"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 346: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 7 (GIÁP TÝ, 1084)

Từ tháng 4 đến tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 7 đời Thần Tông.

[1] Tháng 6, ngày Kỷ Tỵ mùng một, xuống chiếu cho Ngự sử trung thừa, Thị ngự sử, Điện trung thị ngự sử đến đài để hặc tội Hữu ban điện trực Hoàng Phủ Đán, đồng thời sai Trung thư xá nhân Thái Kinh và Hữu ty viên ngoại lang Lộ Xương Hoành cùng xét xử.

[2] Vua ban chiếu đầu tiên cho Lý Hiến rằng: “Hồi Hột và Thổ Phồn, từ đời gần đây, kết làm thông gia, mà biên giới phía đông của Hồi Hột liền với Thát Đát, gần đây các nơi dò xét đều nói người Hạ bị quấy nhiễu khổ sở. Nếu nhân hai nước có quan hệ thông gia, nhân lúc Hán và Phồn hòa hiếu, mượn đường thông tin, dùng nhiều vàng lụa để vỗ về kết giao, khiến họ giúp ta, thì cũng có thể kéo bớt binh lực của họ, không để họ tập trung toàn lực xuống phía nam, cũng không phải là không có ích. Huống chi nghe nói tục của Thát Đát, hung hăng thích đánh nhau, coi thường cái chết, ham lợi, vốn không chịu khuất phục người Hạ. Nếu không tiếc vàng lụa, ban ân huệ nhiều, tình thế có thể lay động. Ngươi nên chọn hai ba sứ thần thông hiểu tình hình Phồn và giỏi tiếng Khương, hội ý với A Lý Cốt, sai cử hai ba thủ lĩnh thân tín, cùng dụ họ phát nhiều quân mạnh, tiến sâu vào đất Hạ đánh dẹp, rồi mời thủ lĩnh của họ vào Hán nhận thưởng, nên cân nhắc kỹ rồi tâu lên.”

Lại ban chiếu rằng: “Xưa Thổ Phồn từ đời Chí Đức nhà Đường về sau, mạnh đến mức không thể đối đầu. Vì đất Thục xa cách, dân yếu đuối, ngờ rằng không thể kinh dinh được. Mà Vi Cao ở Thành Đô, lại biết kết thân với Nam Chiếu, khiến họ xa lìa Thổ Phồn mà thân với ta, cuối cùng thu được công lao ở phía tây, phía đông được lợi thành Diêm, Thổ Phồn từ đó thế lực ngày càng suy yếu. Huống chi nay Thát Đát mạnh như vậy, thù địch với họ như thế, so với Dị Mâu Tầm há cùng ngày mà nói được sao[1]? Nên gắng sức kinh dinh việc này.”

[3] Hiến tấu: “Từ xưa đến nay, việc kiểm soát và cai trị các tộc người man di, khiến họ phải phân tán lực lượng, không thể tập trung phòng bị, là do trước hết kết giao với các nước lân bang của họ, cắt đứt quan hệ ngoại giao của họ, sau đó thế liên hoành luôn nằm trong tay Trung Quốc, khiến họ phải đối mặt với nguy cơ bị tấn công từ nhiều phía. Ngày xưa, khi Nam Chiếu hùng mạnh, Vi Cao đã nắm vững phương pháp cai trị, nên đã khôi phục được châu Huề ở phía tây, từ đó Thổ Phồn ngày càng suy yếu. Nay lực lượng của giặc Hạ tuy mạnh nhưng không bằng Thổ Phồn, nếu liên kết với Thanh Đường, Hồi Cốt, Thát Đát, thế liên hoành ấy há dễ gì chống đỡ được? Huống chi người Thát Đát hung dữ hơn cả Tây Nhung, lại có mối thù sâu nặng với người Hạ, nếu vạn nhất có thể khiến họ phục vụ cho ta, không chỉ làm suy yếu binh lực của người Hạ, khiến họ không thể tập trung toàn lực đánh xuống phía nam, mà còn có thể chờ thời cơ, thực hiện kế hoạch đánh vào chỗ yếu của họ, như năm ngoái khi họ tập trung toàn lực ở Thiên Đô, thì lực lượng giặc ở Hà Tây đã bị rỗng không. Nếu dùng quân của ba nước Thanh Đường, Hồi Cốt, Thát Đát cùng tấn công vào phía sau, dù không thể tiến xa đến Hạ Lan, thì các vùng Cam, Lương, Qua, Sa chắc chắn sẽ bị tiêu diệt sạch. Thần kính cẩn tuân theo thánh huấn, xem xét kỹ lợi hại, chỉ lo rằng chưa có người thích hợp để phụng mệnh đi sứ. Bởi vì phải đi sâu vào vùng đất hiểm yếu, đi qua ba nước, nếu vạn nhất xảy ra sơ suất, sẽ trở thành gánh nặng. Thần ngày đêm suy nghĩ, dốc sức lo liệu.”

Do đó, Hiến chọn Đán áp giải thủ lĩnh Hồi Cốt, Thát Đát về kinh. Vua lại sai mang chiếu chỉ trở về dụ Đổng Chiên và A Lý Cốt xuất binh. Hiến tức giận vì việc không do mình quyết định, bèn sai thuộc hạ là Chung Phó, Lý Vũ[2] làm tấu, nói rằng Đán khó có thể hoàn thành việc, chắc chắn không thể thành công, khác với bản tấu ban đầu. Đán vào đất Phiên, bị thủ lĩnh Kinh Sấm Y Đạt Mộc Lăng Tiết, Tát Bốc Tắc Ta Mộc Sấm lừa gạt, dừng lại ở chùa Trủng Sơn không thể tiến lên, lại dối tấu công trạng bắt được giặc. Vua biết rõ sự việc, nên sai bắt Đán và những người khác giao cho ngục quan.

(《Ngự tập》: Ngày 28 tháng 4, sứ thần Hoàng Phủ Đán, người được cử đi sứ Phiên, có thể lệnh cưỡi ngựa trạm về kinh.)

[4] Thái trung đại phu, Long đồ các đãi chế, Tri Giang Ninh phủ Trần Dịch bị miễn chức, tước bỏ danh hiệu, bị cách chức, truy thu tước Thái trung đại phu, bị tước chức Long đồ các đãi chế, điều làm Tri Kiến Xương quân; con là Thừa vụ lang Trần Ngạn Phụ bị thay thế. Dịch bị kết tội khi còn làm Tri Quảng châu đã làm tượng Quan Âm bằng gỗ để đổi lấy tượng gỗ đàn trong kho công sứ, tư lợi dùng 30 cân nhũ hương từ thị bạc để mua dê, làm thiệt hại giá trị tương đương 28 tấm lụa, và dâng tấu không trung thực; Ngạn Phụ bị kết tội sai khiến cấm quân dệt vải gỗ, nhận quà biếu từ kho công sứ trái lệ, và báo cáo lên trên không trung thực.

(Sách 《Cựu kỷ》 chép: Tri Giang Ninh phủ Trần Dịch vì tham nhũng bị tước chức Long đồ các đãi chế, điều làm Tri Kiến Xương quân. Sách 《Tân kỷ》 bỏ qua không chép.)

[5] Hộ bộ tâu: “Theo tờ trình được phê chuẩn, Ty Đề cử sông Biện nói: Các huyện trong kinh thành, các cửa hàng trà của dân gian cũng xin được mua trà của quan xay bằng nước. Pháp này áp dụng ở kinh sư, mọi người đều cho là tiện lợi. Phủ giới cũng nên không khác gì dưới chân xa giá.” Được chấp thuận, đợi hai năm sau sẽ lập pháp.

