VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 350: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 7 (GIÁP TÝ, 1084)
Từ tháng 11 đến hết tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 đời Thần Tông.
[1] Tháng 11, ngày Đinh Dậu, mùng một, chiếu xây ba trại Thượng Thành, Thiên Thôn, Đại Do ở châu Thành, theo lời thỉnh của ty vận châu Hồ Bắc.
[2] Kinh lược sứ Lộ Bỉnh của Kinh Nguyên lộ tâu rằng giặc Tây vào trại Tĩnh Biên, đội tướng tá chức Bạch Ngọc và quân sứ bộ lạc người Thổ là Lý Quý tử trận. Chiếu cho lục dụng một con trai của Ngọc và hai con trai của Quý.
(Sách 《Tân kỷ》 chép: Người Hạ cướp trại Tĩnh Biên, đội tướng Bạch Ngọc, Lý Quý tử trận. Sách 《Cựu kỷ》 không chép.)
[3] Lại chiếu cho Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Hội lộ đưa “Thưởng công tuyên cáo” vào dịch trạm cấp tốc chuyển đi.
[4] Ngày Mậu Tuất, Vua ban chiếu khen ngợi Lô Bỉnh vì có công bố trí binh tướng chống giặc, ban thưởng đai ngựa cùng 500 lượng bạc và lụa. Ban đầu, giặc phái tướng giỏi là Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh đem toàn quân xâm lấn. Lô Bỉnh tập trung quân ở Ngoã Đình, sai Bành Tôn và Diêu Hùng dẫn quân đóng ở Tĩnh Biên. Chẳng bao lâu, có tin báo giặc đánh vào thành Định Tây thuộc Hi Hà. Lô Bỉnh lập tức điều toàn quân từ Ngoã Đình, sai Diêu Lân đêm đó tiến đến Tĩnh Biên, và chỉ đường giặc đến mà nói: “Ta sẽ nhận được tin thắng trận vào sáng sớm mai.” Diêu Lân đến Tĩnh Biên lúc nửa đêm. Lúc trời vừa sáng, giặc đến, kinh ngạc nói: “Quân triều đình từ trên trời rơi xuống sao!” Bành Tôn liền tấn công, quân giặc đại bại, chém giết và bắt sống rất nhiều, Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh tử trận. Có người nhận ra y phục của hắn, các tướng xin báo lên triều đình, nhưng Lô Bỉnh nói: “Các tướng dâng công thường hay không chính xác, ta há lại vì nghi ngờ mà đòi thưởng sao!” Sau đó, người đưa tin báo rằng người bị giết chính là Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh. (Theo 《Thông Lược》: Thái Thao trong 《Tùng Đàm》 viết: “Họ Gia Lặc cướp đất Thanh Đường, từ khi Đổng Chiên chết, con trai yếu đuối, bề tôi tranh giành, từ đó thành mối họa lớn ở biên giới.”) Vua sai trung quý nhân lấy khí giới thu được dâng lên[1]. (Đoạn này căn cứ theo truyện Lô Bỉnh. Tuy nhiên, Lô Bỉnh trong tấu chương ngày Ất Mùi nói rằng giết được thủ lĩnh giặc Nhân Đa (Khẩu Lăng) Đinh, khen Bành Tôn và Quách Chấn bố trí tinh tế, Diêu Lân tuy không gặp giặc nhưng tổng binh Trương Đại hỗ trợ lớn, mà bản truyện lại cho rằng công giết Nhân Đa
(Khẩu Lăng) Đinh là của Diêu Lân, e là sai. Nay sửa lại rằng Diêu Lân đến biên giới lúc nửa đêm, sáng sớm Bành Tôn tấn công giặc, để không mâu thuẫn với tấu chương ngày Ất Mùi. Tấu chương đáng tin hơn, cần xem xét kỹ thêm.)
[5] Ngày Kỷ Hợi, Trứ tác tá lang Hình Thứ tâu: “Theo quan chế, Sử quán phụ trách việc biên soạn quốc sử và thực lục, thuộc cấp có Nhật lịch sở. Gần đây, Biên tu viện bị bãi bỏ và sáp nhập vào Sử quán, khi đó Sử quán có chức Chủ phán quan, nhưng sau khi cải cách quan chế, chức này bị bãi bỏ, nên việc quản lý quốc sử, thực lục, biên soạn nhật lịch, các báo cáo từ các cơ quan, và thời chính ký đều thuộc về Bí thư tỉnh, cụ thể là Quốc sử án, do Trưởng, Nhị, Thừa cùng với Trứ tác đồng quản lý và ký duyệt, do đó khó có thể tách riêng Nhật lịch sở. Xin rằng các báo cáo từ các cơ quan chỉ cần ghi là ‘Bí thư tỉnh khám hội’[2], còn việc biên soạn nhật lịch thì Trưởng, Nhị, Thừa không tham gia, thời chính ký và khởi cư chú đều được mở và lưu trữ tại nơi làm việc của Trứ tác, sau đó đưa vào kho và niêm phong.” Chiếu chỉ rằng từ nay về sau, các báo cáo văn thư từ các cơ quan đều phải ghi là ‘Bí thư tỉnh Quốc sử án’[3], còn việc thời chính ký và nhật lịch, nếu không phải là biên tu quan thì không được tham gia.
[6] Chiếu chỉ cho các lộ Thiểm Tây, Hà Đông: Khi giặc Tây cả nước xâm lược một lộ, như lần trước chúng tấn công phía bắc Lan Châu, mới được báo cáo để các lộ khác phối hợp, không cần phải chuẩn bị sẵn quân mã thường trực ở biên giới xa; còn các cuộc cướp phá nhỏ, chỉ cần theo lệ thường báo cáo lẫn nhau.
[7] Chiếu chỉ: “Tăng sai Trương Chỉnh, Kiềm hạt Quảng Nam Đông lộ, làm Kiềm hạt Quảng Tây, đóng quân ở Quế Châu. Tiền thượng cung của Quảng Tây, tiền và gạo khuyết ngạch của cấm quân, đều lệnh để lại. Tiền thường bình, miễn dịch khoan thặng, tiền hoà địch của Kinh lược ty, và tiền độ tăng điệp, khi cần thiết đều tấu xin sử dụng.” Theo đề nghị của Tri Quế Châu Miêu Thời Trung.
(Ngày 6 tháng 12.)
[8] Ngày Canh Tý, Xu mật viện tâu: “Theo chỉ dụ triều đình: quân phòng thủ mùa thu ở các thành, trại, bảo, trấn thuộc lộ Kinh Nguyên được điều động sớm hơn các lộ khác, đều được cấp tiền đặc biệt, còn những người được điều động theo lệ thường thì không được cấp. Ty Kinh lược lộ Kinh Nguyên nhầm lẫn khi so sánh và giải thích, không tuân theo chỉ huy mà cấp tiền cho tướng thứ tư của phủ giới ở Châu Vị để phòng thủ mùa thu.” Triều đình ra chiếu cho Ty Chuyển vận điều tra tội, số tiền đã cấp không thu hồi nữa, bắt những người liên quan đều phải bồi thường. Sau đó, Kinh lược sứ Lô Bỉnh tâu xin nhận tội một mình vì việc cấp tiền nhầm. Triều đình ra chiếu phạt Lô Bỉnh 20 cân đồng, điều tra tội bổng lộc và bồi thường, chỉ huy không thi hành[4].
(Ngày 3 tháng 10 có thể tra cứu.)
[9] Ngày Tân Sửu, ra chiếu: “Những người từ chức vụ Thừa vụ lang trở lên và sứ thần về hưu, nếu từng được thăng quan do chiến công, thì được cấp đủ tiền lương và áo; những người khác nếu trong quá trình làm quan không phạm tội công hay tư nghiêm trọng và tội tham nhũng, thì được cấp một nửa; những người về hưu do phạm lỗi hoặc già yếu bệnh tật thì không được cấp; những người không có chiến công nhưng có thành tích xuất sắc thì tâu xin xét xử.”
(Sách Cựu kỷ chép: Chiếu về lương hưu trí, người có chiến công được cấp đủ, người không phạm tội tham nhũng và tội công tư nghiêm trọng được cấp một nửa, người có thành tích đặc biệt xuất sắc, dù không có chiến công cũng tâu xin xét xử. Sách Tân kỷ không chép.)
