"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 349: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 7 (GIÁP TÝ, 1084)

Bắt đầu từ tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 7 đời Thần Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 10, mùa đông, ngày Đinh Mão, mùng một: Xuống chiếu cấp 30 vạn quan tiền muối mạt diêm cho Ty Chuyển vận lộ Hà Đông để mua lương thảo.

[2] Xuống chiếu giảm 200 lính nỏ phòng thủ dưới quyền tướng ở huyện Vũ Cương, châu Thiệu, Hồ Nam, dùng tiền lương đó để chiêu mộ người địa phương vào các khe động. Việc này theo đề nghị của Ty Kiềm hạt.

[3] Ngự sử Kiển Tự Thần xin lệnh cho các lộ Ty Đề điểm hình ngục mỗi quý trình bày tình hình xét xử và phúc thẩm các vụ án tử hình lên triều đình, giao cho Hình bộ ghi vào sổ, kiểm tra và xử lý các sai sót. Chiếu cho Ty Đề điểm hình ngục mỗi quý báo cáo lên Hình bộ.

[4] Ngày Mậu Thìn: Ty Điểm kiểm khí vật các lăng tâu: “Phía đông An Lăng có sông Thanh Long, vượt qua mấy khe nhỏ. Dùng máng dẫn nước có thể tưới khắp ba lăng hạ cung, từ phía tây Hi Lăng chảy vào khe Bạch Hổ, rồi đổ ra sông Lạc.” Thái sử cục cho rằng không nên, triều đình nghe theo.

[5] Xuống chiếu phạt 10 cân đồng Lôi Địch, nội phẩm quản câu ở Cảnh Linh cung, đưa về ban quét dọn ở Tây Kinh. Vì tội định dùng vật phẩm thờ cúng ở điện Mỹ Thành và không trực đêm.

[6] Ngày Kỷ Tỵ: Phò mã đô úy Tiền Cảnh Trân vào chầu, nhân dịp tạ ơn vì cha là Tiền Huyên, tri châu Vận, được bổ làm Đãi chế Bảo Văn các. Vua nói: “Huyên làm quận có tiếng, triều đình tự dùng người tài.” Lại tạ ơn vì con là Thầm được ban tên, Vua nói: “Chủ hiền, nên có con tốt. Hãy khuyên nó gắng học.” (Tháng 9, ngày Mậu Ngọ, Trung tán đại phu, tri châu Vận Tiền Huyên được bổ làm Đãi chế Bảo Văn các).

[7] Cùng kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ biên phòng tài dụng Mã Thân tâu: “Việc mua bán lương thực đều tập trung vào thời điểm giao mùa đông xuân, xin sau tháng 10 in và cấp giấy phép muối cho năm sau, hạn chế đến tháng giêng thì đưa về bản lộ.” Hộ bộ tâu: “Nếu bản lộ nhận được giấy phép trước, chiêu dụ người vào trung, sẽ kéo giá giấy phép của bốn lộ Tần Phượng. Xin theo quy định của các lộ Tần Phượng, Lại bộ cử sứ thần vào cuối tháng giêng đưa về Kinh chế ty.” Được chấp thuận.

[8] Chiếu rằng: “Hai lộ Kinh Nguyên, Phu Diên phát quân đến thành, trại, bảo, trấn để phòng thủ mùa thu, so với các lộ khác đặc biệt sớm, đều được cấp tiền đặc chi.”

(Có thể tra cứu vào ngày 4 tháng 11.)

[9] Ngày Canh Ngọ, Ty an phủ lộ Đại Danh phủ tâu: “Gần đây vì sửa chữa đóng cửa nước, đã huy động 12.000 dân phu từ các châu Đức, Bác. Nay cửa nước đã đóng, muốn nhân cơ hội này sửa chữa doanh trại quân Sương, và xây dựng các cửa nước trên dưới.” Chiếu rằng: “Kho lương, nhà nghỉ dịch trạm v.v. giao cho Ty chuyển vận thi hành theo chỉ đạo trước. Việc sửa thành, giao Ty an phủ báo cáo cụ thể số nhân công sử dụng.”

[10] Quyền Khai Phong phủ giới đề điểm Phạm Tuân v.v. tâu: “Các huyện úy chuyên trách bắt trộm cướp ở chợ, và quản lý chung công việc huyện, mỗi năm xuống thôn thường đến hàng trăm lần. Nếu bỏ huyện úy, e rằng một chủ bạ không thể đảm đương hết việc, xin vẫn giữ như cũ.” Được chấp thuận.

[11] Lại bộ tâu: “Tông thất Tử Y đổi làm Thông trực lang, năm 18 tuổi. Tông thất được bổ làm Điện trực, 20 tuổi mới được ra làm quan, không có quy định về văn chức.” Chiếu rằng Tử Y đợi đến 20 tuổi mới được ra làm quan.

[12] Chiếu cấp 20 vạn quan tiền giấy, giao cho Ty chuyển vận Hà Bắc mua lương thảo.

[13] Ngày Nhâm Thân, chiếu cho Ty kinh lược Hà Đông: “Gần đây các nơi tuy có báo cáo, nhưng không phải là huy động lớn. Các bảo giáp phòng thủ ở trại Gia Lô, Ngô Bảo có thể giải tán.”

[14] Ngày hôm đó, Tây Hạ xâm phạm Kinh Nguyên, nhiều dân chúng bị chết cháy.

(Tâu vào ngày 22.)

[15] Trước đó, Điện trung thị ngự sử Trạch Tư tâu: “Tri Xu mật viện Hàn Chẩn nhận của Tri châu Thạch Châu, Văn tư phó sứ Yến Phục tặng một con ngựa, giá thị trường hai trăm ngàn, Chẩn chỉ trả bốn mươi đến năm mươi ngàn. Công sự câu đương ty Bảo giáp phủ Khai Phong, Hữu thị cấm Dương Tung cũng từng tặng Chẩn một con ngựa, giá trị tương đương với ngựa của Phục, nhưng Chẩn cũng chỉ mua với giá ba mươi đến bốn mươi ngàn, rồi đem cho anh là Hàn Cương.” Chiếu cho Chẩn giải trình. Khi đó, Chẩn tâu: “Tri châu Thạch Châu Yến Phục từng giúp thần mua ngựa, bảo con là Hiếu Tự nói rằng, giá mua gốc là bốn mươi tấm lụa. Thần trước đã trả Hiếu Tự mười lạng bạc làm phí đi đường, hứa sẽ trả tám mươi tấm lụa Sơn Đông. Hữu thị cấm Dương Tung[1] tự nói, vào địa giới phía tây được một con ngựa non, muốn bán để làm lộ phí, thần bảo Thông trực lang Lý Sĩ Kinh mua với giá ba mươi ngàn. Sau đó Sĩ Kinh nói, ngựa không thể cưỡi, lại bị bệnh ghẻ. Nay muốn trả lại cho chủ cũ.” Chiếu chỉ: “Chẩn vì mua ngựa mà bị người ta nói xấu, xét lại ban đầu, khế ước vẫn còn, Trẫm há lại vì một lỗi nhỏ mà trách phạt đại thần? Nên đặc biệt tha tội.” Ba ngày sau, Tư bị cách chức Thị ngự sử, thử làm Quốc tử tư nghiệp.

