"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 344: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 7 (GIÁP TÝ, 1084)

Bắt đầu từ tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 3, ngày Canh Tý mùng một, phong Đổng Chiên làm Tiến phụng sứ, Lý Sất Nạp Khâm, Thứ sử châu Khuếch làm Thắng châu Đoàn luyện sứ.

[2] Ngày Tân Sửu, ban yến tiệc cho Văn Ngạn Bác ở vườn Quỳnh Lâm, Vua làm thơ ban cho ông.

[3] Lưu Xương Tộ xin đặt đồn bảo ở đường giữa trại Mễ Chất. Xu mật viện tâu: “Trại Mễ Chất cách châu Tuy Đức khá xa, nhưng từ khi thu phục đến nay, tuy có giặc cướp ngựa, nhưng không thành mối lo lớn. Ngựa giặc ở châu Lan gần đây bị tổn thất, e rằng chúng sẽ phẫn nộ, nếu khi khởi công, vạn nhất chúng kéo quân đến đánh, nếu sơ suất nhỏ cũng sẽ làm tăng thêm khí thế của giặc.” Chiếu cho Lưu Xương Tộ đợi khi việc phân định địa giới xong, sẽ có chỉ dụ riêng.

[4] Ngày Quý Mùi, chiếu phạt Lưu Xương Tộ, Tri châu Diên, 10 cân đồng, vì tội tự tiện gửi công văn thay đổi việc tuyển quân Phiên Lạc.

[5] Ngày Giáp Thìn, ban áo tía cho Liêm Chính Thần và Đổng Sân, Thiếu khanh Tư nông. Chính Thần tự tâu: “Trước đây làm Đề điểm ở kho trường trong kinh, trải qua 6 năm, thu được thừa 34 vạn thạch lương, 259 vạn bó cỏ.” Vì thế được khen thưởng.

[6] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu cho các quan Tường định trùng tu biên sắc sở là San định quan Thôi Đài Phù, Hình bộ thị lang, và Trung thư xá nhân Vương Chấn đều được thăng một bậc; các quan San định quan trước đây là Tri chế cáo Hùng Bản, Bảo văn các đãi chế Lý Thừa Chi, Lý Định được ban thưởng bạc, lụa mỗi thứ một trăm, vì sách đã hoàn thành.

Cần xem lại lúc bắt đầu trùng tu. Ngày 2 tháng 12 năm Hi Ninh thứ 9, ngày 18 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ nhất, ngày 13 tháng 5 năm thứ 3, ngày 15, ngày 9 tháng 8, ngày 12 tháng 10 năm thứ 5, ngày 15 tháng 12, ngày 1 tháng 9 năm thứ 6, cần tra cứu thêm. 《Nghệ văn chí》: 《Nguyên Phong biên sắc lệnh cách thức》, 《Xá thư đức âm》, 《Thân minh》 tổng cộng 81 quyển, năm Nguyên Phong thứ 7, Thôi Đài Phù và các quan khác biên soạn. 《Hình pháp chí》 chép: Lúc đầu bàn việc tu sửa sắc lệnh, trước tiên phải thiết lập cơ quan, ban chiếu cho trong ngoài bàn luận về những điều bất tiện trong pháp luật và những quy định chưa đầy đủ, sau đó mới sửa đổi. Những ý kiến được chấp nhận và thực hiện sẽ được khen thưởng và ghi nhận. Khi sách hoàn thành, ban chiếu cho Trung thư, Xu mật viện và các quan phụ trách hình pháp tham gia xem xét, đánh giá rồi tâu lên. Ban đầu, sắc lệnh năm Hàm Bình hoàn thành, có thêm một quyển 《Nghi chế lệnh》. Năm Thiên Thánh, lấy khoảng 500 điều trong 《Nghi chế lệnh》 năm Hàm Bình về những quy định trong sắc lệnh, đều đính kèm sau lệnh, gọi là 《Phụ lệnh》. Các năm Khánh Lịch, Gia Hựu đều theo đó. Sắc lệnh năm Hi Ninh tuy sửa đổi nhiều, nhưng thể chế không rõ ràng.

Đến năm Nguyên Phong, các quan Tường định tu sửa sắc lệnh xin được đối đáp, Vua hỏi về thể chế của sắc, lệnh, cách, thức, họ trả lời: “Dựa vào mức độ nặng nhẹ để phân biệt.” Vua nói: “Không phải. Cấm những việc đã xảy ra gọi là sắc, cấm những việc chưa xảy ra gọi là lệnh, đặt ra ở đây để đợi việc kia đến gọi là cách, đặt ra ở đây để người khác noi theo gọi là thức[1]. Người biên soạn sách cần phải hiểu điều này, có điển có tắc, để lại cho con cháu. Sắc, lệnh, cách, thức ngày nay chính là điển tắc. Nếu sách đầy đủ, triều đình tổng quản, các cơ quan tuân thủ, thì sẽ không có việc gì xảy ra.” Vì vậy, phàm những việc liên quan đến trượng, si, đồ, lưu, tử, từ danh lệ trở xuống đến đoán ngục tổng cộng 12 môn[2], những điều liên quan đến hình danh nặng nhẹ đều là sắc; từ phẩm quan trở xuống đến đoán ngục tổng cộng 35 môn[3], những điều quy định cấm chỉ đều là lệnh; thưởng cho quan chức có 17 bậc, thưởng cho lại, thứ dân có 77 bậc, lại có các cấp bội, toàn, phân, li tổng cộng 5 quyển, những điều có cấp bậc cao thấp đều là cách; tấu biểu, trướng tịch, quan điệp, phù hịch loại này tổng cộng 5 quyển, những điều có thể chế mẫu mực đều là thức; bắt đầu phân chia sắc, lệnh, cách, thức thành bốn loại.

Sắc năm Hi Ninh có 17 quyển, 《Phụ lệnh》 3 quyển; sắc năm Nguyên Phong có 13 quyển, lệnh 50 quyển. Sắc, lệnh năm Hi Ninh so với điều lệ năm Gia Hựu có giảm, sắc, lệnh năm Nguyên Phong so với điều lệ năm Hi Ninh có tăng, còn cách, thức thì không tính. Hai sắc lệnh có 《Thân minh》 mỗi loại một quyển.

Phong tục các nơi khác nhau, việc mỗi nơi mỗi khác, vì vậy ngoài sắc, lệnh, cách, thức, còn có sắc thức của một lộ, một châu, một huyện, một ty, một vụ, lại lập thêm các sắc lệnh của tỉnh, tào, tự, giám, khố, vụ tổng cộng một số điều. Mỗi lần tiến trình, nếu có chỗ mâu thuẫn, trùng lặp, Vua đều ghi chú sửa đổi, bảo khắc in lại, rồi mới thi hành, phòng ngừa như vậy là rất chu đáo.

Vua dụ An Đào về sắc, lệnh, cách, thức, đã thấy ngày 14 tháng 6 năm thứ 2.)

[7] Từ năm Gia Hựu thứ 6, bắt đầu ra lệnh cho các huyện thuộc phủ Khai Phong áp dụng luật nặng đối với những gia đình chứa chấp trộm cướp, sau đó dần mở rộng đến các châu Tào, Bộc, Thiền, Hoạt. Vào thời Hi Ninh, có một số quận xin áp dụng luật này, triều đình đồng ý và ban hành thành luật. Đến thời Nguyên Phong, sửa đổi lại luật này, từ đó các lộ Hà Bắc, Kinh Đông, Hoài Nam, Phúc Kiến đều áp dụng luật nặng, và các quận huyện áp dụng ngày càng rộng rãi.