[10] Thượng thư tỉnh tâu: “Đại Lý tự xử án dân Châu Lộ là Vương Đức thông dâm với vợ em là Trình, bày mưu cùng Trình giết chết em trai. Trình bị xử tử theo tội cố ý giết người, Vương Đức được giảm tội chết, lưu đày 2000 dặm và bị thích chữ. Xét thấy Vương Đức không nên được giảm tội vì lấy Trình làm người chủ mưu.” Triều đình ra chiếu phạt quan xử án ở Đại Lý tự 10 cân đồng, các quan liên quan khác mỗi người 8 cân, các quan lại liên quan ở Hình bộ mỗi người 6 cân.
[11] Ngày Nhâm Dần, Quản câu cơ nghi văn tự thuộc Ty Kinh lược Hi Hà Lan Hội là Mục Diễn tâu: Người Hạ vào triều, xin đối đãi theo lễ tiết, để Đổng Chiên không so sánh nặng nhẹ. Không được trả lời.
(Mục Diễn, người Hà Trung, có truyện vào tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 2.)
[12] Đề điểm Giang Chiết đẳng lộ khanh dã chú tiền Hồ Tông Sư tâu: “Huyện Duyên Sơn, châu Tín có mỏ đồng, đã lập trường luyện, xin mượn 30 vạn quan tiền của Ty Đề cử Giang Đông để đúc tiền mới, lãi 2 phần sẽ hoàn trả. Các nơi có mỏ đồng ở Phúc Kiến, Nhị Chiết cũng làm theo.” Hộ bộ tâu rằng lời Tông Sư đều có thể thi hành, chiếu chỉ cho mượn 15 vạn quan tiền của Ty Đề cử Giang Đông, dùng tiền đúc để hoàn trả, còn việc xin mượn tiền ở Phúc Kiến, Nhị Chiết thì không cho.
(Bản Chu bỏ đi.)
[13] Ngày Giáp Thìn, chiếu chỉ rằng sứ thần đi Cao Ly hai lần, từ chức Đô hạt trở xuống, vượt biển có công, đều được thăng một bậc.
[14] Trung thư tỉnh tâu rằng nghe nói ở Khai Phong phủ và Đại Lý tự có rất nhiều người bị giam giữ. Chiếu chỉ lệnh cho Ngự sử Hình sát và Lang trung Hình bộ nhanh chóng đến kiểm tra, xử lý nhanh chóng.
[15] Kinh lược sứ Hà Đông Lữ Huệ Khanh tâu: “Số ngựa thiếu hụt nhiều, nếu theo quy định cũ thì không mua được, mong cho phép các tướng ở Hà Ngoại lấy ngựa thấp hơn tiêu chuẩn cũ 5 phân trở xuống mà vẫn có thể mang giáp để bù vào chỗ thiếu, đợi khi yên ổn sẽ theo quy định cũ.” Được chấp thuận.
[16] Ty Chế trí Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Trước đây giặc Tây xâm phạm thành Định Tây, hai Giám áp cùng Thị cấm Diêm Cát ở Uất Đẩu Bình dẫn quân ứng chiến[5], trong đó có 109 người bị thương, bắt được giặc và tử trận, đã thưởng 30 người, xin ban ân; còn Giám áp thành Định Tây là Lý Trung, Khấu Sĩ Nguyên không nắm rõ tình hình giặc mà giao chiến, tổn thất quân mã, nhưng vì đều tử chiến trước giặc, lại có chém được giặc, xin lấy công bù tội.” Đều được chấp thuận.
[17] Hạ quốc chủ Bỉnh Thường sai Mô Cố Mị Mê Khất Ngộ mang biểu vào cống. Biểu viết: “Bỉnh Thường dám hết lòng thành, kính cẩn dâng lên, không ngại nhiều lần làm phiền, mong cầu sự hòa bình chung. Huống chi Hạ quốc nhiều lần nhận được văn thư do người của Mộc Chinh Vương tử Tây Phiên đưa đến, nói rằng Nam triều và Hạ quốc giao chiến lâu năm, sinh linh khổ cực, muốn thương lượng để hai bên lại thông hòa như cũ. Vì Hạ quốc trước đây từng tấu xin trả lại đất đai bị xâm chiếm, nhưng triều đình không chấp thuận, nên chưa tiện nhận lời. Đến tháng 7, lại có sứ giả Tây Phiên là Tán Ba Xương Quận, Đan Tinh đến Hạ quốc, nói rằng Nam triều đã đồng ý cho Hạ quốc thương lượng, chỉ cần sai sứ giả mang biểu thư đến, Tây Phiên sẽ tự cử người sang Nam triều. Thần nghĩ rằng từ nhiều đời nay, Hạ quốc vẫn cống nạp triều đình, không hề thiếu sót; gần đây càng thêm hòa hiếu. Không ngờ có kẻ xấu gièm pha, triều đình bất ngờ khởi đại binh, các lộ tiến đánh, chiếm đoạt đất đai thành trại; từ đó kết oán, năm nào cũng giao chiến. Nay triều đình tỏ rõ đại nghĩa, đặc biệt ban trả lại đất đai thành trại cho Hạ quốc, kính mong hoàng đế bệ hạ mở lòng sáng suốt như nhật nguyệt, rộng lượng như trời đất, cho trả lại đất đai, thông việc cống nạp từ phương xa; ngưng việc binh đao, để dân chúng được an lành. Nếu được chấp thuận, thần sẽ hết lòng báo đáp.”
Vua liền sao bản biểu giao cho Lý Hiến, và hạ chiếu cho Hiến xem xét kỹ văn thư đến, thấy không khác gì lời thỉnh cầu trước, lại nói rằng Đổng Chiên sai người đến chiêu dụ, cùng lời đồn triều đình cho phép thông sứ, ý đồ của A Lý Cốt rất khác xa, nên nhân dịp sứ giả đến, giải thích rõ ràng. (Chu bản thêm vào, Tân bản bỏ đi.)
[18] Ngày Ất Tỵ, Trứ tác tá lang Hình Thứ được giữ chức Phương viên ngoại lang.
(Ghi riêng việc này vì liên quan đến sự việc của Thái Xác vào tháng 12 ngày Mậu Thìn.)
[19] Hình bộ tâu: “Tri châu Nhữ Châu là Trung đại phu Bồ Tông Mạnh đã mãn một kỳ. Tông Mạnh trước đây từng giữ chức chấp chính, chưa dám căn cứ theo điều lệ của quan đãi chế trở lên để tiến cử.” Chiếu chỉ rằng từ nay các quan chấp chính bị bãi truất đến kỳ, do Trung thư tỉnh xem xét tiến cử để xin chỉ dụ.
[20] Chiếu chỉ mỗi năm cấp 2 triệu quan tiền, giao cho Ty Tài dụng Biên phòng lộ Hi Hà Lan Hội để chi dùng vào việc quân.
[21] Ngày Đinh Mùi, Bảo văn các đãi chế, quyền Tri Khai Phong phủ Kiển Chu Phụ được thử làm Trung thư xá nhân. Chu Phụ trị lý Khai Phong phủ được mấy tháng, Trung thừa Hoàng Lý tâu rằng Chu Phụ chuyên quyền về mình, để việc tồn đọng không quyết đoán, không phải là người có tài xử lý việc khó khăn[6] nên bị thay đổi.
[22] Trung thư xá nhân Thái Kinh được làm Long đồ các đãi chế, quyền Tri Khai Phong phủ.
[23] Chiếu chỉ rằng những người ứng thí võ cử và thí xuất thân[7], đều phải theo như tiến sĩ, thi một trường đại nghĩa, bậc nhất lấy 4 người thông, bậc hai lấy 3 người thông, bậc ba lấy 2 người thông, đều coi là trúng cách. Theo quy định của Tư nghiệp Trạch Tư và Chu Phục.
