VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 348 NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 7 (GIÁP TÝ, 1084)
Từ tháng 8 đến hết tháng 9 năm đó.
[1] Tháng 8, ngày Mậu Thìn mùng một, Môn hạ tỉnh tâu: “Hình bộ tấu sao, Tuyên đức lang Lạc Kinh căn cứ theo lệ nên xét tình tiết nhẹ, không ảnh hưởng đến việc tuyển bổ. Kinh vốn bị tội vì nói về phép dịch, bộ này không dám áp dụng lệ.” Chiếu rằng Lạc Kinh tình tiết nặng, Hình bộ dẫn lệ không đúng.
(Bản Chu bỏ đi, bản mới lại giữ lại. Việc Lạc Kinh đã thấy ở tháng 12 năm Hi Ninh thứ 4.[1])
[2] Kinh chế ty lộ Hi Hà Lan Hội tâu: “Tướng phiên binh châu Dân là Triệu Duy Cát, chủ trại Khang Cốc là Hạ Lượng bị tội vì khi còn tại chức theo Tri châu Dân là Trương Nhược Nột sai cấm quân sửa chỗ tập binh mà bị cách chức, xin cho họ được tự cải tạo, nên cho giữ chức như cũ.” Chiếu rằng Triệu Duy Cát, Hạ Lượng được ở lại chức, mỗi người kéo dài thời gian khảo xét thêm 2 năm.
[3] Kinh Hồ Lộ tương độ công sự tâu rằng: (Tôn Lãm tương độ công sự, xem ngày 2 tháng 5, lại xem ngày 11.) “Vùng Vương Giang, từ Đại Sông Khẩu trở lên tiếp giáp với các man tộc ở Đàn Khê, và con đường hiện tại nối liền. Triều đình đặc biệt giao cho Quản Câu Quảng Tây Kinh Lược Ty Cơ Nghi Văn Tự Trình Tiết chiêu nạp và sắp xếp. Địa lý nơi này rộng lớn, các man tộc đã quy phụ, cần xây dựng một đồn trại để phòng thủ.” Chiếu cho Trình Tiết xem xét. Trình Tiết tâu: “Thượng lưu Vương Giang có địa danh An Khẩu, khống chế các động, đất đai rộng rãi bằng phẳng, có thể xây dựng thành trại. Tuy nhiên, từ Vương Khẩu trở lên, qua Đại Sông, Cát Lão Giang Khẩu, đều là nơi sinh sống của các man tộc, chỉ sống bằng nghề đốn gỗ. Nay tuy đã quy thuận, đều có lương bổng, nhưng nếu xây dựng thành trại, cũng cần có binh lực để trấn áp. Nay muốn dọc theo sông và Trung Tâm Lĩnh mở đường tiến dần, trước tiên đặt đồn phòng ở Cát Lão Giang, để lại một số binh lính phòng ngừa cướp bóc lương thực, sau đó An Khẩu mới có thể khởi công.” Lại tâu: “Vùng Vương Giang các động, phía đông từ Vương Khẩu, Tam Giáp, phía tây liền với Tam Đô, Lạc Thổ, phía nam tiếp giáp với An Hóa, Châu Nghi, và đất Đàn Khê mới chiêu nạp ở Châu Thành liền kề. Năm Hi Ninh, từng sai Thừa Chế Lưu Sơ dẫn quân đóng đồn ở An Khẩu, các man tộc hợp lực giết hại quân quan, từ đó tình hình man tộc càng thêm ngang ngược. Nay đã chiêu nạp khắp nơi, đều quy thuận, nên mở đường, đặt đồn trại, trạm dịch, phân binh lính phòng thủ, mới là kế lâu dài. Lại vì việc liên quan đến hai lộ, cần cùng Châu Thành đồng thời sắp xếp, để các man tộc phân tán lực lượng, dễ dàng hoàn thành.” Đều theo lời tâu.
(Ngày 27 tháng 5 có thể khảo cứu.)
[4] Ngự sử Kiển Tự Thần tâu: “Nghe nói ở Kinh Tây, giá lúa mì mỗi đấu không quá 30 đồng, nhưng Chuyển vận ty lại bắt dân nộp thuế bằng tiền, mỗi đấu phải nộp trên 60 đồng.” Triều đình ra chiếu yêu cầu Kinh Tây Chuyển vận ty trình bày rõ ràng để tâu lên[2].
(Bản Chu cho rằng việc nhỏ nên đã bỏ đi. Cần xem xét sau này thế nào.)
[5] Ngày Kỷ Tỵ, triều đình ra chiếu theo lời tâu của Kinh lược ty Phu Diên lộ[3]: “Tam ban sai sứ Mã Khất, người mới quy thuận, trong lúc truy đuổi giặc phương Tây đã bị thương chết. Trước đây ở Mễ Hồ Xuyên, ông đã bắt được giặc nhưng chưa được thưởng, và có con trai là Sơn Tử.” Chiếu rằng: “Mã Khất đã quy thuận, chiêu dụ được nhiều hộ dân, lại nhiều lần lập công, Sơn Tử được phong chức Tam ban tá chức, cấp 30 nghìn tiền và 10 tấm lụa để lo việc tang, và được thăng ba bậc, cấp 60 tấm lụa.”
[6] Ngày Canh Ngọ, Bùi Sĩ Lâm, tân chức Đề điểm hình ngục Quỳ Châu lộ, được bổ nhiệm làm Tri châu Thiền Châu. Trước đó, Chuyển vận phán quan Hà Bắc lộ là Trương Thích đã hặc tấu Tri châu Thiền Châu Lữ Hi Đạo không trị lý tốt công việc trong quận, trong địa phận trộm cướp hoành hành, khiến triều đình phải cử quan chuyên trách đi bắt nhưng chưa bắt được, xin trừng trị nghiêm khắc theo phép nước. Vua phê: “Bùi Sĩ Lâm hôm nay đến điện tâu trình, vì mẹ già tuổi cao, đi xa không tiện, xin đổi sang một nhiệm vụ gần hơn. Xét thấy Sĩ Lâm từng nhiều lần trị lý các quận lớn, có năng lực, có thể cho thay Hi Đạo về kinh. Còn chức Đề điểm hình ngục Quỳ Châu lộ, hãy chọn người khác và trình danh sách lên.”
[7] Ban đầu, Hi Đạo được bổ nhiệm làm Tri châu Thiền, khi từ biệt, Vua dụ rằng: “Vì sông dời dòng, muốn trấn an dân chúng, các quan chấp chính tiến cử người, Trẫm chọn dùng khanh.” Hi Đạo đến Thiền, lấy thành tích trị an được khen ngợi, hết nhiệm kỳ lại được bổ nhiệm lại. Ở Hà Sóc, bảo giáp ban ngày cầm gậy, công khai làm cướp, giáo đội tuần kiểm Hòa Đức dựa thế đề cử ty, nhân đó làm trái pháp luật, cướp bóc tụ tập của cải, giám ty nhẫn nhục không dám tra hỏi. Hi Đạo phát giác việc tham nhũng của hắn, các thuộc hạ đều hoảng sợ, Hi Đạo liền dâng sớ tâu việc, bắt Đức giam vào ngục. Quan đề cử nghe tin, vội vã đến Thiền, lấy cớ bảo giáp nên thả hết. Hi Đạo nói: “Núi có thể dời, ngục không thể thay đổi!” Sau khi điều tra kỹ, bắt thủ lĩnh chém tại nơi cướp bóc, còn lại đều bị đày đi. Dân Thiền cảm động khóc, triều đình cũng sai giám ty các nơi xét án đều đúng, giáng chức nặng Đức. Từ đó, đề cử ty càng không hợp, bảo giáp có kẻ phạm pháp, các huyện hơi trừng trị, thì ắt bị vu cáo việc khác. Hi Đạo ra lệnh các huyện, bảo giáp phạm pháp có nghi ngờ phải đưa về châu, đến thì xử theo pháp luật. Quan đề cử tức giận, muốn hặc Hi Đạo, đồng liêu thấy lời Hi Đạo ngay thẳng, không dám viết trạng, nên thôi.
Mùa hạ năm Nguyên Phong thứ 5, sông Hà đổ vào Linh Bình Tảo, (việc xem ngày Nhâm Ngọ tháng 7 năm thứ 5.) một đêm vỡ bờ suýt lở. Hi Đạo nói: “Đây chính là Tào Thôn ngày trước, việc không thể tái diễn.” Liền đến sông tự đốc thúc công việc, sông không bị nguy. Trước đó, sông vỡ ở Tiểu Ngô, (ngày 8 tháng 8 năm thứ 4, sông vỡ Tiểu Ngô.) phía nam thẳng đến Linh Bình Hạ Tảo, rất gấp, năm đó có nạn lụt. Bèn xin mở cửa Đại Ngô để dẫn nước theo sông Bắc Hà dọc núi Tây, người bàn luận cho là tìm lại dấu vết xưa của Vua Vũ, từ đó Tào Thôn không còn nạn lụt. Trương Thích làm Chuyển vận phán quan, (Thích được bổ nhiệm làm Chuyển vận phán quan vào tháng 10 năm thứ 6.) dâng lợi từ muối Hà Sóc để giúp việc biên phòng, chiếu cho thi hành. Hi Đạo nói: “Chiếu chỉ của tổ tông còn đó, đất Bắc Môn nhiều muối mặn, là nguồn sống của dân, nên thông muối không cấm, dân Hà Sóc có thể yên ổn không thể quấy nhiễu.” Thích rất hận giận. Ban đầu, sông Thiền chưa dời, thành nam bắc đối diện, sông quý ở trong, nên cấm đất ven sông. Sông dời về phía bắc, có hơn mười tên cướp cướp bóc các châu huyện khác, đêm đi qua bãi cạn, Thích nhân đó tâu rằng giặc mạnh đi qua trong thành, pháp luật phải xét trách quan giữ thành, Hi Đạo bèn bị cách chức.