(Trạch Tư tâu việc Chẩn vào ngày 26 tháng 9; đổi làm Tư nghiệp vào ngày 9 tháng này, đều ghi lại.)

[16] Ngày đó (ngày Nhâm Thân, mùng 6 tháng 10), quân Tây Hạ xâm phạm trại Tĩnh Biên, tướng quan Bành Tôn đánh lui chúng.

(Việc này căn cứ theo 《Ngự tập》 ghi chép lại, đồng thời chú thêm hai việc trong 《Ngự tập》. Dưới quyền tướng quan Bành Tôn của Kinh Nguyên lộ, ngày mùng 6, trại Tĩnh Biên chống giặc có công, từng xuất quân đánh nhau, binh sĩ người Hán và người Phiên được ban thưởng theo thứ bậc: Cấm quân 700 văn[2], nhân viên được tăng thêm; sương quân, binh dân và phiên binh 500 văn, tăng thêm, theo quy định này. Lại ban chỉ hạ lệnh cho Tẩu mã thừa thụ Bàng Biện ban thưởng. Những người có công, giao cho Kinh lược an phủ ty nhanh chóng xác minh tâu lên. Ngày 15 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 7 ban hành. Lại ban cho Lưu Hữu Đoan: Xét rằng ngày mùng 6 tháng này, tướng quan Bành Tôn đóng quân ở trại Tĩnh Biên thuộc Kinh Nguyên lộ chống cự quân Tây Hạ có công trạng đặc biệt, đồng thời quân số phòng thủ ở thành Định Tây thuộc Hi Hà lộ không nhiều, và Kinh lược an phủ chế trí ty đã chuẩn bị sẵn nhiều bát bạc để thưởng phạt, có thể sử dụng đủ. Giao cho khi nhận được chỉ hạ lệnh, ngoài việc đem 2000 chiếc bát bạc đã được chỉ hạ lệnh ban phát, còn 3000 chiếc còn lại không được bỏ lại, vẫn dùng xe nguyên bản chở đi, thân hành đến Kinh Nguyên lộ, hội ý với Lô Bỉnh sắp xếp, ngay hôm đó cấp cho mỗi người lính kỵ binh từng tham chiến một chiếc, theo lệnh ban phát của Hi Hà lộ, để thưởng công đặc biệt, không được lẫn lộn người không có công. Lại tuyên dụ Lô Bỉnh: Nếu không phải Kinh lược an phủ sứ dự bị có phương lược, trại Tĩnh Biên chắc không thể chặn được quân giặc, giữ yên một vùng. Sau khi tuyên dụ ban phát xong, nhanh chóng về kinh.)

[17] Ngày Giáp Tuất, ban chiếu cho hai trại Gia Lô và Ngô Bảo thuộc châu Thạch, mỗi trại đặt một chỉ huy thủy quân, định số 100 người.

[18] Ban chiếu cho Cung bị khố phó sứ, Tri hội Khê thành Vương Lệnh Tuyên bị giáng một chức và cách chức. Vì tội tự ý giết trâu quan, cùng người Man lập thề, lấy tiền không có danh mục trong công sứ khố, rồi hối cải bồi thường.

[19] Ngày Ất Hợi, Cấp sự trung Hàn Trung Ngạn được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thượng thư. Trung Ngạn vào tạ ơn, Vua dụ rằng: “Công lao của tiên lệnh công, Trẫm không dám quên. Khanh lại hết lòng trung thành với triều đình, điều này chưa đủ để đền đáp công lao của khanh.”

(Sách 《Văn Ngạn Bác tư ký》 chép: Vương Khuê cho rằng việc thăng chức cho Trung Ngạn quá nhanh, chỉ có Thái Xác ủng hộ. Vua nói: “Đây là đặc cách vì cha của khanh, không thể lấy làm lệ.” Lại nói: Trung Ngạn vừa hứa gả con gái cho Thái Xác, nên được Xác giúp đỡ. Việc này cần xem xét thêm.)

[20] Trung thư xá nhân kiêm Thị giảng Thái Biện được thử chức Cấp sự trung; Triều phụng lang, Thủ Khởi cư lang Dương Cảnh Lược, Triều tán lang, Thủ Tả ty lang trung Tiền Hiệp, cùng được thử chức Trung thư xá nhân, miễn thi tuyển. Cảnh Lược và Hiệp vừa đi sứ Cao Ly trở về, đang trên đường, đều được thăng chức.

[21] Chiếu rằng những người được bổ nhiệm do hy sinh vì việc nước, đều được phép theo quy định cũ chỉ định sai phái.

[22] Lại chiếu cho Nội tàng khố chi trù và quyên mỗi loại 50 vạn thất, giao cho Hi Hà Kinh lược ty phong trữ.

[23] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu rằng, quan phiên dụ dỗ các bộ tộc mua ngựa chiến, thưởng quyên để nuôi dưỡng, nhưng kho thiếu tiền. Chiếu cho Phượng Tường phủ phong trữ số quyên do Lý Nguyên Phụ kinh lược, cấp 1 vạn thất.

[24] Chiếu cho Lưu Xương Tộ: “Quân Tây Hạ đã đánh vào Hi Hà lộ, các lực lượng bảo vệ ở Phu Diên lộ, nhanh chóng xem xét giải tán và báo cáo.”

(Sách 《Tân kỷ》 chép: Ngày Ất Hợi, quân Hạ đánh Hi Châu. Sách 《Cựu kỷ》 không chép.)

[25] Ngày Đinh Sửu, Lại bộ tâu: “Số tiền lãi tăng thêm từ việc kinh lý vận chuyển tiền tích trữ thường bình ở Xuyên Hạp lộ là 232 vạn quan[3], xin ban ân.” Chiếu cho Lý Nguyên Phụ thăng hai cấp, Sử Quân Dũ và Trương Mậu Tiên đợi khi thay đổi chức vụ sẽ thăng một cấp, giảm số năm khảo hạch tùy theo mức độ.

[26] Chiếu cho Điện tiền ty: “Quân kỵ binh trên 40 tuổi, võ nghệ không đạt loại hai, cho thời hạn một quý để tập luyện. Nếu hết hạn mà võ nghệ không tiến bộ, chuyển sang cấp ngựa cho các giáo đầu thiếu ngựa.”

