng đánh nhau với Hạ quốc không?” Đáp: “Khi quân Tây Hạ xâm phạm biên giới, thần từng dẫn quân ra trận, chiếm được thành trì và chém được nhiều thủ cấp.” Hoàng đế nói: “Về báo với Đổng Chiên, bảo hắn hết lòng phòng thủ.” Ban thưởng khí vật, tiền tệ cho các sứ giả, riêng thủ lĩnh từng lập công chống Hạ quốc được ban thưởng cờ, giáo, giáp trụ.
[70] Phụng Nghị lang, Biên tu quân khí thập vật pháp chế Thái Thạc được bổ làm Quân khí Thiếu giám. Hoàng đế phê: “Thạc rất tâm huyết với quy trình chế tạo khí giới, rất tinh xảo.” Nên có mệnh này.
[71] Ngày Mậu Dần, Nội điện Thừa chế, Cáp môn Chi hậu Ôn Tòng Cát được thăng làm Lễ tân Phó sứ. Tòng Cát từng lập công biên cương, xin từ chức Cáp môn Chi hậu, nên được thăng.
[72] Thừa Nghị lang, Quyền Đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện trấn công sự Phạm Tuân tâu: “Xét thấy các huyện trong phủ giới thu thuế xuân hạ không đúng thời hạn, thuế rượu thường bị thiếu hụt, nên trong năm năm qua, ty thần được triều đình cấp hơn sáu mươi vạn quan vẫn không đủ chi dùng. Thần từ khi nhận mệnh đến nay, ra sức kiểm tra, đôn đốc, thu nhập đã tăng lên, năm nay chi phí tạm đủ. Nếu không phải các quan lại sợ pháp luật, gắng sức làm việc, sao có được như vậy? Thần trước đây từng tâu xin thêm một viên Câu đương công sự, nếu chưa được chấp thuận, xin cho Quản câu quan của Đề cử ty kiêm nhiệm.” Hoàng đế phê: “Nên đặc cách thêm một viên Câu đương công sự cho ty này, cho tự chọn người tâu lên.”
[73] Hữu gián nghị đại phu Triệu Ngạn Nhược tâu: “Việc của vương thất, âm dương là trọng. Theo lệnh tháng, tháng đầu xuân, Vua ra lệnh cho tể tướng ban bố đức hạnh và chính lệnh, thực hiện việc ban thưởng và ban ơn, xuống đến muôn dân, nhằm đạt được tiếng vui và thông suốt khí dương. Vì thế, bậc vương giả đi chơi, yến tiệc, cùng vui với mọi người, tự vui cho thiên hạ, cảm triệu khí hòa, giúp hóa dục và tham dự vào trời đất. Thần thấy tháng giêng bệ hạ từng đến yết kiến ở cung Cảnh Linh, thần theo hầu đến điện Kế Nhân, thấy thánh ý tưởng nhớ như trước, các quan công khanh và thị thần đều đau xót. Thần nghĩ, đạo hiếu trị đến mức này, Vua Thuấn cũng không hơn được. Thần dám mạo muội nói trước, vì việc biến đổi mừng thọ đã lâu, thời gian dần xa, mà khí thiếu dương đang thịnh, sinh khí còn yếu. Nếu lòng hiếu thảo phát ra, hoặc lại cảm động, e rằng không thuận với thời lệnh. Dù đức thánh cao cả không thể lấy thường lệ mà đo lường, nhưng khuất mình theo người cũng là điều minh chủ không trái. Thần mong rằng trong tương lai, khi dâng lễ ở điện Kế Nhân, xin tạm giấu đi những đồ chơi, kìm nén thánh ý, thuận theo thời trời, không làm tổn hại lòng hiếu thảo, để thuận theo lệnh dương hòa.” Từ khi cung Cảnh Linh mới xây xong mười một điện[8], Vua mỗi lần hành lễ triều hiến, đều lạy hơn trăm lần, đến điện Kế Nhân, nhất định khóc lóc rất lâu. Lễ xong dâng trà, lại khóc, sai Tào Bình, Tào Dụ hành lễ gia đình. Đến đây, Ngạn Nhược dâng lời, Vua khen ngợi, nhưng vẫn không nghe.