[24] Tuyên đức lang, Thái học bác sĩ Thiệu Tài được bổ làm Giám sát ngự sử. Tài là người Nghi Hưng. Khi Vua lâm triều, nghiêm trang uy nghi, những người được ban đối lần đầu thường kinh sợ, không đạt ý chỉ. Tài vào yết kiến ở điện Diên Hòa, ung dung tâu bày, nhân đó nói: “Năm ngoái lễ giao tế[8], thần giữ chức Thái học bác sĩ tham dự việc tế lễ, thấy bệ hạ đến Thái miếu và Viên Khâu giữ lễ rất nghiêm. Bệ hạ trị vì thiên hạ đã gần 20 năm, mà tâm càng khiêm tốn, thờ trời đất tông miếu càng cung kính, đó là đức lớn vậy. Tuy nhiên, để thành tựu đại nghiệp thiên hạ[9], cũng cần phải kiên trì không mệt mỏi.” Vua gật đầu đồng ý.
(Năm Sùng Ninh thứ 4, tháng 2 nhuận có truyện của Tài, đây căn cứ vào truyện thêm vào.)
[25] Kinh lược sứ Hà Đông Lữ Huệ Khanh tâu: “Gần đây chi 13 vạn quan tiền muối mạt[10] để mua lương thực trong lộ. Lại theo lệnh của Hộ bộ cấp tiền bạc, lụa vải, giấy bạc để nhập trung nhưng không thực hiện được, xin lấy tiền hiện có trong kho ở kinh đô, do bản ty xuất tiền mua lương. Hoặc cho phép người dân đổi tiền, giấy bạc của Hộ bộ hiện đang ở bản ty.” Chuyển vận phó sứ Hà Đông Tôn Lãm cũng tâu: “Bản ty thu thuế lương thảo mùa thu, Kinh lược ty bắt dân nộp bằng tiền, nếu triều đình cho phép Kinh lược ty dùng lương thảo chiết nạp để chi trả, thì xin cho Kinh lược ty một mặt chịu trách nhiệm ứng phó lương thảo chi trả năm đó của bản ty.” Vua xuống chiếu đều theo lời xin của Huệ Khanh, giấy bạc đã xuất ra thì lệnh cho Hộ bộ thu hủy, lương thảo mà Kinh lược ty nộp cho Chuyển vận ty để chi trả năm đó, bản ty căn cứ vào số lượng chịu trách nhiệm ứng phó, còn lại giao cho Chuyển vận ty lo liệu.
[26] Ngày Mậu Thân, Phó sứ Chuyển vận lộ Quảng Nam Đông là Cao Bạc tâu: “Các trường vụ bán muối ở bản lộ đều bị thâm hụt, xin theo phép bán muối của sáu lộ, cử ngay các quan quản câu ở các châu làm quan muối, xét công tội để thưởng phạt. Xin lệnh cho các quan Đề điểm hình ngục kiêm chức Đề cử diêm sự.” Vua theo lời tâu.
[27] Ngày Kỷ Dậu, Trung đại phu, Tri châu Nhữ là Bồ Tông Mạnh được làm Tư chính điện học sĩ, Tri châu Bạc.
[28] Ngày Tân Hợi, tiết Đông chí, Vua không thiết triều.
[29] Ngày Ất Mão, sao Thái Bạch hiện ban ngày.
(Hai kỷ đều chép.)
[30] Tư chính điện đại học sĩ bị giáng làm Chính nghị đại phu là Lữ Công Trước được phục chức Quang lộc đại phu. Trước đây, Công Trước bị giáng chức vì khi làm Tri châu Định đã sai cấm quân hộ tống tội nhân trái phép, nay đã hết một kỳ.
[31] Lễ bộ xin các châu không đặt học quan thì giao cho Ty chuyển vận tuyển chọn quan, và những nơi có nhiều sinh viên thì đặt chức Giáo thụ, trình bộ xét duyệt rồi giao xuống Quốc tử giám thẩm tra. Vua theo lời tâu.
[32] Ngày Đinh Tỵ, Bảo văn các đãi chế là Kiển Chu Phụ được thử chức Hình bộ thị lang. Chu Phụ vì già yếu bỏ việc học, được miễn chức Trung thư xá nhân, nên có mệnh lệnh này.
[33] Như kinh phó sứ là Diêu Hùng được làm Trang trạch phó sứ, Nội điện sùng ban là Diêu Cổ được làm Cung bị khố phó sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân, Tây đầu cung phụng quan là Diêu Bình được thăng một chức, giảm hai năm khảo khóa, làm Cáp môn chi hậu; Đông đầu cung phụng quan là Bành Hiếu Nghĩa được làm Tây kinh Tả tàng khố phó sứ, Nội điện sùng ban là Tôn Văn Hiển, Đông đầu cung phụng quan là Lý Uân, Tả thị cấm là Bành Kiệt đều được làm Nội điện thừa chế; còn lại những người được thăng chức, giảm năm khảo khóa có khác nhau, tổng cộng 409 người, trong đó các quân được ban tùy theo công trạng. Lô Bỉnh dâng lên tạp công khi giặc Tây vào trại Tĩnh Biên.
[34] Trung thư tỉnh tâu: “Năm Nguyên Phong thứ hai, Đề cử trà trường Lý Tắc lấy mức thuế lợi nhuận 50 vạn quan làm định mức. Sau đó, Lục Sư Mẫn tấu rằng từ khi lập định mức, liên tục các năm đều tăng thêm lợi nhuận, đến nay đã bảy năm[11], lấy 100 vạn quan làm định mức, nhưng chưa biết thực hư thế nào.” Chiếu cho Ty trà chè trình bày từ năm thứ hai lập định mức đến năm thứ sáu, số thuế lợi nhuận thu được có tăng thêm hay không, cùng số chi phí để báo cáo. Ty này trình bày số liệu lên, bèn giao xuống Hình bộ xét duyệt. Số tiền cũ đã phong trang và hiện có, đều lệnh giao nộp cho các lộ Thường bình ty Thiểm Tây phong trang.
[35] Đại Lý tự thượng Thái phủ Thiếu khanh Ngô An Trì vu cáo tể thần Thái Xác, em là Thạc, sai lại viên Trương Khánh nhận nợ tiền quan của Chu Thân mua lụa chưa nộp. An Trì phải tội tư, phạt đi đày hai năm. Thái Xác tâu: “An Trì vốn vì việc nhà thần, xin đặc cách khoan hồng.” Chiếu tha cho An Trì khỏi bị cách chức, thăng làm Giám Tào Châu tửu vụ.
(Sách 《Ngự tập》 chép việc này khá chi tiết, nay phụ chép. Quân khí Thiếu giám Thái Thạc tâu: Trước đây đã sai người nhà là Trương Khánh mua lụa, tính giá hai trăm quan, hẹn tháng giêng năm nay trả, chưa trả, theo công văn của Để đương sở, số tiền đó phải nộp cho quan. Thần đã sai Trương Khánh mang tiền nộp xong, nhưng Thái phủ tự lại sai người bắt Trương Khánh cùng người bán lụa giam lại tra hỏi. Vì Thái phủ Thiếu khanh Ngô An Trì trước đây vụ án Tương Châu, do anh thần xét xử, An Trì bị tội nặng. Người bán lụa còn nhiều tiền quan chưa nộp, sao chỉ riêng thần lại bị tra xét? Xin giao cho cơ quan không liên quan xét xử kỹ lưỡng. Vua phê: Nên giao cho Khai Phong phủ xét xử kỹ lưỡng, nếu số tiền nợ đã nộp đủ, thì Thái phủ tự phải thả ngay Trương Khánh, và xét xem các quan lại trong ty có vi phạm pháp luật không, tâu lên. Ngày 17 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 7 ban hành.)
[36] Kinh Đông lộ Đô chuyển vận sứ Ngô Cư Hậu tâu: “Năm Nguyên Phong thứ 7, chi tiền lãi muối 15 vạn 983 quan, mua được 13 vạn 6.606 tấm lụa, đã chuyển đến ty Bảo giáp Trạch Châu nộp, xin từ nay mỗi năm định mức 13 vạn tấm lụa, dùng tiền lãi muối do ty này lo liệu, và theo chỉ dụ đã được, đổi lấy các loại lụa vải của các ty Chuyển vận, Đề hình, Đề cử, gia hạn một tháng đến Trạch Châu, còn lại theo chỉ dụ trước.” Chiếu rằng việc xin gia hạn không được chấp thuận, còn lại theo tấu.
(《Thực lục》 chép rất sơ lược, nay dùng 《Mật ký》.)