[27] Chiếu rằng: “Các lộ phong trang tiền lương của quân cấm khuyết ngạch, đều theo lệnh nguyên phong, tùy giá thị trường mà biến đổi. Pháp lệnh không được giảm quá giá mua ban đầu thì bãi bỏ.”

[28] Quang lộc khanh Lữ Gia Vấn tâu: “Gần đây, điển lại Lý Chương của ty Ngưu Dương phạm tội tham nhũng, đã xử quyết. Thần nghĩ triều đình bỏ ra hàng chục vạn quan tiền, ban hành luật nghiêm khắc khắp thiên hạ, mong muốn quan lại thanh liêm, chính sự bình ổn, đãi ngộ họ cũng đã hết mực. Thế mà những kẻ quan lại vô sợ hãi, đã dần buông lỏng ngay từ khi luật mới ban hành, ấy là do pháp luật chỉ xử phạt người đưa tiền nhẹ hơn người nhận tiền hai bậc. Xin định lại pháp lệnh về kho thóc ở sông, xử phạt hình danh, phần thưởng cho người tự tố cáo, cùng với việc dẫn dắt quá mức, tất cả đều giữ như cũ, còn người sử dụng thì chỉ xử tội không đáng được.” Giao xuống Hình bộ tham khảo: Người đưa tiền nếu được cho phép thì theo luật mà định tội, hoặc theo điều khoản xin xử việc công phi pháp ở kinh thành thì tội nặng hơn; cùng với quan viên ở kinh thành sử dụng tiền mà không xin xử oan uổng thì không bị tội, cùng với người nộp thuế sử dụng tiền mà không nhận hối lộ và không xin xử oan uổng thì không bị tội, đều theo điều khoản riêng, xin theo như Lữ Gia Vấn đã định. Được chấp thuận.

[29] Ngày Mậu Dần, chiếu cho quan câu đương công sự của Quảng Tây kinh lược ty, Liên châu quân sự thôi quan[4] Đàm Diễm đặc cách thăng làm quan kinh thành, quyền thông phán Ung châu. Đây là do kinh lược sứ Hùng Bản tiến cử.

[30] Ban cho Giám quân khí một ngàn tấm độ điệp để mua nguyên liệu.

[31] Chiếu rằng: “Những quân dân Hán, Phiên cùng phụ nữ bách tính ở thành Định Tây, nếu lên thành đánh giặc, mỗi người được cấp mười tấm lụa; người vận chuyển đồ đạc, bảy tấm; người dưới thành làm việc cung cấp lương thực và tạp dịch, đàn ông năm tấm, đàn bà ba tấm.”

[32] Ngày Canh Thìn, ban chiếu miễn cho tiến sĩ Lê Dịch Tòng và Trần Mông ở Quảng Tây khỏi phải tham gia kỳ thi văn giải trong tương lai. Vì họ đã vào động Lê thuyết phục Trần Bị, Bị và những người khác quy thuận triều đình.

(Truyện Trương Giáp có ghi chép về sự tích của Trần Bị, cần xem xét thêm.)

[33] Ban chiếu cho đồng tử Chu Thiên Thân ở Nhiêu Châu vào đối đáp ở điện Duệ Tư, ban cho danh hiệu xuất thân Ngũ Kinh. Thiên Thân là anh họ của Thiên Tích. Lễ bộ tâu rằng Thiên Thân mới 12 tuổi, đã thử đọc thông suốt mười bộ kinh.

(Tháng tư ngày Đinh Sửu, Thiên Tích được nhắc đến.)

[34] Ngày Tân Tỵ, làm lễ triều hiến ở cung Cảnh Linh.

[35] Ngày Quý Mùi, thương nhân Bình Giản ở Mật Châu được bổ làm Tam ban sai sứ, vì đã ba lần đi Cao Ly thông tin quốc sự.

[36] Phó sứ Chuyển vận Phúc Kiến lộ là Vương Tử Kinh tâu: “Châu Kiến trước kia đặt ra phép chuyên mua bán trà lạp, thương nhân buôn lậu thu lợi rất lớn. Từ năm Hi Ninh thứ 3, quan phủ tích trữ trà cũ, bèn tạm cho thông thương. Từ đó, trà hộ bán cho khách trà rất tốt, quan phủ thu được chỉ là trà thường, thuế thu được rất ít. Ở phương Nam, lợi bị bỏ sót không gì hơn việc này, xin vẫn thi hành phép chuyên mua bán như cũ. Châu Kiến mỗi năm sản xuất không dưới ba trăm vạn cân, Châu Nam Kiếm cũng sản xuất hơn hai mươi vạn cân, muốn mua hết vào quan phủ, ước lượng số hộ quân dân các châu và số dùng của dân các lộ lân cận để tính toán[5], tức là quan trường bán, nghiêm lập lệnh thưởng, cấm Châu Kiến bán trà mạt tư. Xin mượn mười vạn quan tiền của Giám Phong Quốc làm vốn[6].” Đều được chấp thuận, những điều xin đều đưa vào các lộ chuyên mua bán, giao cho quan Chuyển vận sứ phụ trách: Phúc Kiến là Vương Tử Kinh, Lưỡng Chiết là Hứa Mậu, Giang Đông là Đỗ Vĩ, Giang Tây là Chu Ngạn Bác, Quảng Đông là Cao Bác.

(《Ngự tập》 chép lời tâu của Tử Kinh: Chuyên mua bán trà lạp thu được lợi tịnh, không kém thuế muối. Nên khảo. Ngày 7 tháng 2 năm thứ 8, cùng các địa phương thông thương; ngày 2 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất, vẫn thông thương như cũ. 《Thực hóa chí》 quyển 5, năm thứ 7, Phó sứ Chuyển vận Phúc Kiến lộ là Vương Tử Kinh tâu: Châu Kiến trước kia chuyên mua bán trà lạp, thương nhân buôn lậu thu lợi lớn. Năm Hi Ninh thứ 3, quan phủ tích trữ trà cũ, bèn cho thông thương. Từ đó, trà hộ bán trà tốt cho thương nhân, quan phủ thu được đều là trà xấu, thuế thu được ít, xin chuyên mua bán thì tiện. Châu Kiến mỗi năm sản xuất trà không dưới ba trăm vạn cân, Châu Nam Kiếm cũng hơn hai mươi vạn, quan phủ mua hết, ước lượng số dùng của các châu và các lộ lân cận để phân bổ, giao cho một viên quan Chuyển vận phụ trách, để giúp kinh phí, trà hộ cũng tiện. Mượn mười vạn quan tiền của Giám Phong Quốc làm vốn. Đều được chấp thuận. Như thế, Lưỡng Chiết, Giang Đông Tây, Quảng Tây lộ đều giao quan phụ trách, còn Phúc Kiến thì giao cho Tử Kinh. Phép ấy bắt hết dân trồng trà, bắt họ tự khai số trà làm mỗi năm, bán hết cho quan phủ, và nghiêm cấm việc bán trà Kiến ở Phúc Kiến, Lưỡng Chiết, Giang Nam Đông Tây, Quảng Tây. Năm sau, Hộ bộ tâu, Tử Kinh lại xin cấm trà ở Lưỡng Chiết, Giang Nam, Quảng Đông, chiếu chỉ chỉ cho thông thương ở Kỳ Nam và Thiểm Tây lộ[7], còn lại đều là đất chuyên mua bán trà vậy.)