(Sách 《Thực lục》 chép việc này không rõ. “Xin mua trà quan”, nay dùng sách 《Thiệu Thánh biên lục sách》 thêm hai chữ “thủy ma” để dễ hiểu. Pháp trà thủy ma bắt đầu từ năm nào, cần xem rõ ngày tháng. Ngày 27 tháng 2 và ngày 12 tháng 8 năm thứ 6 có thể tra cứu, dường như lúc mới đặt thủy ma, cần xem kỹ hơn.

Ngày 28 tháng 9 năm Thiệu Thánh thứ nhất có chiếu: “Trung thư tỉnh gửi đến tờ trình của Hộ bộ: ‘Theo chiếu khám xét, năm Nguyên Phong từng đặt thủy ma trà bán cho các cửa hàng ở kinh sư, nên kinh sư không có tệ nạn trà pha tạp, thương nhân buôn trà không bị đình trệ, quan thu lợi tức mỗi năm hơn 20 vạn quan. Năm Nguyên Hựu đều bãi bỏ. Thần xin tham khảo chế độ cũ, khôi phục lại.’ Ba tỉnh cùng phụng thánh chỉ: ‘Việc khôi phục thủy ma trà, Hộ bộ phải nhanh chóng chuẩn bị kế hoạch, tâu lên Thượng thư tỉnh.’ Ngày 28 tháng 9, ba tỉnh cùng phụng thánh chỉ: ‘Theo như Hộ bộ tâu, sai Tôn Huýnh làm Đề cử.’

Xem lại các điều lệ cũ về thủy ma trước sau, tham khảo những việc cần làm và sửa đổi trong các khoản, một, theo chiếu ngày 1 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 7: Trung thư tỉnh, Thượng thư tỉnh gửi đến tờ trình của Tả bộ, theo phê chuẩn của Đô tỉnh, Đô đề cử sông Biện đê ngạn tâu: Khám xét thấy bản ty gần đây theo chỉ triều đình, các cửa hàng trà ở kinh sư không được tự ý xay trà bột, phải đến thủy ma của bản ty mua trà cân, về cửa hàng bán. Bản ty đã theo chỉ triều đình thi hành. Gần đây, các cửa hàng trà ở các huyện trong phủ giới đến ty trình bày, thấy các cửa hàng trà ở kinh sư mua trà bột thủy ma bán, không tốn chi phí nuôi gia súc, ngồi hưởng lợi lớn. Các cửa hàng trà ở phủ giới cũng giống như các cửa hàng ở kinh sư, xin theo lệ các cửa hàng trà ở kinh sư, đến thủy ma mua trà, về các huyện bán, và theo pháp trà ở kinh sư[3], cấm tư xay trà. Bản ty khám xét thấy từ khi đặt thủy ma, các cửa hàng trà trong ngoài đều không phải thuê nhân công, nuôi gia súc, các khoản chi phí khác, và không pha tạp đậu bột, lá sen vào trà, thật có lợi. Dân gian đều được dùng trà thật, so với trà tư xay pha tạp của các cửa hàng trước đây, giá cũng rẻ hơn. Thương nhân buôn trà cũng không bị dân gian nợ tiền, đến bản ty nộp trà, được nhận tiền mặt, tiếp tục buôn bán, rất có lợi. Thuế thương mại thu được dọc đường không ít. Nay đã theo chỉ triều đình, theo lời tâu của bản ty lập pháp. Từ khi thi hành, các cửa hàng đều mua thêm trà so với số lượng trước đây, vì lợi nhuận rất lớn.

Vì vậy, các cửa hàng trà ở các huyện trong phủ giới xin theo lệ kinh sư, mua trà thủy ma, cấm tư xay. Bản ty xem xét: Nếu theo lời trình của các huyện, thì thật là ngăn chặn được việc pha tạp trà ở các huyện ngoài, và tránh được tệ nạn lâu ngày, xâm phạm pháp trà của quan, thật là tiện lợi. Nếu được thi hành, xin theo các khoản ước thúc, xin chỉ thị. Sau phê ngày 8 tháng 5 gửi Hộ bộ khám xét, và tờ nhỏ nói: Khám xét thấy thương nhân buôn trà đến các huyện trong phủ giới bán, nay đã lập hạn trình báo, cấp giấy dẫn vào kinh đến trường thủy ma bán, thuế tiền đến kinh cũng xin theo lệ cũ thu nộp vào Hộ bộ, khám xét các việc sau, vẫn kèm theo tờ trình cũ.

Ngày 1 tháng 6, phụng thánh chỉ, đều theo. Xin theo chỉ thị của chiếu, thi hành, và gửi các nơi liên quan, xem xét tờ trình của Thượng thư Hộ bộ, thi hành theo thánh chỉ, và gửi các nơi liên quan. Một, thương nhân buôn trà ở các lộ ngoài, nếu đến phủ giới và kinh sư, do các châu quân sản trà cấp giấy dẫn, đều phải đến trường quan ở kinh bán, không được bán dọc đường và trong phủ giới. Nếu vi phạm, xử phạt theo pháp trà tư. Một, trà bột các lộ không được bán trong phủ giới, nếu vi phạm, theo pháp trà ở kinh sư do bản ty in ra thi hành. Theo trên, bản bộ khám xét muốn theo lời tâu của bản ty thi hành.”)

[6] Chiếu rằng: “Lộ Hà Đông tiêu hủy tiền lương của năm chỉ huy cấm quân, tức không phải là số binh lính của một lộ, nếu có thiếu hụt về lương thực, quần áo, thì đều phong tồn để cấp cho ty Đề cử bảo giáp làm chi phí huấn luyện.”

(Sách 《Ngự tập》 chép việc này rất chi tiết, nay ghi lại. Ty Đề cử bảo giáp lộ Hà Đông tấu rằng: “Việc tiêu hủy năm chỉ huy cấm quân, mỗi năm tiết kiệm được quần áo, lương thực, tiền lương, thưởng tế giao, cỏ khô, v.v. Ty này chưa rõ có nên theo tờ trình của ty Chuyển vận, chi trả cho việc tuyển thêm binh lính ngoài định mức, hay chỉ tuân theo chiếu chỉ trước đây, dùng vào việc huấn luyện bảo giáp?” Vua phê: “Xét lại việc tiêu hủy năm chỉ huy binh lính và phong tồn lương thực, quần áo, rõ ràng ty Chuyển vận chưa hiểu rõ chi tiết, cần phải giải thích rõ ràng và ban hành, yêu cầu nhanh chóng chi trả cho ty Đề cử bảo giáp để tiếp tục phong tồn.”)

[7] Chiếu rằng: “Ty Đề cử bảo giáp năm lộ đã được cấp lương thường bình để chuẩn bị cứu tế, hãy xem xét việc cứu tế bảo giáp khi gặp thiên tai chưa đến năm phần, nên làm thế nào, hãy trình bày rõ ràng để tâu lên.” Sau đó, Đề cử bảo giáp lộ Hà Đông là Vương Sùng Chửng tâu: “Cứu tế bảo đinh từ tứ đẳng trở xuống, nếu hộ đó bị thiên tai từ năm phần trở lên, thì áp dụng theo quy định của ty Thường bình từ bảy phần trở lên.” Được chấp thuận. Lộ Hà Bắc, Thiểm Tây và phủ Khai Phong cũng áp dụng theo.

[8] Ngày Tân Mùi, Triều nghị đại phu, Tri Kinh Nam là Tôn Khẩn được bổ nhiệm làm Trực Long đồ các, Tri Quảng Châu. Trước đó, bổ nhiệm Triều phụng đại phu, Hồng lư thiếu khanh là Trần Mục làm Bảo văn các đãi chế, Tri Quảng Châu, Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn tâu: “Mục tính tình tham lam, tài năng kém cỏi, chỉ nhờ công lao đi biển mà may mắn được đến đây, nếu bổ nhiệm vào hàng thị tòng, thực là làm ô danh thanh danh.” Chiếu bãi chức Mục và bổ nhiệm Khẩn.