(Việc này căn cứ theo bài chí mộ Hi Đạo của Phạm Tổ Vũ, cần xem xét thêm. Ngày 21 tháng 4 năm thứ 8, Thích bị giáng chức.)
[8] Hữu thị cấm Đỗ Năng tự trình bày có công lao biên giới, được Vua triệu đến điện Diên Hòa ban thưởng một bộ áo giáp ngựa.
[9] Chiếu cho nội thần và điện thị quản lý việc vận chuyển ngựa dân đến các lộ Thiểm Tây và Hà Đông, ty Huân lấy số liệu về tổn thất và hiện trạng để báo cáo.
[10] An phủ sứ lộ Chân Định phủ là Phùng Kinh tâu rằng, châu Minh bị lũ lụt, nhà cửa công tư bị ngập. Chiếu cho ty Chuyển vận hoàn thành việc sửa chữa trong vòng hai tháng.
[11] Xu mật viện tâu: “Man Khất Đệ trước đây bỏ sào huyệt chạy trốn, nay nghe nói không có nơi nương tựa.” Chiếu rằng: “Vương Quang Tổ sai người chiêu dụ Khất Đệ, cho phép đầu hàng, miễn tội và bổ nhiệm chức vụ, làm việc ở vùng biên giới gần đó.” Năm đó, Khất Đệ chết.
[12] Quyền chuyển vận phán quan lộ Hà Bắc là Trương Thích tâu: “Đã sai phó tướng thứ mười lăm là Văn Cảnh dẫn quân đi bắt giết bọn giặc ở địa giới châu Thiền, tạm thời cho chọn bảy con ngựa trạm.” Chiếu rằng Trương Thích không nên cấp ngựa trạm cho tướng dưới quyền, đặc cách tha tội.
(Bản Chu chép việc nhỏ không ghi.)
[13] Ngày Tân Mùi, chiếu phạt Lễ bộ thị lang Lý Thường mười cân đồng, Thiện bộ lang trung Tăng Hữu Khai được sai làm việc ở cung quan. Vì phụ trách việc sửa đổi điều lệ không đúng.
[14] Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Hội tâu: “Trước đây giặc Hạ vây châu Lan, phiên quan Tam ban phụng chức là Chương Ngạc Đặc phòng thủ ải và phục kích có hiệu quả, tuy không bắt được giặc, xin ban ân.” Chiếu cho Chương Ngạc Đặc thăng một bậc, đổi làm Tuần kiểm của bộ tộc mình.
[15] Chiếu rằng: “Tông thất có tang kỳ trở xuống, sau khi đã an táng, cho phép cưới gả, nhưng không được dùng hoa văn sặc sỡ và tổ chức nhạc, lập thành quy định.”
(Ngự tập ghi rất chi tiết, nay theo thực lục.)
[16] Kinh lược sứ lộ Hà Đông là Lữ Huệ Khanh tâu: “Vùng biên giới phía ngoài sông mùa thu được mùa, có thể mua lương thảo, theo giá mua của quan cùng ty Chuyển vận đổi tiền và sao, và cho dân di cư trong nội địa được trả tiền vận chuyển, để thuận tiện cho công tư. Xin trước cấp ba mươi vạn quan tiền, gửi ở kho Kinh, cho phép dùng để trả nợ mua sao của bản ty, lấy số lương thảo cũ đã gửi làm kế hoạch năm, lấy số mua được gửi vào cuối năm để báo cáo.” Được chấp thuận, và cấp thêm ba mươi vạn quan tiền muối mạt.
[17] Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn tâu: “Lại bộ tấu sao, định bổ nhiệm Ty lục tham quân phủ Giang Ninh, nguyên là Pháp trực quan Bộ Hình là Hác Kinh thử chức Đại Lý ty trực, không dựa vào điều lệ mà lại dẫn dụng lệ cũ. Đã có điều lệ rõ ràng, đương nhiên phải tuân theo, sao có thể bỏ điều lệ mà dùng lệ cũ?” Chiếu chỉ phạt quan Lại bộ 10 cân đồng, quan Đô tỉnh 6 cân đồng.
[18] Ngày Quý Dậu, Trung thư tỉnh tâu: “Giặc Đơn An ở Châu Thiền cướp bóc tài sản dân chúng các huyện trấn, có khá đông đồ đảng, chưa bắt được.” Chiếu chỉ: “Điện trực Tả ban, Học dụ Vũ học là Trần Tế Phương tuyển mộ 300 binh sĩ, chỉ định điều động hai viên sứ thần, chuẩn bị sai phái truy bắt. Khi bọn giặc xuất hiện, các quan bắt giặc đều phải nghe theo chỉ huy của Tế Phương.”
[19] Ngày Giáp Tuất, Kinh lược sứ lộ Tần Phượng là Ngô Ung tâu: “Lương thảo ở Châu Tần chỉ đủ dùng trong nửa năm, xin ban cấp 30 đến 50 vạn quan tiền, theo phép Thường bình của năm lộ để lo liệu.” Chiếu chỉ cho Bộ Hộ chi 20 vạn quan tiền tích lũy dư từ quỹ Thường bình.
[20] Ty Chuyển vận và Đô kiềm hạt Hồ Bắc tâu: “Xem xét việc các hộ dân lẻ tẻ ở các đoàn Ca Lâu, Hoành Lĩnh thuộc Châu Thành đã nộp sổ sách, đều sống xen kẽ với các động thuộc đoàn Chiêu Thưởng ở Đàm Khê, có sự tương đồng rõ rệt với tình hình người Man, xin ban thưởng.” Được chấp thuận. Lại tâu: “Tam ban sai sứ ở Châu Thành là Dương Thịnh Chúc là người đầu tiên quy thuận, nay các động thuộc đoàn Đàm Khê đã được chiêu an, xin cải chức hoặc ban thưởng.” Chiếu chỉ cho chức Tam ban tá chức.
(Ghi chép bí mật ngày 7 tháng 8. Xem lại ngày 2 tháng 5, 11 tháng 5, 4 tháng 7, 1 tháng 8, và ngày 13 tháng 5 năm thứ 6.)
[21] Ngày Ất Hợi, Bộ Hộ tâu: “Đề điểm hình ngục lộ Hà Bắc đông là Lữ Trọng Phủ xin việc mua lụa trừu quyên hàng năm ở hai lộ Chiết chỉ dùng giá cũ, chi ba phần muối. Bộ này giao việc cho Ty Chuyển vận và Ty Diêm của bản lộ xem xét, nói là không tiện.” Chiếu chỉ cho Ty Chuyển vận, Ty Đề điểm hình ngục và Ty Đề cử diêm sự hai lộ Chiết cùng xem xét.
(Kết quả thế nào, cần xem xét.)
[22] Chiếu tay cho Lưu Xương Tộ: “Các quan cơ nghi trước là Từ Huân v.v… vốn do bề tôi coi quân không kiểm tra kỹ, dẫn đến vi phạm pháp luật, làm hỏng việc quan. Nghe nói hiện nay các quan thuộc trong ty vẫn còn theo thói cũ, lười nhác không chịu sửa đổi. Nếu đúng như lời đồn, không thể không trị tội. Có thể xem xét lại những người vi phạm pháp luật nặng để tâu lên xử trị, việc nhẹ hơn thì nghiêm khắc răn dạy.” Do đề cử bảo giáp các lộ Vĩnh Hưng là Hồ Tông Hồi tâu, các viên câu đương công sự Kinh lược ty lộ Phu Diên là Tào Phụ v.v… không công bằng.
[23] Ngày Bính Tý, chiếu tay cho Lý Hiến: “Việc dùng binh ở biên giới phía tây chưa xong, trong hàng ngũ chiến đấu, ngựa chiến là cấp bách. Nay các lộ tâu trình đều nói thiếu ngựa, ngoài việc thu mua ở lộ mình, làm thế nào để có thể mua rộng rãi ngựa tốt đưa vào biên giới, ngươi tận mắt chứng kiến việc này, nên biết rõ, hãy nhanh chóng trình bày phương lược lên, không được giấu giếm.”
(Bản Chu.)
[24] Đô thủy sứ giả Phạm Tử Uyên tâu: “Xem xét việc dời cầu phao ở châu Hoạt về phía tây châu, khoảng cách hai bờ là 461 bước, bờ nam đất lẫn bùn nhão, so với cầu cũ dài thêm 36 bước rưỡi.” Chiếu cho Tử Uyên cùng Chuyển vận ty Kinh Tây Hà Bắc và châu Hoạt cùng bàn bạc sửa chữa.
[25] Giám sát ngự sử Lai Chi Thiệu làm Tướng tác giám thừa. Trước đó, Ngự sử trung thừa Hoàng Lí tâu: “Thần cùng Trương Nhữ Hiền cùng tiến cử ngự sử, Nhữ Hiền từng cùng Chi Thiệu làm đồng liêu, khen người này thông thạo pháp lệnh, nên liệt tên tâu lên. Nay đột nhiên nghe nói Chi Thiệu thuê con gái nhà tạp hộ làm nô tỳ, có hành vi nhơ bẩn như vậy, xin giao cho hữu ty xét trị.” Chiếu cho Chi Thiệu trình bày rõ. Chi Thiệu nghe tin Lí tâu hặc, liền vội cho người ấy đi, rồi nói: “Gần đây mua nô tỳ họ Trương mấy ngày, hỏi ra sợ là tạp hộ, liền cho đi ngay.” Vì thế có mệnh lệnh này.