[74] Ngày Kỷ Mão, chiếu cấp một ngàn độ điệp cho sở chuyên chế tạo quân khí làm tiền ăn. Lễ bộ tâu: “Độ điệp đã định ngạch, mỗi năm cấp một vạn. Năm nay đã cấp chín ngàn một trăm hai mươi bảy, ngoài ngạch và số của năm sau.”
[75] Ngự sử Kiển Tự Thần tâu: “Lộ Giang Nam Đông từ khi Lý Tông điều tra việc thiếu hụt thuế dịch, các quan lại đều làm qua loa, chưa được công bằng. Xin giao cho các huyện lệnh, huyện tá trong lộ này, hạn trong một năm điều tra lại, giao cho các ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Đề cử khảo sát, ai có thể sửa chữa được nhiều số liệu hư khống, thì truy tặng thưởng cho quan trước, đồng thời xét tội quan trước.” Được chấp thuận.
[76] Chiếu rằng: “Năm tới, số bạc tuế tứ cho nước Hạ, đều ban cho Kinh lược ty để dùng vào việc chiêu nạp.”
[77] Ngày Quý Mùi, Vua phê: “Các lộ và vùng kinh kỳ, việc duyệt xét bảo giáp thường 5, 6 năm một lần, chỉ có Hà Đông vì tiền bạc không dồi dào, nên 11 năm mới xét một lần. Người Tấn tính tình cương nghị dũng cảm, phong tục chuộng võ nghệ, lại ở giữa hai kẻ địch, việc khuyến khích võ công không thể thua kém các lộ khác. Có thể giao cho Ngô Cư Hậu, mỗi năm từ số tiền muối theo phép mới ở Kinh Đông cấp 15 vạn quan[9], mua trước lụa là gửi đến Châu Trạch, giúp ty Bảo giáp cấp thưởng, bắt đầu từ nửa năm sau năm nay.”
[78] Đề cử trà trường Lục Sư Mẫn xin 10 viên giám quan tại các trường mua trà và khởi vận ở lộ Xuyên, đều cho phép không theo lệ thường mà được chỉ định tâu cử. Được chấp thuận.
[79] Ty An phủ vùng biên Hà Bắc tâu, xin cho các sứ thần tại các trường mua bán ở quân An Túc, Quảng Tín được chọn trong số các đại, tiểu sứ thần. Được chấp thuận.
[80] Triều thỉnh lang Lệnh Miên tâu, xin cấp một khoản trợ cấp cho các phụ nữ góa trong hàng tông thất từ đời Đản Miễn trở xuống. Chiếu giao Đại tông chính ty xem xét rồi tâu lên. Sau đó không thực hiện.
[81] Ngày Giáp Thân, phong Nhập nội cung phụng quan, Ký nội tàng khố sứ, Khánh Châu đoàn luyện sứ Tống Dụng Thần làm Chiêu tuyên sứ ký tư, và thăng một chức quan cho con trai của ông; Văn tư phó sứ Tần Sĩ Vũ, Cung bị khố phó sứ Dương Diễm cùng tám người khác, mỗi người được thăng một chức quan, giảm thời gian khảo hạch hai năm; Hoàng thành phó sứ Đổng Gia Ngôn, Điện trực Lý Mân giảm bốn năm; Điện trực Trương Lập, Tá chức Nguyên Quý giảm ba năm; Thị cấm Lưu Hoài Lễ giảm hai năm; Đại tướng Trương Huy cùng bốn người khác giảm bốn năm. Còn lại các lại, tốt, thợ, thầy thuốc và những người phục vụ khác: năm người được thăng một bậc và ban thưởng bảy tấm lụa, tám mươi người được thăng một bậc và ban thưởng năm tấm lụa, năm mươi người được thăng một bậc và ban thưởng ba tấm lụa; năm mươi người được thăng một bậc; những người không có bậc để thăng đều được ban thưởng ba mươi tấm lụa; lại có hai người được ban thưởng ba mươi tấm lụa, bảy người được ban thưởng hai mươi tấm, bảy người được ban thưởng mười lăm tấm, mười lăm người được ban thưởng mười tấm[10]. Tất cả đều do Trung thư tâu lên, Vua tự tay sửa đổi, ban thưởng cho công lao tu sửa Thượng thư tỉnh.