[37] Ngày Kỷ Mùi, Kinh nguyên lộ Kinh lược an phủ sứ, Tri Vị châu Lô Bỉnh, vì cha già xin được đổi về một châu ở Chiết Tây. Vua phê: “Bỉnh làm quan lâu ở biên cương, rất giỏi về phương lược trấn giữ yên ổn và chế ngự giặc, trận thắng Tĩnh Biên vừa rồi, phần lớn là nhờ vào sự mưu hoạch của ông.” Rồi hạ chiếu không cho.
[38] Ty Kinh lược Tần Phượng lộ tâu: “Lữ Ôn Khanh xin đặt thủy trại ngoài trại Kê Xuyên của châu này. Nay xét thấy, nếu xây dựng ở chỗ thấp, thêm lầu canh, binh lính và khí giới phòng thủ, khi giặc đến vây hãm, từ trên cao nhìn xuống thủy trại, sẽ bất lợi cho việc phòng thủ. Xin chỉ đào kênh dẫn nước vào thành, đào hồ chứa nước, vừa tiết kiệm công sức lại dễ phòng thủ.” Vua đồng ý.
[39] Ngày Tân Dậu, thợ mộc Dương Kỳ được làm Tam ban tá chức, vì đã hoàn thành việc sửa chữa tháp phía tây chùa Đại Tướng Quốc và gác Diên Xuân. Kỳ là em của Dương Diễm.
(Bản Chu có dán tờ ghi: “Bổ một chức tá, theo phép không nên chép, sử quan trước chép việc này, ý muốn chê bai, nên đã xóa đi.” Nay theo bản mới. Ngày Nhâm Thìn tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ nhất, Sái Biện có nói, có thể tham khảo.)
[40] Tổng quản Kinh nguyên lộ Diêu Lân xin đặc cách cấp tiền công sứ. Chiếu rằng nếu có việc biên cương phát sinh, sẽ cấp một ngàn quan.
[41] Chiếu rằng lương thảo hiện có ở các lộ Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, mỗi quý vào tháng đầu của quý sau phải báo lên Hộ bộ số lượng dự trù chi dùng trong năm.
[42] Ngày Nhâm Tuất, chiếu cho Lại bộ Thị lang lĩnh Tả tuyển Hùng Bản và Lại bộ Thị lang lĩnh Hữu tuyển Trần An Thạch đổi chức cho nhau. Vì Bản bị bệnh mắt, không thể đọc tấu khi dẫn kiến người được tuyển.
[43] Lang trung Thương bộ Hàn Chính Ngạn tâu rằng Hà Bắc, Hà Đông mỗi nơi chỉ có một giám đúc tiền đồng, xin mỗi lộ thêm một giám, mỗi năm đúc mười vạn quan tiền Chiết Nhị để phong trang. Chiếu cho Chuyển vận ty xem xét rồi tâu lên. Chuyển vận ty tâu là không tiện, nên bỏ đi.
[44] Ngày Quý Hợi, ban chiếu rằng: “Khí giới và đồ dùng của hai mươi tướng được cất giữ tại Thái Nguyên phủ chưa có quan chuyên trách quản lý, dẫn đến việc Kinh lược ty thường mượn dùng tùy tiện. Nên cử quan Đề điểm hình ngục quản lý, nếu không phải do triều đình cho phép mà tự ý mượn dùng, sẽ xử theo luật tự ý chiếm dụng tiền vật cất giữ.”
[45] Kinh Tây chuyển vận ty tâu: “Hằng năm, tại Hà Dương thuộc Kinh Tây, sai phu đi cắt cỏ và nộp tiền miễn phu để mua cỏ ở Lạc Khẩu. Tám châu phía Nam[12], Tùy, Đường, Phòng châu[13] trước đây không sai phu, còn Kim, Quân, Dĩnh, Tương châu dân đinh nhiều nhưng phu ít, xin cho nộp tiền miễn phu để đổi lấy cỏ từ các châu, quân phía Bắc.” Triều đình đồng ý.
[46] Ngày Giáp Tý, quan người Thổ là Cung bị khố sứ Hưng Mại, Lãng Ngạch Y đều được phong làm Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ, Hà Đông đệ tam tướng, vì đã xuất quân gặp địch và lập công.
[47] Ngày Ất Sửu, phong Cung bị khố sứ Dĩnh Sấm Tát Lặc làm Hoàng thành sứ, Văn tư phó sứ Kết Bác Ước Đặc làm Tây Tả tàng khố phó sứ, Hàn Tự, Kiên Đa Khắc đều làm Hoàng thành phó sứ, Tây đầu cung phụng quan Tuân Bác Nạp Chi làm Nội điện thừa chế, vì giặc vào thành Định Tây, Dĩnh Sấm Tát Lặc và các tướng khác đã dốc sức chiến đấu, Kiên Đa Khắc bị thương nặng[14].
[48] Tháng 12, ngày Bính Dần, mùng một, phân công các đại thần cầu tuyết.
[49] Tam ban phụng chức Lý Khái được tha tội chết, miễn bãi chức, truất hai cấp bậc và bị cách chức[15], vì tội đánh chết lính đưa thư. Đại Lý Tư xử tội Lý Khái là tội công, xử giảo, nhưng được đặc xá. Chiếu rằng: Những việc đã tâu lên đài sát, dù có ân xá cũng không được tha.
[50] Ngày Đinh Mão, Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh tâu rằng, quan người phiên là Lãng Bố do có công được thăng bốn bậc, xin đổi làm Tuần kiểm bản tộc. Chiếu cho Lãng Bố làm Tuần kiểm bản tộc, tính một tư, còn lại theo quy định mà ban thưởng.
[51] Ngày Mậu Thìn, Đoan minh điện học sĩ kiêm Hàn lâm thị độc học sĩ, Thái trung đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung Tư Mã Quang được làm Tư chính điện học sĩ, ban chiếu khen ngợi, ban tặng bạc, lụa, áo, đai, ngựa; Phụng nghị lang Phạm Tổ Vũ làm Bí thư tỉnh Chính tự; đều do việc biên soạn sách 《Tư trị thông giám》 đã hoàn thành. 《Tư trị thông giám》 từ năm Trị Bình thứ ba được lập ty biên soạn, Tư Mã Quang xin cho Lưu Thứ, huyện lệnh huyện Ông Nguyên châu Thiều, và Triệu Quân Tích, Chủ bạ Tướng tác giám, cùng biên soạn. Quân Tích vì tang cha không đến, Thái thường bác sĩ, Quốc tử giám Trực giảng Lưu Ban thay thế. Ban ở ty năm năm, thông phán Thái châu[16], Phạm Tổ Vũ, tri huyện Long Thủy châu Tư, thay thế. Mỗi khi biên soạn xong sử một triều đại, dâng lên, đến nay dâng lên phần kỷ Ngũ đại 30 quyển, tổng cộng 294 quyển, Mục lục, Khảo dị mỗi loại 30 quyển. Lúc đó Ban ra ngoài làm Giám vụ diêm tửu châu Hoành, còn Thứ đã mất trước đó. Vua bảo các phụ thần rằng: “Đời trước chưa từng có sách này, vượt xa 《Hán kỷ》 của Tuân Duyệt.” Các phụ thần xin xem, bèn sai giao cho Tam tỉnh, lại lệnh nhanh chóng dâng vào.
[52] Trước đây, năm Nguyên Phong thứ năm, sắp thi hành quan chế, Vua tự vẽ đồ trong cung, dán định chưa đưa ra, trước đó bảo các phụ thần rằng: “Quan chế sắp thi hành, muốn dùng cả người mới lẫn người cũ.” Lại nói: “Ngự sử đại phu không ai khác ngoài Tư Mã Quang.” Thái Xác tâu rằng: “Việc nước vừa định, xin hãy chậm lại.” Vương Khuê cũng giúp Xác, nên thôi. Đến khi bổ nhiệm Quang làm Đề cử Sùng Phúc cung nhiệm thứ tư, chiếu rằng đủ 30 tháng, thì không đợi người thay, phải đến kinh, ( “không đợi người thay, phải đến kinh”, điều này căn cứ theo trạng của Quang xin lưu lại đài.) là vì sắp dùng lại Quang vậy.