(Tháng 5, ngày Ất Tỵ, mới bổ làm ngự sử.)
[26] Chiếu rằng: “Tri Quế châu Hùng Bản đã được bổ làm Lại bộ Thị lang, đợi khi việc biện chính địa giới xong xuôi, sẽ nghe theo chỉ dụ triều đình về kinh.”
(Ngày Nhâm Thân mùng 4 tháng 6, đã bổ làm Lại bộ Thị lang, đây là lệnh đặc biệt nhắc lại. Ngày Ất Sửu 28 tháng 7, ngày Quý Mùi 16 và ngày Mậu Tý 21 tháng này có thể tham khảo.)
[27] Chiếu rằng: “Các ban trực của Xu mật viện, mỗi khi chuyển viên xuất chức, nếu là Trưởng nhập Chi hậu đã được hưởng ân điển thăng quân, nhưng vì bệnh tật không được thăng chức, đều bổ nhiệm ra ngoài; các chỉ huy trong thành không được thăng tư, từ nay trở đi sẽ được thăng một tư.”
[28] Ngày Tân Tỵ, Hồng lư khanh Trần Mục làm sứ sinh thần của Liêu chủ, Tây thượng các môn sứ Tào Dụ làm phó; Phụng nghị lang, thí Hữu ty Viên ngoại lang Phạm Thuần Túy làm sứ chánh đán, Văn tư phó sứ Thị Kì Thôi làm phó.
[29] Ty Chuyển vận Thiểm Tây tâu: “Thuế của dân hộ mùa thu năm nay, xin cho phép bản ty cân nhắc khoảng cách xa gần để điều động, nhằm tăng cường biên giới.” Triều đình chấp thuận, nhưng không được vượt quá 300 dặm.
[30] Chiếu rằng: “Châu Minh bị thiên tai lũ lụt, lương thực dự trữ không đủ, cho phép mượn từ kho thường bình của các châu huyện lân cận tổng cộng 5 vạn thạch gạo, lúa mì và đậu nhỏ, hạn trong 3 năm phải hoàn trả.”
[31] Chiếu rằng: “Lý Hiến tạm giao việc chức vụ cho Triệu Tế, lên đường về kinh. Những việc liên quan đến phòng bị mùa thu của bản lộ, giao cho Tế lo liệu.”
[32] Ngày Nhâm Ngọ, chiếu rằng: “Nghe nói các quan ở Tam tỉnh, Xu mật viện thường ra về sớm, các ty thuộc Lục bộ không kịp giải quyết xong công việc trong ngày. Từ nay về sau, cả mùa đông và mùa hè đều lấy giờ Mùi làm hạn, ghi thành lệnh.”
[33] Ty An phủ duyên biên Lộ Nam tâu: “Các thủ lĩnh La Khắc Đảng, Đẩu Nhiên, Đẩu Canh xin theo gương 19 họ kết thành nghĩa quân, muốn cử quan quản câu để đoàn kết, phân chia địa bàn phòng thủ, lập chức cấp để quản hạt.” Triều đình chấp thuận.
[34] Ngày Quý Mùi, Vua phê rằng: “Dân ở Kinh Tây tài sản ít ỏi, năm nay lại gặp nạn lụt, còn bị khốn đốn vì việc đắp đê. Phạm Tử Uyên hiện đang đóng cửa sông Vũ Tế, nhưng việc làm trước đây đã không có hiệu quả. Mùa đông năm nay tuy sương rơi nước rút, nhưng lại cần tiêu tốn nhiều tiền của, không thể đảm bảo chắc chắn thành công. Vậy hãy tạm để cho nước chảy phân tán, dựa theo vật liệu và binh lực hàng năm để củng cố ba đập Quảng Vũ[4], tự nhiên sẽ không gây hại cho sông mới. Có thể cử Khai Phong phủ Thôi quan Lý Sĩ Lương đi xem xét.” Sĩ Lương trở về tâu rằng, việc tu sửa đầu ngựa và đê điều thực sự không thể đảm bảo chắc chắn thành công, xin hãy bãi bỏ.” Vua đồng ý.
(Ngày 22 tháng 4, Tử Uyên bị khiển trách.)
[35] Xu mật viện tâu: “Các nơi báo cáo rằng giặc Tây đang tập trung binh lực lớn, nếu đến mùa thu chúng tiến sâu vào cướp phá, các nơi sẽ phải xuất binh kìm chế và tấn công nhẹ, nhưng không thu được gì, chỉ làm hao tổn binh mã. Nếu không nhân lúc chúng chưa chuẩn bị kỹ mà tập kích, để giặc có thể tập trung binh lực vào một nơi để cướp phá, thì việc chống đỡ cũng sẽ rất khó khăn.” Vua ra chiếu: “Các ty Kinh lược chế trí Thiểm Tây, Hà Đông hãy chọn người đi thăm dò sâu, nếu trong phạm vi một hai trăm dặm biên giới có quân giặc không quá lớn, và có dân thu hoạch mùa thu đang ở đó, có thể nhanh chóng đến rồi rút về, nhân cơ hội tiêu diệt. Hãy cân nhắc sức lực mà phát binh, phải tính toán kỹ lưỡng, không được tiến sâu vào vùng đất trống trải.”
[36] Vua ra chiếu: “Việc bàn về biên giới với Giao Chỉ, theo báo cáo gần đây, đã có chút manh mối. Miêu Thời Trung vừa được bổ nhiệm làm Tri Quế Châu, am hiểu tình hình man di phương đó, xử lý các việc vụ, nên không kém gì Hùng Bản. Hơn nữa, Bản đã có mệnh lệnh thay đổi, e rằng sẽ không chịu trách nhiệm về chức vụ. Hãy thúc giục Thời Trung không đợi dọn nhà, lập tức đi ngựa trạm nhanh chóng đến nhậm chức.”
(Theo 《Ngự tập》. Ngày mồng 9 Bính Tý, ngày 21 Mậu Tý có thể tham khảo.)
[37] Ngày Ất Dậu, ban chiếu rằng: “Hà Đông, Thiểm Tây phát bảo giáp cấp lộ phí: nếu xuất phát từ biên giới châu trên 200 dặm, thì bảo chính 3.000, phó bảo chính 2.000, đại bảo trưởng 1.000, tiểu bảo trưởng và bảo đinh 700[5]. Nếu dưới 200 dặm và vùng biên giới không vượt quá 200 dặm từ biên giới châu, thì bảo chính 2.000, phó bảo chính 1.500[6], đại bảo trưởng 700[7], tiểu bảo trưởng và bảo đinh 500.”
[38] Ngày Bính Tuất, Đô đại đề cử Biện Hà đê ngạn ty tâu: “Kinh Đông đất giàu lương thực, có thể vận chuyển bằng đường thủy. Phía dưới Quảng Tế Hà tiếp giáp các nơi, nhưng vì nước cạn nên không thể thông thuyền. Nay bản ty vừa tu sửa bờ sông Kinh Đông, mở cửa cống thông với Quảng Tế Hà, lợi ích rất lớn. Nay muốn ở phía trong cửa Thông Tân, cách thành phía đông sông Biện 30 bước, cho quân tu thành đào một con sông, lấy đất tu thành, và đến cửa cống đặt cối xay nước, phía dưới thông với Quảng Tế Hà, để tiếp ứng vận chuyển.” Theo lời tâu.
(Ngày 11 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 5, lần đầu bãi bỏ vận chuyển bằng Quảng Tế Hà. Ngày 20 tháng 7, ngày 4 tháng 9 năm thứ 6.)
[39] Thượng phê: “Các tướng và binh mã, ngày thường vốn đã bị khốn đốn vì việc sai dịch, khó chuyên tâm vào việc võ. Gần đây lại kiểm soát tướng, phó quá chặt, phần lớn bị chế ước bởi châu quận, dù có người tài cũng hiếm khi được phát huy hết khả năng, tận lực tuân thủ pháp luật. Ngoại trừ ba lộ trên có suý thần có thể giao phó trách nhiệm, còn lại Khai Phong phủ giới, Kinh Đông và Kinh Tây lộ, chuyên chọn một viên giám ty để đề cử, Khai Phong phủ giới là Vương Cầu, Kinh Đông là Lữ Hiếu Liêm, Kinh Tây là Lương Đào. Theo lệnh bảo giáp, dùng một nội thần để nhận tấu báo, lệnh không theo thời gian kiểm tra việc giáo dục, mỗi năm như bảo giáp, cử quan đi xem xét.” Thủ chiếu gửi Hiếu Liêm: “Triều đình thấy rằng các tướng, phó trong lộ phần lớn là võ nhân, ít am hiểu văn pháp, khiến binh mã dưới quyền thường xuyên làm phiền triều đình đốc thúc, chưa từng đạt đủ số lượng, cũng như việc huấn luyện đánh trận, phần lớn không đúng pháp. Vì võ nhân không thể xem xét kỹ các pháp thức triều đình ban hành, dẫn đến bỏ bê không thực hiện, lại không có chủ ty để khiếu nại, dù có người hiểu chức trách, tấm lòng hướng công cũng không thể bày tỏ. Nay đặc biệt giao cho khanh đề cử binh mã trong lộ, chức nhiệm và quyền hạn đều theo pháp đề cử bảo giáp đã ban hành. Khanh hãy thấu hiểu trọng trách được giao phó, đi lại kiểm tra đốc thúc, sớm khiến việc huấn luyện tiến bộ, hành trận tinh thông, số lượng người và ngựa nhanh chóng đạt đủ, khi cần điều động, chiến đấu và phòng thủ bốn phương, đủ để giữ vững lập công, không còn như trước chỉ là số lượng hư danh.”