[82] Thượng thư tỉnh được xây dựng trên đất của Ty Điện tiền, từ nơi làm việc của các chức vụ Lệnh, Bộc xạ, Thừa, Tả Hữu ty, Lục tào Thượng thư, Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, đến nơi ở của lại dịch, tổng cộng 4.031 gian phòng. Công trình khởi công vào ngày Quý Tỵ tháng 5 năm thứ 5, đến ngày Canh Tý tháng 10 năm thứ 6 thì hoàn thành. Sau đó, Dụng thần xin dùng ân điển thăng quan cho một người con để truy tặng ông nội là Tư Cung, đồng thời hiến nhà làm chùa Đa Khánh Ni Viện, mỗi năm cho phép một tăng ni xuất gia, được chấp thuận. Hoàng đế nghiên cứu cổ chế, khôi phục chức vụ của 24 ty thuộc Thượng thư tỉnh, xây dựng tỉnh mới với quy mô, bố trí chi tiết, tinh tế, đều do Hoàng đế quyết định. Dụng thần nhận chiếu chỉ đốc công, xây dựng công trình to lớn, hùng vĩ, chưa từng có trong thời cận đại. Lại dùng Đông Tây sảnh của Trung thư cũ làm Môn hạ, Trung thư tỉnh, Đô đường làm Đô đường của Tam tỉnh, dời Xu mật viện về phía tây của Trung thư tỉnh, dùng đất cũ của Xu mật viện, Tuyên huy, Học sĩ viện làm Hậu tỉnh của Trung thư, Môn hạ, bố trí nơi làm việc của Thường thị đến Chánh ngôn thẳng phía sau hai tỉnh, Đô thừa chỉ ty thẳng phía sau Xu mật viện. Từ đó, vị trí và nghi thức của Tam tỉnh, Xu mật viện đều được đổi mới hoàn toàn.
[83] Hộ bộ Thị lang Kiển Chu Phụ xin chọn quan đi khảo sát đường thủy bộ thông thương muối ở các châu Thiều, Liên, Sâm[11], Đạo, phân bổ muối Hoài đều hơn cho các châu quân thiếu muối trong lộ, hai lộ áp dụng pháp chế muối theo quy định hiện hành của Giang Tây, Quảng Đông. Chiếu cho Kinh Hồ Nam lộ Đề cử thường bình đẳng sự[12] Trương Sĩ Trừng và Chuyển vận phán quan Trần Tai xử lý việc này và tâu lên.
(Ngày 12 tháng 9 năm thứ 7, Sĩ Trừng và Tai dâng pháp chế; ngày 4 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, Sĩ Trừng và những người khác bị khiển trách. Tấu nghị của Lã Đào cuối tháng 2 nhuận có thể tham khảo.)
[84] An phủ sứ ty lộ Đại Danh phủ tâu: “Kho quân tư châu Bác có chiếu chỉ không tên của An phủ sứ Hà Bắc là Đằng Phủ và Ngô Sung từ năm Hi Ninh thứ nhất, kêu gọi người dân nộp tiền mặt 9.940 quan[13], xin dùng số tiền này để tu sửa thành lũy các châu phủ trong lộ.” Được chấp thuận.