[53] Năm đó, vào tiệc mùa thu, Vua cảm thấy không khỏe, bắt đầu có ý định lập thái tử. Vua lại nói với các đại thần: “Mùa xuân năm sau sẽ lập thái tử, nên lấy Tư Mã Quang và Lữ Công Trước làm thầy bảo.” (Theo 《Nguyên Hựu Biện Vu》 của Thiệu Bá Ôn và bia mộ Lữ Công Trước do Lã Đại Phòng soạn, Lã Đại Phòng chỉ nhắc đến Lữ Công Trước, không nhắc đến Tư Mã Quang. Cần xem xét thêm.)
Thái Xác biết Tư Mã Quang chắc chắn sẽ được trọng dụng, muốn tự liên kết với Quang, bèn nói với Hình Thứ, Viên ngoại lang chức phương: “Vua phong Quân Thực làm Tư chính điện học sĩ, đó là lễ đặc biệt. Quân Thực thích từ chức, Xác là kẻ hậu tiến, không dám gửi thư, Hoà Thúc là môn hạ của ông, nên viết thư nói rõ lý do không thể từ chức.” Thứ chỉ viết thư cho con trai của Quang là Khang, truyền đạt lời của Xác, Khang báo lại với Quang, Quang cười mà không đáp, cũng từ chối hai lần rồi mới nhận. (Theo 《Biện Vu》 của Thiệu Bá Ôn. Thứ được bổ nhiệm chức phương vào tháng 11 ngày Ất Tỵ, sử mới ghi chép đặc biệt, ngày Mậu Thìn, Tư Mã Quang dâng 《Tư trị thông giám》. Theo 《Tạp thuyết》 của Lữ Bản Trung: Năm Nguyên Phong, Ngô Sung đã làm tể tướng, lại triệu Hình Thứ làm quán chức. Thứ lại làm Hiệu thư vào tháng 3 năm Hi Ninh thứ 10. Đầu năm Nguyên Phong, làm Hiệu khám ở Quán các, tháng 8 năm thứ 4 kiêm Kiểm thảo ở Sử quán, tháng 4 năm thứ 5 làm Hiệu thư lang, tháng 5 năm thứ 7 làm Tiểu trước, tháng 11 làm Chức phương.
Khi Ngô Sung rời chức, Thái Xác rất vui, Thứ nhân cơ hội nói với Xác: “Sĩ nhân trong thiên hạ cúi mình hạ chí để cầu quyền quý, tướng công cho rằng họ cầu gì?” Xác nói: “Không gì khác, chỉ vì muốn giàu sang thôi.” Thứ nói: “Lời của tướng công đã nói rõ tình thực của sĩ nhân thiên hạ. Nhưng có người đã giàu sang, danh vị đã cực cao, mà vẫn không thay đổi việc làm trước đây, là sao?” Xác biết Thứ ám chỉ mình, bèn nói: “Điều này Xác không biết.” Thứ nói: “Giàu sang đã có, danh vị đã cực cao, mà vẫn không thay đổi việc làm trước đây, Thứ cho rằng đó là do kẻ ngu si quen thói cũ, không có chí hướng xa mà thôi. Nếu là người minh trí ở vào cảnh đó, ắt sẽ có cách để giữ gìn về sau. Thứ nghĩ rằng tướng công từ thân phận thấp kết thân với Vua, lên làm tể tướng, vốn có những điều không hoàn toàn hợp với công luận thiên hạ. Nhưng nay danh vị đã cực cao, giàu sang đã lâu, mà vẫn không thay đổi hết những việc làm trước đây, với tài minh trí như tướng công, mà lại quen theo tình cảm của kẻ tầm thường, Thứ cũng nghi ngờ.”
Xác từ tốn nói: “Vậy thì sao?” Thứ nói: “Danh vị đã cực cao, giàu sang đã lâu, điều mà người đời mong mỏi sâu xa, là muốn vị trí càng vững, danh tiếng càng cao, để tính kế lâu dài. Nếu dùng những việc làm hiện nay mà mong vị trí càng vững, danh tiếng càng cao, thì cũng như đi ngược mà muốn tới trước. Không bị ngã chết là may rồi.” Xác nói: “Ngươi định dạy ta thế nào, xin được nghe hết.” Thứ nói: “Từ năm Hi Ninh đến nay, thay đổi pháp chế, không hợp lòng người rất nhiều, mà những kẻ được dùng trong thời đó, đều là tiểu nhân cả. Tướng công muốn dùng những kẻ đó để thi hành chính sự hiện nay, mong vị trí càng vững, danh tiếng càng cao, khó lắm! Cái khó được mà dễ mất, là thời cơ; từ xưa đến nay, điều mà thánh hiền tài trí mong mà không được, là quyền lực. Nay tướng công đã có thời cơ và quyền lực, sao không nhân cơ hội này, thu dụng lại người cũ và thay đổi những chính sự bất tiện nhất, để hợp lòng người mà củng cố địa vị? Sao lại vội vàng chỉ theo đám đông?” Xác nói: “Hay.”
Từ đó, tình cảm giữa Xác và Thứ ngày càng thân thiết, Xác có ý thay đổi chính sự, thu dụng người cũ. Đến khi Thần Tông băng hà, Tuyên Nhân thái hậu nhiếp chính, quyết tâm thay đổi, nhưng Thứ giúp Xác vẫn muốn thay đổi dần dần, xin đừng đuổi nhiều người cũ thời Nguyên Phong, từ đó phe tà chính chia rõ. Cuối năm Nguyên Phong, Lưu Chí, Lương Đào, Tôn Giác, Lý Thường lần lượt được trọng dụng, đều do Thứ khuyên Xác làm vậy. Lưu Chí, ngày 24 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 6 bị cách chức Hữu ty lang trung, ngày 14 tháng 4 năm thứ 8 từ Hoạt Châu được triệu làm Lại bộ lang trung. Lương Đào, ngày 14 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8 từ Kinh Tây Bắc lộ Đề hình được triệu làm Công bộ lang trung. Tôn Giác, tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6 từ Nam Kinh[17] Lưu thủ được triệu làm Thái thường thiếu khanh. Lý Thường, tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 5 từ Hoài Tây Đề hình được triệu làm Thái thường thiếu khanh, tháng 6 năm thứ 6, thăng làm Lễ bộ thị lang.
[54] Lại bộ tâu rằng, cháu của cố Tham tri chính sự Trần Bành Niên là Hỉ Xương cùng em là Tố đều xin ân điển được vẽ chân dung tổ tiên. Hỉ Xương vì tội đào trộm mộ của Bành Niên, bị đánh bằng gậy, thích chữ vào mặt và đày đi. Chiếu chỉ ban ân huệ cho em là Tố.
[55] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu rằng từ nay các quan lo việc tế tự khi trai giới, nếu không phải là quan hành sự thì không được thông báo.
(Trước đây do Hoàng Lí thỉnh cầu, đã có lệnh cấm này, cần xem xét lại.)
[56] Ngày Canh Ngọ, hoàng tử thứ mười hai là Tự được phong làm Tiết độ sứ quân Tập Khánh, tước Hòa Quốc công.
(Sách 《Tân kỷ》 không chép chức Tiết độ sứ.)
[57] Ngày Tân Mùi, ban chiếu rằng vào ngày Tân tháng giêng năm sau sẽ cầu mùa, bãi bỏ yến tiệc ở điện Tử Thần vào ngày Canh Tý.
(Năm Trị Bình thứ hai có thể xem xét lại.)
[58] Chuyển vận phán quan lộ Quỳ Châu là Tống Cấu tâu rằng, các giếng muối trong lộ chưa từng đánh thuế, lợi ích không đều, xin đánh thuế mua trà ở châu Đạt, cho phép thương nhân xuất dẫn đi buôn bán ở lộ Tử Châu. Chiếu chỉ giao cho chuyển vận ty và ty đánh thuế trà xem xét kỹ.
(Sách 《Chu sử》 có chú thích rằng năm Nguyên Hựu thứ nhất, các ty xem xét thấy không có lợi ích gì, đã trình lên và không thực hiện, nên bỏ đi. Nay lại ghi chép lại.)
[59] Chiếu chỉ nghe tin Tân Quảng Tây Kiềm hạt là Trương Chỉnh quản lý quân đội quá gấp gáp, giao cho Tri châu Quế Châu là Miêu Thời Trung xem xét, không để xảy ra việc gì.
(Ngày mồng 3 tháng 11.)