Phàm những kẻ phạm tội cướp bóc đáng chết, tịch thu tài sản để thưởng cho người tố cáo, vợ con bị đày đi xa nghìn dặm. Nếu được ân xá hoặc giảm tội do thiên tai, thì bị đày đến những nơi xa xôi hiểm trở. Những kẻ phạm tội đáng bị lưu đày, thì bị đày đến Lĩnh Biểu; những kẻ phạm tội lưu đày được giảm tội, thì bị đày đi ba nghìn dặm, tịch thu một nửa tài sản để thưởng, vợ con bị giáng cấp theo mức độ khác nhau. Những kẻ bị đày, dù được ân xá, cũng không được di chuyển hoặc tha bổng. Những gia đình chứa chấp, nếu phạm tội cướp bóc đáng chết, tình tiết nặng thì bị chém, còn lại đều bị đày đến những nơi xa xôi hiểm trở, tịch thu một nửa tài sản để thưởng. Những kẻ phạm tội trộm cắp đáng bị lưu đày, thì bị đày đi năm trăm dặm, tịch thu một phần ba tài sản để thưởng. Những kẻ phạm tội trộm cắp ba lần, bị đánh trượng và đày đi năm trăm dặm hoặc châu lân cận. Dù không phải là nơi áp dụng luật nặng, nhưng nếu chứa chấp những kẻ phạm tội nặng, cũng đều xử theo luật nặng. Các chức tri huyện, quan bắt trộm cướp đều phải là người được tiến cử, hoặc dùng võ quan làm huyện úy. Nếu xảy ra vụ trộm cướp từ mười người trở lên, trong thời hạn quy định mà không bắt được một nửa, thì bị xét tội và xin chỉ dụ. Nếu lại giết quan lại, hoặc giết liên tiếp ba người, đốt nhà trăm gian, hoặc hoạt động cướp bóc trong phạm vi châu huyện, hoặc cướp bóc trên sông biển, dù không phải là nơi áp dụng luật nặng, cũng đều xử theo luật nặng.

(Sách 《Hình pháp chí》 có ghi chép này, nhưng không rõ thời gian, vì được biên soạn thành sắc lệnh nên ghi chép thêm, cần tra cứu kỹ.)

[8] Đại Lý tự thừa Quách Khái tâu rằng, khi đến Giang Ninh phủ xét vụ Trần Dịch, ba lần khai tội trạng đều không đầy đủ, xin bắt giam để tra hỏi. Chiếu chỉ rằng những tội Trần Dịch chưa nhận, chỉ dùng chứng cứ của mọi người để kết án.

[9] Ngày Đinh Mùi, ban cho Kinh Tây đô chuyển vận ty một trăm độ điệp để tu sửa kho chuyển vận. Sau đó lại ban thêm năm mươi.

[10] Chiếu rằng: “Kinh Đông chuyển vận sứ Ngô Cư Hậu tuân thủ chức trách, khiến tài chính dồi dào, lại chưa từng có sự thay đổi lớn, chỉ dùng lệnh cũ của triều đình, ắt là do thi hành có phép tắc kiểm tra, khảo sát. Nên lệnh cho Hộ bộ Tả tào xuống cho bản quan trình bày rõ sự việc, từ Tả tào chỉnh sửa, ban xuống các lộ tuân theo, để việc thu thuế tiếp tục được thực hiện tốt.” (Thực lục chỉ nói sửa đổi rồi tâu lên, nay theo Ngự tập.) Cư Hậu tâu: “Thần nghĩ rằng việc tụ người, quản lý tài chính đã được nói rõ trong Kinh Dịch, chiếu lệnh của triều đình lại càng chi tiết, nếu thi hành cẩu thả, thì hao tán, gian lận sẽ nảy sinh. Thần nhận mệnh ở Đông Châu, kế thừa tình cảnh khó khăn, lo sợ phạm tội, nên luôn dựa vào pháp luật, thử kiểm soát, phòng ngừa, nhưng suy nghĩ của kẻ ngu muội không đáng để thu nhận. Nay vâng mệnh triều đình trình bày, dám không dâng lên. Thần kính cẩn đem các án đã thi hành cùng các lệnh, sắc liên quan, so sánh thêm bớt, tóm tắt trình tự thi hành thành hai sách thượng hạ, hoặc có thể sửa đổi tệ nạn nhất thời và thi hành lâu dài, xin được xem xét kỹ, kính cẩn dâng lên theo trạng.”

(Cư Hậu dâng hai sách về việc kiểm tra, khảo sát, căn cứ theo chiếu chỉ ngày 3 tháng 8 năm Sùng Ninh thứ 2 thêm vào.)

[11] Đề cử Kinh độ chế trí Mục mã ty tâu: “Tả thị cấm Dương Tung ở Hà Đông mua được 288 con ngựa, Tung ban đầu nói Hà Đông lộ ước mua 8000 con ngựa.” Chiếu cho đề điểm hình ngục ty xét tội.

(Chu bản cho là việc nhỏ, bỏ đi.)

[12] Ngày Mậu Thân, chiếu rằng: “Tán trực trước đây có hai ban nhân viên, từ khi hợp thành một ban, chưa được quy định. Có thể giảm một chỉ huy sứ, hai đô tri, phó đô tri áp ban, thực hiện trong hai lần chuyển viên.”

[13] Chiếu cho các lộ tri châu chọn quan tại nhiệm có thể làm giáo thụ châu học[4], đưa về Quốc tử giám thẩm tra, cho kiêm quản.

[14] Tri châu Minh, Triều thỉnh đại phu Vương Tuân Long, Thông phán, Phụng nghị lang Mạnh Uẩn, đều bị giáng một cấp, vì tội sai cấm quân đi hộ tống.

[15] Ngày Canh Tuất, Vua ban chiếu chỉ cho Lưu Xương Tộ: “Tinh thần quân sĩ của bản lộ, từ khi Vĩnh Lạc thất thủ đến nay, bị tổn thương nặng nề, không còn như trước. Gần đây nghe nói các tướng lần lượt xuất quân, bắt được nhiều đầu giặc, tinh thần quân sĩ có phần khởi sắc, vậy những người có dũng khí phi thường nên được khen thưởng, để khích lệ tinh thần, khiến họ hăng hái chiến đấu. Nay ban cho khanh 50 chiếc áo chiến thêu gấm, 50 chiếc khăn buộc dây đỏ[5], 50 cây cung đen dây vàng, 50 bao cung vằn hổ, 50 ngọn giáo cán bạc, 50 tấm khiên tròn sơn đỏ, 50 thanh đao cán bạc mạ vàng, hãy chọn những người xứng đáng, tùy nghi ban thưởng.”

[16] Chiếu chỉ rằng các văn thư chuyển viên của các quân đều phải gửi đến Môn hạ tỉnh, và vẫn theo lệ của Xu mật viện, phải túc trực. Vì Môn hạ tỉnh tâu rằng: “Việc chuyển viên và thăng chức, bổ nhiệm của các quân, hoặc là ân điển tạm thời, nếu không gửi đến Môn hạ, sẽ thành lệ, dần dần bỏ bê chức vụ của bản tỉnh.”

[17] Ngày Tân Hợi, chiếu chỉ cấp 10 vạn tấm lụa từ kho Nội tàng cho lộ Hoàn Khánh. Kinh lược ty tâu rằng, lụa để thưởng công hiện chỉ còn hơn 4.000 tấm.