[40] Ngày Mậu Tý, Thượng thư tỉnh tâu: “Nghe nói năm nay Quảng Tây mùa thu được mùa lớn, thóc gạo dư thừa, chính là lúc nên tích trữ.” Chiếu cho Quảng Tây đề cử thường bình ty nhân cơ hội này mua nhiều thóc gạo.
[41] Kế nghị biện chính địa giới An Nam, Thành Trác tâu rằng đã cùng Lê Văn Thịnh và những người khác biện chính, xin ban chiếu gia ân ban thưởng. Chiếu cho Hùng Bản hỏi Thành Trác: Lê Văn Thịnh trong công văn và khi đối thoại đều nói không dám tranh chiếm các châu động mà Nùng Tri Hội và Nùng Tông Đán đã nộp, vì sao lại xin ban chiếu? Hùng Bản tâu: “Thành Trác căn cứ vào tờ trình của Lê Văn Thịnh: ‘Theo ý kiến của Thành Trác, từ các động Vật Dương, Thuận An trở về phía nam vạch rõ địa giới, bồi thần không dám tranh chấp.’ Đó chính là bằng chứng rõ ràng của việc biện chính.” Chiếu ban cho Giao Chỉ tám huyện động ngoài ải, lại ban cho sứ giả và phó sứ áo lớn: Lê Văn Thịnh năm trăm, Nguyễn Bồi ba trăm.
(Tám động là đất cằn cỗi, việc này ghi rõ ngày Nhâm Thân mùng 4 tháng 6 và ngày Mậu Tý 22 tháng 11. Ngày mùng 4 tháng 6 năm thứ 6, bắt đầu lệnh cho Thành Trác biện chính.)
[42] Chiếu cho Ty Kinh lược An phủ Hi Hà Lan Hội điều tra xem từ Lan Châu dọc sông đến Linh Châu, qua sông đến Hưng Châu có mấy con đường, và báo cáo về khoảng cách xa gần, quanh co hay thẳng tắp của các địa điểm đó.
[43] Chiếu rằng: “Các ty, giám, nếu có việc chậm trễ, thuộc về sự quản lý của các tỉnh, tào, tự, giám mà không kiểm tra được, cũng lệnh cho Đài sát đàn hặc tấu.”
[44] Ngày Kỷ Sửu, hoàng tử thứ mười một là Ngụ được phong làm Định Vũ tiết độ sứ, tước Thành Quốc công.
(Cựu kỷ chép: Ngụ làm tiết độ sứ, tước quốc công. Tân kỷ không chép chức tiết độ sứ.)
[45] Chiếu cho Lại bộ viên ngoại lang Hà Tuân Trực, Nhập nội đông đầu cung phụng quan, Câu đương Ngự dược viện Lưu Duy Giản, cùng tham định các nghi thức cúng tế và dâng hiến ở các lăng.
[46] Lại bộ tâu: “Lễ tế Xã Tắc có chôn ngọc nhưng không có ngọc để lễ thần. Theo lễ Khai Nguyên, khi tế Thái Xã, Thái Tắc, dùng hai ngọc khuê có đế. Xin hạ lệnh cho các ty tạo hai ngọc khuê có đế, để làm lễ khí tế Xã Tắc.” Theo lời tâu.
[47] Hình bộ tâu: “Người Nam Phiên đến tiến cống là Thạch Dĩ Định đi qua huyện Tương Thành, châu Nhữ, thuộc hạ của y đánh người chợ và tự hủy sắc vàng. Dĩ Định là người ngoại phiên, nên do triều đình chỉ huy, còn sắc thư đã giao cho sứ thần áp bạn chủ khách, xin đợi khi trở về giao xuống Đại Lý xét tội.” Chiếu rằng: “Sắc thư không cấp riêng, chỉ lệnh châu Nhữ trình bày nguyên nhân việc ồn ào tranh chấp và hủy sắc thư, gửi kèm sắc thư bị hủy đến Kinh lược ty Quảng Tây, sao chép văn bản gửi đến cơ quan giới thủ trao lại cho bản phiền. Sứ thần áp bạn, theo như Hình bộ tâu.”
[48] Quyền Quốc tử Tư nghiệp Chu Phục tâu: “Học đường các quận huyện trong thiên hạ đều thuộc về bản giám, sĩ tử bốn phương phần nhiều xuất thân từ Thái học. Khoa thi của Lễ bộ sắp tới, e rằng các cử nhân từ các lộ sẽ tập trung về kinh sư, vì không thuộc học tịch nên không có quy định kiểm soát, theo thói cũ, phóng túng thiếu liêm sỉ, lại thêm học sinh bản giám lẫn lộn che giấu lẫn nhau, khó mà xét rõ. Xin rằng khi cử nhân đến kinh, nếu có lỗi lầm rõ ràng làm tổn hại đạo đức, như cờ bạc, kiện tụng, say rượu, không kiềm chế, tạo lời đồn, phỉ báng triều chính, thì giao cho bản giám kiểm tra tâu lên, so sánh với quy định học đường mà cách chức.” Được chấp thuận.
[49] Ngày Tân Mão, châu Hùng tâu: “Theo chỉ triều đình, làm theo kiểu Cao Dương Quan đúc chín cửa sổ nước bằng sắt dưới thành, vật liệu và nhân công tốn đến hàng chục vạn. Hiện nay tường thành trên dưới cửa sổ đều kiên cố, bản châu lại ở nơi biên giới xa xôi, nếu đặt cửa sổ sắt, phải đục tường thành mặt trên ba mươi thước, mặt dưới mười thước, không chỉ tốn công vô ích, mà còn lo gây xáo trộn. Xin dần dần tính toán vật liệu và nhân công, đợi khi cửa sổ nước thành bị hư hỏng thì sửa chữa thay thế.” Được chấp thuận.
[50] Chiếu rằng từ nay các chức tri châu do đường trừ và Lại bộ bổ nhiệm, lấy ba năm làm một nhiệm kỳ.
[51] Chiếu rằng các lộ đề cử thường bình ty giữ lại một nửa tiền mặt[8], lấy hai phần làm thế chấp cho thị dịch.
[52] Chiếu rằng tại huyện Viên Khúc, châu Giáng chi ra số tiền lãi sáu vạn bảy nghìn quan, giao cho Chuyển vận ty Hà Đông để ứng phó cỏ lương.
[53] Ngày Nhâm Thìn, Vua ban chiếu chỉ cho Lưu Xương Tộ rằng: “Gần đây, Trẫm đã chỉ huy các Kinh lược ty nhân cơ hội xuất quân, phá hoại mùa màng của địch. Nhưng lo rằng việc thu hoạch đã xong, quân địch sẽ nhân lúc mùa thu khỏe mạnh tập hợp, thêm vào đó, biên thần sơ suất trong việc canh phòng, nếu chẳng may gặp giặc, sẽ gây hại lớn cho quốc gia. Khanh hãy tính toán kỹ, nếu chưa thể xuất quân thì hãy tuân thủ ước định trước, cả trong lẫn ngoài đều phải đề phòng cẩn thận, đừng vì nghe theo mệnh lệnh nhất thời của triều đình mà hành động bừa bãi.”
[54] Chiếu chỉ cho Giang Nam Tây đề cử đúc tiền, Triều nghị đại phu Tiền Xương Vũ về hưu, Giang Đông đề cử đúc tiền, Triều nghị đại phu Lý Phân bị thay thế. Xương Vũ bị tội vì dâng tấu vu cáo Phân xử lý sai trái, đáng phải đi đày hai năm; Phân bị tội vì báo cáo không đúng sự thật, đáng phải đi đày một năm; cả hai đều được ân xá, nhưng Xương Vũ đã 72 tuổi nên được về hưu.
[55] Ân Châu Tổng quản, Tín Châu Đoàn luyện sứ Tôn Cổ, Thương Châu Tổng quản, Thần Châu Đoàn luyện sứ Lưu Văn, đều vì tuổi cao nên được lệnh về hưu.
[56] Ngày Quý Tỵ, Giám Thư Châu Thạch Khê trấn thuế rượu, Phụng chức Dương Mậu Thịnh bị xử tội chết nhưng được tha, bị tước chức và đày đến Liễu Châu. Tội của ông là vì dân chúng cưỡi ngựa qua trạm thuế, bị khám xét thấy có vật phẩm chịu thuế, bị đánh đến chết.
[57] Chiếu chỉ cho các quân ở Hà Nam phủ bị lũ lụt được mượn một tháng lương, những người đang bị khấu trừ lương đều được miễn.
[58] Chiếu chỉ cho Nội tàng khố sứ, Vinh Châu Thứ sử, Kinh Nguyên lộ Đô giám, Tri Trấn Nhung quân Trương Thế Củ bị truất hai chức, miễn cách chức, bãi chức Đô giám, giữ chức Vinh Châu Thứ sử, quyền Tri Trấn Nhung quân. Tội của ông là trước đây làm ở Hà Đông quân mã ty, dâng tấu công trạng xuất quân, nhưng hiệu dụng Giả Trọng Bảo bị thương nặng không đúng sự thật, Lô Bỉnh và những người khác xin khoan hồng, nên chiếu chỉ đợi xét án rồi mới quyết định.
[59] Chiếu chỉ: “Các lộ phát ngựa dân ở Thiểm Tây, nếu có con ngựa nào bị mù một mắt hoặc mắt có vòng đơn, thì lập tức trả lại và bắt mua con khác.”