[85] Tri phủ Thành Đô là Lã Đại Phòng[14] muốn tuyển chọn 100 con ngựa cao trên 4 thước 2 tấc để dâng lên, nếu thích hợp để dùng trong quân đội thì xin cho thu mua theo cách này. Được chấp thuận.
[86] Đồng đề cử giới bảo giáp phủ Khai Phong là Lữ Công Nhã tâu: “Ty này đang phong tỏa, xin kêu gọi người dân dùng tài sản thế chấp để mua, đặt thời hạn nộp tiền.” Chiếu chỉ đồng ý bán theo giá thị trường, giảm giá không quá 2 phần.
[87] Ngày Ất Dậu, cấp cho Ty chuyển vận Quảng Tây 150 độ điệp để tu sửa thành các huyện Hoài Viễn thuộc châu Nghĩa.
(Tháng 6, ngày Mậu Thân.)
[88] Ngày Bính Tuất, ban chiếu: “Từ nay, nếu các quan lại được ban tặng cờ tiết, bia đá, ấn tín mà bị mất, hoặc được ban táng mà không chôn cất ngay, thì phạt tù 2 năm; nếu sử dụng những vật đó, sẽ xử theo luật dùng trộm ấn tín và văn thư của quan.”
[89] Hữu Gián nghị đại phu Triệu Ngạn Nhược tâu: “Tam công bàn luận đạo lý kinh bang tế thế, điều hòa âm dương; lại nói ‘Trủng tể coi việc trị nước, thống lĩnh trăm quan, cân bằng bốn biển, đều là nắm việc lớn’. Vì thế Trần Bình nói: ‘Tể tướng trên giúp thiên tử điều hòa âm dương, dưới thuận theo lẽ phải của vạn vật, ngoài trấn an bốn phương, trong gần gũi trăm họ, khiến khanh đại phu mỗi người đều làm tròn chức vụ của mình.’ Đại để căn cứ vào đó mà nói vậy. 《Chu Lễ》 chép việc Thái tể phân chia chức vụ rất chi tiết, từ đó biết rằng chức vụ Tam công không phải không có trách nhiệm về công việc quan lại.
Nghe đồn năm ngoái khi chế độ quan chế mới ban hành, các cơ quan hữu trách bàn về việc đồng chức phạm tội chia làm bốn bậc, đó là đúng theo luật, đáng lẽ phải kịp thời thi hành, nhưng các đại thần chấp chính lại cho là không tiện, bèn dẫn lời Trần Bình để tự biện minh, rồi bỏ bê luật pháp chính thức. Nếu quả như lời họ nói ‘nên biết việc lớn’, thì trước đây các quan chấp pháp tâu rằng đại thần không lập sổ sách tổng hợp, đại thần cũng tâu rằng Ngự sử đài không lập sổ sách tổng hợp để báo cáo; gần đây quan chấp pháp tâu rằng đại thần theo lời tâu của Hình bộ không dùng lệnh triệu tập lại viên, đại thần cũng tâu rằng trước đây quan chấp pháp ở Lễ bộ không dùng lệnh triệu tập lại viên để báo cáo. Quan chấp pháp đã bị tội rõ ràng và bị phạt đúng mức, thần chỉ nghi ngờ rằng đại thần không thể dùng đạo đức để tiếp nhận thánh hóa, mà chỉ chuyên dùng tiểu xảo, so đo thắng thua, làm mất thể thống của đại thần. Tự cho là được kế hay, mà trong không lo việc chức vụ, ngoài không sợ lời người đời. Lấy đó làm công lao điều hòa, thì dường như không phải ý trời. Lấy đó làm hiệu quả phụ tá, thì thực có phụ sự thánh minh. Kính nghĩ rằng bệ hạ khoan nhân chưa nỡ trách phạt nghiêm khắc, mong ban lời răn dạy, khiến họ biết suy xét, may ra có lòng sợ hãi, có thể giúp đạt được hòa khí.” Không được trả lời.