[9] Ban thưởng cho bộ hạ của Đổng Chiên và A Lý Cốt một nghìn tấm lụa.

[10] Ngự sử Kiển Tự Thần tâu: “Tháng năm năm ngoái, thi hành quy định của Đại Lý tự về việc trưởng và phó tự thân thẩm vấn tù nhân và xét án mười ngày, nghe nói trưởng và phó tự không tự thân xét án, mong xem xét lại.” Chiếu yêu cầu Đại Lý tự phân tích.

(Bản Chu bỏ đi.)

[11] Ngày Nhâm Thân, Triều tán lang, Long đồ các đãi chế Hùng Bản được thử chức Lại bộ Thị lang. Trước đây, người Man ở Nghi Châu quấy nhiễu biên giới, triều đình cử Hùng Bản làm Tri châu Quế Châu. Khi mới đến, ông liền răn dạy các quan lại biên giới không được gây sự, thăm hỏi các tù trưởng ở các động, khiến ai nấy đều vui lòng. Ông xin tuyển chọn tướng lĩnh, luyện tập binh lính địa phương để thay thế quân đồn trú, mua thêm ngựa để bổ sung kỵ binh, từ đó Nghi Châu yên ổn, và vòng vây của người Lê ở Chu Nhai cũng được giải. Người địa phương là Thái Bảo Trân dẫn quân của Long Phiền đến tranh chấp với dân thục hộ, muốn lập công. Hùng Bản hỏi chuyện, thấy sắc mặt Thái Bảo Trân có vẻ bất thường, liền trói lại và ném xuống biển, người Di cho là thần kỳ. Có người do thám báo rằng người Giao Chỉ sẽ đem quân xâm lược vào năm sau, sứ giả xác nhận lời này, triều đình hỏi ý Hùng Bản, ông đáp: “Sứ giả An Nam đang trên đường đến, không nên có chuyện này. Giả sử họ có mưu đồ, cũng không nên để người khác biết trước.” Sau quả nhiên là tin đồn thất thiệt. Trước đây, Quách Quỳ làm Tuyên phủ An Nam, Lưu Cửu lấy quận Quảng Nguyên lập thành Thuận Châu. Triều đình cho rằng không đủ sức giữ, bèn ban cho Lý Càn Đức. Ranh giới chưa rõ ràng, người Giao Chỉ nhân cơ hội Nghi Châu có sơ hở, muốn chiếm đất Vật Dương của Nùng Trí Hội, đánh úp Quy Hóa, đuổi Trí Hội. Trí Hội chạy sang Hữu Giang cầu viện, Hùng Bản sai sứ đến hỏi tình hình, người Giao Chỉ rút quân, Lý Càn Đức xin tạ tội. Hùng Bản xin ban cho họ vùng đất cằn cỗi Túc Tang Bát Động, từ đó biên giới phía nam yên ổn.

(Ngày 4 tháng 6, đã ghi Hùng Bản thử chức Lại bộ Thị lang; ngày 28 tháng 7, lại có chiếu sai Hùng Bản lo việc phòng thủ biên giới Giao Chỉ; ngày 9 tháng 8, lại ghi Hùng Bản thử chức Lại bộ Thị lang, có lẽ ngày 4 tháng 6 đã được bổ nhiệm Lại bộ Thị lang, sau đó vì việc biên giới nên lưu lại Quế Châu, đến ngày 9 tháng 8 lại được lệnh bổ nhiệm. Ngày 21 tháng 8 Mậu Tý, ngày 22 tháng 10 Mậu Tý có thể tra cứu. Ngày 8 tháng 7 năm thứ 5, Hùng Bản được lệnh Long đồ các đãi chế làm Tri châu Quế Châu; ngày Canh Tuất tháng 5 năm nay, được ban thưởng và khen ngợi.)

[12] Chiếu cho quan tri châu Hoạt Du Hi Đán và thông phán Tô Chú mỗi người giảm thời gian khảo xét hai năm, ban thưởng trăm lạng bạc và trăm tấm lụa. Vì đã hoàn thành việc xây cầu phao, nên được ban thưởng.

[13] Ngự sử Kiển Tự Thần tâu: “Dân trong huyện thuộc kinh thành liên tiếp bị cướp bóc, nhưng sợ hãi không dám tố cáo. Xin xét xử các quan tuần tra bắt giữ vì lơ là trách nhiệm, và nghiêm khắc trừng phạt.” Chiếu cho ty đề điểm phủ Khai Phong điều tra sự thật rồi tâu lên.

[14] Phụng nghị lang, Hữu ty viên ngoại lang Phạm Thuần Túy được cử quyền phát khiển chức Phó sứ chuyển vận Hà Đông. Sau đó không thực hiện.

(Ngày mùng 4 tháng 7, lại được phục chức Hữu ty lang trung.)

[15] Ngày Quý Dậu, quyền phát khiển chức Chuyển vận sứ lộ Hà Đông, triều tán lang Miêu Thời Trung được bổ nhiệm làm Trực long đồ các, tri châu Quế.

[16] Chiếu rằng: “Người đỗ đầu trong kỳ thi tuyển xuân được thăng một bậc, người đỗ thứ ba được bổ nhiệm chức vụ; 89 người đỗ trung bình được bổ nhiệm không theo thứ tự; 45 người đỗ hạng dưới được bổ nhiệm.”

[17] Chiếu rằng: “Đã cử triều phụng lang Nhậm Công Dụ đến ty phát vận để kiểm tra số tiền còn nợ trong kho nội phủ, nhưng lo ngại Công Dụ né tránh, điều tra không kỹ, nên tiếp tục cử nhập nội cung phụng quan Tạ Nhân cùng điều tra.”

[18] Quan đề điểm hình ngục lộ Phúc Kiến Lý Mậu Trực tâu rằng, thương trượng thủ Lý Hàng đã chiến đấu và giết được 18 tên giặc Lam Tải. Chiếu rằng: “Các tướng quan Bành Đạc và những người lính dân ứng mộ dưới quyền, đều được trả về nơi cũ, và báo cáo công trạng của những người giết được giặc.”

[19] Chiếu rằng: “Lương thảo trong kho phong trang sẽ được đổi mới theo thứ tự năm.”

[20] Đồng đề cử lộ Hà Bắc Đông Lưu Định tâu: “Lý Ninh đã lâu năm lãnh đạo bảo giáp Hà Bắc và từng kiêm nhiệm bảo giáp Thiểm Tây, hết lòng cống hiến, chịu nắng nóng mà bệnh mất. Xin ban thưởng hậu hĩnh để gia đình ông không bị khó khăn.” Chiếu rằng: “Lý Ninh từ khi triều đình thực hiện việc dạy bảo giáp, đã hết lòng cống hiến nhiều. Có thể coi đây là đặc ân của triều đình, ban thưởng 500 tấm lụa cho gia đình ông.”

[21] Ngày Giáp Tuất, Lễ bộ tâu: “Năm thiên tử thân hành tế giao, ngày Hạ chí tế Hoàng Địa Kỳ ở phương khâu, sai Trủng tể thay làm lễ, nghi thức âm nhạc và vũ điệu nên tăng thêm so với lễ thường. Nhưng nhạc khí chỉ có 20, nhạc công 152 người, vũ công 64 người, giống hệt như lễ tế Nam Giao và Bắc Giao hàng năm do Thượng công thay mặt thiên tử chủ trì, như vậy chưa đủ để thể hiện ý tôn kính của thánh chỉ. Xin từ nay về sau, vào năm thiên tử thân hành tế giao, nhạc khí và vũ công dùng ở phương khâu theo quy định của lễ tế thân hành, gồm 36 nhạc khí, 306 nhạc công và 134 vũ công.” Được chấp thuận.