[60] Chiếu chỉ: “Từ nay, cường đạo phải do châu, huyện xét thấy không thể kiềm chế được, hoặc là bọn hung ác nguy hiểm từ mười người trở lên, mới được tuyển mộ tướng binh đi bắt giết. Nếu bản châu có binh lính thuộc quyền tướng đó, thì trước hết phải tuyển mộ từ đó, nếu không đủ, mới được tuyển mộ tướng binh khác đi bắt. Nếu vi phạm, ở Khai Phong phủ giới, Kinh Đông, Kinh Tây lộ do đề cử tướng binh quan xử lý, các lộ khác do An phủ, Tổng quản, Kiềm hạt ty cử hặc.”
[61] Xu mật thừa chỉ ty so sánh việc thưởng phạt các tướng, phó tướng, áp đội, huấn luyện quan, quân viên giáo đầu ở Kinh Đông, Kinh Tây lộ. Chiếu rằng: “Tướng, phó tướng thứ tám Kinh Đông là Lương Dụng, Triệu Tiềm, tướng, phó tướng thứ năm Kinh Tây là Trương Tuyển, Tôn Liễn làm tốt nhất, mỗi người giảm thời gian khảo xét ba năm. Tướng, phó tướng thứ hai Kinh Đông là Âu Dục, Sử Cát, tướng, phó tướng thứ nhất Kinh Tây là Tô Uân, Vương Chính Điện, mỗi người kéo dài thời gian khảo xét ba năm.”
[62] Quân Châu tâu rằng, Tư chính điện đại học sĩ, Thủ Thái tử Thiếu bảo trí sĩ Triệu Biện mất. Ngừng triều, tặng Thái tử Thiếu sư, thụy là Thanh Hiến.
[63] Ngày Giáp Ngọ, Vua phê: “Các lộ điệp báo rằng giặc Tây đang chế tạo nhiều công cụ, huy động toàn quốc, tuyên bố sẽ đánh vào Lan Châu. E rằng quan lại, tướng sĩ quen thắng trước, coi thường địch, hoặc bị dụ ra đánh, dẫn đến sai lầm. Lệnh cho Khang Thức đến Lan Châu cùng các quan chức tại chức lập kế hoạch phòng bị, và chiêu mộ người đi do thám sâu. Nếu giặc thực sự xâm lược, cần thận trọng hơn năm ngoái. Quản lý tướng sĩ phòng thủ, ngày đêm hết sức ứng phó, để giành chiến thắng, đồng thời xem xét tình hình, kịp thời khao thưởng. Đợi sông lớn tan băng, mới được đi nơi khác tuần tra.”
[64] Ngày Ất Mùi, Đô đại đề cử chuyên trách việc trà là Lục Sư Mẫn tâu rằng: “Phép trà ở Xuyên bắt đầu từ năm Giáp Dần niên hiệu Hi Ninh, thi hành ở Thiểm Tây, đã có hiệu quả rõ rệt. Với dân cư đông đúc ở Hà Bắc, Hà Đông, trà là thứ không thể thiếu trong một ngày. Nếu theo phép cũ của Thiểm Hữu mà thu lợi về công, ước tính số chi phí hàng năm của hai lộ, đặt quan trường ở vùng Kinh, Sở để mua bán, hàng năm vận chuyển đến hai lộ, đều dùng phép cấm đất của Thiểm Hữu, tích trữ ở bản lộ để giúp chi phí biên giới.” Vua xuống chiếu cho Sư Mẫn trình bày cụ thể. Sau đó, hai lộ báo lên số lượng trà cần dùng. Khi trình lên, Vua xuống chiếu tạm dừng việc này.
(Bản Chu bỏ đi, nói rằng không thi hành nên bỏ. Xét: Đây là đức lớn của Thần Tông, sao có thể bỏ qua? Vẫn giữ lại.)
[65] Phó sứ phát vận Giang, Hoài đẳng lộ là Tưởng Chi Kì xin thi hành lại phép chuyên trách trà ở sáu lộ Đông Nam. Khi trình lên, không được thi hành.
(Bản Chu lại bỏ đi vì không thi hành, nay khôi phục lại.)
[66] Quyền phát khiển đồng kinh chế tài dụng biên phòng Hi Hà Lan Hội lộ là Mã Thân xin miễn việc phong trang số lương thực thiếu hụt của quân cấm ở năm châu quân mới khôi phục ở Hi Hà lộ. Vua xuống chiếu từ nay không phong trang nữa, số đã phong trang thì chuyển cho ty Kinh chế.
[67] Ngày Bính Thân, Vua xuống chiếu cấp 50 vạn quan tiền thặng dư thường tích cho ty Kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ để mua lương thảo.
[68] Vua xuống chiếu các võ thần làm tri châu, quân sứ đều lấy ba năm làm một nhiệm kỳ.
[69] Ty Đề cử đê ngạn sông Biện xin: “Hàng năm mua 17 vạn cân trà lạp ở Kiến Châu, theo lệ quan cương được miễn thuế đến kinh, trích một phần mười gửi vào kho trà. Số trà mà kho trà bán, bản ty xin mua hàng năm 3 vạn cân, tùy theo trà mới hay cũ mà định giá.” Đều được chấp thuận. Số trà của ty Thị dịch vụ, lệnh bàn bạc định giá. Nếu không bán được, thì báo lên cấp trên, đưa ra ngoài phủ Khai Phong để đổi.
[70] Chiếu rằng: “Kinh lược an phủ chế trí ty của Hi Hà lộ tâu: ‘Tây Phiên Đổng Chiên gửi đến thư bằng chữ Phiên, nói rằng Hạ quốc phái thủ lĩnh đến thành Thanh Đường, muốn cùng thủ lĩnh Đổng Chiên vào Hán để bàn việc thông hòa.’ Đã có chỉ dụ, sai một sứ thần dẫn họ đến kinh đô. Có thể tiếp tục chỉ dụ, lệnh cho kinh lược ty xem xét, nếu thực sự có biểu văn của Hạ quốc và việc tấu trình, thì làm theo chỉ dụ trước. Nếu là để bàn bạc với quan biên giới, thì phải tâu trình trước.”
(Theo 《Ngự tập》, đây là việc ngày 30 Đinh Dậu, nay ghi lại ở đây, không rõ sau này kết quả thế nào. Lúc này Đổng Chiên đã chết, A Lý Cốt kế vị, nhưng chưa phát tang.)
[71] Ngày Mậu Tuất, tháng 9, Xu mật đô thừa chỉ Trương Thành Nhất tâu: “Xu mật đô thừa chỉ mỗi tháng có tiền chức 30 quan, theo lệnh về bổng lộc: võ thần chính nhiệm từ tiết độ sứ trở xuống không được cấp thêm.” Chiếu đặc biệt cho phép. Lại có chiếu cấp cho Lý Nguyên Phụ 5.000 tấm lụa kinh chế, giao cho kinh lược ty của Tần Phượng lộ để thưởng công.
[72] Xu mật viện tâu: “Hạ quốc muốn nhân Đổng Chiên phái sứ giả xin thông hòa, ý đồ gian trá chưa rõ, e rằng muốn dùng việc này làm nghi ngờ việc phòng bị biên giới của ta.” Chiếu lệnh cho chế trí ty phải đề phòng cẩn thận, không được vì thế mà lơ là.
[73] Ngày Kỷ Hợi, phong Hữu Vũ vệ Đại tướng quân Trọng Tiên làm Đăng châu Đoàn luyện sứ, tập phong Lỗ quốc công. Trọng Tiên là con của Tông Túc, chiếu rằng vì Tông Túc là người đầu tiên theo hầu Tiên đế khi còn ở phiên phủ.
[74] Chiếu lệnh Lý Hiến trở lại chức vụ cũ, vẫn quản lý công việc của kinh lược an phủ ty, đợi khi tiếp đón Đổng Chiên và thủ lĩnh Hạ quốc bàn việc xong, thì làm theo chỉ dụ trước.
(Ngày 23 có thể tra cứu.)
[75] Ngày Canh Tý, chiếu rằng: “Thành Đô phủ bãi bỏ Vũ Ninh đệ bát chỉ huy, lập thêm một chỉ huy Mã quân Kị xạ, cấp ngựa mua từ Lê châu, định biên chế 410 người.” Vì lộ này tâu rằng Mã quân không đủ.
[76] Chiếu rằng: “Tông thất Khắc Ban vì bệnh tâm thần đánh vợ chết, đã bị giam lâu ở ngoại trạch, có thể miễn giám thủ.”
[77] Ngày Tân Sửu, Ty Kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ biên phòng tài dụng dâng lên báo cáo về số tiền, lụa, lương thảo cần dùng trong năm. Chiếu rằng: “Hàng năm cấp hai trăm vạn quan tiền, lấy từ mười khoản tiền lãi của Ty này, tiền dư từ thuế miêu dịch ở các lộ Xuyên, tiền dư từ thường bình tích lũy, mỗi khoản hai mươi vạn, tiền từ Ty Trà sáu mươi vạn, tiền từ việc chuẩn bị vật phẩm ở các lộ Xuyên chuyển về phủ Phượng Tường để phong trang phường trường ba mươi lăm vạn, tiền từ ba xưởng đúc tiền đồng ở Thiểm Tây là hai mươi bốn vạn tám nghìn, tiền từ khoản mã phong trang tại kinh đô là mười vạn, tiền tiết kiệm từ việc giảm bớt cống phẩm Biện Cương là mười vạn hai nghìn. Bắt đầu từ năm sau, Hộ bộ hàng năm cấp công cứ để chuyển giao, đến cuối năm Nguyên Phong thứ mười, Ty Kinh chế phải báo cáo số tiền đã chi và còn lại.”