(Bản Chu chép: Không thi hành, đã xóa bỏ. Nay lại giữ lại. Việc Lễ bộ triệu tập lại viên, xảy ra vào tháng 11 ngày Giáp Dần.)
[90] Đô đại đề cử Thành Đô phủ các lộ trà trường Lục Sư Mẫn xin theo lệ cũ cho phép người dân mua trà lạp ở kinh đô đưa vào Thiểm Tây, tính số lãi ròng thu được để định mức, cơ quan này sẽ trả lại Hộ bộ từ tiền lãi, xin lệnh cho ty chuyên trách trà mỗi năm nhận số tiền lãi ròng là 14.100 quan. Chiếu cho Hộ bộ theo số đã tâu mà miễn trừ.
[91] 1. Ty Kinh lược An phủ Chế trí sứ Hi Hà Lan Hội lộ tâu lên công trạng của các quan văn võ trong việc tu sửa các trại bảo ở Lan Châu. Chiếu rằng: “Hạng nhất thăng một chức, thưởng 60 lạng bạc và lụa; hạng nhì thăng một chức; hạng ba giảm thời gian khảo khóa ba năm. Những người được thăng chức nếu đang giữ chức Triều phụng đại phu trở lên hoặc các chức sứ trở lên, thì ban thưởng cho con cái có chức tước. Các quan đề cử và lo việc cung ứng lương thảo được thưởng như hạng nhất, những người không được xếp hạng được thưởng 60 lạng bạc và lụa.”
[92] Ngày Mậu Tý, chiếu cho Lưu Xương Tộ: “Nghe nói các thủ lĩnh lớn nhỏ của giặc Tây đem gia quyến đến xin ở tại các thành trì mới xây. Lo rằng kẻ địch có nhiều mưu kế, thấy thành trì kiên cố, khó lấy bằng sức mạnh, nên sai người thân tín đến, một ngày kia sẽ làm nội ứng. Việc Lý Sĩ Bân thời Khánh Lịch là bài học không xa. Dù những người đến không có ý đồ xấu, cũng hao tổn lương thực biên giới. Có thể cho họ sinh sống ở các châu Phu, Phường, Đan, đợi khi biên giới yên ổn, rồi dời lên trại, theo ý họ.”
[93] Bộ Hộ tâu: “Phụng nghị lang Giáp Thiện xin vận chuyển muối dư từ Quảng Đông sang Quảng Tây, Kinh Hồ, Giang Tây, Phúc Kiến. Riêng Giang Tây, sai Phó sứ Tam ty Kiển Chu Phụ đi khảo sát và thi hành, thấy có lợi. Thiện trước xin vận muối Quảng Đông sang ba châu Sâm, Toàn, Đạo ở Hồ Nam, xin chọn quan đi khảo sát.” Chiếu giao cho quan Đề cử Thường bình Hồ Nam lộ.
(Bản Chu dời vào ngày 12 tháng 9 năm thứ 7, ngày Kỷ Dậu. Việc Chu Phụ khảo sát Giang Tây, Quảng Đông vào ngày 28 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 3.)
[94] Ngày Canh Dần, Lục trạch phó sứ Hình Tá Thần, người bị cách chức, được phục chức Sùng nghi phó sứ, quyền phát khiển Khả Lam quân.
[95] Ngày Tân Mão, hoàng tử thứ 12 ra đời, sai Ung vương Hạo đến Thái miếu cáo tế.
(Cựu kỷ chép việc hoàng tử Tự ra đời, Tân kỷ không chép.)
[96] Ban cho Chuyển vận sứ Thiểm Tây là Lý Sát 500 đạo độ điệp không ghi tên, để ứng phó việc tu sửa các thành lũy, lầu gác trong và ngoài các châu Hoàn, Khánh, Ninh, cùng các loại vũ khí, đồ dùng phòng thủ, thuê phương tiện vận chuyển, mỗi đạo trị giá 13 vạn tiền.