[18] Ngày Nhâm Tý, giáng chức Tuyên đức lang, Giám sát ngự sử Chu Kinh xuống làm Tuyên nghĩa lang, giám sát việc thuế muối và rượu ở quân Hưng Quốc. Trước đó, Chu Kinh tâu: “Triều thỉnh lang Đổng Dương Hưu, trước đây giữ chức Giám ty ở châu Nghi, vì bệnh tật mà bỏ trống việc quan nên bị thay thế, theo pháp luật thì nên cho làm ở cung quan, kéo dài thời gian khảo sát một năm. Cơ quan có thẩm quyền xét nghiệm thấy đủ điều kiện, Khảo công nói xin cho làm ở cung quan, nhưng Lưu đài không cho phép khảo sát. Dương Hưu tuy không xin, nhưng chưa có tiền lệ này, Ngự sử đài định sẽ theo pháp luật mà cho khảo sát, nhưng triều đình không chấp thuận. Triều nghị đại phu về hưu Tống Ngạn vì có việc nên được sai làm ở cung quan, đại thể giống như Dương Hưu, Vương Khuê và Thái Xác từ Trung thư tiến cử cho khảo sát, đổi làm Thái thường thiếu khanh. Xét: Dương Hưu 62 tuổi, Ngạn 69 tuổi, đều chưa đến 70, tuy cùng già yếu nhưng tuổi tác khác nhau. Dương Hưu đáng lẽ được khảo sát, nhưng vì sai làm ở cung quan nên việc xin không được chấp thuận, còn Ngạn thì tính cả thời gian làm hai nhiệm kỳ ở cung quan và Lưu đài, được cho khảo sát. Thần nghĩ rằng các đại thần tiến cử có tình cảm riêng tư, âm thầm thu hồi quyền lực, đổ lỗi lên trên, mong được xem xét lại và sửa đổi.” Trung thư môn hạ nói rằng lời tâu của Chu Kinh không đúng sự thật. Triều đình ra chiếu yêu cầu Chu Kinh giải trình, nhưng lời của Chu Kinh quả thực không đúng, nên bị khiển trách.

(Lời tâu ban đầu của Chu Kinh là ngày mùng một tháng 2, nay gộp vào đây.)

[19] Cựu Thông phán châu Đinh, Phụng nghĩa lang Quách Tường Chính bị cách chức. Vì khi tạm quyền châu Chương, bổ nhiệm tăng Đạo Hanh làm trụ trì, không đáng nhận vàng, hối hận trả lại chủ, cùng việc sai người đón tiếp trái pháp luật, dù đã được ân xá.

[20] Ngự sử trung thừa Hoàng Lí xin cùng Thị ngự sử Trương Nhữ Hiền tiến cử người làm Ngự sử. Được chấp thuận.

[21] Ngày Quý Sửu, phân công các phụ thần cầu mưa.

[22] Chiếu chỉ: “Tuy trong phẩm lệnh có quy định về chức Tự vương, nhưng từ khi lập quốc đến nay chưa từng phong, nên cơ quan không thể định rõ ân điển. Gần đây phong Tông Huy làm Tự Bộc vương, nên giao cho Ngự sử đài và Cáp môn tham khảo định rồi tâu lên.”

(Ngày 14 tháng 2.)

[23] Lại có chiếu chỉ: “Bảo giáp hai lộ Kinh Đông, Kinh Tây thuộc quản lý của Ty Đề cử, gần đây đã đặt riêng quan chức phụ trách, nhưng việc nuôi ngựa trong các đô bảo lại do dân bảo đảm nhận, lý khó mà thuộc cả hai bên. Nay lệnh cho Hoắc Tường, Lữ Công Nhã đều kiêm nhiệm việc bảo giáp.”

[24] Chiếu giao cho Phó sứ Chuyển vận Thiểm Tây Phạm Thuần Túy: “Từ khi bản lộ dùng binh đến nay, chi phí hàng năm rất lớn, triều đình trước sau đã ứng phó không ít, nhưng việc mua lương thực và các nhu cầu khác ở biên giới vẫn chưa đủ. Gần đây đã bàn kế hoạch, lệnh cho Từ Châu thuộc Kinh Đông đúc 20 vạn quan tiền lớn loại chiết nhị, tính ra tương đương 40 vạn quan tiền nhỏ, định mỗi năm vận chuyển đến Thiểm Phủ để hỗ trợ kinh phí. Chưa biết có gây ra tình trạng tiền tệ nhiều mà giá trị thấp hay không, hãy nhanh chóng tâu lên.” Thuần Túy tâu rằng:

[25] Hiện tại bản lộ có 9 xưởng đúc tiền đồng và tiền sắt cũ mới, đúc khoảng 1 triệu quan tiền lớn loại chiết nhị, tính ra tương đương 2 triệu quan tiền nhỏ. Vốn dĩ do kinh phí của bản lộ quá lớn, chỉ lo việc đúc tiền không đủ nhiều, nay nếu mỗi năm vận chuyển 40 vạn quan tiền đúc từ Từ Châu đến bản lộ, chỉ là tăng thêm 2/10 số lượng tiền sắt đúc hàng năm của bản lộ, thì chưa đến mức gây hại do tiền tệ nhiều mà giá trị thấp.

[26] Tuy nhiên, thần trộm nghĩ có điều cần bàn, nhân cơ hội được hỏi, xin trình bày sơ lược. Thần từ trước khi có chiến sự đã tham gia quản lý việc tài chính, cho đến ngày nay. Đúng lúc tài chính khó khăn này, lại được triều đình mỗi năm vận chuyển 40 vạn quan tiền mặt đến bản lộ để hỗ trợ kinh phí, lại hỏi ý kiến thần, thần thấy mình thật may mắn. Nhưng nếu thần chỉ nghĩ đến lợi ích của bản lộ mà không lo tính kế lâu dài cho triều đình, thì thật là bất trung, điều đó thần không dám làm. Xin kính cẩn trình bày các điều sau:

[27] 1. Xét thấy các vùng biên giới dọc theo địa phận này từ lâu đã khó có được tiền mặt. Hàng năm, ngoài việc dùng lợi tức thuế khóa của địa phương để chi trả các khoản phí, số tiền còn thiếu đều được tích trữ từ các xưởng đúc tiền ở các châu Thương, Quắc, Hoa, Thiểm thuộc Vĩnh Hưng, và phải thuê người vận chuyển từ các vùng lân cận, chi phí vận chuyển rất lớn. Ví dụ, vận chuyển 10.000 quan tiền sắt từ phủ Thiểm đến châu Tần, chi phí vận chuyển lên đến hơn 2.690 quan. Nếu nay đúc tiền ở Từ Châu rồi vận chuyển đường thủy đến phủ Thiểm, thần không rõ chi phí đúc 10.000 quan tiền sắt ở Từ Châu là bao nhiêu, cộng thêm chi phí vận chuyển đường thủy và bộ dọc đường, cùng với chi phí vận chuyển từ phủ Thiểm đến biên giới, thì trong 10.000 quan tiền đó, sau khi trừ chi phí vận chuyển của địa phương, số tiền thực tế thu được ở biên giới là bao nhiêu. Thần e rằng sẽ lãng phí vô ích. Nếu xét theo bản ty, thì việc chuẩn bị đã nhiều, nhưng nếu tính cho triều đình, e rằng không chỉ lãng phí sức lực quốc gia, mà còn lo ngại rằng các địa phương trên đường vận chuyển sẽ hao tổn công sức và tiền của, cuối cùng không có hồi kết. Kính mong Thánh thượng xem xét kỹ lưỡng, giao cho các cơ quan hữu trách tính toán và thi hành.

[28] 2. Trước đây, thần từng bị giáng chức từ chức vụ trong công phủ xuống làm tri huyện Đằng thuộc Từ Châu, gần với Lợi Quốc giám. Thần nghe nói rằng giám này tuy có sản xuất sắt, nhưng sắt ở đây thô giòn, chỉ thích hợp để chế tạo vũ khí, còn việc đúc tiền thì chưa rõ kết quả thế nào. Sắt dùng ở các xưởng đúc tiền tại Thiểm Tây, nếu quá thô giòn thì khó gia công, dễ bị vỡ; nếu quá đặc và đục thì kim loại dễ đông cứng, chảy không đều, chữ trên tiền thường mờ nhạt, khó phân biệt với tiền giả, gây hại không nhỏ. Thêm nữa, thần xét thấy 200.000 quan tiền sắt loại lớn chiết hai ở Thiểm Tây cần dùng 3.600.000 cân sắt và 6.000.000 cân than củi. Thần ước tính nguyên liệu đúc tiền sắt ở Từ Châu cũng tương tự, nhưng chưa rõ sản lượng sắt và than hàng năm ở đây có đủ để đúc 200.000 quan tiền hay không. Đây tuy là nỗi lo riêng của thần, nhưng cũng kính mong triều đình xem xét và thi hành.