[78] Lễ bộ tâu rằng, trong các đại lễ thụ thệ giới, các quan đứng ban xin được miễn tham gia triều hội. Được chấp thuận. Theo lệ cũ, sau khi thụ thệ giới phải tham gia triều hội, nên thệ giới thường được tổ chức trước khi trời sáng, có người cho rằng điều này là không hợp lễ.
[79] Chiếu rằng, những người vi phạm thời hạn xử lý văn bản hai lần bị ghi vào sổ, quan chức sự vụ một lần bị ghi vào sổ.
[80] Chiếu rằng: “Các lộ mua sắm cống phẩm trên cơ sở phân bổ bắt buộc, giao cho các Ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Đề cử kiểm tra và tố cáo, cho phép các Ty giám sát lẫn nhau.”
[81] Chiếu rằng, Tri châu Tần Châu là Ngô Ung theo pháp lệnh gần đây, chia làm bốn trường để huấn luyện các cung thủ người Hán và người Phiên.
[82] Ngày Nhâm Dần, Long Phiền ở Tây Nam dâng phương vật.
[83] Chiếu rằng: “Ngựa cống từ lộ Thành Đô phủ nuôi dưỡng tại Thái Bộc tự lâu ngày, chết vì bệnh rất nhiều. Nên lệnh cho sắp xếp trước các quân sẽ nhận ngựa, kiểm tra kích thước rồi trình lên, phân bổ cho các quân.”
[84] Con trai của Chỉ huy Trừng Hải ở châu Uất Lâm thuộc Ty Kinh lược Quảng Tây là Mạc Phật Tựu tâu rằng: “Cha tôi là Quý bị giặc Giao bắt, sau đó giết giặc tự trở về, được bổ làm Chỉ huy sứ từ chức Thập tướng. Chưa về doanh, lại được điều đến Ty Chiêu thảo, không rõ sống chết.” Chiếu ban cho một trăm tấm lụa.
[85] Ngày Quý Mão, Đô đại đề cử trà trường là Lục Sư Mẫn xin miễn thu tiền phạt lãi do dân nợ tiền trà. Hộ bộ tâu rằng, số tiền phạt bảy vạn quan là tiền phong trang của triều đình. Chiếu rằng, số tiền gốc và lãi chính thức đều được gia hạn để nộp, còn tiền phạt lãi thì được miễn.
[86] Tri phủ Thái Nguyên Lữ Huệ Khanh xin chia quân mã bộ tám chỉ huy thuộc tướng thứ chín của Hà Đông ở các châu Lam, Thạch, hàng năm thay phiên đến các trại Gia Lô, Ngô Bảo thuộc châu Thạch để phòng thủ. Được chấp thuận.
[87] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Ở trại Tắc Môn, cỏ chất đống bị nóng lên, đã sai Câu đương công sự Tiền Cảnh Khác thay tướng quan Quách Tường trấn thủ, xem xét thực tế.” Chiếu rằng: “Thảo trường thất chức, đáng lẽ phải tra hỏi trại chủ, đô giám, sao lại thay tướng quan trấn thủ trước? Lệnh cho kinh lược ty trình bày rõ ràng để tâu lên.”
[88] Ngày Giáp Thìn, chiếu rằng: “Gần đây sai Tả ban điện trực, Vũ học dụ Trần Tế Phương chiêu mộ binh lính để bắt giết giặc ở Hà Bắc. Nay Đơn An, Trương Tạ Lưu đã bị bắt, bọn giặc ở các châu Thiền, Hoạt cũng đã suy yếu[9], nên cho Tế Phương về kinh, giải tán số binh đã mộ. Những tên giặc chưa bắt được, giao cho các lộ Khai Phong phủ giới, Kinh Tây, Hà Bắc đốc thúc bắt giữ.”
[89] Tự Bộc vương Tông Huy tâu: “Phụng sự việc thờ cúng An Ý vương, xin được tăng bổng lộc như các quận vương tông thất giữ chức sứ tướng.” Chiếu cho tăng thêm hai nghìn quan tiền công sứ mỗi năm, cấp lương thực theo hai phần ba lệ của thân vương.
[90] Đề cử bảo giáp phủ Khai Phong Vương Cầu xin mua ngựa đực, ngựa cái, mỗi hạng tăng thêm năm mươi nghìn tiền, căn cứ vào màu lông và nơi sản xuất để phân loại cao thấp. Được chấp thuận.
[91] Ngày Ất Tỵ, nước Tam Phật Tề dâng vật phẩm địa phương.
[92] Kinh Hồ Nam Lộ chuyển vận ty tâu: “Xét theo điệp của ty đúc tiền Kinh, Quảng các lộ: Chuẩn theo điệp của Nội tàng khố, kiểm hội lại quyển lệ tường định của Tam ty năm Hi Ninh, trong đó có một khoản quy định rằng lợi nhuận vàng bạc từ các mỏ ở các lộ đều nộp vào khố này. Đã gửi điệp đến trường Vĩnh Hưng ở Đàm Châu để báo cáo số lượng bạc thu được sau khi khai thác, nhằm báo lại Nội tàng khố. Xét thấy việc thu bạc từ các mỏ của ty này đều là để chi dùng, từ lâu không phải là số lượng phải chuyển đến Nội tàng khố. Nếu cần phải nộp tất cả vào Nội tàng khố, xin lấy một năm nào đó làm mốc, ấn định thời hạn rộng rãi, dần dần nộp bổ sung.” Vua phê: “Nên theo điệp của ty đúc tiền Kinh, Quảng các lộ, trong đó chỉ rõ điều khoản trong quyển lệ tường định của Tam ty năm Hi Ninh, tất cả đều nộp vào Nội tàng khố, lấy năm Nguyên Phong thứ nhất làm mốc, và theo như tấu trình, chia đều làm năm năm để nộp bổ sung.”
(Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》 ngày 8 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 7.)
[93] Ngày Bính Ngọ, tiết Trùng Dương, đặc biệt ngự tại điện Diên Hòa để xem ngựa do Kinh chế Mục mã ty tiến từ các lộ mua về, cùng ngựa con của giám tả đệ nhất.
(《Cựu kỷ》 chép: Tiết Trùng Dương, đặc biệt ngự tại điện Diên Hòa để xem ngựa của giám mục. 《Tân kỷ》 không chép.)
[94] Quyền quản câu Kinh lược ty Hi Hà Lan Hội Lộ là Triệu Tế tâu, đã dự sai Lý Hạo, Miêu Lý thống lĩnh binh mã bốn tướng Hán, Phiên để chuẩn bị ứng phó.
[95] Ngày Mậu Thân, Thượng thư Hộ bộ Vương Trần tâu: “Theo chiếu chỉ, xét rõ việc An Thủ Trung được vẽ chân dung, tra cứu công lao của các bề tôi, đều căn cứ vào quốc sử và thực lục để khảo cứu sự tích. Theo bản truyện chép, tặng Thái úy An Thủ Trung có chiến công và chính tích[10], nên được vẽ chân dung. Còn Phụng Nhật Tả sương Đô chỉ huy sứ, Khâm Châu Đoàn luyện sứ An Thủ Trung, sử sách không chép, nên không thuộc diện được vẽ chân dung.” Chiếu chỉ cho cung Cảnh Linh sửa lại chân dung của tặng Thái úy An Thủ Trung, và ban ơn cho gia đình ông. Trước đó, quan phụ trách vẽ chân dung ở cung Cảnh Linh nhầm lẫn vẽ chân dung của Khâm Châu Đoàn luyện sứ An Thủ Trung, còn cháu của tặng Thái úy An Thủ Trung tự trình bày, nên sai Vương Trần khảo định, rồi ban chiếu chỉ này.
[96] Ngày Kỷ Dậu, Hiệu thư lang Vương Trọng Tu được thăng làm Trứ tác tá lang.
[97] Chiếu chỉ: “Đô đại đề cử trà trường Lục Sư Mẫn gần đây dâng sổ sách kê khai lợi nhuận, Hộ bộ đã giao cho địa phương xét lại và bảo đảm. Có thể chỉ lệnh cho Tỷ bộ lấy sổ sách của Sư Mẫn mang theo để xét lại, hạn trong một tháng phải bảo đảm và tâu lên xin chỉ. Các quan lại có công trong việc này, nên giao cho Sư Mẫn và cấp trên xét công để ban thưởng.”
[98] Chiếu chỉ cho các gia đình ở Tây Kinh bị lũ lụt, và những hộ bị thiệt hại mùa màng trên 50%[11], đều được miễn thuế và đổi thuế năm sau, theo lời thỉnh cầu của Viên ngoại lang Hộ bộ Trương Tuân.
[99] (1) Đề cử Kinh Hồ Nam lộ Thường bình đẳng sự Trương Sĩ Trừng, Chuyển vận phán quan Trần Thơi cùng các quan khác dâng lên số lượng muối bán được trước đây và số lượng muối dự kiến tăng thêm của tám châu thuộc lộ này, soạn thành điều ước tổng quát về pháp chế muối của Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây. Hộ bộ tâu rằng, muốn dựa theo đó thi hành, đợi khi ổn định, sẽ lệnh cho các quan Chuyển vận và Đề cử của lộ cùng nhau lập pháp. Được chấp thuận. Trước đó, Kiển Chu Phụ tâu rằng, các châu Thiều, Liên, Sâm, Đạo có thể thông thương hàng triệu cân muối Quảng Đông, thay thế muối Hoài để cung cấp cho Hồ Nam. Vì vậy, Phụng nghị lang Giáp Thiện cũng xin vận chuyển muối Quảng Đông đến ba châu Sâm, Toàn, Đạo thuộc Hồ Nam lộ. Chiếu giao cho Sĩ Trừng và Thơi xem xét. Đến nay tâu lên, bèn giao cho Giám ty thi hành.