[97] Ngày Nhâm Thìn, bổ nhiệm Tư chính điện học sĩ, Tân tri Định châu Lữ Huệ Khanh làm Tri Thái Nguyên phủ.
(Ngày 18 tháng 11, nhậm chức Tri Định châu.)
[98] Vua phê: “Tôn Ngạc bị truy quan, miễn lặc đình, xung thế, nguyên phạm tội tình đáng thương, nay cầu xin triều đình, lại gặp đại xá, có thể bãi bỏ xung thế.” Ngạc trước làm Quốc tử giám Trực giảng, vì nhận lời của Tham tri chính sự Nguyên Giáng tiến cử cháu là Tôn Bá Hổ làm Tiểu học Giáo dụ, bị truy hai quan. Ngạc dâng thư tự tố, nói: “Tệ đoan của Thái học, thần không dính líu. Bệ hạ thương thần giữa đám đông, mà hữu ty lại xét thần ngoài việc. Huống chi thần với Nguyên Giáng vốn không quen biết, dù hôm nay gặp thần, Giáng cũng không nhận ra mặt thần.” Ý cho rằng án ngục do chiếu chỉ mà thành, là do bị bức cung.
(Chu bản chú thích: Lời “bức cung” của sử quan trước, là vu khống, nay đã xóa bỏ. Bản mới vẫn giữ lại. Ngạc bị xung thế vào ngày 17 tháng 5 năm thứ hai.)
[99] Hộ bộ tâu: “Tân quyền Đề cử Thường bình sự Thành Đô phủ lộ là Hàn Giới nói, huyện Bí Dương, châu Đường[15] có di tích lợi ích ở đập Mã Nhân, xin giao cho Đề cử ty Kinh Tây Nam lộ xem xét.” Theo lời tâu.
[100] Xu mật viện tâu: “Nước Hạ chưa kịp thời vào cống, lo ngại biên giới không thể ngăn cấm dân biên giới tư giao dịch với Tây giới.” Chiếu cho Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông nghiêm khắc pháp lệnh, không được tư ý buông lỏng.
[101] Ngày Quý Tỵ, Lỗ Quốc Đại Trưởng Công Chúa mất. Vua chưa dùng bữa sáng, vội vàng đến viếng, nỗi đau khiến tả hữu xúc động. Ngừng thiết triều năm ngày, bãi bỏ lễ thắp đèn ngày Thượng Nguyên, truy phong làm Kinh Quốc Đại Trưởng Công Chúa, thăng con trai bà là Tào Diệp, chức Hữu Kỵ Ký Phó Sứ, lĩnh chức Tần Châu Đoàn Luyện Sứ, và Tào Mẫn lĩnh chức Thành Châu Đoàn Luyện Sứ. Năm sau, khi khâm liệm và xuất táng, Vua đều không thiết triều, lại đến viếng.
(《Cựu kỷ》 chép việc công chúa mất, 《Tân kỷ》 không chép. 《Cựu kỷ》 lại chép ngày 14 tháng giêng năm thứ 7, vì tang công chúa nên bãi lễ xem đèn, 《Tân kỷ》 cũng không chép.)
[102] Ngày Giáp Ngọ, giáng chức Quang Châu Phòng Ngự Sứ, Phò Mã Đô Úy Tào Thi, bắt về nhà tự xét lỗi. Vì có chiếu chỉ rằng: “Tào Thi không xứng đáng với ân điển của triều đình khi được chọn làm phò mã, nhiều lần không cẩn thận trong việc nội trợ, làm phiền công chúa, khiến bà buồn phiền sinh bệnh, lại giấu không báo kịp thời, xin gọi thầy thuốc chữa trị, cuối cùng bệnh nặng không qua khỏi.” Các quan y và nội thần phụ trách nhà công chúa đều bị trách phạt.