[29] Thứ nhất, thần cho rằng phương pháp vận chuyển tiền tệ nhanh chóng, không gì bằng việc sử dụng thương nhân, là cách đơn giản và tiện lợi nhất. Thần thấy rằng các lộ ở đông nam hàng năm dùng tiền mặt để cung cấp cho triều đình, không biết là mấy trăm vạn, việc vận chuyển đường thủy và đường bộ tốn nhiều công sức và chi phí. Sau khi vận chuyển đến kinh thành, thường được triều đình dùng công cứ để triệu tập người dân ở Thiểm Tây đến nhận tiền, rồi lại phải xin xuất từ nội khố, cũng tốn kém công sức. Thần lại thấy rằng từ Quan Thiểm về phía tây đến các lộ dọc biên giới, có khá nhiều thương nhân từ đông nam, đặc biệt là ở các nơi như Vĩnh Hưng quân, Phượng Tường phủ. Từ trước đến nay, vấn đề là khi bán được tiền mặt thì không có hàng hóa để mang về, nay nếu thiết lập nghiêm ngặt các biện pháp kiểm soát và cấp phép, triệu tập người dân ở các lộ gần Thiểm Tây và dọc biên giới đến nộp tiền, cấp phép, rồi trực tiếp về các châu huyện quê hương để nhận tiền, thì cả công và tư đều được lợi, không gì bằng cách này. Nếu lo ngại rằng các lộ dọc biên giới thu được không nhiều, thì chỉ cần ở Vĩnh Hưng quân, Phượng Tường phủ và các nơi khác thu được vài chục vạn quan, chắc chắn sẽ đủ. Như vậy, không tốn công sức của cả công và tư, có thể nhanh chóng vận chuyển được vài chục vạn quan tiền mặt từ các lộ khác về phía tây Quan Thiểm, so với việc đúc tiền ở Từ Châu, tốn kém chi phí vận chuyển xa, hao hụt quá nửa, mà chỉ đến được Thiểm Tây, thực sự là tiện lợi và tiết kiệm. Thần với kiến thức nông cạn xin trình bày như vậy, mong triều đình xem xét và thi hành.

[30] Lại nữa, thần kính cẩn xem xét chiếu chỉ, chỉ là hỏi về tác hại của việc tiền tệ nhẹ và nhiều, nhưng thần ngoài câu hỏi của Thánh thượng, lại dám trình bày những lời phiền toái, làm phiền đến Thiên thính, tội đáng chết. Nhưng nghĩ đến nghĩa vụ phụng sự quân vương, biết gì nói nấy, chỉ mong Thánh thượng thương xét sâu sắc.

(Thuần Túy tấu việc này vào ngày 14 tháng 3, nay phụ vào ngày tháng này. Diệp Mộng Đắc nói là ba trăm vạn quan, đó là nhầm, đã chú thích đầy đủ vào ngày 6 tháng 9 năm thứ 6. Thuần Túy ngày 12 tháng 4 năm thứ 8 từ Hữu ty ra làm chuyển vận ở Kinh Đông, ngày 2 tháng 9 lại tấu việc này, có thể tham khảo thêm.)

[31] Ngày Giáp Dần, Phó chuyển vận sứ lộ Phúc Kiến là Vương Tử Kinh tâu: “Kiểm tra việc bán muối ở các châu Phúc, Tuyền, Chương và quân Hưng Hóa, thấy giá cả khác nhau, xin được quy định thống nhất.” Chiếu chỉ cho Hộ bộ: Nếu không ảnh hưởng đến số lượng muối đang bán, thì theo như lời tấu.

[32] Ngày Ất Mão, Phó sứ phát vận các lộ Giang Hoài, Triều phụng đại phu Tưởng Chi Kỳ, và Đô thủy giám thừa, Thừa vụ lang Trần Hữu Phủ, mỗi người được thăng hai chức, những người khác được giảm năm khảo khóa[6], thăng chức tùy theo thứ bậc. Đó là do chiếu chỉ trên có viết: “Nghe nói việc đào kênh Quy Sơn đã giúp việc vận chuyển lương thực tránh được nguy hiểm sóng gió trên trăm dặm sông, dân chúng khắp nơi đều vui mừng. Những người đầu tiên đề xuất và giám sát công trình thành công, hãy để Ty Huân xét công ban thưởng và tâu lên.”

Việc đào kênh Quy Sơn bắt đầu vào ngày 28 tháng 11 năm thứ 6. 《Thần Tông bảo huấn》 phần bàn về sông ngòi chép: Năm thứ 7, Phó sứ phát vận Giang Hoài Tưởng Chi Kỳ xin đào một con kênh mới dài 57 dặm từ sườn núi Quy Sơn, Tứ Châu đến Hồng Trạch để tránh nguy hiểm của sông Hoài dài. Tháng 2, báo cáo thành công. Tưởng Chi Kỳ dâng biểu kế hoạch lên kinh đô, vẽ đồ đệ trình. Vua hỏi: “Quy Sơn cũng là dòng sông cũ sao?” Chi Kỳ đáp: “Đào núi làm kênh, không phải sông cũ. Khi đào kênh, tìm được 14 đồng tiền, chữ khắc đều là ‘Khai thông’, người hiểu biết cho rằng đó là điềm báo việc đào kênh sẽ thông suốt, giống như việc Lý Bật đào núi Chỉ Trụ tìm được cây kích, chữ khắc ‘Bình Lục’, ứng với việc dẹp yên đất Bình Lục.” Vua mừng, bèn hạ chiếu: “Việc đào kênh Quy Sơn đã giúp việc vận chuyển lương thực tránh được nguy hiểm sóng gió trên trăm dặm sông. Những người đầu tiên đề xuất và giám sát công trình thành công, hãy để Ty Huân xét công ban thưởng và tâu lên.” Bèn phong Tưởng Chi Kỳ làm Trực Long đồ các, thăng hai bậc, những người khác được thăng chức, giảm năm khảo khóa, thăng chức tùy theo thứ bậc. Việc đào kênh bắt đầu ngày 28 tháng 11 năm thứ 6, ngày 16 tháng 2 năm thứ 7 thăng hai chức. Tưởng Chi Kỳ được bổ làm Trực Long đồ các, thăng làm Phát vận sứ, sau khi Triết Tông lên ngôi, có thể tra cứu trong bản truyện, 《Bảo huấn》 chép nhầm.