[60] Xu mật viện tâu rằng, giặc phương Tây gần đây xâm phạm các lộ, trong lúc đang giới nghiêm, lo ngại dân biên giới buôn bán riêng, hoặc tiết lộ bí mật quân sự. Chiếu chỉ giao cho Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông nghiêm khắc quản thúc.
[61] Chiếu tay của Lý Hiến: “Nhận được tờ tấu, nói rằng giặc ở Hà Bắc tụ tập, có lợi có thể lợi dụng, muốn cân nhắc phát binh mã để đánh dẹp. Tướng súy có thể làm như vậy, Trẫm còn lo gì nữa? Giặc diệt vong, nghĩ không còn bao lâu nữa. Xem đi xem lại nhiều lần, không quên khen ngợi[18]. Chỉ cần thêm phần cẩn thận bố trí, chỉ cần hành động không sai lầm, tiêu diệt lớn lũ giặc xấu xa, khiến uy danh nhà Hán vang xa, người Khương kinh sợ, đó là điều mong đợi. Kỵ binh cần dùng hai vạn trở lên, bộ binh tương ứng, vẫn phải tính toán kỹ, không được hành quân xa, chỉ cần dùng kỵ binh mạnh mẽ đánh tản ra bốn phía, cướp bóc lấy lợi, hoặc chọn tướng giỏi dẫn quân tiến lên phía đông, uy hiếp hang ổ của giặc, khiến chúng trên dưới kinh hoàng chạy tán loạn[19], thì công lao hiếm có[20], có lẽ sẽ lập được! Nay việc xét xử tuy chưa kết án, những kẻ phạm tội, triều đình nhất định chỉ căn cứ vào luật pháp, không đến mức dùng hình phạt khác thường, ngươi nên yên tâm triển khai bốn phương kinh doanh. Vì việc làm lần này, rất quan trọng và lớn lao, không thể so với việc biên giới bình thường, hãy suy nghĩ cẩn thận! Kính trọng, đừng làm tổn hại thành tích trước, khiến người Khương khinh thường.”
(Bản Chu thêm vào, bản mới bỏ đi. Bản mực viết: Ngự sử đài xét việc công nói: Lý Hiến ba lần hỏi không nhận, liền xin bắt giữ. Chiếu dùng chứng cứ của mọi người để kết án. Bản Chu bỏ đi, bản mới lại giữ lại. Nay theo bản Chu chuyển vào chỗ xử tội.)
[62] Lại có chiếu cho phép bốn kỳ tuyển chọn quan chức thông thạo toán học, theo như người được tuyển chọn đến Lại bộ dự thi, người đỗ, bậc trên được bổ làm Bác sĩ, bậc trung và hạ làm Học dụ.
(Ngày 28 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, bãi bỏ Toán học.)
[63] Ngày Quý Dậu, Trung tán đại phu, nguyên Chuyển vận sứ phủ Thành Đô lộ là Lý Chi Thuần được bổ nhiệm làm Hữu ty lang trung. Chi Thuần từng ba lần nhậm chức ở Thục, đến nay được triệu về, Vua khen ngợi rằng: “Vùng biên cương xa xôi không nên thay đổi quan lại lớn nhiều lần, ngoài Kiếm Nam, biên thùy yên ổn, mùa màng liên tiếp được mùa[21], mới thấy được ý nghĩa của triều đình trong việc vỗ yên vùng xa[22].” Vì thế có lệnh này.
[64] Ngự sử Trạch Tư tâu, xin từ nay các kỳ thi tiến sĩ do Lễ bộ tổ chức ở kinh thành, căn cứ vào số người dự thi, lấy số lượng người đỗ theo tỷ lệ mười phần trong các kinh sách mà thí sinh chuyên học, nếu có dư hoặc thiếu thì bù trừ cho nhau, mỗi phần không quá ba. Được chấp thuận.
[65] Ngày Giáp Tuất, xuống chiếu cho việc mua ngựa ở Thiểm Tây thuộc quyền quản lý của Ty Kinh chế Hi Hà Lan Hội lộ Biên phòng Tài dụng.
[66] Thông trực lang Lý Hiếu Cẩn được tha tội chết, bãi chức, phối làm lao dịch ở Nam Hùng châu, miễn khắc chữ và đánh đòn. Trước đây, Hiếu Cẩn khi làm Tri huyện Vũ Thành, châu Tề, nhận hối lộ, Đại Lý tự định tội giết, nhưng đặc cách tha cho.
[67] Ngày Đinh Sửu, Quyền Đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện trấn công sự Phạm Tuân tâu: “Ba năm trước, cơ quan này hàng năm đều xin triều đình đặc biệt ban cấp và mượn thêm 40 vạn quan tiền mới đủ chi dùng. Nay các huyện thu thuế hạ và thu được khá đầy đủ, so với trước tăng hơn 60 vạn quan, xin lấy số dư 20 vạn quan để hỗ trợ các cơ quan khác.” Chiếu cho dùng số tiền đó để tu sửa thành Nhữ Già ở Hi Hà Lan Hội lộ, lệnh cho Hộ bộ in cấp công cứ, Ty Kinh chế chiêu mộ người đến nộp tiền. Lại xin gia hạn thêm một năm để nộp dần các khoản thuế còn thiếu. Được chấp thuận.
[68] Ngày Mậu Dần, Đồng Quản câu Kinh Tây lộ Bảo mã Lữ Công Nhã tâu: “Những gia đình có quan chức, giữ chức ở ngoài, chỉ đóng tiền trợ cấp, không công bằng, xin cho họ nuôi ngựa. Binh bộ muốn quy định những người có thân thuộc cùng ở và tự canh tác ruộng đất thì theo như các hộ khác nuôi ngựa.” Được chấp thuận.
[69] Ngày Canh Thìn, phân công các quan đại thần làm lễ tạ tuyết.
[70] Chiếu cho Thượng thư Hộ bộ Vương Tồn, Thị lang Dương Cấp mỗi người gia hạn khảo xét thêm hai năm, Lang trung Triệu Đoan Ngạn gia hạn ba năm. Vì họ đã dâng lời xin khôi phục lệnh cấm đồng, mà không biết rằng việc tăng thêm tiền giám đã sử dụng nhiều đồng.
(Việc này cần xem xét thêm, thực lục ghi chép không rõ ràng.)
[71] Ngày Tân Tỵ, chiếu rằng tiền vật phong trang của triều đình, lệnh cho Thượng thư tỉnh đến cuối năm làm sổ bàng thông dâng lên.
[72] Chiếu rằng các quân dù không ra trấn thủ, nhưng vì sai phái không ngủ ở nhà, nếu vợ họ phạm tội thông gian, cho phép hàng xóm tố cáo. Cơ quan lập hạn chuyển đến nơi ở của Suý thần và các châu biên giới trọng yếu để phong trang.
[73] Đổng Chiên và A Lý Cốt sai thủ lĩnh mang thư chữ Phiên và bắt được hai người bộ lạc Phiên của Hạ quốc đến Hi Châu. Chiếu rằng bộ lạc Phiên theo lệ của đinh Phiên mà xăm và đày đi.
[74] Hồ Nam Bắc và Phúc Kiến lộ xin mua đồng và chế tạo hai viên hỏa châu. Được chấp thuận.
(Theo 《Ngự tập》.)
[75] Ngày Nhâm Ngọ, Long đồ các Trực học sĩ Tăng Bố được làm Hàn lâm học sĩ, vì Tăng Bố vừa mãn tang.
[76] Chiếu rằng các châu Lê, Mậu, Uy[23], các Tri châu do Kiềm hạt Chuyển vận sứ cử theo quy tắc tuyển chọn. Lại chiếu rằng các châu thuộc Tứ lộ Xuyên Hạp, các chức Lục sự, Ty lí Tham quân không được cùng cử người Xuyên. Đều theo lời xin của Tiền Thành Đô phủ Chuyển vận sứ Lý Chi Thuần.
[77] Ngày Quý Mùi, thủ lĩnh lớn của Đổng Chiên là Tát Bốc Trại chết tại Đô đình dịch. Chiếu ban tặng 100 tấm lụa, và theo lệ vật triều từ, gửi về cho gia đình.