[22] Lại tâu: “Âu Dương Tu và các vị khác biên soạn sách 《Thái Thường Nhân Cách Lễ》, bắt đầu từ năm Kiến Long đến năm Gia Hựu, gồm 100 quyển. Từ sau năm Gia Hựu trở đi, chưa được ghi chép tiếp. Từ năm Hi Ninh đến nay, các quy chế về lễ nghi đủ để làm khuôn mẫu cho muôn đời, xin hạ lệnh cho Thái thường bác sĩ tiếp tục biên soạn, để tiện tham khảo.” Được chấp thuận.

(Bản chép của Chu Biểu lại ghi việc tiếp tục biên soạn 《Nhân Cách Lễ》 vào ngày Kỷ Mùi tháng 9, nay chỉ ghi lại ở đây.)

[23] Ngày Ất Hợi, Vua ban chiếu chỉ cho Lý Hiến: “Gần đây nghe nói thủ lĩnh Tây Phiên là Đổng Chiên đã qua đời vào tháng 10 năm trước, đồng thời A Lý Cốt từng sai người dụ dỗ Ôn Tích Sấm ở Mạc Xuyên, bảo hướng về phía tây đốt hương cúng tế. Vì Đổng Chiên đời đời nhận tước vị của triều đình, việc sống chết của ông ta lẽ ra phải được biết. Không rõ Kinh lược Chế trí ty có nhận được tin báo từ bản phiền hay không, và hiện nay ai là người kế vị, hãy nhanh chóng báo lên.”

Cuối tháng 10 năm thứ 6, Đổng Chiên chết, A Lý Cốt lên thay. Sách 《Giáp Thân Tạp Ký》 của Vương Củng chép: Lưu Hối Thúc nói rằng A Lý Cốt vốn không đáng được lập, nhưng nhờ tư thông với quốc mẫu mà được lên ngôi. Đại thần Ôn Tích Sấm thường bất hòa, bí mật sai tâm phúc đến cầu xin Văn Uất quy phụ. Văn Uất tâu lên triều đình, Thần Tông nói: “Đây là muốn ta làm viện trợ cho họ, chỉ cần khéo léo an ủi mà thôi, cũng là đạo dùng Di địch đánh Di địch vậy.” [4] Các quan biên thần và tướng lão thành đều thán phục mưu lược sâu xa của Vua, từ đó đến cuối năm Nguyên Phong không bàn đến việc này nữa.

Đầu năm Thiệu Thánh, Tôn Lộ cũng cho rằng có thể thu nạp, Chương Tử Hậu bổ nhiệm Lộ làm Tào vận Thiểm Tây để lo việc này. Hối Thúc cũng làm Tào vận Thiểm Tây[5], trước khi lên đường, hỏi ý An Hậu Khanh và Lý Bang Trực, Hậu Khanh nói: “Tiên đế không thu nạp, há không có ý sâu xa sao?” Bang Trực nói: “Lộ ham chức quan, đến mức như vậy.” Khi đến Vĩnh Hưng, chỉ thấy Lộ và Chung Phó cùng nằm chung giường suốt một tháng. Một hôm, Phó nói với Hối Thúc: “Việc này quyết khó làm, được dễ mà giữ khó.” Sau đó Chung Phó được triệu về, tâu rằng không thể làm, Tử Hậu cũng ý chần chừ. Sau Chung Phó bị giáng chức vì tội mạo nhận thưởng, lại tạo thành nghị luận. Củng chép như vậy, cần xem xét. Tôn Lộ được bổ nhiệm làm Tào vận Thiểm Tây vào ngày 13 tháng giêng năm Thiệu Thánh thứ 2. Xét: Đổng Chiên chết đã hai năm, đến ngày 18 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất, mới ban chiếu cho phép A Lý Cốt kế vị. Cuối tháng 8 năm thứ 2, Tô Triệt tấu bàn việc A Lý Cốt kế vị, dường như lấy từ Vương Củng, cần xem xét.)

[24] Ngự sử Lưu Chửng tấu: “Xin Đại Lý tự, Khai Phong phủ tả hữu sương quân tuần viện[6] đều đặt sổ ghi cửa, phàm người bị bắt giải đến, ghi rõ số người, việc làm, nơi ở, xử phạt hoặc tha, đều dùng mực đỏ ghi chữ kết thúc[7].” Theo lời tấu, lệnh Hình bộ đặt ra pháp luật.

[25] Lễ bộ tâu: “Nghi thức tế tự: hưởng Thái Miếu, tế Viên Khâu, hoàng đế đều mặc áo bào và đi ủng đến nơi nghỉ. Xa giá từ Đại Khánh điện đến Cảnh Linh cung, Thái Miếu, ngày hôm sau đến Nam Giao, đều đội mũ Thông Thiên, mặc áo sa đỏ. Vả lại, tế tự lấy sự tiến lên làm văn, nên có sự long trọng mà không giảm bớt, ngày hôm trước đã mặc áo long trọng đến nơi tế, đến sáng ngày làm lễ, tức là ‘ba ngày trai giới, một ngày dùng’, lại mặc áo bào và đi ủng đến nơi nghỉ, chưa hợp lễ ý. Kính xét: 《Giao đặc sinh》 nói: ‘Ngày tế, Vua đội mũ bì biện để nghe báo tế.’ Báo, tức là Tiểu Tông Bá báo giờ và báo đã chuẩn bị xong. Người bàn lễ cho rằng mũ Thông Thiên giống như mũ bì biện thời xưa, vậy mũ Thông Thiên là trang phục trai giới. Nay Lễ bộ tấu trung nghiêm ngoại biện, tức là báo giờ và chuẩn bị xong. Xin rằng sáng ngày tế Thái Miếu, Viên Khâu, từ điện trai đến điện nghỉ, đội mũ Thông Thiên, mặc áo sa đỏ.” Theo lời tấu.

[26] Ngày Bính Tý, chiếu: “Ba tiền giám đồng ở Thiểm Tây đúc thêm tiền Chiết Nhị, mỗi giám lấy năm vạn quan làm mức, tiền lãi ban cho Chuyển vận ty.”

[27] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Giặc Tây xông qua Tháp Lĩnh Sá, Tuần kiểm đệ thập thất bảo Đức Thuận quân, Đông đầu cung phụng quan Vương Hữu tử trận.” Chiếu tặng Hữu chức Hoàng thành phó sứ, cho ba chức quan cho con ông là Trọng An, Trọng Kiên, Trọng Uyên, đều làm Tam ban tá chức.

(Cựu kỷ chép: Ngày Bính Tý, người Hạ cướp Đức Thuận quân, Tuần kiểm Vương Hữu tử trận. Tân kỷ cũng chép như vậy.)

[28] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu: “Các lộ Hà Đông, Phu Diên, Hoàn Khánh mỗi nơi phát 2.000 con ngựa hộ để cấp cho chính binh. Lộ Hà Đông có thể cấp ngay cho bản lộ, lộ Phu Diên lấy từ lộ Vĩnh Hưng Quân, lộ Hoàn Khánh lấy từ lộ Tần Phượng. Nếu số lượng còn thiếu, thì lấy ngựa hộ ở phủ Khai Phong. Nếu vẫn thiếu, riêng lộ Phu Diên lấy thêm ngựa hộ phường quách ở lộ Kinh Tây. Ngựa do quan mua thì cấp theo giá gốc. Ngựa do tư nhân mua thì chia làm ba hạng: hạng trên, 30.000 đồng; hạng trung, 25.000 đồng; hạng dưới, 20.000 đồng. Lấy tiền bán muối Giải[8], tiền của giám Phụ Tài ứng phó thị dịch để tạm ứng trước. Phủ Khai Phong lấy tiền từ kho Tả Tàng, các nơi khác lấy tiền từ bản lộ. Quan chuyên trách: phủ Khai Phong giao cho Phạm Tuân, Hà Đông giao cho Phạm Thuần Túy, lộ Tần Phượng giao cho Lý Sát, lộ Vĩnh Hưng Quân giao cho Diệp Khang Trực. Ngựa hộ đã mua thì hạn trong 3 năm.”