《Hà cừ chí》 quyển 2 chép: Kênh Quy Sơn, năm Hi Ninh, Bì Công Bật đề nghị nạo vét con kênh mới do Hứa Nguyên đào, từ Hoài Âm đến Hồng Trạch, dài 49 dặm, để tránh nguy hiểm của sông Hoài dài, chiếu theo đó. Phát vận sứ La Chửng đề nghị đào kênh Quy Sơn đến Hồng Trạch, Công Bật ra sức ngăn cản. Vua thấy Công Bật cản trở công việc, càng muốn dùng kế của Chửng. Năm Nguyên Phong thứ 6, nhân Phó sứ phát vận Tưởng Chi Kỳ dâng biểu kế hoạch lên kinh đô, đề xuất: “Trên có Thanh Biện, dưới có Hồng Trạch, mà nguy hiểm sóng gió chỉ trên trăm dặm sông Hoài[7], những năm gần đây thuyền bè chìm đắm, mất mát tài sản công tư không thể kể xiết! Từ các nơi chuyển vận qua hồ, sông hàng ngàn dặm xa, mà đắm chìm chỉ trong trăm dặm gần, thật đáng tiếc.” Vua bèn sai Đô thủy giám thừa Trần Hữu Phủ đi khảo sát. Chi Kỳ đề nghị từ Xà Phố, Quy Sơn phía trên đến Hồng Trạch phía dưới, đào một con kênh phụ, lấy nước sông Hoài, không đặt đập nước. Hữu Phủ tâu lại lời đó, lại tâu thêm rằng chi phí công trình rất lớn. Vua nói: “Chi phí tuy lớn, nhưng lợi ích cũng nhiều.” Hữu Phủ nói: “Những năm trước, mỗi năm mất khoảng 170 thuyền trên sông Hoài, nếu bỏ ra số tiền tổn thất trong vài năm, đủ để làm công trình.” Vua nói: “Tiền bạc tổn thất còn nhỏ, tính mạng con người thì sao!” Chiếu sai Tưởng Chi Kỳ, Trần Hữu Phủ giám sát công trình, huy động 103.000 dân phu từ 12 châu, bắt đầu từ ngày Mậu Thìn tháng giêng, đến ngày Ất Mùi tháng 2 báo cáo hoàn thành. Kênh dài hơn 57 dặm, việc vận chuyển lương thực không còn lo ngại sóng gió làm đắm chìm. Vua sai trung quan đến ban thưởng, chiếu cho những người đề xuất và hoàn thành công trình được ban thưởng, lệnh Tưởng Chi Kỳ soạn bài ký, khắc vào đá ở Quy Sơn.)

[33] Ban thưởng cho Triệu Tế, quyền phát khiển Hi Châu kiêm quản câu Hi Hà Lan Hội lộ kinh lược ty, 600 lượng bạc và lụa, ban sắc khen ngợi, vì đã kịp thời ứng phó quân sự.

[34] Lễ bộ tâu: “Thành Châu tấu xin xây hai ngôi chùa ở nơi thuận tiện giữa đường, núi Đại Bộ muốn đặt tên là Tĩnh Hóa, thành Cổ Dung muốn đặt tên là Hoài Hóa, xin mỗi năm độ hai nhà sâu.” Được chấp thuận.

[35] Triều Lập, giám áp trại Phù Đồ, điện trực, bị xử tội chết, được tha, bị tước chức, bãi nhiệm, truất hai quan chức. Vì đã ra lệnh cho thập tướng Tục Liên giết chủ trại Ngốc Đầu là Vương Kiệt đã đầu hàng.

[36] Giám sát ngự sử Kiển Tự Thần và Trạch Tư cùng giữ chức điện trung thị ngự sử.

[37] Ngày Bính Thìn, Hộ bộ tâu: “Yên Nhược Cổ, đề cử kinh đông lộ thường bình đẳng sự, xin cho các châu, huyện đối chiếu các khoản nợ tiền, thóc để thúc giục các lệnh, tá. Xin hạ lệnh cho đề cử thường bình ty liệt kê các chức vụ, tên tuổi có thể đối chiếu, trình lên bộ và thông báo cho Lại bộ.” Được chấp thuận.

[38] Chiếu rằng: “Các châu ở Quảng Nam Tây lộ chiêu mộ người địa phương vào quân Hùng Lược, Trừng Hải, ngoài việc cấp 7.000 tiền theo lệ chiêu mộ, còn tăng thêm: người ở doanh trại Ung Châu, mỗi người 5.000, các nơi khác mỗi người 3.000. Liệt kê số lượng và thông báo cho các lộ đang chiêu mộ.”

[39] Trung thư xá nhân kiêm thị giảng Thái Biện tấu: “Thần đã lâu không có đóng góp gì, lại tiến cử người không xứng đáng. Xin bãi chức của thần, cho một nhiệm vụ bên ngoài.” Chiếu không cho phép.

(Theo 《Ngự tập》. Cần xem Thái Biện tiến cử ai, hoặc xem bản Chu.)

[40] Ngày Đinh Tỵ, tổ chức yến tiệc lớn ở điện Tập Anh. Trong buổi yến tiệc, hoàng tử Diên An quận vương lần đầu tiên đứng hầu trước mặt, tể thần Vương Khuê dẫn đầu trăm quan vào chúc mừng. Vua tuyên đáp rằng: “Việc vui của hoàng gia, cùng với các khanh, rất đỗi vui mừng.” Khi Vương Khuê và các quan lên điện, Vua lại bảo Vương Khuê và các quan tiến lên[8], chia ban lạy tạ rồi ngồi xuống. Một lúc lâu sau mới lui ra. Hoàng tử tuổi còn nhỏ chưa đến lúc ra ở riêng, Vua đặc cách cho hầu yến để gặp mặt quần thần.

(Triết Tông sinh tháng 12 năm Hi Ninh thứ 9, năm nay 9 tuổi. 《Cựu kỷ》 chép: Ngày Đinh Tỵ, yến tiệc quần thần ở điện Tập Anh, Diên An quận vương đứng hầu bên cạnh ngự tọa, tể thần Vương Khuê dẫn đầu trăm quan vào chúc mừng. Khi lên điện, Vua bảo gặp mặt hoàng tử. Một lúc lâu sau, hoàng tử mới lui ra. 《Tân kỷ》 chỉ chép việc đứng hầu và vào chúc mừng.)

[41] Ngày Kỷ Mùi, ban chiếu rằng: “Khu vực Hi Hà mới khai phá chưa lâu, mọi chi phí đều phải tính toán từng li từng tí, vẫn chưa dễ dàng cung ứng đủ. Những dụng cụ phòng thủ thành trì tuy là vật thô sơ, nhưng giá trị ở vùng biên ải cũng không phải nhỏ. Nếu dùng để chống giặc, chưa phải là việc cấp bách, thật là lãng phí. Có thể xuống lệnh cho Kinh lược an phủ chế trí ty, căn cứ vào những hạng mục khẩn cấp trong bộ 《Bách bộ thủ thành pháp》 đã ban hành, tùy nghi quyết định rồi tâu lên, đừng để thiếu thốn dụng cụ chống giặc.”

[42] Ngày Canh Thân, Vua ngự ở điện Sùng Chính duyệt việc thay đổi chức vụ của các quân, kéo dài ba ngày.

[43] Chiếu cho Lưu Xương Tộ: “Nghe nói người Hạ do gián điệp truyền tin sai lệch rằng nhà Hán muốn xây thành ở Hồ Lô Hà, bèn điều động chín phần mười quân mã ở phía bắc và phía nam sông Hà, tập trung tại Luyện Gia Lưu. Nên bố trí trạm canh xa, nắm rõ hướng tiến của giặc, dọn sạch đồng ruộng, giữ vững thành trì, đó là thượng sách để chế ngự giặc.” Trên phê ở cuối chiếu rằng: “Quân binh của bản lộ nhiều lần xuất kích bắt sống và chém giết, gần đến số ngàn. Người Khương có tục trọng thù báo, nay quân mã tập trung mà không thấy quân Hán, thế tất không trở về tay không, ắt sẽ cướp bóc các lộ. Trong các lộ, bản lộ lại có chỗ sơ hở, e rằng sẽ là nơi đầu tiên đối mặt với giặc, không thể không chuẩn bị thật kỹ.”

[44] Chiếu rằng Ngự sử trung thừa đứng trên Thị lang của Lục bộ.

[45] Chiếu rằng: “Các Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông cho quân sĩ và ngựa nghỉ ngơi, không xuất quân ra ngoài biên ải nữa, chỉ lo phòng thủ, đợi đến mùa thu này sẽ nghe chỉ huy riêng.”