[78] Ngày Đinh Hợi, Lễ bộ tâu: “Tiền Hiệp trước đây ở Cao Ly quốc nghe nói có hơn 40 người Nữ Chân ở đó, đã từng bí mật dụ thương nhân Tuyền Châu là Quách Địch đi chiêu dụ thủ lĩnh, bảo họ đến cống và buôn bán với Trung Quốc. Lại dụ Địch rằng: Nếu hiểu được tiếng Nữ Chân, thì đến chỗ Tri châu Minh Châu là Mã Ngọc để truyền đạt. Xin hạ lệnh cho Ngọc, đợi khi chiêu dụ được người Nữ Chân, tức khắc tâu lên.” Chiếu theo đó. Sau đó, người Nữ Chân cuối cùng không đến.
[79] Ngày Mậu Tý, An phủ sứ vùng biên giới Hà Đông tâu rằng: “Vâng chiếu chỉ, nơi nào hào giới bị nước xói lở, xin tính toán cùng quan ty phía Bắc cùng sửa chữa. Sau khi khám xét các trại dọc biên giới châu Đại, trước đây đã đào hào, ranh giới rất rõ ràng. Xin các trại nơi nào hào giới bị nước xói lở hoặc bồi lấp, đợi phía Bắc tính toán trước rồi mới thi hành.” Triều đình đồng ý.
[80] Điện trung Thị ngự sử Kiển Tự Thần được bổ làm Hữu Ty Gián.
[81] Ngày Kỷ Sửu, Triều tán lang Tiền Hiệp tâu: “Khi đi sứ Cao Ly, được ban cho đai vàng, nhưng không có chỉ dụ cho phép mang về nước vẫn được dùng. Các quan ở Cáp Môn nói rằng đã từng được ban ơn, nên phải đổi lại. Thần cho rằng triều đình có quy định về phẩm phục, không dám làm rối loạn chế độ quan chức.” Lại có Khởi cư lang Dương Cảnh Lược tâu rằng được đổi sang áo tía và ban cho đai tê giác, nhưng chưa dám tự ý thay đổi. Chiếu chỉ cho phép y theo phẩm trật.
[82] An phủ ty vùng biên giới Lộ Nam tâu rằng: “Vùng đất mới thu phục ở La Thủy Đảng thuộc tám họ, cùng các tộc người Di ở hai sông Tống, Nạp, nguyện theo gương bảy họ kết thành nghĩa quân, xin được xăm chữ và cấp vật dụng theo lệ.” Triều đình đồng ý.
(Ngày 22 tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 6, có chiếu chỉ cho các con em ở các trại giám châu Lộ theo chỉ dụ triều đình, phải biên chế vào bảo giáp để quản lý. Ngày 16 tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 7, Khu mật viện có tờ trát: An phủ ty tâu rằng: “Tám họ người Di nguyện theo gương bảy họ, mười chín họ người Di, kết thành nghĩa quân.” Vâng thánh chỉ, đồng ý theo lời tâu. Ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7, có chiếu chỉ cho An phủ ty tâu rằng: “Đã triệu tập được tám họ ở vùng đất La Thủy Đảng, mỗi họ đều nguyện kết thành đội ngũ, tổng cộng 16.660 người[24], tùy theo tình hình người Di, kết thành 31 chỉ huy. Tám họ ở La Thủy Đảng kết thành 8 chỉ huy, xin đặt tên là Quy Hóa Nghĩa quân. Mười chín tộc ở Đô Đảng kết thành 8 chỉ huy, xin đặt tên là Thuận Hóa Nghĩa quân. Chín châu trước sau ở vùng núi thuộc Trường Ninh quản, kết thành 15 chỉ huy, xin đặt tên là Hoài Hóa Nghĩa quân.” Ngày 24 tháng 12 năm thứ 7.)
[83] Ngày Canh Dần, ban chiếu cho các quan ở Môn hạ, Trung thư ngoại tỉnh cùng cử hai viên Ngự sử để trình bày việc.
[84] Hồ Tăng Nhụ, Đề cử Thường bình lộ Hà Bắc Tây, bị cách chức vì khi còn giữ chức Câu đương công sự ở Thiểm Tây Chuyển vận ty, đã có hành vi gian lận với các hộ tạp.
[85] Ban chiếu cho các lộ: “Các kho tàng của quan ty không được tự ý hành động[25], nếu không có phép tắc, phải trình lên các tự, giám thuộc quyền; nếu tự, giám không thể tự quyết, phải trình lên Thượng thư bản bộ; nếu bản bộ không thể tự quyết, phải trình lên Đô tỉnh. Nếu có chỉ dụ triều đình cần phúc tấu, thì theo điều khoản này.”
(Ngày 28 tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ nhất, Vương Tồn nói…)
[86] Ngày Tân Mão, Liêu chủ sai Vĩnh Châu Quan sát sứ Gia Luật Tương, Thái thường Thiếu khanh, Sử quán Tu soạn Giả Sư Huấn đến chúc mừng ngày Chính đán.
[87] Ngày Nhâm Thìn, ban chiếu cho phép các hộ Bảo giáp muốn bán các chén bạc được thưởng cho quan ty, thì Bảo giáp ty được mua lại.
[88] Khai Phong phủ giới và lộ Hà Đông được mượn từ tiền khuyết ngạch của cấm quân[26], lộ Hà Bắc được mượn từ kho Thường bình, mỗi nơi 7 vạn quan.
[89] Ngày Quý Tỵ, ban chiếu rằng việc xin cấp phát không được thực hiện ở ba lộ.
[90] Bãi bỏ trại Lai Viễn thuộc quân Thông Viễn.
[91] Năm đó, con cháu hoàng tộc được ban tên và phong chức quan tổng cộng 49 người, xử tử 2.365 người, toàn quốc miễn dịch thu được 18.729.300 quan tiền, tiền trường vụ là 5.050.900 quan, cùng 976.657 thạch lương thực và tấm vải. (Theo 《Thực hóa chí》 quyển 2, sự việc năm Nguyên Phong thứ 7.) Tổng số quân cấm binh trong cả nước, năm Hi Ninh là 568.688 người, năm Nguyên Phong là 612.243 người. (Theo phần đầu 《Binh chí》. 《Chí》 còn ghi: Tổng số quân năm Trị Bình là 1.162.000 người, trong đó cấm binh bộ và kỵ binh là 663.000 người. Đã ghi chép vào ngày 22 tháng 8 năm Trị Bình thứ 4, cần xem xét thêm. So với năm Hi Ninh, năm Nguyên Phong tăng thêm 43.555 người, so với năm Trị Bình thì giảm 50.757 người.) Còn quân sương so với thời tổ tông thì số lượng càng đông hơn.
(Theo 《Binh chí》 đã chỉnh sửa. Ngày 16 tháng 12 năm Hi Ninh thứ 4, ghi chép tổng số quân sương mã bộ chỉ huy trong cả nước là 840 người, tổng số quân là 227.627 người, không kể các cơ quan trong phủ giới tuyển mộ vì việc khác. Đây là số liệu năm Hi Ninh thứ 4, chưa thấy số liệu thực tế năm Nguyên Phong. Xét: Tổng số quân năm Trị Bình là 162.000 người sương, ngoài 663.000 quân cấm binh, còn 499.000 quân sương, nhưng năm Hi Ninh thứ 4 tổng số quân sương chỉ là 227.627 người, so với năm Trị Bình giảm gần 270.000 người, dù năm Hi Ninh thứ 4 các cơ quan trong phủ giới tuyển mộ không tính vào, nhưng số tuyển mộ cũng không đến mức gấp đôi, nghi ngờ số liệu 227.627 người ghi ngày 16 tháng 12 năm Hi Ninh thứ 4 có sai sót, nếu không, số liệu 1.162.000 người ghi ngày 22 tháng 8 năm Trị Bình thứ 4 cũng chưa chắc chắn. Tuy nhiên, 《Binh chí》 hai triều ghi số quân cũng giống như vậy, cần xem xét thêm. Lại theo 《Binh chí》 hai triều: Năm Cảnh Hữu, bản thành binh là 438.000 người, đến năm Trị Bình thứ 3 là 500.000 người. Cần tham khảo thêm. Hoặc số liệu 227.627 người ghi ngày 16 tháng 12 năm Hi Ninh thứ 4 chỉ là đổi lập ngạch mới, số người còn nằm ngoài. Cần xem xét kỹ trước sau. Lại xét: 《Bản chí》 ghi quân sương 840 chỉ huy, mỗi chỉ huy không quá 500 người. Nay lấy 500 người làm mức, tổng cộng cũng phải là 420.000 người, không thể chỉ có 227.627 người. Nhưng tính theo số liệu các lộ trong 《Bản chí》 thì không sai với tổng số, không rõ nguyên nhân. Lại nghi ngờ số quân theo ngạch cũ có người không bị bãi bỏ, số đó cũng không nên gấp đôi ngạch mới, dù số tuyển mộ của các cơ quan trong phủ giới có thể tính vào, thì số 500.000 người ghi trong 《Binh chí》 hai triều vẫn chưa đạt. Không nên nói là so với thời tổ tông số lượng càng đông hơn.)