(Ngày 6 tháng 7 có thể tra cứu. 《Bản chí》 chép: Năm thứ 7, ban chiếu phát ngựa hộ ở các lộ Hà Đông, Phu Diên, Hoàn Khánh 2.000 con để cấp cho chính binh. Lộ Hà Đông cấp ngay cho bản lộ, lộ Phu Diên lấy từ lộ Vĩnh Hưng Quân, lộ Hoàn Khánh lấy từ lộ Tần Phượng và ngựa hộ ở phủ Khai Phong để bổ sung, riêng lộ Phu Diên lấy thêm ngựa hộ phường quách ở Kinh Tây. Sau khi đã cấp cho chính binh, về sau không bổ sung nữa. 《Thực lục》 không có câu “sau khi đã cấp cho chính binh, về sau không bổ sung nữa”, nên hợp nhất để tu chỉnh.)

[29] Ngày Kỷ Mão, quân Can Ninh tâu: “Quân đóng giữa dòng sông, trong phạm vi đê điều, nếu có vi phạm, như từ đại thành vượt đến bản quân, hoặc từ bản quân vượt qua Hà Đông, đều theo pháp chưa qua nơi vượt, còn hai bên sông thì theo pháp tư độ.” Theo lời tâu.

[30] Quyền phát khiển Đề cử lộ Hà Bắc Đông Lộ bảo giáp Lưu Định được quyền phát khiển Đồng đề cử lộ Hà Bắc bảo giáp.

[31] Ngày Canh Thìn, Tri phủ Hà Nam là Hàn Giáng tâu: “Thần trộm thấy chiếu ban hành về việc nuôi ngựa trong chế độ bảo giáp, quy định khu vực phía đông kinh thành hoàn thành trong 10 năm, khu vực phía tây kinh thành hoàn thành trong 15 năm. Nay quan Đề cử bảo mã là Lữ Công Nhã lại yêu cầu hoàn thành trong 7 năm, lại lệnh mỗi đô bảo trước tiên chọn 20 con, như vậy là đem số ngựa cần mua trong 15 năm dồn lại mua đủ trong 2 năm rưỡi, e rằng không phải là ý định ban đầu của triều đình. Khu vực phía tây bắc kinh thành không sản xuất ngựa, dân lại nghèo khó, xin cho phép giảm bớt 5 năm so với thời hạn ban đầu.” Chiếu cho Đề cử ty bảo mã lộ phía tây kinh thành tuân theo thời hạn quy định trong chiếu ban đầu.

(Ngày 23 tháng 5, ngày 23 tháng 7 có thể tham khảo. Bản chí cũng giống như vậy.)

[32] Châu Tô tâu rằng Tư chính điện học sĩ, Thái tử Thiếu bảo đã về hưu là Nguyên Giáng qua đời. Giáng giỏi về văn chương, được mọi người cùng thời khen ngợi, Vua vì thế mà đối đãi trọng hậu. Khi ở Trung thư, các chiếu thư gửi cho các nước phiên di phần nhiều do ông soạn thảo. Khi xây dựng 11 điện thờ thần ở Cảnh Linh cung, ban đêm truyền lệnh soạn văn thượng lương, đến sáng sớm thì dâng lên. Sau khi về hưu, Vua nói: “Khanh có thể xây nhà ở kinh thành, Trẫm sẽ cấp tiền bạc, lại tiện cho việc thăm hỏi và tiến cử.” Giáng lo sợ từ chối rằng: “Thần có ruộng vườn ở Ngô, về bán đi, rồi xây nhà ở kinh thành. Được nhìn thấy bụi xe của bệ hạ đã là may mắn lắm rồi, sao dám mong được ban thưởng?” Khi đi đến vùng ngoại ô, Vua sai thị thần ban tặng 1000 lạng bạc. Khi ông mất, Vua ngừng thiết triều, truy tặng Thái tử Thiếu sư, thụy là Chương Giản. Vua nhận được di biểu, thương xót, đưa cho các quan chấp chính xem và nói: “Đây chắc chắn là văn của Giáng.” Chiếu cho gia đình ông tập hợp các bài văn trong đời dâng lên.

(Theo [theo bản các các là “Lâm Hi nói”]: Giáng từ Thái tử Thiếu bảo được truy tặng Thái tử Thiếu sư, việc truy tặng chức quan không vượt quá bản phẩm bắt đầu từ Giáng. Trước đó, Hồ Túc từ Thái tử Thiếu phó, Âu Dương Tu, Triệu Khái từ Thái tử Thiếu sư được truy tặng Thái tử Thái sư, ba người này đều do được di chiếu nên được ưu đãi truy tặng, không phải là điển lệ thông thường. Phụ chú cần xem xét.)

[33] Ngày Tân Tỵ, Nội tàng khố sứ, Trung Châu thứ sử Bành Tôn được thăng làm Hoàng thành sứ; Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Trương Trực được thăng làm Nội điện thừa chế; Nội điện sùng ban Diêu Hùng, Phan Phùng, Dương Củng đều được thăng hai bậc; Tang Thục, Cao Sĩ Ngôn, Hồ Sĩ Thanh, Quách Thành, Trần Nguyên, Diêu Sư Mẫn đều được thăng một bậc. Đây là do công lao xuất quân ra biên ải của Diêu Lân.

(Bành Tôn vào ngày Ất Mùi tháng 10 lại được thăng làm Quả Châu đoàn luyện sứ.)

[34] Tri Thái Nguyên phủ Lữ Huệ Khanh tâu: “Hằng năm, bản lộ phải mua 10 vạn thạch lương thực chuyển đến Phu Diên lộ, việc vận chuyển quá xa, gây bất tiện cho dân. Xin bãi bỏ việc ứng phó, chỉ lệnh Thiểm Tây chuyển vận ty tự lo liệu, số tiền mua lương theo chỉ huy trước đây của Hà Đông lộ, sẽ được hoàn trả từ kho Viên Khúc.” Triều đình hạ chiếu cho Phạm Thuần Túy và Tôn Lãm xem xét rồi tâu lên. Thuần Túy tâu: “Hà Đông sản xuất lương thực rất nhiều, xin tạm thời lệnh ứng phó, đợi khi biên sự yên ổn, sẽ triệu hồi tướng binh, triều đình sẽ có chỉ huy riêng.” Tôn Lãm tâu: “Xin giao cho các lộ tự lo liệu, và miễn việc bồi hoàn giá mua lương từ kho Viên Khúc.” Triều đình hạ chiếu lệnh Hà Đông và Thiểm Tây mỗi nơi lo liệu 5 vạn thạch. Chiếu cấp tiền từ kho Viên Khúc.

[35] Ban cấp cho Quảng Nam Tây lộ kinh lược ty 200 độ điệp để ứng phó việc xây dựng trại bảo mới ở Dung Châu, nơi vừa chiêu dụ được các động người thiểu số.

[36] Chiếu rằng: “Các quan chủ binh ở biên giới, dù bị thay thế không phải do phạm lỗi, nếu tại nhiệm làm việc có hiệu quả, là nhân tài không thể dễ dàng bỏ đi, cho phép kinh lược ty bảo lãnh tâu lên để xét xử.”

(Có thể kết hợp với sự kiện ngày mùng 1 tháng 5.)

[37] Ngày Nhâm Ngọ, chiếu rằng: “Tây Kinh Tả tàng khố sứ, Cát Châu thứ sử, Nhập nội phó đô tri Thạch Đắc Nhất được phép dùng đất ban tặng để xây chùa, ban tên là Nghênh Tường viện, mỗi dịp lễ Đồng Thiên sẽ độ một tăng nhân.”