[46] Xu mật viện tâu: “Các chỉ huy Mã quân và các ban trực[9], do xuất chức theo năm tháng và quân công mà được thăng bổ, nay chuyển viên ước đến chức Quân sứ[10], mỗi nơi đều có số dư, việc thăng bổ không tiến hành được.” Chiếu rằng: “Tạm thời đặt thêm 240 chức Quân sứ hạ danh[11]: Phủng Nhật, Long Vệ mỗi nơi 40, Củng Thánh, Kiêu Kỵ mỗi nơi 50, Vân Kỵ 30, Kiêu Thắng 30. Tạm thời đặt thêm 90 chức Phó Binh mã sứ hạ danh: Củng Thánh, Kiêu Kỵ, Vân Kỵ mỗi nơi 30.”

[47] Tri phủ Thái Nguyên Lữ Huệ Khanh tâu: “Xem xét việc khai khẩn đất bỏ hoang ở ba châu Lân, Phủ, Phong, thu hoạch rất nhiều, có thể giúp ích cho biên cương, xin mở rộng sang Thiểm Tây lộ.” Chiếu cho Kinh lược ty Thiểm Tây lộ xem xét kỹ rồi thi hành. (Ngày Đinh Mùi 10 tháng 7, cần xem lại, việc này trùng với việc kia, chỉ khác về kinh lược. Trong 《Lữ Huệ Khanh gia truyền》 có thể chép thêm, nay phụ vào đây, cần xem xét kỹ hơn.

《Gia truyền》 chép: Mùa xuân năm thứ 7, Huệ Khanh nhậm chức, đến phía bắc Hà Dương, thấy dân lưu tán cõng già dắt trẻ nối nhau trên đường, đều là dân của bản lộ. Đến nơi, nghĩ cách an dân theo ý trên, trước tiên tâu lên ba việc cấp bách nhất. Thứ nhất, từ năm thứ 5 khi quân sự khởi phát, điều động dân phu và lừa, mỗi phu quan phí trả một nghìn tiền, một thạch gạo, mỗi con lừa trả năm trăm tiền. Nhưng dân gian từ Thái Nguyên đến Lộ Châu đến ngoài sông, chi phí một phu lên đến trăm nghìn, giá một con lừa lên đến mười nghìn, điều ba nghìn con lừa, tốn đến bốn vạn quan tiền, mà quan phí chỉ hơn nghìn xâu. Sau đó, hữu ty lại cho rằng chỉ đến biên giới, chưa vào địa phận, nên đòi lại số tiền đã chi. Thứ hai, ở Hà Đông ngoài hai thứ thuế, còn có thuế hoà địch, chi di, khổ sở như thuế chính, mà khi gặp thiên tai không được miễn giảm. Từ khi quân sự khởi phát, dân càng khổ vì vận chuyển xa. Thứ ba, Chuyển vận ty Hà Đông mỗi năm vận chuyển mười vạn thạch lương đến Phu Diên, chi phí dân gian gần gấp năm lần mới đủ, mà Kế ty không dám tâu lên, Huệ Khanh đều xin bãi bỏ. Do đó, dân lưu tán trở về làm ăn nối nhau. Biên giới bốn lộ Hà Đông dài hơn hai nghìn dặm, bảy vạn quân, theo chế độ cũ phân tán lộn xộn, chiến đấu và phòng thủ không phân biệt, tệ như ở Thiểm Tây. Huệ Khanh chia thành mười hai tướng: hai tướng phòng bắc, một tướng ở Lam, Thạch, một tướng ở Phủ Châu, còn tám tướng thay nhau trấn giữ ngoài sông.

Tất cả các biện pháp được thực hiện đều áp dụng theo phương pháp của Thiểm Tây. Từ sau khi quân đội xuất chinh không thành công, thế lực của địch càng mạnh, lòng người hoang mang lo sợ, dân biên giới rút lui không dám canh tác nữa. Vùng đất mới Gia Lô, Ngô Bảo, gọi là Mộc Qua Nguyên, đất đai màu mỡ đặc biệt, đều là những nơi mà người Tây trước đây dựa vào để làm cho đất nước hùng mạnh. Huệ Khanh sai Tri châu Thạch Châu là Triệu Tông Bản đi khảo sát, thấy có nhiều đất có thể canh tác. Bèn thuê trâu cày của năm huyện, phái quân lính bảo vệ bên ngoài để canh tác, trong mười ngày đã gieo trồng được 529 khoảnh đất. Lại canh tác thêm 730 khoảnh đất ở các châu Lân, Phủ, Phong; 960 khoảnh đất của dân binh cung nỏ và dân nghèo không có sức, cùng những nơi trước đây không canh tác được. Dân biên giới bắt đầu lại có lợi từ việc canh tác, đến mùa thu thu hoạch thì bán lúa cho quan phủ, nhờ đó mà kế hoạch biên giới được thư thả.

Huệ Khanh bèn dâng sớ xin làm ruộng đồn điền, đại lược nói rằng: “Hiện nay, vùng đất tốt trong và ngoài Gia Lô, Mễ Chi không dưới một hai vạn khoảnh. Người Tây gọi đó là Yết Đầu Thương, hoặc Chân Châu Sơn, hoặc Thất Bảo Sơn, ý nói nơi đó sản xuất nhiều lúa thóc, và phần lớn nguồn lực trong nước đều xuất phát từ đây. Nếu thực sự có thể áp dụng biện pháp, canh tác một phần đất đó, thì chi phí nuôi quân ở hai lộ trại mới đã gần như đủ, và nguồn lực cần từ nội địa cũng không nhiều, huống chi là khai phá toàn bộ? Tuy nhiên, lý do không dám canh tác là vì phía trước không có sự bảo vệ, mà quân giặc vẫn thường xuyên xuất hiện, và quan phủ chưa có biện pháp để canh tác. Việc bảo vệ biên giới, bảo vệ canh tác, không gì bằng xây dựng các trại bảo. Nhưng những người bàn luận chỉ nhắc đến thất bại ở Vĩnh Lạc, mà không xét đến nguyên nhân thất bại, nên bỏ qua không dám bàn, đó không phải là kế sách hay. Nếu thực sự không thể xây dựng các trại bảo, thì tất cả các thành trại mới cũ đều không thể giữ được; nếu thực sự có thể giữ được, thì tại sao không xây dựng để chiếm giữ các vị trí then chốt, mà để cho giặc tự do xuất hiện mà không dám canh tác?

Hiện nay, Gia Lô cách Mễ Chi về phía tây nam chỉ 120 dặm, nếu hai lộ mỗi nơi xây một trại, thì khoảng cách giữa các trại chỉ khoảng 40-50 dặm. Lại đặt thêm các đồn nhỏ ở giữa để liên lạc với nhau, thì các thành trại như Nghĩa Hợp, Bạch Thảo của Diên Châu, cùng Ngô Bảo, Khắc Ô của Thạch Châu về phía nam, tất cả hơn nghìn dặm biên giới, đều trở thành nội địa. Quân lính có thể dời đến các trại mới, việc xây dựng trại ban đầu tuy cần tăng thêm một ít quân thường trú, nhưng số lượng tăng không nhiều, mà khai thác đất đai để cung cấp cho quân đội, tuy có dựa vào nội địa, nhưng nguồn lực cần không nhiều. Còn những vùng đất hoang ở ba châu bên ngoài sông, cùng những nơi trước đây bị người Tây xâm chiếm, và những nơi Tô An Tĩnh xin bỏ hoang vì không canh tác được, thần đều có biện pháp để canh tác. Lại kịp thời mua lúa từ bên ngoài sông, và yêu cầu dân trong nội địa nhận được văn thư thì đóng góp một phần phí vận chuyển hợp lý, nhờ đó bãi bỏ việc vận chuyển xa và mua lúa đắt đỏ đã kéo dài trăm năm, gây khó khăn cho cả công và tư. Trong một hai năm, tài lực dần dồi dào, lại thông đường từ Gia Lô đến Thần Mộc của Lân Châu, việc xây dựng các trại bảo cũng theo phương pháp như Gia Lô, Mễ Chi, thì toàn bộ vùng đất màu mỡ ở Hoành Sơn đều thuộc về ta. Khiến hai lộ châu quân bên tây sông thông suốt với nhau, tự đủ thành một lộ.