[37] Ngày Ất Dậu, Vua phê: “Tri Thanh Châu Đặng Oản tâu: ‘Trong hạt mùa hạ và mùa thu được mùa, giá gạo mỗi đấu chỉ năm bảy đồng.’ Chưa biết hư thực thế nào, nên lệnh cho Ty Đề cử Kinh Đông Tây lộ báo cáo giá thị trường gạo thóc các châu huyện để tâu lên.’ Sau đó, Đặng Oản tâu: ‘Trước đây vì mùa thu được mùa, nên tâu giá đậu và thóc mỗi đấu sáu bảy đồng, nay lo rằng Ty Đề cử tâu giá vật phẩm hơi tăng, xin xem xét.’ Vua cho rằng Đặng Oản nịnh hót, biết lời tâu ban đầu của ông ta không đúng sự thật.”

[38] Lễ bộ Viên ngoại lang Hà Tuân Trực tâu: “Thần thấy ở hạ cung Vĩnh Chiêu Lăng, thần vị của đế và hậu cùng đặt chung một màn, ngày sóc vọng dâng cúng, các tiết lễ đều cùng dâng hiến. Ở An Lăng hợp táng với Chiêu Hiến Hoàng hậu, hạ cung chỉ có thần vị của Tuyên Tổ, còn ở Vĩnh Xương, Vĩnh Hi, Vĩnh Định Lăng, hạ cung đều không có thần vị của các hoàng hậu. Trong các đại tiết, đế và hậu dâng rượu ở cung khác nhau, ngày sóc vọng dâng cúng thì chỉ dâng rượu cho một vị đế, còn các hoàng hậu đều không được dự hưởng, xin cho cùng đặt chung màn ở hạ cung để phụng thờ.” Vua xuống chiếu cho các hoàng hậu chỉ đặt bài vị, cùng dâng rượu.

[39] Xu mật viện tâu: “Giặc Tây gần đây xâm phạm Hi Hà, Kinh Nguyên, thế đã thua chạy, giữa mùa đông giá rét, chắc chắn không thể đại quân xông pha. Quân phòng thủ mùa thu ở Kinh Nguyên, Tần Phượng đều đóng ở biên giới xa, ngồi ăn hao lương thảo. Xin giao cho Kinh lược ty xem xét, rút quân về gần trong.” Vua đồng ý. Vì Ty Chuyển vận Thiểm Tây tâu, giặc đã rút lui, xin giảm quân biên giới.

[40] Ngày Đinh Hợi, Vua xuống chiếu: “Các chức sự quan lấy thứ tự bổ nhiệm trước sau làm thứ tự, cùng ngày bổ nhiệm thì lấy thứ tự quan phẩm.”

[41] Vua phê: “Ngày Bính Tuất tháng này, Đại Lý tự và Khai Phong phủ hiện giam giữ tội nhân đến hàng nghìn người, việc xét xử chậm trễ như vậy! Sắp đến mùa đông giá rét, nên lệnh cho ngày đêm xét xử xong, không được giam giữ lâu.” Trước đó, Vua ban cấp thức ăn cho tù nhân, các cơ quan báo số lượng, nên ra lệnh này.

[42] Ngày Mậu Tý, ban sắc cho Giao Chỉ quận vương Càn Đức rằng: “Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu: ‘Trước đây theo lệnh triều đình, An Nam tâu rằng biên giới các châu động Vật Ác, Vật Dương chưa rõ ràng, xin cho bản ty cùng bản đạo bàn bạc, cử quan chức đến xác định. Nay nhận được báo cáo của An Nam, cử Lê Văn Thịnh đến, biên giới đã được xác định, xin ban chiếu chỉ cho An Nam tuân theo.’ Xem xét tờ tấu, trình bày về biên giới, đặc biệt sai quan biên giới bàn bạc xác định. Khanh được hưởng ân sủng, đời đời trung thành, kính cẩn tuân theo chiếu chỉ, răn dạy thuộc hạ, phân định châu động, đầu đuôi đã rõ. Hai động Vật Ác, Vật Dương đã ban chỉ dụ, lấy tám ải Canh Kiệm, Khâu Củ, Khiếu Nhạc, Thông Khoáng, Canh Nham, Đốn Lợi, Đa Nhân, Câu Nan làm giới hạn. Ngoài biên giới, sáu huyện Bảo, Lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng (dưới sáu huyện có lẽ thiếu chữ, sách 《Thời chính ký》 cũng vậy), hai động Túc, Tang, đều ban cho khanh cai quản. Khanh hãy nhớ ân sủng này, càng thêm cung kính, tuân thủ ước định, đừng để xảy ra xâm phạm.”

[43] Ban đầu, vào năm Hi Ninh thứ 10, Càn Đức dâng lời xin triều đình triệu hồi đại quân, đồng thời cử sứ giả đến tạ tội và tiếp tục cống nạp. Triều đình chấp thuận lời thỉnh cầu, lệnh cho Ty An phủ cử người đến vẽ định biên giới. Tuy nhiên, Tuyên phủ sứ Quách Quỳ cho rằng khi đại quân tiến đến sông Phú Lương, Giao Chỉ đã đầu hàng, và ngụy Văn Tư sứ Kiểu Văn Ưng từng thương lượng định rằng nơi đại quân đến chính là biên giới. Triều đình bèn lệnh cho Thái Bình trại chủ Thành Trác đến phân định.

Năm Nguyên niên, Càn Đức cử sứ giả Đào Tông Nguyên đến cống nạp, xin được cấp bốn châu. Triều đình hạ chiếu yêu cầu Giao Chỉ trả lại toàn bộ dân số ba châu Ung, Khâm, Liêm mà họ đã bắt đi, sau đó sẽ cấp cho họ các châu như Quảng Nguyên. Tuy nhiên, Giao Chỉ chỉ trả lại 206 người, trong đó những người từ 15 tuổi trở lên bị xăm trên trán chữ “Thiên tử binh”, từ 20 tuổi trở lên bị xăm trên mặt chữ “Đầu Nam triều”, phụ nữ bị xăm trên tay trái chữ “Quan khách”. Ty An phủ lại yêu cầu Giao Chỉ trả lại các quan lại và phụ nữ của ba châu, nhưng Giao Chỉ khăng khăng nói không có, vì thế việc này kéo dài không giải quyết được.