(《Cựu kỷ》 chép Tào Thi vì không cẩn thận trong việc nội trợ, không kịp thời báo bệnh của công chúa nên bị giáng chức, 《Tân kỷ》 không chép.)
[103] Chiếu cho Khai Phong phủ, huyện Trần Lưu đặt Đô Tác Viện bảo giáp, sửa chữa vũ khí của 22 huyện, theo lời xin của Đề Cử Bảo Giáp Lưu Quản. Quản lại tâu: “Các hộ bảo giáp trong các huyện, có người đã đến tuổi thành đinh nhưng còn nhỏ tuổi để trốn tránh nghĩa vụ. Xin cho quan ty khi tuần tra xem xét tuổi tác, thu nhận thêm đinh[16].” Chiếu rằng khi tuần tra thấy việc dạy bảo giáp, có người tài không đảm đương được việc, cho phép truy thêm đinh, xem xét tuổi tác để chọn lựa. Lại tâu: “Tuần Kiểm huyện Yển Lăng là Đái Tư Tiên dẫn đầu đội bảo giáp thứ nhất, được giảm thời gian khảo hạch ba năm. Nay đã xem xét xong tám đội bảo giáp, lại giảm thêm ba năm. Xin cho năm năm thăng một chức[17], còn một năm để dành khi khảo hạch.” Theo lời tâu.
[104] Chiếu cho Khai Phong phủ giới dạy võ nghệ bảo giáp, ai đạt chuẩn thì Lưu Quản được bổ làm Tây Thượng Các Môn Phó Sứ.
[105] Chiếu cho Hữu ty thuộc Hộ bộ, lệnh Thị lang chuyên trách, Thượng thư không dự vào việc.
[106] Ngày Ất Mùi, quan người Thổ là Kiên Đa Khắc được làm Tuần kiểm tộc Mật Động thuộc quân Thông Viễn, do Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Hội tiến cử ông ta có nhiều chiến công.
[107] Kinh lược ty Quảng Tây tâu: “Châu Quy Hóa báo rằng, Giao Chỉ đang tập trung binh lính, muốn chiếm lại châu này. Người Giao Chỉ trước đây lấy cớ truy bắt Nùng Trí Hội để xâm phạm Quy Hóa, nay tuy đã rút về giữ sào huyệt, nhưng vẫn thường có ý dòm ngó. Nay Trí Hội nói: Nếu Giao Chỉ lại xâm phạm, châu này khó chống cự, sẽ đầu hàng đất của triều đình. Trí Hội đã không thể kiên quyết chống lại giặc Giao Chỉ, nếu để ông ta ở đó, không khỏi dẫn đến giặc cướp.” Chiếu cho Hùng Bản khéo léo dụ dỗ Trí Hội, dời vào nội địa, đồng thời xem xét việc phòng thủ các nơi hiểm yếu và đường ải của châu Quy Hóa. Nếu Giao Chỉ lại đến, tức là vô cớ xâm phạm đất của triều đình, có thể gửi văn thư hỏi tội.
(Ngày Canh Thìn, tháng 5 năm thứ 7.)
[108] Ngày Bính Thân, Thị lang Lại bộ Trần An Thạch tâu xin cho Thị lang được phong tặng cha mẹ theo lệ như Trực học sĩ. Được chấp thuận, và định thành lệnh.
[109] Ngày Kỷ Hợi, Văn Ngạn Bác tâu: “Hoàng đế Nhân Tông ban cho thần ngự bút, vì cuộn giấy quá lớn, nhà riêng khó cất giữ, nên đã gửi đến chùa Bảo Thắng thuộc viện Công Đức để cất giữ, nhân đó xây gác để thờ, càng thêm trang nghiêm. Mỗi năm xin đặc biệt cho phép thả một đồng tử.” Được chấp thuận.