Nếu địch đem toàn quốc đánh lớn, thì cố thủ không giao chiến, để tránh thế mạnh của chúng; nếu chúng phân tán hoặc đánh nhỏ, thì chọn thời cơ thuận lợi xuất kích, đánh vào chỗ sơ hở của chúng. Dù chưa tiêu diệt được chúng, nhưng chúng không có chỗ trở về, nếu không chạy xa vào sa mạc, ắt sẽ xin giảng hòa phân định biên giới, thì tham vọng xâm lược của chúng sẽ tiêu tan, lòng quy phục sẽ vững chắc, và biên giới sẽ yên ổn. Thần nghĩ rằng các tướng lĩnh đã không thể lập kế hoạch một trận đánh lớn tiêu diệt địch từ trước, nay vâng theo chiếu chỉ, thần xin cân nhắc biện pháp, lập kế hoạch lâu dài chống địch ở biên giới phía tây, không gì hơn kế sách này.”

Bèn trình bày các biện pháp thực hiện, điều kiện cụ thể để tâu lên, nhưng triều đình chưa kịp xử lý. Kế hoạch chống địch lâu dài, thực lục ghi vào ngày 10 tháng 7. Căn cứ theo tấu chương ngày 27 tháng giêng năm thứ 8, thì việc làm ruộng đồn điền không như lời Huệ Khanh nói.

[48] Ngày Tân Dậu, ban chiếu cho huyện Vĩnh An[12]: “Các quan câu đương lăng tẩm và nội phẩm phụ trách hương hoả ở sáu lăng thuộc phủ Hà Nam, từ trước đến nay theo lệ thường, thường rời xa lăng tẩm để đón tiếp sứ khách. Từ nay cấm chỉ tất cả, nếu không có mệnh lệnh triều đình mà tự ý rời khỏi lăng tẩm, sẽ xử theo pháp luật về tội tự ý bỏ nhiệm sở.[13]

[49] Cơ quan chuyển vận Kinh Đông lộ tâu: “Tiền tạp thu ở các trường muối không thuộc vào số vốn và lãi, xin mỗi năm chi 300 nghìn quan làm công sử cho bản ty. Nếu có chi phí khác hoặc thu vượt quá số quy định, đều xử theo tội vi chế, không được giảm tội dù đã bãi chức hoặc được ân xá.” Triều đình đồng ý.

[50] Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu tay cho Lý Hiến: “Trước đây ngươi tâu rằng Quỷ Chương dâng 13 con ngựa, xin mua giấy để viết kinh. Giấy có thể ban cho, nhưng trả lại ngựa.”

[51] Ban chiếu cho Chu Bang Ngạn, ngoại xá sinh Thái học, làm thí Thái học chính, tạm quản lý chức chủ bạ và uý huyện. Bang Ngạn dâng bài phú 《Biện Đô phú》, Vua thấy trong số hàng trăm thái học sinh dâng phú tụng, chỉ có văn chương của Bang Ngạn là đáng khen, nên thăng chức. Bang Ngạn là người Tiền Đường.

[52] Lữ Công Nhã, đồng quản câu bảo mã Kinh Tây, tâu: “Ngựa bảo mã gầy yếu, đã lập pháp bồi thường, nhưng ngựa béo tốt chưa có khen thưởng. Xin mỗi con ngựa bảo mã đẻ ngựa con thì thưởng 1 tấm lụa, ngựa béo tốt thì thưởng bạc. Lại xin mượn 5 vạn quan tiền thường bình, chia đều cho các châu huyện sinh lãi để chi trả tiền bạc và lụa. Mỗi năm vào tháng 4, tập trung chăn thả, có thể sinh sôi nhiều.” Triều đình đồng ý, Kinh Đông lộ cũng làm theo.

(Ngày 5 tháng 5 năm thứ 5, lại ngày 14 tháng 9, lại ngày 8 tháng 2 năm thứ 7, lại ngày 26 và 29 tháng 5.)

[53] Kinh Đông lộ Đô chuyển vận sứ Ngô Cư Hậu tâu: “Trấn Bản Kiều, châu Mật, phía đông giáp biển lớn, là nơi tụ tập của thương nhân bốn phương, nhưng không có tường thành. Xin điều động dân phu mùa xuân năm sau xây tường cao dày để bao bọc dân cư, đặt cửa khóa. Những căn nhà nhỏ nổi trên bãi biển phần lớn chứa giấu vật cấm và trộm cướp, xin cho phá bỏ, và giao cho châu Mật kiểm soát.” Triều đình đồng ý.

[54] Kinh Tây lộ Chuyển vận phán quan Thẩm Hi Nhan tâu: “Quan giám thuế rượu ở bản lộ thiếu người và không đủ năng lực, xin không theo lệ thường, tâu cử quan văn võ có năng lực.” Hộ bộ tâu rằng việc bãi bỏ tiến cử quan lại trong và ngoài đã có lệnh. Chiếu chỉ rằng nơi nào thuế lợi đạt một vạn quan trở lên thì theo lời xin của Hi Nhan.

(Ngày 15 tháng 6 có thể tra cứu.)

[55] Chiếu chỉ cho các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hoài Nam: “Nghe nói các lộ này lâu không mưa, có thể đến các danh sơn và đền linh, giao cho quan địa phương cầu mưa.”

[56] Ngày Giáp Tý, tướng thứ hai của Phu Diên lộ, Tây đầu Cung phụng quan Trương Hy bị giáng một chức và cách chức. Trước đây, Kinh lược ty ra lệnh cho Hy đem quân đến chùa Khai Quang bảo vệ người chở thuế, nhưng Hy tự ý đem quân vào thung lũng Mễ Chi đốn gỗ, giặc cướp người chở thuế, giết 14 người, Hy không kịp ứng cứu. Kinh lược ty hặc tội và bắt giam Hy. Đại Lý tự xử phạt Hy 5 cân đồng, và xin hặc tội các quan lại không nên bắt giam Hy. Lưu Xương Tộ tâu: “Hy cố tình không tuân lệnh bản ty, khiến 14 người vô tội bị giết, quan lại xử phạt không đúng, e rằng tướng tá sẽ do dự, làm hỏng kế hoạch biên phòng.” Vì thế có lệnh này.

[57] Chiếu chỉ cho Kinh lược ty Hà Đông lộ: “Các quan tâu rằng đã chém được một tên giặc Tây, hãy điều tra việc giặc Tây xâm lược, thứ tự ứng phó của thành trại và sứ thần, cùng số người và gia súc bị giết, nhà cửa bị đốt phá, tâu lên thực tình.”

(Bản Chu cho rằng việc nhỏ nên bỏ, nên tra cứu nguyên nhân. Ngày Bính Tý tháng 4, bản Chu thêm vào, có lẽ là việc này.)

[58] Thiên Chương các Đãi chế, Đề cử Cảnh Linh cung huyện Tiên Nguyên Vương Cư Khanh mất. Cư Khanh là quan lại thô tục, chỉ vì nói lợi mà được làm quan cao.

[59] Ngày Bính Dần, Tiết Nguyên Phương, chức Tẩu mã thừa thụ của Quảng Tây An phủ sứ, xin mua ngựa tốt sản xuất tại các châu Đỉnh, Lễ, Đàm thuộc Kinh Hồ Bắc lộ[14], chiếu cho Kinh Hồ lộ Chuyển vận ty xem xét kỹ.