Tháng 9 năm thứ 5, Giao Chỉ sai Tri Thượng Nguyên châu Dương Thọ An xâm lược Quy Hóa châu, đóng quân chuẩn bị tiến vào bảy động châu Thuận An. Quy Hóa châu vốn là động Vật Dương, nhưng Tri Ung châu, Tây Kinh Tác phường sứ Lưu Sơ cho rằng đây vốn là đất cũ của Quảng Nguyên châu. Vào niên hiệu Khai Bảo, Đạo thản xước Quảng Nguyên là Nùng Dân Phú nguyện đem mười châu Cổ Đam, Phúc Hòa dưới quyền quản lý của mình nội thuộc, nộp thuế như người Man ở Thất Nguyên. Triều đình phong chức cho Dân Phú, cho làm Tri Quảng Nguyên châu. Sau đó, dù vì Lưu Kỷ nộp đất, triều đình đã ban châu Thông Nùng cho Trí Hội. Trí Hội là người cùng họ với Dân Phú. Người Giao Chỉ tham lam vô độ, thất tín hành động bừa bãi, chi bằng nhân cơ hội này xử lý để ngăn ngừa họa biên giới về sau. Nhưng người Giao Chỉ lại nói rằng trước đây họ khai thác đồng ở động Vật Dương, không biết có Quy Hóa châu. Kinh lược sứ Hùng Bản cũng tâu: “Vào niên hiệu Gia Hựu, Nùng Tông Đán đem các động Vật Ác quy thuận, được ban tên là Thuận An châu. Vào niên hiệu Trị Bình, Nùng Trí Hội đem động Vật Dương quy thuận, được ban tên là Quy Hóa châu. Nay các châu động mà họ Nùng cai quản vốn không thuộc Nam Bình, mà Quy Hóa châu là nơi hiểm yếu bên hữu sông, là con đường trọng yếu để khống chế Giao Chỉ, Đại Lý và chín đạo người Man áo trắng[8]. Xin hạ chiếu hỏi tội Giao Chỉ về việc xâm phạm Quy Hóa châu, và lệnh cho họ trả lại toàn bộ dân số bị bắt đi, để dập tắt ý đồ xấu xa từ khi chưa manh nha.”

[44] Năm đó, Thành Trác và Đặng Tịch cùng với sứ giả Nam Bình là Lê Văn Thịnh và Nguyễn Bồi định ra kế hoạch, theo chiếu thư ngày Kỷ Tỵ tháng 10. Lê Văn Thịnh gửi thư cho Hùng Bản nói: “Thành Trác nói: Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn, Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật Ác, Kế, Thành, Cống, Lục, Tần, Nhiệm Động, Cảnh Tư, Hà Kỷ, tổng cộng 18 huyện[9], từ phía nam vẽ ranh giới, coi là đất của tỉnh. Bồi thần chỉ biết nghe theo mệnh lệnh, không dám tranh chấp. Tuy nhiên, đất mà họ Nùng nộp đều thuộc về Quảng Nguyên. May mắn gặp thánh triều[10], muôn việc đổi mới, sao lại tiếc những vùng đất cằn cỗi, chướng khí này mà không trả lại cho bản đạo, để bảo vệ ngoại thần? Có người nói: ‘Những gì quân đội triều đình chiếm được trước đây nên trả lại, còn những quan lại bỏ trốn theo về triều đình thì khó mà khôi phục.’ Văn Thịnh cho rằng đất đai có chủ, quan lại bỏ trốn là ăn cắp của chủ. Ăn cắp của chủ là tội không thể tha, cất giấu đồ ăn cắp cũng là pháp luật không cho phép, huống chi lại làm ô uế sổ sách của tỉnh?” Tuy nhiên, Hùng Bản và Thành Trác cho rằng Lê Văn Thịnh tuy có lời xin đất, nhưng lại nói “chỉ biết nghe theo mệnh lệnh, không dám tranh chấp”, nên cho rằng đại cục đã định, do đó ban chiếu.

(Ngày Nhâm Thân mùng 4 tháng 6, ngày 21 tháng 8 có thể tra cứu. 《Cựu kỷ》 chép: Ngày Mậu Tý, ban chiếu: Đất An Nam nhiều chướng khí, lính canh giữ phần lớn chết, nên chia cắt biên giới Giao Chỉ, ban cho 6 huyện và 2 động. 《Tân kỷ》 chỉ chép: “Chiếu chia cắt” v.v… 《Mật viện thời chính ký》 có bốn đoạn biện chính, nay phụ lục ở đây. Ngày 7 tháng 8 năm thứ 7, lệnh cho Hùng Bản bắt Thành Trác khai báo: Lê Văn Thịnh và các công văn cùng thảo luận trực tiếp, không hề nói rằng các châu động mà Nùng Tông Đán nộp không dám tranh chiếm, nay lại nói rằng đã thu hồi xong xuôi, có bằng chứng gì? Và vì sao lại xin ban chiếu cùng ân tứ? Phải tường trình sự thật.

Ngày 17 tháng 8, Hùng Bản tấu: Thành Trác trình: “Trong công văn của Lê Văn Thịnh nói rằng các khe động nhỏ, nếu thuộc đất tỉnh, xin trình lên Kinh lược sứ để tâu lên triều đình, chỉ nghe theo chiếu chỉ.” Muốn lệnh cho Hùng Bản xem xét kỹ các báo cáo trước sau của Thành Trác, hoặc nếu quan chức đã đến ty, thì ty sẽ thẩm vấn, và xem xét các công văn cùng lời đối đáp của Lê Văn Thịnh, nếu có bằng chứng rõ ràng, người Giao Chỉ nhận chiếu sẽ không phản bội, thì phải làm bản tường trình bảo đảm. Ngày 20 tháng 8, Hùng Bản tấu: Thành Trác trình: “Lê Văn Thịnh đưa ra công văn, về việc vẽ ranh giới từ phía nam tại Câu Dương, Thuận An, v.v…” Cùng phụng chỉ nghị định ban chiếu thư cấp 8 huyện động ngoài ải cho Giao Chỉ, và ban sắc thư cùng vật phẩm cho Lê Văn Thịnh, Nguyễn Bồi để tiến trình. Ngày 23 tháng 8, trước đây vì các châu động Quy Hóa, Thuận An chưa rõ đầu đuôi, lệnh cho Kinh lược ty cử quan biện chính, và chiếu cho Càn Đức cử người chia cắt. Nay theo tấu của Quảng Tây Kinh lược ty: cử Thành Trác cùng quan Giao Chỉ là Lê Văn Thịnh biện luận chỉ dẫn, đã rõ đầu đuôi, xin ban chiếu. Nay An Nam đã thuận phục, chia cắt đã định, ngoài ải Khiếu Binh, Bảo Lạc, Luyện Miêu, Đinh Phóng, gần 6 huyện, Túc Tang 2 động, tổng cộng 8 nơi, đặc biệt ban cho Giao Chỉ quản lý, theo đó ban chiếu giải thích. Cùng tam tỉnh phụng chỉ, lệnh Học sĩ viện soạn thảo văn bản, đợi Quảng Tây Kinh lược ty tra cứu tên ải để viết; Lê Văn Thịnh và Nguyễn Bồi được ban áo lụa, Thịnh 200 tấm, Bồi 100 tấm.)