[110] Ngày Canh Tý, lấy Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện trấn công sự, Thừa nghị lang Phạm Tuân làm Trực Long Đồ, vì có lời phê của Vua: “Việc chi tiêu trong kinh kỳ thường thiếu thốn, hàng năm phải nhờ triều đình ứng phó. Phạm Tuân nhậm chức chưa lâu, đã có thể làm tốt công việc, thành tích rất ưu tú, nên khen thưởng để khuyến khích các quan chức vận chuyển ở bốn phương.” Vì thế có mệnh lệnh này.
[111] Năm đó, con cháu tông thất được ban tên và bổ nhiệm làm quan là 47 người. Trong thiên hạ, số hộ chủ đăng ký với Hộ bộ là 11.379.174 hộ, 16.954.206 đinh; số hộ khách là 5.832.539 hộ, 8.015.094 đinh. Xử tử hình 2.671 người.
[112] Từ đầu niên hiệu Hi Ninh, bắt đầu thay đổi pháp chế về phèn, thu nhập hàng năm: năm đầu tiên là 36.400 quan tiền và một ít, cộng thêm phần tăng trong năm năm, rồi lấy số trung bình của năm Hi Ninh thứ 6, định mức mới là 183.100 quan tiền và một ít. Đến năm Nguyên Phong thứ 6, thuế tăng lên 337.900 quan tiền, còn phèn ở quân Vô Vi cho dân tự bán, quan phủ đặt trường bán, thuế hàng năm là 1.500.000 cân, dùng vốn 18.000 quan tiền. Từ giữa niên hiệu Trị Bình đến niên hiệu Nguyên Phong, số lượng không tăng giảm.
(Điều này căn cứ vào 《Thực hóa chí》, phụ lục cuối năm Nguyên Phong thứ 6.)
- Chữ 'vạn' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung ↵
- chỉ theo điều lệ cũ mà tính cử, chữ 'điều' nguyên là 'tu', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 43-65 sửa lại ↵
- Chữ 'vấn đối' ban đầu đảo ngược, căn cứ vào văn trên và 《Quận trai độc thư chí》 quyển 3 hạ sửa lại. ↵
- Đăng Lai đông bắc, chữ 'đông' nguyên là chữ 'canh', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 44-8 sửa lại. ↵
- Cần phải dùng cả vốn lẫn lãi để lập mức tổ riêng, chữ 'Tổ' nguyên là 'Tô', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. Dưới đây cũng vậy. ↵
- Đoạn từ Hồng Trạch trở lên chưa thể khởi công, chữ 'khắc' nguyên bản là 'miễn', theo 《Tống hội yếu》 phương vực 17.10 sửa lại ↵
- Theo《Tống hội yếu》thực hóa 2-26, chữ 'sáu' là 'chín'. ↵
- Từ khi cung Cảnh Linh mới xây xong mười một điện 'mới' chữ nguyên thiếu, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 81 phụng thái hoàng thái hậu bổ. ↵
- '15' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào bản các và 《Tống sử》 quyển 192, 《Binh chí》 sửa lại cho đúng. ↵
- Chữ 'giả' trong 'mười tấm lụa cho mười lăm người' vốn bị thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- Sâm nguyên là 'Bân', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 182 《Thực hóa chí》 sửa lại. ↵
- Kinh Hồ Nam lộ Đề cử thường bình đẳng sự, 'sự' nguyên là 'lộ', theo các bản sửa lại. ↵
- Các bản khác chép là 9.945 quan ↵
- Căn cứ vào ý văn, nghi ngờ dưới tên 'Lã Đại Phòng' thiếu chữ 'tâu'. ↵
- Huyện Bí Dương, châu Đường, nguyên bản viết 'châu Lư', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 7-31, 61-103 và 《Tống sử》 quyển 85, Địa lý chí sửa lại. ↵
- Thu nhập dư đinh: 'dư' nguyên là 'tiến', theo 《Tống hội yếu》 binh 2-28 sửa. ↵
- Xin cho năm năm thăng một chức: 'xin' nguyên thiếu, theo sách trên bổ sung. ↵