[60] Thành Châu tâu: “Hữu ty Viên ngoại lang Tôn Lãm kiến nghị tại con đường mới mở, đặt hai trại bảo ở Đa Tinh và Thu Khê[15], đã sai Thị cấm Lưu Chiếu đem quân đến bảo vệ việc xây dựng.” Chiếu ban cho Đa Tinh bảo tiền công sứ, mỗi năm một trăm năm mươi ngàn; tiền cấp hàng tháng cho dân binh, mỗi người ba trăm.

(Tất Trọng Du nói rằng khi Tôn Lãm sứ trở về.)

[61] Ngày Mậu Thìn, ban chiếu rằng: “Hai châu Doanh, Định ở Hà Bắc từ năm thứ 5, thứ 6 niên hiệu Nguyên Phong đến nay, Ty Đề cử địch mua phong trang lương thảo mua được lượng lương thực rất lớn, nhưng lại phân tán ở nhiều nơi để gửi địch, khi cần tập trung đại quân thì xa gần không kịp. Hơn nữa, kho mới gần như bỏ không, lại thêm nhiều nơi gửi địch không có dụng cụ bảo vệ, nếu bắt vận chuyển dần vào kho mới thì chi phí quá lớn, không bằng để thương nhân tự vận chuyển thì tiện hơn. Chưa rõ lợi hại của việc gửi địch, nên giao cho Ty này trình bày rõ.” Lý Nam Công, Vương Tử Uyên tâu: “Phép gửi địch đã thực hiện lâu nay. Như các quân Bảo Châu, Quảng Tín, An Túc, Bắc Bình ở phía bắc Châu Định, là nơi biên giới trọng yếu cần dự trữ; phủ Chân Định, Châu Kỳ, quân Vĩnh Ninh cũng là vùng biên thứ yếu, cần chuẩn bị dự trữ quân lương, đều gần kho đô, khi cần vận chuyển có thể đến ngay. Nếu cho Ty này tính toán đổi chỗ, thì có thể dồn về kho đô. Lợi hại của việc gửi địch ở kho đô Châu Doanh là như vậy. Nay nếu để thương nhân biết chắc quan phủ sẽ thu mua ở kho đô, không được giá cao thì không chịu bán, ắt phải tăng giá. Lợi của việc gửi địch, không chỉ không có gì đáng ngại với kho đô, mà còn điều hòa giá cả, khiến quyền định giá không bị thế lực thao túng.” Theo đó.

(Cần xem kho đô có mấy chỗ, ở những châu nào, lập từ năm nào, hoàn thành năm nào.)

[62] Ngày Kỷ Tỵ, Tri châu Tương Châu Mã Trung Hành tâu: “Huyện Lâm Lự phía nam sửa sông Hợp Giản để cung cấp nước cho dân, công trình đã có ích cho dân[16]; lại có các thôn Mạnh Nhi đào giếng lấy nước mười năm, sâu 180 thước vẫn chưa tới mạch nước, dân cho là nhọc mà vô ích, thà đi xa lấy nước. Vì mới nhận chỉ triều đình, chưa dám bãi bỏ.” Ban chiếu bãi bỏ.

[63] Kinh lược ty Quảng Nam Tây Lộ tâu: “Theo điệp của Chuyển vận ty, hiện thiếu tiền chi trả, nên đã vội vay tiền mua áo quần; và xem xét việc các châu dùng đinh chính của năm hạng hộ để mua muối, đã ba lần tâu lên Thượng thư tỉnh nhưng chưa được phúc đáp. Nay quân phí biên phòng đã cạn kiệt, xin điệp trình cùng xem xét định đoạt và tâu lên.” Vua phê: “Hứa Ngạn Tiên cử chỉ cuồng loạn, tự tiện đem việc thuộc chức trách của mình chuyển sang cơ quan khác, làm rối loạn, tuyên bố thiếu thốn, trong làm dao động lòng quân sĩ, ngoài tỏ ra yếu kém trước người Khương man, làm tổn hại việc phòng thủ biên giới. Tuy đã sai người thay thế, nhưng có thể đổi thành cách chức, việc này rất nghiêm trọng.”

(Hứa Ngạn Tiên vì sao đã bị thay thế, cần xem xét thêm.)


  1. Bộ j ở đây để người khác noi theo gọi là thức, chữ 'chi' bên dưới vốn thiếu, căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 199 《Hình pháp chí》 bổ sung.
  2. Từ danh lệ trở xuống đến đoán ngục tổng cộng 12 môn, chữ 'danh' vốn là 'các', căn cứ vào sách trên sửa lại.
  3. Từ phẩm quan trở xuống đến đoán ngục tổng cộng 35 môn, 'phẩm quan' vốn là 'quan phẩm', căn cứ vào sách trên và 《Dung trai tam bút》 quyển 16 điều 'Sắc lệnh cách thức' sửa lại.
  4. Chiếu các lộ tri châu chọn quan tại nhiệm có thể làm giáo thụ châu học, chữ 'tại' nguyên là 'quan', theo 《Tống hội yếu》 Sùng Nho 2-5 sửa.
  5. Khăn buộc dây đỏ, chữ 'khăn' nguyên bản là 'đao', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 89, sửa lại từ việc Từ Hi thất bại ở Vĩnh Lạc.
  6. Chữ 'dư' nguyên là 'lại', theo chú thích và 《Tống hội yếu》 Thực hóa 43-3 sửa lại. Lại theo sách trên, chữ 'niên' trên có chữ 'tam'.
  7. Chữ 'chỉ' nguyên là 'thượng', theo 《Tống sử》 quyển 96 《Hà cừ chí》 sửa lại.
  8. Vua lại bảo Vương Khuê và các quan tiến lên, sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 90 chép việc Thái Xác và Hình Thứ mưu đồ tà ác ghi: 'Vua lại bảo hoàng tử cùng Vương Khuê và các quan gặp mặt, Khuê và các quan tiến lên.' Nghi ngờ bản in này có chỗ thiếu sót.
  9. Các chỉ huy Mã quân và các ban trực: chữ 'trực' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 196, 《Binh chí》 bổ sung.
  10. Nay chuyển viên ước đến chức Quân sứ: chữ 'Quân' nguyên bản viết là 'Vận', căn cứ vào sách trên sửa lại.
  11. Tạm thời đặt thêm 240 chức Quân sứ hạ danh: chữ 'tứ' nguyên bản viết là 'tam', căn cứ vào sách trên sửa lại.
  12. Chữ 'An' trong 'Vĩnh An huyện' bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 lễ 37-34 và 《Tống sử》 quyển 83, địa lý chí bổ sung.
  13. Chữ 'luận' trong 'luận như thiện khứ quan thủ pháp' bị thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 lễ 37-34 bổ sung.
  14. Xin mua ngựa tốt sản xuất tại các châu Đỉnh, Lễ, Đàm thuộc Kinh Hồ Bắc lộ. Xét: Kinh Hồ Bắc lộ thời Tống không có 'Đàm quận', Nguyên Châu còn gọi là Đàm Dương quận, xem 《Tống sử》 quyển 88, 《Địa lý chí》, 《Nguyên Phong cửu vực chí》 quyển 6, chỗ này có sai.
  15. Đặt hai trại bảo ở Đa Tinh và Thu Khê trên con đường mới mở. 'Thu' nguyên bản là 'Mục'. Xét: Kinh Hồ Bắc lộ Thành Châu thời Tống không có 'Mục Khê' mà có Thu Khê trại, xem hai sách trên, 'Mục' rõ ràng là sai của 'Thu', nên sửa.
  16. 'Có ích cho dân' nguyên văn là 'lâu', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 61-103 sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.