[45] Chiếu rằng: “Các góa phụ và con cháu trong tông thất, nếu xin cấp bổng lộc thì được cấp nhiều hơn một phần, nếu có từ hai con cháu trở lên thì cũng áp dụng như vậy.”

[46] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Ngày Nhâm Thân tháng này, giặc phương Tây xâm phạm biên giới, đốt cháy các đống củi và cỏ, nhiều dân chúng bị chết cháy.” Chiếu cấp cho mỗi nam đinh chết được 7 tấm lụa, trẻ nhỏ được 5 tấm.

[47] Chiếu rằng: “Các quan võ ở các lộ, đô giám ở biên giới, chủ các thành, huyện, trại, phải tuân theo phép cấm yết kiến như Thượng thư ở Tả ty.”

[48] Ngày Kỷ Sửu, ban chiếu chỉ cho Lý Hiến: “Trẫm đã nhiều lần nhận được tấu trình về việc giặc Hạ đại quân xâm nhập địa phận thành Định Tây, bao vây thành lũy, và chia quân đánh chiếm hang Cốc, đốt phá trại binh. Sau đó nghe tin quân Khương đã tan rã chạy trốn. Những binh dân Hán và Phiên bị thương trong khi chống giặc đã được bản ty xác minh, và đã sai nội thị Lưu Hữu Đoan cưỡi ngựa đến lộ đó để phân phát thuốc men và ban thưởng tiền lụa. Nên kiểm tra số lượng cần dùng để chuẩn bị sẵn ở nơi gần đó, không để thiếu thốn. Những người bị thương nặng nhẹ, nếu thuộc diện được thưởng riêng theo quy định, thì căn cứ vào chiếu chỉ gần đây, xét theo mức độ công trạng lớn nhỏ mà tâu trình, không được để sót hoặc sai lầm.”

(Bản Chu.)

[49] Ngày Canh Dần, Trung thư tỉnh tâu: “Những việc truyền tuyên của Xu mật thừa chỉ ty đã được phê chuẩn, nếu không có gì khác cần tâu trình, thì nên làm thành lục hoàng gửi qua Môn hạ tỉnh để phúc tấu[11], bản tỉnh không cần dâng thêm văn bản.” Được chấp thuận.

[50] Thái Ninh quân Tiết độ suy quan, Tri Đại Danh phủ Sân huyện là Triệu Đoan Lễ bị tước ba chức quan, phạt 20 cân đồng, cách chức, đày ra ngoài 1000 dặm. Vì tội dùng tiền công cho Tiến sĩ Diêm Sư Đạo vay, và Sư Đạo xin ứng trước tiền bảo giáp để mua cung tên, bị Ty đề cử bảo giáp hặc tội.

[51] Ngày Tân Mão, Xu mật viện tâu, xin ghi chép tất cả các chỉ huy do Hoàng đế phê chuẩn vào sách, để làm khuôn mẫu cho Xu mật phủ. Được chấp thuận.

[52] Ngày Quý Tỵ, Vua ban chiếu cho Lý Hiến rằng: “Nhận được bản tấu trình của khanh về tình hình hư thực trong nước, thế lực mạnh yếu, cùng những hành động ngông cuồng sai trái của các thủ lĩnh nước Hạ hiện nay, rất tốt. Tình hình giặc đại khái đã nêu rõ trong đó. Tuy nhiên, nước Hạ từ thời tổ tông đến nay, là mối họa lớn ở phương Tây, đã trải qua tám mươi năm. Triều đình dốc hết sức lực trong thiên hạ, hao tổn tài lực khắp nơi để cung ứng lương thảo, ngày đêm vẫn lo sợ, chỉ sợ chúng xâm phạm biên giới. Nếu không nhân cơ hội này, triều đình trên dưới cùng chung sức đồng lòng, bày nhiều kế hoạch kinh lược, trừ bỏ mối họa này, thì nỗi nhục lớn của tổ tông không ngày nào rửa được; gánh nặng phú dịch của dân chúng khắp nơi không ngày nào giảm được; tội lỗi của các tướng lĩnh trấn thủ biên cương đối với thiên hạ và hậu thế không lúc nào xóa được. Cúi ngẩm nghĩ suy, nên hôm nay có lời dụ này.

Vừa qua nhận được tấu của Kinh Nguyên, điều tra về con đường xa gần từ Hưng Châu đến Linh Châu, mới biết từ Lan Châu qua sông đến sào huyệt giặc rất gần. Nay nếu vào khoảng tháng tư, tháng năm, nhân lúc ngựa giặc chưa khỏe, lại không có việc tập hợp để phòng bị ta, nên sớm ở phía tây Hoàng Hà, lấy cớ xây dựng ở Lan Châu, bố trí nhiều bè gỗ, đúng kỳ hạn thả xuống, làm thành cầu phao, dùng quân tinh nhuệ và kỵ binh mạnh mẽ đã tập hợp sẵn ở bản lộ, mấy vạn người, cùng tiến lên phá tan hang ổ giặc, dù không bắt giết được tên đại tội phạm, cũng đủ làm suy yếu nước chúng, khiến chúng không thể tự lập được nữa. Không biết kế ấy thế nào, khanh nên bí mật suy nghĩ, trình bày được hay không, sai người thân tín cẩn mật viết tay tấu lên, không được để lộ chút nào. Xưa Vương Tuấn diệt Ngô, Cao Quýnh bình Trần, Tào Bân đánh xuống Giang Nam, đều dùng kế này, cuối cùng đều lập được công lớn, trừ được mối họa lớn một thời. Khanh nên tự xem xét thực tế, chú ý mưu tính kỹ lưỡng.