[38] Chiếu rằng từ nay Khai Phong phủ được miễn dự buổi chầu ở hậu điện, vì Thượng thư Hộ bộ Vương Tồn tâu: “Từ khi thi hành chế độ quan chức, Thượng thư và Thị lang Hộ bộ kiêm nhiệm chức vụ trưởng và phó của Tam ty, chỉ dự buổi chầu ở tiền điện, duy chỉ có quan Tri Khai Phong phủ vẫn dự buổi chầu ở hậu điện như cũ. Vì quan Tri phủ ở hậu điện không phải là chức vụ phụng sự, mà thực tế làm mất thời gian xử lý công việc.” Do đó có chiếu này.

[39] Ngày Quý Mùi, Quyền Phát khiển Kinh Tây Chuyển vận Phán quan Thẩm Hi Nhan tâu: “Trong nhiệm kỳ của quan tiền nhiệm, vì tài chính không đủ, đã mượn 30 vạn quan tiền phường trường của Ty đề cử Nam lộ và Bắc lộ, đặt hạn trong 4 năm phải hoàn trả. Xin từ năm Nguyên Phong thứ 8 mỗi năm trả 5 vạn quan.” Theo lời tâu.

[40] Chiếu rằng: “Lý Hiến xin chọn cử 5 viên Tiểu sứ thần trấn giữ thành Lan Châu, đến các trại An Cường, Mễ Chi, Tắc Môn, Phù Đồ, Nghĩa Hợp để tính toán việc phòng thủ, giao cho Lưu Xương Tộ báo danh, Lý Hiến không được giữ lại.”

[41] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu: “Theo tin báo, giặc Tây Hạ mùa thu này chắc chắn sẽ có kế hoạch tấn công lớn, xin hạ lệnh cho các lộ phòng bị.” Chiếu rằng: “Kinh lược ty Thiểm Tây và Hà Đông xem xét lại các chỉ dụ trước đây, chọn người đáng tin cử đi thăm dò sâu, chuẩn bị kỹ lưỡng, trình bày phương lược xử trí lên triều đình.”

[42] Ngày Giáp Thân, Ty Chuyển vận Kinh Tây lộ tâu: “Theo sắc chỉ, hai lộ Đề cử Thường bình ty mỗi ty cho mượn 10 vạn quan tiền để Ty Chuyển vận tự tính toán mua bán muối Giải. Xin cho dân trong lộ đã mua muối Giải đều bán hết cho quan.” Được chấp thuận. Muối Giải đã bị độc quyền bán, thương nhân được phép buôn bán. Nay Ty Chuyển vận Kinh Tây lộ lại áp dụng chế độ độc quyền, muối đi qua Lạc đều bị giữ lại nộp cho quan, bắt nộp tiền rồi mới cho đi. Đó là do Thẩm Hi Nhan bóc lột để trục lợi, thương nhân khổ sở. Sau không thực hiện nữa.

(Chu bản có chú thích: Sử cũ cho là bóc lột, nhưng không có văn bản chứng minh, chỉ là ý riêng của sử quan, nên bỏ. Tân bản đã giữ lại, nay theo Tân bản. Lại có tấu trạng của Ty Chuyển vận Kinh Tây lộ trong Ngự tập: “Thấy rằng phép bán muối Giải, khách buôn đến giới trì xin muối về Tây Kinh, mỗi tịch có lãi ròng hơn 1 quan. Chở đến Tương, Dĩnh châu, thu lãi khoảng 2 quan, tính ra có 20 vạn quan lãi ròng để thêm vào ngân sách.” Ngự phê: “Nên giao Hộ bộ trong 3 ngày xem xét, nếu không có gì trái lẽ, thì theo lời tâu thi hành ngay.” Ngày 16 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 7 ban hành. Bản chí chép việc này giống Thực lục, Ngự tập, chỉ thêm tên Thẩm Hi Nhan.)

[43] Chiếu: “Đã ban hành Ngũ trận pháp, lệnh các tướng dạy tập, các trận pháp cũ đều bãi bỏ.” Đó là do trận doanh 9 quân biến hóa thành phương, tròn, cong, thẳng, nhọn, tổng cộng 5 biến, gọi là Ngũ trận.

(Ngày 16 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất, lại dạy Ngự trận.)

[44] Ngày Ất Dậu, Lễ bộ tâu: “Văn chúc tế trong lễ tế Thái miếu ghi: ‘Kính dùng hi sinh, tế thịnh, gia tề, thứ vật, cung kính dâng lễ tuế tế.’ Nên theo lễ xưa mà ghi đủ tên hiệu sinh tế, tế thịnh. Lại nữa, trong văn chúc tế Ngũ Phúc, Thập Thái Nhất có ghi ‘Tự thiên tử thần mỗ’. Kính xét: Theo lễ xưa, thiên tử là bậc tôn quý, dù kính thờ trời đất, tông miếu để tỏ lòng nghiêm chính với dân, nhưng chưa từng xưng ‘thần’. Vì thế, lễ xưa nói: ‘Khi lên ngôi làm lễ tế, việc nội gọi là Hiếu vương mỗ, việc ngoài gọi là Tự vương mỗ.’ Nội là tông miếu, ngoài là giao xã. Sách 《Đại Đái Lễ》 chép văn tế trời ghi ‘Dư nhất nhân mỗ’. Nhà Hán theo lễ xưa, xưng ‘Thiên tử’ khi tế trời, lời tán tụng lại ghi ‘Hoàng đế’. Đến thời Ngụy Minh Đế mới ban chiếu cho phép tế trời đất, minh đường, ngũ giao được xưng ‘Thiên tử thần mỗ’. Đời Đông Tấn, Hạ Tuần soạn văn chúc tế ghi ‘Hoàng đế thần mỗ’, từ đó lưu truyền đến nay, là theo chế độ Ngụy, Tấn. Theo nghi thức triều ta, khi tế Thượng đế, Ngũ đế, mặt trời, mặt trăng đều xưng ‘thần’, còn Ngũ Phúc, Thái Nhất và Cửu Cung Quý Thần đều là thiên quan, theo chế độ gần đây cũng xưng ‘thần’. Tra xét văn chúc tế Cửu Cung Quý Thần đã không xưng ‘thần’. Ngũ Phúc, Thập Thái Nhất nên theo lệ cũ trước năm Hi Ninh thứ 6, còn quan được cử đi tế tự nhiên xưng ‘thần’, như vậy mới không mất đi sự cân nhắc nặng nhẹ.

Lại nữa, văn chúc tế Thần Nông ở chính tọa ghi ‘Lấy Hậu Tắc phối thần làm chủ’, còn văn chúc tế Hậu Tắc ở phối tọa ghi ‘Làm chủ phụ thần’. Kính xét: 《Xuân Thu Công Dương Truyền》 nói: ‘Tế giao sao lại phải tế Tắc? Vua tất phải lấy tổ tiên mình để phối tế. Vua sao lại phải lấy tổ tiên mình để phối tế? Vì những gì từ bên trong mà ra thì không có đôi thì không đi, những gì từ bên ngoài đến thì không có chủ thì không dừng.’ Hà Hưu nói: ‘Đạo trời mờ mịt, nên suy đạo người để tiếp cận.’ Như vậy, ý nghĩa của việc lập chủ phối thần xưa kia vốn dùng cho tổ tiên. Tuy nhiên, dù không phải tổ tiên nhưng trong văn chúc tế vẫn có thể nói ‘làm chủ phối thần’, như Ngũ Nhân Đế đối với Ngũ Đế, là suy đạo người để tiếp cận thiên thần; Câu Long đối với Xã, Hậu Tắc đối với Tắc, là suy đạo người để tiếp cận thần đất và thần lúa, trong văn chúc tế đều ghi ‘làm chủ’ là được. Nếu đều là tế ngoài, mà chính tọa và phối tọa đều là nhân quỷ, thì lấy chính tọa làm chủ, còn phối tọa chỉ là hợp tế theo mà thôi. Xin trong văn chúc tế Thần Nông ghi ‘Lấy Hậu Tắc phối’, trong văn chúc tế Hậu Tắc ghi ‘Phối thực với thần’, Cao Môi lấy Phục Hi, Cao Tân phối tế, văn chúc tế đều ghi ‘Làm chủ phối thần’. Thần không có hai chủ, Phục Hi đã là chủ, văn chúc tế Cao Tân xin đổi thành ‘Phối thực với thần’.” Đều theo lời tâu.