(Theo 《Cựu lục》, ngày Mậu Tý tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 6, Hộ bộ tâu: Phụng nghị lang Giáp Thiện xin thông hành muối dư của Quảng Đông đến các lộ Quảng Tây, Kinh Hồ, Giang Tây, Phúc Kiến, trong đó lộ Giang Tây [chữ “Giang” trong “nội Giang Tây nhất lộ” vốn bị thiếu, nay căn cứ vào quyển 341 của sách này, ngày Mậu Tý tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 bổ sung], sai Tam ty phó sứ Kiển Chu Phụ xem xét thi hành, quả nhiên thuận tiện. Thiện trước đây xin vận chuyển muối Quảng Đông đến ba châu Sâm, Đạo, Toàn thuộc Hồ Nam lộ, xin chọn quan xem xét. Chiếu giao cho Đề cử Thường bình quan Hồ Nam. 《Chu bản》 từ đây chép vào, lại hơi sửa chữa. Căn cứ vào tấu nghị của Lã Đào cuối tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, thì việc bán muối ở Hồ Nam thực sự do Giáp Thiện khởi xướng, Chu Phụ thi hành. Căn cứ vào 《Cựu lục》, thì việc này ở Hồ, Quảng, Giang Tây, Phúc Kiến đều do Thiện đề xướng, không chỉ riêng Hồ Nam. Ban đầu giao cho Trương Sĩ Trừng và Trần Thơi, vào ngày Giáp Thân tháng 12 năm thứ 6.)
[100] (2) Tư chính điện học sĩ, Thông nghị đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung Trần Tiến qua đời. Tiến dáng vẻ khôi ngô, khí chất trang trọng, tính tình giản dị, không ham thanh sắc. Hàn Kỳ nói với mọi người: “Liêm khiết trong tiến thủ, dũng cảm trong lui về, không để bụng chút nghi ngờ nào, kết giao lâu dài mà không thay đổi, người như Ngạn Thăng không có mấy.” Tư Mã Quang cũng khen phục sự chất trực của Tiến.
[101] Ngày Canh Tuất, Lý Vĩ, chức Chương Tín quân Lưu hậu, Phò mã Đô úy, được bổ nhiệm làm Kiến Vũ quân Tiết độ sứ.
(Sách 《Cựu kỷ》 chép việc này.)
[102] Lữ Ôn Khanh, chức Hà Bắc Tây lộ Đề điểm hình ngục, tâu rằng: “Mưa lớn gây thiên tai, đã cứu tế, xin cho các hộ phường quách có tài sản bị ngập lụt so với trước giảm sút hơn bảy phần[12], các khoản nợ tích lũy cùng thuế thu và tiền dịch[13], đều gia hạn đến mùa hạ năm sau; những hộ bị thiệt hại gia nghiệp, không cần đợi đến kỳ lập sổ, trước tiên giảm miễn tiền dịch, dùng tiền dư thừa để hỗ trợ.” Hộ bộ tâu: “Việc giảm miễn tiền dịch, xin căn cứ vào số lượng tài sản gia nghiệp, sửa đổi trong sổ; việc giảm tiền dịch[14], đợi đến kỳ lập sổ sẽ phân bổ đều; các việc còn lại xin theo lời tâu của Ôn Khanh.” Được chấp thuận.
[103] Lữ Huệ Khanh tâu: “Tri châu Thạch Châu là Yến Phục không tuân theo chỉ huy của Kinh lược ty, tự ý điều động bảo giáp phòng thủ, đã theo chỉ triều đình mà xét hỏi. Thần nghĩ rằng việc thám báo tình hình, tự nhiên phải chuẩn bị, nhưng bị ràng buộc bởi văn pháp, có thể lỡ mất cơ hội. Mong được nới lỏng quy tắc một chút.” Chiếu cho xét hỏi rồi tâu lên.
(Bản Chu bỏ đi, nói việc nhỏ không thực hiện.)
[104] Ngày Tân Hợi, mở yến lớn ở điện Tập Anh, rượu dâng năm tuần rồi thôi, vì Vua đang uống thuốc.
(Sách 《Cựu kỷ》 chép: Vua vì bệnh, không thể dự yến đến cuối. Đến ngày Mậu Ngọ, bệnh khỏi. 《Tân kỷ》 cũng chép như vậy. Sách 《Phóng Ông gia thế cựu văn》 chép: Trong tiệc thu năm Nguyên Phong, Thần Tổ vừa nâng chén rượu, tay chậm chạp, chén nghiêng đổ, rượu vương lên long bào. Lúc ấy, kinh thành đang rộ lên bài hát “Trắc Kim Trản Khúc”, các quan cho là điềm chẳng lành, bèn cấm hát. Năm sau, Vua băng hà. Sở công dâng bài văn tế có câu: “Hoa là sau tiệc thu cao mà héo[15].” Sở công tức Lục Nông Sư, ý nói về việc này. Kinh Phật nói về năm điềm suy của chư thiên, như cung điện rung chuyển, thân quang tắt đi…, hoa héo cũng là một trong những điềm ấy. Đã ghi vào bút ký, nhưng năm điềm suy của chư thiên thì bút ký không chép.)
[105] Ngày Quý Sửu, truyền chỉ cho các cửa cung rằng vì Vua đang uống thuốc chưa khỏe, nên tạm ngừng thiết triều ở các điện trước sau.
[106] Ngày Giáp Dần, lại ngừng thiết triều ba ngày.
[107] Ngày Bính Thìn, chiếu rằng Tế Dương quận vương Tào Dật[16] đang trong thời gian nghỉ bệnh một trăm ngày, đặc cách cho nghỉ thêm.
[108] Ngày Mậu Ngọ, Vua khỏi bệnh.
[109] Tri Vĩnh Hưng quân Lưu Tường tâu: “Trước đây có chiếu cho phép thương nhân đổi tiền hai mươi vạn quan, An phủ ty thu tiền nhuận quan, dùng tiền muối mạt để hoàn trả, tính toán mua lương thực, theo giá cũ đổi cho Chuyển vận ty. Số tiền đổi được, bản ty đã niêm phong. Nay mùa hạ được mùa, có thể mua thêm, xin cho phép đổi tiền thêm, mỗi trăm quan thu thêm tiền nhuận quan mười ba nghìn.” Chiếu rằng cấp tiền muối mạt hai mươi vạn quan, còn lại theo lời xin.
[110] Ngày Kỷ Mùi, Lý Nguyên Tự, quan Tẩu mã thừa thụ lộ Phu Diên tâu rằng quân sĩ Thôi Cao tự chặt ngón tay để trốn ra trận. Chiếu rằng: “Thôi Cao phải đi làm tạp dịch trong quân cấm ở địa phương. Lệnh cho Lưu Xương Tộ xem xét trong quân có người nào như vậy, tùy nghi xử lý.”
[111] Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh tâu: “Điện trực Sài Thực, Thủ khuyết quân tướng Đỗ Đại Trung cùng Mạnh Chân đi đánh các trại Ô Bốc Chương, chém được ba trăm đầu, không có tổn thất. Các quan người phiên đều được thăng chức, chỉ có Sài Thực, Đỗ Đại Trung không được ban thưởng.” Chiếu cho mỗi người giảm thời gian khảo khóa ba năm[17].
[112] Ngày Canh Thân, sai Điện trung thị ngự sử Kiển Tự Thần, Hữu ty viên ngoại lang Lộ Xương Hoành đến Hi Châu để tra xét Lý Hiến. Trước đây, Ngự sử đài xét vụ án Hoàng Phủ Đán, triệu Lý Hiến về kinh, đến Tần Châu, gặp lúc có biên cảnh, chiếu cho dừng lại. Ngự sử đài xin nếu Lý Hiến ba lần hỏi không nhận tội thì bắt giải về, chiếu cho dùng chứng cứ của mọi người để kết án. Bèn sai Tự Thần đến tra xét, sau lại lệnh cho Tự Thần ở Tần Châu gửi văn thư để tra xét Lý Hiến.
(Ngày mồng 2[18], lệnh cho Lý Hiến trở về.)
[113] Chiếu rằng: “Đàn xã, đàn tắc cùng đàn phong bá, vũ sư ở các châu huyện, lệnh cho các quan đề điểm hình ngục trước tiên kiểm tra. Nếu có chỗ nào chưa đúng phép, đều lệnh cho sửa đổi theo quy định, nếu bị hư hỏng thì lập tức tu sửa. Ở bên cạnh đàn xây ba gian nhà trai để phòng khi tế lễ.” Theo lời thỉnh cầu của Mã Thành, đồng quản câu bảo giáp lộ Hà Đông.
[114] Chiếu cho con trai trưởng của Hàn Quốc đại trưởng công chúa họ Tiền được ban tên là Thầm, làm Trang trạch phó sứ.
[115] Chiếu rằng: “Trung thư tỉnh liệt kê các việc các ty thuộc lục bộ bị Ngự sử đài đàn hặc năm ngoái về việc vi phạm pháp luật, chậm trễ, nếu có việc nào đàn hặc đúng, các quan ty vi phạm pháp luật có bao nhiêu người đã bị xử phạt, bao nhiêu người được ân xá tha tội, tâu lên.”
(Bản Chu sửa rằng: Những người được ân xá tha tội, không được giảm tội. Khác với bản cũ, nay theo bản mới.)