Lại nhận được bản dịch chữ Phiên của Ôn Tích Tâm và lời khẩu trình của tăng nhân Phiên là Lộc Tôn về kế sách biên cương, rất đầy đủ. Nếu đúng như lời hẹn ước, thật là lợi lớn. Không biết thủ lĩnh Khương tin dối ở đâu, khanh càng nên chú ý lo liệu. Thời cơ khó được mà dễ mất, là nỗi lo chung xưa nay. Nếu người ấy (Khẩu Lăng) Đinh thực sự như kế hoạch, từ trong nổi dậy, bên ngoài có quân Hán, như lời dụ ngày 21 tháng này[12], hợp lực tiến về đông, thì đại sự thành công. Chỉ cần khanh dùng nhiều cách khôn ngoan để mưu tính, thì mối họa lớn có thể trừ được, nỗi hận của quốc gia sẽ có ngày được giải tỏa.”

(Bản Chu có đoạn này, bản Mặc không có. Lời dụ ngày 21 tháng này, cần tra cứu thêm.)

[53] Hi Hà Lan Hội Lộ chế trí ty tâu: “Tháng 9 ngày Ất Sửu, giặc phương Tây vây thành Định Tây, năm phó tướng là Tần Quý cùng các tướng khác liều chết chống giặc, xin ban ân.” Liệt kê công trạng của 623 người, trong đó có quan tả tàng khố sứ Kiên Đa Khắc. Chiếu rằng: “Tần Quý trông coi thành Định Tây, thăng một chức, ban 30 tấm lụa, con của Quý được ban 15 tấm lụa; nội điện sùng ban Vi Vạn cùng 18 người khác, chia nhau cứu hộ cầu treo ở cửa Nam và Bắc, Vi Vạn, Thôi Cương, Lý Trung, Khấu Sĩ Nguyên mỗi người thăng một chức, Diêm Bội cùng 10 người khác mỗi người giảm thời gian khảo hạch 2 năm, Trần Lâm cùng 4 người khác mỗi người giảm 1 năm, những người còn lại được ban thưởng theo mức độ khác nhau.”

[54] Ngày Giáp Ngọ, Hộ bộ tâu: “Quảng Tây chuyển vận phán quan Lưu Hà xin độc quyền mua trà ở huyện Tu Nhân, châu Quế và các nơi khác. Trước đây, quan ty chưa từng lập kế hoạch, xin tạm thi hành, đợi một năm ổn định, sẽ lệnh cho quan đề cử lập pháp. Việc xin mượn tiền thường bình và cử một quan đề cử, xin đợi chiếu chỉ.” Chiếu rằng quan đề cử cử Lưu Hà[13], việc mượn tiền của ty đề cử, hạn trong 3 năm phải hoàn trả.

(Ngày 22 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, bãi bỏ việc này.)

[55] Chiếu rằng: “Xu mật viện truyền lệnh cho Trần Mục: Nếu đến biên giới phía Bắc, gặp người Cao Ly từng tiếp xúc trước đây hoặc người phục dịch, nếu gần gũi, có thể dùng ngôn ngữ thông hiểu, hãy hỏi thăm an ủi.”

(Ghi chép mật ngày 28.)

[56] Ngày Ất Mùi, Ngự sử trung thừa Hoàng Lý tâu: “Ngự sử Hoàng Giáng đàn hặc rằng ty biên sắc nhận hai mệnh lệnh triều đình không tuân theo điều lệ ghi chép[14], ty biên sắc nói rằng việc nhận lệnh tạm thời không thành điều lệ, phủ Khai Phong xét xử lại cho là đúng. Thần xét kỹ, nếu lấy mệnh lệnh tạm thời làm việc tạm thời, thật có chỗ chưa ổn.” Chiếu rằng môn hạ ngoại tỉnh xét xử lại.

(Kết quả thế nào, cần tra cứu thêm.)

[57] Kinh lược sứ Lô Bỉnh của Kinh Nguyên lộ tâu rằng: “Giặc Tây vào trại Tĩnh Biên, đánh pháo đài thứ mười sáu, Bành Tôn và các tướng hợp binh đánh bại giặc, không bị tổn thất gì, giết được thủ lĩnh của chúng là Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh, xin ban thưởng gấp đôi. Bành Tôn, Quách Chấn chỉ huy quân đội, ra khỏi biên giới gặp giặc, đuổi đánh có trật tự, bố trí tinh tế; Diêu Lân và các tướng tuy không gặp giặc, nhưng đã chỉ huy quân tạo thanh thế lớn; các tướng phó và bộ tướng có công tổng cộng mười lăm người, ba trăm bảy mươi chín người.” Chiếu chỉ: “Bành Tôn thông qua khảo hạch và công trước đây chưa được thưởng, được bổ làm Quả Châu đoàn luyện sứ, đô kiềm hạt của bản lộ; Quách Chấn được thăng ba cấp, bổ làm đô giám của bản lộ; các công trạng khác giao cho Lô Bỉnh ủy thác Bành Tôn phân làm ba hạng để tâu lên.”

(Hai bộ sử đều chép: Ngày Ất Mùi, quân Hạ vào cướp trại Tĩnh Biên, kiềm hạt Bành Tôn của Kinh Nguyên lộ đánh bại chúng. Sách 《Thái Thao tùng thuyết》 chép: Người Tây Khương họ Thổi từ lâu chiếm cổ đất Lương Châu, xưng là Thanh Đường, truyền đến con là Đổng Chiên, sau khi chết, con còn nhỏ mà các tướng tranh giành, gây họa lớn ở biên giới. Một người là Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh, một người là Thanh Nghi Kết Quỷ Chương, trong đó Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh là người quỷ quyệt nhất, Quỷ Chương đứng thứ hai. Cuối năm Nguyên Phong, Thần Tông ban chiếu cho các tướng: “Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh quấy nhiễu đất Vua, đã chiếm cứ nước đó, khi chúng dùng binh, chắc chắn có những người đặc biệt trong hàng ngũ. Nên chiêu mộ dũng sĩ, nếu ai giết được hoặc bắt sống, dù là dân thường cũng được phong làm quan sát sứ.” Chưa đầy nửa năm, có phó tướng Bành Tôn, quả nhiên xông lên trận tiền chém được Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh, dâng đầu lên, được phong làm quan sát sứ. Từ đó thế lực của Quỷ Chương suy yếu[15], không lâu sau lại bắt sống được, vào đầu năm Nguyên Hựu, bèn đem việc này tâu lên Hựu Lăng. Công lao bắt Quỷ Chương được nhiều danh thần, văn sĩ ca ngợi, nên lưu truyền rộng rãi, nhưng người đời không biết việc giết Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh, đó là lý do Thanh Đường diệt vong. 《Thông lược》: Thần Khắc Cẩn căn cứ vào 《Thần Tông quốc sử》[16], Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh là thủ lĩnh Tây Hạ, mà Thái Thao lại cho là tướng Thanh Đường, e là nhầm. Xét việc Bành Tôn giết Nhân Đa