[45] Ngày Bính Tuất, Triều nghị đại phu, Quản câu Linh Hữu quán Thái Bá Hy tâu: “Trước đây khi chưa phân ty, trong thời gian ở phân ty, đều được lệnh vào triều yết kiến, đã trải qua hai lần Nam Giao, xin được tâu bổ nhiệm con cháu.” Chiếu rằng: “Bá Hy từ nhỏ đã từng hầu hạ Nhân Tông, đặc cách cho phép.”

[46] Ban cho Đô Thủy giám 200 độ điệp để ứng phó việc mua cỏ lau ở các đê tại Hoạt Châu.

[47] Triều tán đại phu, Công bộ Lang trung Phạm Tử Kỳ được bổ làm Tả ty Lang trung. Ông dâng lời tâu: “Việc trong thiên hạ, nếu Lục bộ không thể tự quyết thì phải tâu lên Thượng thư tỉnh, đều là những việc không nhỏ, cần phải có các Lang quan cùng xem xét và phụ trách[9], không nên giao cho lại dịch phòng Khai sách. Nếu đồng liêu có ý kiến khác, thì tâu lên xin quyết định.” Vua nói: “Lời Tử Kỳ nói đúng, việc này đâu phải lại dịch có thể chuyên quyết được[10]!” Do đó khi chức Tả ty Lang trung khuyết, liền bổ nhiệm Tử Kỳ.

(Hàn Câu nói: Xưa các lại dịch Tả Hữu ty đều do các Lang quan trong sảnh chỉ định từ các cơ quan, sau này dùng đường hậu quan. Có chỉ: Khi Đô ty nhậm chức[11], Lệnh sử, Lục sự dùng trạng thông báo chúc mừng, còn lại đều đến yết kiến. Lại nữa, khi văn thư mới đến, chỉ dùng lại dịch xem xét phân phòng, sau đó có chỉ luân phiên một viên Đô ty nhận văn thư từ các nơi. Đều do Phạm Tử Kỳ đề xuất, Thái Xác tâu xin thi hành.)

[48] Ngày Mậu Tý, Tập Hi Quan sứ Vương An Thạch xin đem ngôi nhà vườn ở huyện Thượng Nguyên, phủ Giang Ninh mà ông đang ở làm chùa, xin ban tên. Vua đồng ý, ban tên là Báo Ninh Thiền Viện. Có người nói: “An Thạch yêu quý con trai là Vương Bàng, Bàng tính tình hiểm ác, khi An Thạch ở trong triều đình, những việc làm trái với tình người đều do Bàng xúi giục. Sau khi Bàng chết, An Thạch thương xót, lâu ngày không nguôi. Có lần ông mơ màng thấy Bàng mang gông sắt như tội nhân nặng, nên xin đem nhà vườn làm chùa, chính là để cầu phúc cho Bàng nơi cửa Phật.”

(Đoạn này theo 《Thiệu Thị Văn Kiến Lục》 thêm vào.)

[49] Ngày Kỷ Sửu, Ty Chuyển vận Quảng Nam Tây lộ tâu: “Dân chúng nợ tiền thuế muối và gạo mua thêm. Các quan huyện lệnh, tá và giám đương tuy đã được thay bằng quan khác, xin tạm ngừng cấp lương, bắt họ phải lo thu nợ, khi nào đủ thì mới cho thôi.” Vua đồng ý, nếu nợ ngoài không đầy năm phần thì cho thôi.

[50] Ty Đề điểm hình ngục Vĩnh Hưng quân lộ tâu: “Quân phú Vương Xung đã lâu gây loạn ở vùng biên giới châu Thương, châu Quắc. Ngoài việc lập thưởng theo quy định, xin cho người bắt được trực tiếp làm quan ban hàng; nếu bày mưu kế hoặc đánh nhau giết được đồng bọn thì thăng chức ưu đãi. Đồng thời chiêu mộ người địa phương, cấp tiền gạo hàng ngày, chọn quan bắt trộm cướp thống lĩnh, sai họ chia đường vào núi truy bắt.” Vua đồng ý.

[51] Chiếu rằng: “Năm Nguyên Phong thứ ba, các huyện thuộc phủ Khai Phong quản lý 280 đô bảo, tổng cộng 68.863 người. Nay mới được ba năm, số người thiếu đã hơn một vạn, chưa rõ nguyên nhân giảm sút, nên lệnh cho Ty Đề cử bảo giáp phân công quan lại và bắt các lệnh, tá tra xét rõ nguyên do tâu lên.”

(Đoạn này theo 《Ngự Tập》 giao cho Lưu Quản.)

[52] Ngày Canh Dần, phong Phiên quan Trang trạch phó sứ Cao Vĩnh Kiên làm Hữu Kỳ Kỵ phó sứ, Văn Tư phó sứ Hứa Lợi Kiến làm Tả Tàng khố phó sứ, Nội điện thừa chế Nhã Nhĩ làm Cung bị khố phó sứ, Nội điện sùng ban Xuy Cung làm Nội điện thừa chế. Đây là do Kinh lược ty Hà Đông tâu lên công trạng đánh giặc ở biên giới phía tây để ban thưởng.

[53] Chiếu rằng: “Các tướng, phó khi được điều động, nếu không có thân thuộc, cho phép tâu xin mang theo hai người thân tùy, cũng cấp ngựa trạm. Mang theo thân thuộc, thân tùy tổng cộng không được quá hai người. Không được dùng quan chức có sai khiển người tu sửa vào sắc lệnh của tướng.”

[54] Ngày Tân Mão, quyền tri châu Thành Châu là Chu Sĩ Long tâu: “Theo chiếu thưởng công những người có công chiêu nạp các động ở Khê Động, mở đường, hạng nhất là Lưu Tích, Điền Diên Mạc, Hà Quảng, mỗi người được ban 30 tấm lụa. Tích và những người khác đã vượt qua nguy hiểm, rất vất vả. Điền Diên Mạc xin được thăng chức, Lưu Tích, Hà Quảng xin được ban danh hiệu, hiện đang làm việc tại các trại bảo ở Tân Lộ[12].” Chiếu rằng: “Diên Mạc được thăng một bậc[13], Tích được làm Hạ ban điện thị, Quảng làm Quân tướng.”

[55] Chiếu rằng: Các cơ quan thuế cuối năm nếu tăng được thu nhập, sẽ được thưởng theo quy định của các cơ quan muối và rượu. Theo đề nghị của Kinh Tây chuyển vận ty.

(Ngày 5 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 7, lời tâu của Tô Thức có thể tham khảo.)

[56] Chiếu ban tặng chùa phần mộ của cố Tiết độ sứ Sùng Tín quân là Nhâm Trạch, mỗi năm cho phép độ hai tăng nhân. Trạch là em trai của Nhâm phu nhân[14].

(Bản mới bỏ chữ viết đỏ.)

[57] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu: “Theo chỉ dụ triều đình bàn việc phòng thủ chống địch, hiện sáu tướng ở biên giới đã đóng quân ở những nơi hiểm yếu, binh lực liên kết với nhau, lại muốn đóng hơn một vạn quân ở trại Kim Minh để phòng bị cho các tướng khi cần kíp.” Triều đình đồng ý.

(Bản mới bỏ chữ viết đỏ.)