[116] Thành Đô phủ tâu: “Trên tường chùa Trọng Quang ở huyện Tân Phiền có vẽ chân dung Thái Tổ, xin xây điện thờ để thờ phụng.” Chiếu lệnh dựng nhà gỗ che chắn và khóa lại.
[117] Chuyển vận sứ Hà Đông, Đãi chế Thiên Chương các là Trần An Thạch, Quyền Chuyển vận phán quan, Phụng nghị lang là Trang Công Nhạc, mỗi người bị phạt 20 cân đồng; Quản câu văn tự của Chuyển vận ty, Phụng nghị lang là Diêm Bằng, Tuyên đức lang là Vương Duy, mỗi người bị phạt 10 cân đồng. Vì tội không cung cấp đủ lụa thưởng công cho châu Lân, Phủ.
[118] Chuyển vận ty Hà Bắc tâu: Từ tháng giêng thi hành pháp luật về muối đến cuối tháng bảy, thu được lợi nhuận 167.000 quan tiền và một ít lẻ.
[119] Chiếu chỉ cho con trai của Tự Bộc vương Tông Huy được làm Hữu Nội suất phủ suất, ba con gái được làm Huyện chủ.
[120] Ngày Tân Dậu, Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu lên công trạng của bộ lạc Dụ Lặc Tinh và Uy Mật Đặc trong trận chiến với giặc Tây, giành được nhiều cấp bậc. Xu mật viện đề nghị thăng một bậc cho Dụ Lặc Tinh và Uy Mật Đặc, ban thưởng 40 tấm lụa. Vua phê: “Theo công trạng, Dụ Lặc Tinh và Uy Mật Đặc giành được cấp bậc đều nhờ Bá Nhã Khắc bắn hạ, phần ân trạch hai bậc có thể chia cho ba người.”
[121] Đô kiềm hạt ty Quảng Tây tâu: “Binh lính địa phương của lộ này thiếu nhiều người, xin cử sứ giả đến các lộ Phúc Kiến, Giang Nam, Quảng Đông để tuyển chọn và thay thế 4.000 binh lính.” Chiếu chỉ: “Các lộ đang tuyển chọn thay thế, cử quan lại tuyển chọn: Lộ Giang Nam 3.600 người, lộ Phúc Kiến 1.400 người.”
[122] Ngày Quý Hợi, Hộ bộ tâu: “Năm Nguyên Phong thứ hai, Tam ty mượn 500.000 quan tiền muối để mua lương thực, hạn trong 4 năm trả, nay đã hết hạn. Xin chia đều làm 10 năm trả, bắt đầu từ năm nay. Lại nữa, năm Hi Ninh thứ 10 mượn tiền trong kho nội phủ, còn nợ hơn 42.000 quan, cũng theo cách này.” Được chấp thuận.
[123] Chiếu chỉ: “Các văn thư truyền đạt ở cửa Hội Thông và các sứ thần hầu cận, giao cho quan lại của Nội Đông môn ty phụ trách bản danh sách. Trong nội cung, nếu không phạm tội tham nhũng, xin xỏ, biếu tặng, mua bán, thì cùng tội bảo đảm minh bạch. Sau khi được bảo đảm minh bạch mà thay đổi tiết tháo, việc chưa phát giác, cho phép đến Nội Đông môn ty trình bày danh sách. Ba năm không có thiếu sót, ngoài việc được thưởng, còn được giảm thời gian khảo hạch ba năm.”
[124] Ngày Ất Sửu, ban chiếu: “Vương Tự ở Thành Đô phủ dự thi võ cử dâng thư, tuy những điều nói không hoàn toàn đúng sự thật, nhưng xin đặt trường mua bán ngựa ở trại Trung Trấn thuộc Gia Châu, cùng trình bày chi tiết về họ tên các tộc người man di ở phương đó, đường đi quanh co, đều là những điều triều đình chưa từng biết. Nên giao cho Ty Chuyển vận và Ty Kiềm hạt thuộc lộ Thành Đô phủ căn cứ vào lời tâu mà xem xét lợi hại, khảo sát thực tế rồi tâu lên.”
(Chu bản ghi ngay ở đây: Tam ty tâu, đã bàn cử quan đến trại Trung Trấn mua ngựa. Xét: Sách biên lục của Gia Châu ghi việc đặt trường mua ngựa ở Trung Trấn vào ngày 29 tháng 10, nên phụ vào ngày tháng này. Ngày 23 tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ 7, bãi bỏ. Chính sử chí binh chép năm thứ 6 lại đặt trường mua ngựa ở Trung Trấn, lại sai nữa.)
[125] Lễ bộ tâu: “Việc hợp tế ở Thái miếu, thủy tổ hướng đông, chiêu hướng nam, mục hướng bắc, là vị trí trong nhà. Nay đặt vị trí ở ngoài cửa, Hi Tổ đã hướng đông rồi, mà tổ tông chiêu mục lại làm riêng lều trại, e không hợp với ý nghĩa của hợp tế. Xin từ nay về sau khi tế hợp, bỏ hết các lều trại, dựng màn trước hiên để ứng với vị trí trong nhà.” Chiếu chuẩn theo.
[126] Ban chiếu: “Các lộ có đặt tuần kiểm dưới quyền có thổ binh, cùng các ty Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, Đề cử mỗi năm theo phép đại duyệt xuân thu, phân định việc khảo thí.”
[127] Ty Đề cử bảo giáp lộ Hà Bắc tâu, Chỉ sử Bành Đại dưới quyền Tuần kiểm huyện Cổ Thành thuộc Kỳ Châu vì cứu vũ khí trong lũ lớn mà chết đuối. Chiếu ban cho nhà ông ta 200 lạng bạc.
[128] Hôm đó, Tây Hạ vây thành Định Tây, tướng quan Tần Quý đánh lui được.
(Việc này căn cứ theo tờ tâu ngày 25 tháng 10, Tân kỷ cũng chép: Ngày Ất Sửu, quân Hạ vây thành Định Tây, tướng Hi Hà là Tần Quý đánh bại chúng. Cựu kỷ đến ngày Quý Tỵ tháng 10 mới chép việc Phó tướng thứ năm Tần Quý vân vân.)
- Việc Lạc Kinh đã thấy ở tháng 12 năm Hi Ninh thứ 4, chữ 'năm' nguyên là 'tháng', chữ 'tháng' nguyên là 'ngày'. Xét: Sách này quyển 228, ngày Nhâm Thân tháng 12 năm Hi Ninh thứ 4 có ghi việc Lạc Kinh bị tội vì nói về phép dịch, chỗ này 'ngày 12 tháng 4' rõ là sai, theo đó mà sửa. ↵
- Chiếu yêu cầu Kinh Tây Chuyển vận ty trình bày rõ ràng để tâu lên: chữ 'Tây' ban đầu bị thiếu, căn cứ theo văn trên mà bổ sung. ↵
- Chiếu theo lời tâu của Kinh lược ty Phu Diên lộ: căn cứ theo ý nghĩa văn bản và quy tắc văn bản của sách này, hai chữ 'Chiếu dĩ' có lẽ là thừa. ↵
- Chữ 'Quảng Vũ' ban đầu bị đảo ngược, căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 94, 《Hà cừ chí》 sửa lại. ↵
- Tiểu bảo trưởng và bảo đinh 700, nguyên bản là 'tiểu bảo đinh 700', theo 《Tống hội yếu》 binh nhị chi tam nhất sửa lại ↵
- phó bảo chính 1.500, chữ 'chính' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung ↵
- đại bảo trưởng 700, chữ 'đại' nguyên bản thiếu, theo văn lệ bổ sung ↵
- Chiếu rằng các lộ đề cử thường bình ty giữ lại một nửa tiền mặt, chữ 'lộ' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 27-14 bổ sung. ↵
- Chữ 'Quần' nguyên là 'Quận', theo bản khác sửa lại. ↵
- Tặng Thái úy An Thủ Trung có chiến công và chính tích, chữ 'chính' nguyên là 'cố', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 82 về việc vẽ chân dung ở cung Cảnh Linh mà sửa. ↵
- Và những hộ bị thiệt hại mùa màng trên 50%, chữ 'miêu' nguyên là 'điền', căn cứ vào 《Tống hội yếu》 Thực hóa 68-113 mà sửa. ↵
- Xin cho các hộ phường quách có tài sản bị ngập lụt so với trước giảm sút hơn bảy phần. Chữ 'Quách' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 68-113 bổ sung. ↵
- Các khoản nợ tích lũy cùng thuế thu và tiền dịch. Chữ 'cập' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung. ↵
- Việc giảm tiền dịch. Chữ 'tiền' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 68-114 bổ sung. ↵
- Chữ 'yến' nguyên bản viết là 'yến', căn cứ theo 《Lão học am bút ký》 quyển 7 mà sửa lại. ↵
- Chữ 'Tào' nguyên bản viết là 'triều'. Xét: Tào Dật được phong Tế Dương quận vương, xem 《Tống sử》 quyển 464, truyện ngoại thích, chữ 'triều' ở đây rõ ràng là viết nhầm thành 'Tào', căn cứ đó mà sửa lại. ↵
- Chiếu cho mỗi người giảm thời gian khảo khóa ba năm, chữ 'tam' trong 《Tống hội yếu》 binh 18-14 chép là 'nhị'. ↵
- Ngày mồng 2, chữ 'nhị' nguyên bản chép là 'tam', căn cứ theo bản trong các bản khác mà sửa. Xem điều Kỷ Hợi trong quyển này có ghi 'Chiếu cho Lý Hiến trở về nhiệm sở', tháng này ngày Mậu Tuất là mùng một, Kỷ Hợi là mồng 2. ↵