(Khẩu Lăng) Đinh mà Thái Thao nói, xảy ra vào ngày Ất Mùi tháng mười năm thứ bảy. Từ tháng mười hai năm Nguyên Phong thứ tư ngày Đinh Mão, bị giáng làm giám đương Kim Châu; tháng bảy năm thứ năm ngày Giáp Thìn, làm quyền kiềm hạt Kinh Nguyên, tri châu Khâm; tháng sáu năm thứ bảy ngày Tân Tỵ, theo Diêu Lân ra khỏi biên giới trở về, từ nội tạng khố sứ, trung châu thứ sử thăng làm hoàng thành sứ; tháng mười ngày Ất Mùi, thông qua khảo hạch và công trước đây, được bổ làm Quả Châu đoàn luyện sứ. Ban đầu chưa được thưởng làm quan sát sứ, không rõ Thái Thao căn cứ vào đâu, e là lời nói sai. Ý của ông ta dường như muốn xóa nhòa công lao bắt Quỷ Chương năm Nguyên Hựu. Kẻ tặc tử dám làm như vậy, xin ghi chú lại đây.)

[58] Nguyên là Phó sứ Cung bị khố đã về hưu Trạch Nghi, con trai là Nguyên kiến nghị: “Cha tôi từng giữ chức Tuần kiểm ở châu Thiền, tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 4 xin về hưu. Việc châu Thiền bị mất trộm xảy ra vào tháng 3 năm thứ 5. Chuyển vận sứ Kiển Chu Phụ tâu rằng cha tôi là Nghi trốn tránh trách phạt nên xin về hưu, triều đình ra chỉ theo lệ xung thế, xin xét lại.” Bộ Hình tra xét thấy đúng như lời Nguyên nói. Chiếu chỉ cho Trạch Nghi không bị xung thế, Kiển Chu Phụ bị phạt 10 cân đồng.

[59] Phủ Thành Đô, ty Kinh chế mua ngựa ở lộ Lợi Châu tâu xin: “Ở các trại Điêu Môn, Linh Quan thuộc châu Nhã và trại Trung Trấn thuộc châu Gia, mỗi nơi chọn cử quan lại đặt trường mua ngựa cao trên 4 thước 2 tấc để phối hợp quân ngựa. Pháp cấm về trà và ngựa vẫn thi hành theo tấu chương trước. Các vật phẩm mà người Phiên Man các châu mang đến bán cùng với ngựa, xin được theo chỉ dụ của triều đình như ở châu Lê để đổi lấy ngựa.” Triều đình đồng ý.

(Theo sách biên lục của châu Gia, đây là chiếu chỉ ngày 29 tháng 10 năm thứ 7. Ngày 28 tháng 9, Vương Tồn có nói. Ngày 21 tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ nhất bãi bỏ. Đề cử công sự mua ngựa và giám mục các lộ Thiểm Tây Lục Sư Mẫn tâu: “Xét lại ty Kinh chế mua ngựa của phủ Thành Đô và lộ Lợi Châu trước đây theo chỉ dụ triều đình, đặt trường mua ngựa ở các trại Linh Quan thuộc châu Nhã và Trung Trấn thuộc châu Gia, trong số đó trại Linh Quan châu Nhã không có ngựa của Phiên Man, trước đây chưa từng đặt trường, còn trại Trung Trấn châu Gia tuy đã đặt trường nhưng cũng không mua được ngựa, nay chưa dám bãi bỏ. Theo chỉ dụ, lệnh cho ty Kiềm hạt phủ Thành Đô và lộ Lợi Châu xem xét tâu lên. Nay ty này xem xét và xin bãi bỏ việc đặt trường mua ngựa ở các trại Linh Quan châu Nhã và Trung Trấn châu Gia.” Triều đình đồng ý. Đây là thánh chỉ ngày 21 tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ nhất. Theo sách biên lục của châu Gia, nay thêm vào theo ngày tháng này. Việc đặt trường lần đầu vào ngày 29 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 7.)


  1. Hữu thị cấm Dương Tung, chữ 'Hữu' nguyên bản viết là 'hựu', căn cứ theo văn trên sửa lại.
  2. Chữ 'cấm' nguyên bản viết là 'Sở', căn cứ theo bản trong các sách sửa lại.
  3. 232 vạn quan, chữ 'tam' trong 《Tống hội yếu》 Thực hóa 53-13 chép là 'cửu'.
  4. Liên châu quân sự thôi quan, chữ 'sự' nguyên bản viết là 'châu'. Xét theo chế độ nhà Tống, các châu đều có chức thôi quan, phán quan, châu nhỏ có thể không đặt cả hai, xem 《Tống sử》 quyển 167, chí về chức quan, Liên châu là châu quân sự, xem 《Tống sử》 quyển 90, chí về địa lý, chữ 'châu' ở đây rõ ràng là viết nhầm thành 'sự', nên sửa lại.
  5. ước lượng số hộ quân dân các châu và số dùng của dân các lộ lân cận để tính toán, chữ 'dùng' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 36-33 bổ sung.
  6. Xin mượn mười vạn quan tiền của Giám Phong Quốc làm vốn, chữ 'xin' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung.
  7. Chiếu chỉ chỉ cho thông thương ở Kỳ Nam và Thiểm Tây lộ, 'Kỳ Nam', 《Tống hội yếu》 Thực hóa 30-25 chép là 'ở kinh và phủ giới Khai Phong'.
  8. Con đường trọng yếu để khống chế Giao Chỉ, Đại Lý và chín đạo người Man áo trắng, chữ 'đạo' nguyên bản là 'lộ', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 87, phần Thảo Giao Chỉ sửa lại.
  9. Trong danh sách trên thiếu một số địa danh, nghi ngờ có sai sót.
  10. 'Thánh triều' trong 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 87 viết là 'Minh', nghĩa hợp lý hơn.
  11. 'Hợp' nguyên là 'lệnh', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 1-22 sửa lại.
  12. 'Dụ' nguyên là 'luận', theo các bản sửa.
  13. Chữ 'Chiếu' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 30-24 bổ sung.
  14. Chữ 'hạng' nguyên bản viết là 'khoảnh', căn cứ theo bản các sách sửa lại.
  15. 'Cô' nguyên là 'Thảm', theo 《Thiết Vi sơn tùng đàm》 quyển 2 sửa lại.
  16. 'Thần' nguyên bản thiếu. Xét: việc này xảy ra thời Thần Tông, Hùng Khắc là người đầu đời Nam Tống, nên căn cứ vào 《Thần Tông quốc sử》, vì vậy bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.