[58] Vũ Xương quân lưu hậu, Giang Hạ quận vương, Tri đại tông chính sự là Tông Huệ mất. Được truy tặng Tiết độ sứ Chiêu Đức quân, Khai phủ nghi đồng tam ty, truy phong Diệm vương, thụy là Cần Hiếu.

[59] Ngày Nhâm Thìn, Lễ bộ xin theo lời của Thái thường thừa Lữ Thăng Khanh, trong đại lễ thụ thệ giới vào lúc bình minh, Tả bộc xạ thệ với văn vũ quan ở triều đường, Hữu bộc xạ thệ với tông thất ở Thái miếu. Triều đình đồng ý.

[60] Ban cấp 1.500 giấy độ điệp cho Cục chuyên trách chế tạo quân khí để mua gỗ sửa chữa bốn cửa ngự thành và các cửa thành vòng ngoài ở kinh đô, xây dựng thêm các đoạn tường phòng thủ và mặt ngựa, đồng thời cấp tiền ăn cho binh lính và quan lại tham gia công việc.

[61] Ngày Giáp Ngọ, Tri châu Hoàng Hảo Khiêm ở Thái Châu tâu rằng địa phương ông bị thiên tai lũ lụt nghiêm trọng, xin miễn thuế mùa thu. Triều đình ban chiếu cho Hộ bộ xử lý nhanh chóng.

[62] Ngày Ất Mùi, bổ nhiệm An Hóa quân Tiết độ sứ, Đồng tri Đại tông chính sự, Cao Mật quận vương Triệu Tông Thịnh làm Tri Đại tông chính sự, Tương Châu Quan sát sứ Triệu Tông Cảnh làm Đồng tri Đại tông chính sự.

[63] Ban chiếu tay cho Lý Hiến: “Năm nay từ giữa mùa hạ trở đi, khí âm vượt quá mức bình thường, mưa dầm gây hại. Lo ngại sâu sắc rằng vào cuối mùa thu, giặc Khương sẽ tập hợp đông người, có thể bất ngờ xâm phạm, cần phải đề phòng cẩn thận. Nay giao cho Kinh lược ty và An phủ thố trí ty ở Hi Hà lộ kiểm tra lại các chỉ thị mà triều đình đã ban trước đây về việc phòng bị đại địch, nhắc nhở răn đe. Từ tháng này trở đi, thời gian không còn nhiều, phải ngày đêm lo lắng, mọi việc cần thận trọng phòng ngừa, sắp xếp cẩn trọng, đừng để triều đình phải lo lắng về phương Tây.”

(Bản Chu thêm vào, bản Tân bỏ đi.)

[64] Hộ bộ tâu: “Kinh phí quân nhu ở Thiểm Tây, ban đầu giao cho Kinh lược ty và Chuyển vận ty cùng quản lý. Sau đó triều đình ra chỉ thị: Tất cả các khoản quân nhu và các khoản cấp phát trước đây, cùng với các khoản kinh phí hiện có, đều giao cho Chuyển vận ty thu nhận, tự quản lý mọi chi phí. Xét lại lời tâu của Vương Khâm Thần, phương pháp hội định của Vương Chấn cũng chưa thể thực hiện được. Nay Diệp Khang Trực và các quan đề nghị xin cho các lộ biên giới thực hiện việc mua bán lương thực theo phương pháp hội định của Vương Chấn. Vương Khâm Thần tiếp tục tâu, xin làm theo đề nghị của Lý Sát, toàn bộ Hoàn Khánh lộ áp dụng giá cả do Vương Chấn định trước, giao cho Hoàn Khánh Kinh lược ty, đợi sau một hai năm thành lệ, thì xin các lộ tuân theo.” Triều đình ban chiếu chấp thuận đề nghị của Diệp Khang Trực và Lý Sát.

(Bản Chu bỏ đi. Ngày 19 tháng giêng, và ngày 27 tháng hai cần xem xét lại. Bản Chu hợp nhất việc này vào ngày 27 tháng hai, nhưng lại bỏ hết phần này, cần xem xét kỹ hơn, hoặc giữ phần này bỏ phần kia.)

[65] Kinh lược sứ Lữ Huệ Khanh của lộ Hà Đông tâu rằng: “Binh mã của bản lộ theo chỉ triều đình đã tập hợp thành mười hai tướng, muốn dùng quân khí được phong chứa ở phủ Thái Nguyên, sắp xếp và phong chứa tại các châu quân mà các tướng đi qua.” Triều đình đồng ý.

[66] Chiếu cho ty Bảo Giáp thuộc phủ giới mua bạc thưởng, không được ép buộc phân phối.

[67] Ngày Bính Thân, chiếu rằng: “Những châu huyện đã bị sáp nhập hoặc bãi bỏ nay khôi phục lại như cũ, phải trình bày rõ chức vụ, tên họ của quan viên đã đề xuất ban đầu để tâu lên.” Hoàng đế cho rằng việc sáp nhập hoặc bãi bỏ châu huyện là do sứ giả, muốn lấy việc tăng thêm tiền dịch làm công trạng, nên ra lệnh xem xét lại.

(Bản Chu sửa “muốn lấy việc tăng thêm tiền dịch làm công trạng” thành “chỉ nói là đã xin phép một cách vô căn cứ.” Nay theo văn cũ.)


  1. So với Dị Mâu Tầm há cùng ngày mà nói được sao: 'Dị' nguyên là 'Tất'. Xem 《Cựu Đường thư》 quyển 140 truyện Vi Cao: Cao sai sứ vào Nam Chiếu man, 'Vua của họ là Dị Mâu Tầm vui vẻ tiếp đón, xin đoạn tuyệt với Thổ Phồn, sai sứ triều cống'. Quyển 197 truyện Nam Chiếu man: 'Năm Đại Lịch thứ 14, con của Các La Phượng là Phượng Già Dị chết trước Các La Phượng, lập con của Già Dị, tức là Dị Mâu Tầm.' 'Tất' rõ là sai của 'Dị', theo đó sửa.
  2. Lý Vũ, chữ 'Vũ' nguyên là 'Tông', theo các bản khác và quyển 352 năm Nguyên Phong thứ 8, tháng 3, ngày Giáp Ngọ, cùng 《Tống hội yếu》 chức quan 66.30 sửa lại.
  3. Theo pháp trà ở kinh sư, chữ 'trà' nguyên là 'sư', theo bản các sửa.
  4. Chữ 'địch' dưới câu 'cũng là đạo dùng Di địch đánh Di địch vậy' vốn bị thiếu, nay căn cứ 《Giáp Thân Tạp Ký》 bổ sung.
  5. Chín chữ 'lo việc này Hối Thúc cũng làm Tào vận Thiểm Tây' vốn bị thiếu, nay căn cứ sách trên bổ sung.
  6. Khai Phong phủ tả hữu sương quân tuần viện, 'viện' nguyên là 'phủ', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 24-10 sửa.
  7. 'Chu' nguyên là 'mạt', theo sách trên sửa.
  8. Theo 《Tống hội yếu》 chức quan 27-14, binh 22-12 thì ghi là 'lấy tiền bán muối của ty Giải diêm'. Nghĩa dài hơn.
  9. 'Quan' nguyên là 'trung', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 4-20 và chú thích sửa lại.
  10. Chữ 'đắc' nguyên bản thiếu, theo văn trên và sách trên bổ sung.
  11. 'Đô' nguyên là 'bộ', theo các bản và văn dưới sửa lại.
  12. Theo nghĩa văn, nghi ngờ chữ 'kim' là 'lệnh' viết sai.
  13. Chiếu Diên Mạc thăng một bậc, chữ 'diên' nguyên bản là 'dữ', theo bản khác và văn trên sửa lại.
  14. Chữ 'Trạch' nguyên bản thiếu, theo bản khác và văn trên bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.