Các quân số cũ không bị bãi bỏ, nay ghi đầy đủ như sau:
– Hà Bắc lộ có 4 chỉ huy: Kiều đạo, Tráng thành, Lao thành, Mã giám.
– Hà Đông lộ có 5 chỉ huy: Bản thành, Lao thành, Tráng thành, Tạp toàn, Tác viện công tượng.
– Thiểm Tây lộ có 9 chỉ huy: Khai sơn, Quan hà, Ty mục, Tỉnh tác viện, Lao thành, Tráng thành, Mã giám, Sắc dịch, Hàm Dương kiều đạo.
– Kinh Đông lộ có 4 chỉ huy: Tráng thành, Mã giám, Trang tá, Lao thành.
– Kinh Tây lộ có 11 chỉ huy: Kiều đạo, Khai đạo, Bộ dịch, Hội thông kiều đạo, Thái tạo, Lao thành, Tráng thành, Mã giám, Tam thủy ma, Đông Tây bát tác, Sằn vụ[27].
– Hoài Nam lộ có 12 chỉ huy: Kiều đạo, Thủy vận, Sao công đô, Trang phát, Phòng thú, Thủy quân kiều đạo, Xa quân, Diêm xa[28], Tân chiêu sao công, Bạt đầu thủy quân[29], Lao thành, Thặng viên trực.
– Lưỡng Chiết lộ có 10 chỉ huy: Thủy quân, Thuyền phường, Thuyền vụ, Xa quân, Thái tạo, Lâu điếm vụ, Giang kiều viện, Đính thủ[30], Yển quân, Tân vụ[31].
– Giang Nam lộ có 14 chỉ huy: Thủy quân, Lí vận, Cống vận[32], Thủy vận, Sao công đô, Tạo thuyền quân tượng, Bộ dịch, Lao thành, Tráng thành, Hạ tá tiền giám, Thiết mộc tượng doanh, Tửu vụ doanh, Trúc tượng doanh, Tửu vụ tạp dịch.
– Kinh Hồ lộ có 5 chỉ huy: Bộ dịch, Thủy vận, Thuyền phường, Độ thuyền đô, Thanh tu vụ[33], Thuyền phường thiết tác.
– Quảng Nam lộ[34] có 6 chỉ huy: Bộ dịch, Tạo thuyền trường, Giá võng thủy quân[35], Thành diện, Đệ giác trường[36], Vận tích.
– Tứ Xuyên lộ có 4 chỉ huy: Kiều đạo, Kiều các, Phòng hà[37], La thành, Lao thành.
Trên đây là 11 lộ, tổng cộng 84 chỉ huy, thuộc quân số cũ không bị bãi bỏ. Cùng với quân số mới được đổi tên:
– Hà Bắc gọi là Sùng Thắng, có 112 chỉ huy.
– Hà Đông gọi là Hùng Mãnh, có 52 chỉ huy.
– Thiểm Tây gọi là Bảo Ninh, có 111 chỉ huy.
– Kinh Đông gọi là Phụng Hóa, có 54 chỉ huy.
– Kinh Tây gọi là Kính Vũ, có 45 chỉ huy.
– Hoài Nam gọi là Ninh Hoài, có 102 chỉ huy.
– Lưỡng Chiết gọi là Sùng Tiết, có 51 chỉ huy.
– Giang Nam gọi là Hiệu Dũng, có 53 chỉ huy.
– Kinh Hồ gọi là Tuyên Tiết, có 44 chỉ huy[38].
– Phúc Kiến gọi là Bảo Tiết, có 33 chỉ huy.
– Quảng Nam gọi là Thanh Hóa[39], có 82 chỉ huy.
– Tứ Xuyên gọi là Khắc Ninh, có 111 chỉ huy.
Tổng cộng trong thiên hạ có 850 chỉ huy, với quân số là 227.627 người, không kể các quân số do phủ giới và các ty khác tuyển mộ vì việc riêng.
- 'Khí giới' nguyên bản là 'y giáp', theo các bản khác và 《Tống Sử》 quyển 331, truyện Lô Bỉnh sửa lại. ↵
- chữ 'khám' trên nguyên bản có thêm hai chữ 'trung thư', đã được xóa theo 《Tống hội yếu》 vận lịch 1-16 ↵
- chiếu chỉ, 'hậu', 'án' ba chữ này nguyên bản thiếu, đã bổ sung theo sách trên ↵
- Trong bản các, chữ 'bổng' không có trên chữ 'tội'. ↵
- Chữ 'bình' trong 'Uất Đẩu Bình Thị cấm Diêm Cát dẫn quân ứng chiến' vốn thiếu, căn cứ vào các bản và 《Tống sử》 quyển 87 《Địa lý chí》, 《Tống hội yếu》 phương vực 8 chi 28, 《Tây Hạ thư sự》 quyển 26 bổ sung. Lại chữ 'hộ' vốn viết là 'hoạch', căn cứ vào các bản sửa lại. ↵
- 'Kịch phiền', các bản và bản hoạt tự đều chép là 'chuyên phiền'. ↵
- 'Xuất thân', các sách trên đều chép là 'xuất quan'. ↵
- Giao tế nguyên tác 'Giao chúc', theo các bản, bản in hoạt tự và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 81 Thần Tông hoàng đế thánh đức sửa lại. ↵
- Thành tựu đại nghiệp thiên hạ, chữ 'thành' nguyên tác là 'thừa', theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại. ↵
- 13 vạn quan, các bản chép là 30 vạn. ↵
- đến nay đã bảy năm: các bản gốc, bản in hoạt tự và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 76 về việc Lý Tắc đốc suất trà Tứ Xuyên đều giống nhau, 《Tống hội yếu》 phần Thực hóa 30 chép là 'từ năm thứ bảy'. ↵
- Tám châu dưới đây chỉ liệt kê bảy châu, theo 《Tống sử》 quyển 85, 《Địa lý chí》 và 《Cửu vực chí》 quyển 1, tám châu thuộc Kinh Tây Nam lộ là Tương, Đặng, Tùy, Kim, Phòng, Quân, Dĩnh, Đường châu. ↵
- 'Đường' nguyên bản viết là 'Phòng', theo các bản khác và 《Tống sử·Địa lý chí》, 《Cửu vực chí》 sửa lại. ↵
- Các bản khác không có chữ 'chiến' trước 'trọng thương'. ↵
- Nguyên bản viết 'Lặc ỷ', theo các bản khác sửa lại. ↵
- Thái châu nguyên bản chép là 'Tần châu', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 319, 《Đông đô sự lược》 quyển 76 truyện Lưu Ban và bài thơ 'Tống Lưu Ban thối Hải Lăng' trong 《Đông pha tập》 mà sửa. ↵
- Nam Kinh nguyên bản viết 'Kinh Nam', theo 《Đông Đô sự lược》 quyển 92 và 《Tống sử》 quyển 31, Tôn Giác truyện đều ghi: 'Tri Ứng Thiên phủ, nhập làm Thái thường khanh.' Lại theo 《Tống sử》 quyển 85 《Địa lý chí》, 《Cửu vực chí》 quyển 1: 'Ứng Thiên phủ, năm Đại Trung Tường Phù thứ 7 được xây dựng làm Nam Kinh.' Chỗ này 'Kinh Nam' là đảo ngược, nay sửa lại. ↵
- 'Khen ngợi' nguyên là 'vui mừng', theo bản các đổi lại. ↵
- 'Kinh hoàng chạy tán loạn', bản các viết là 'chạy tán loạn kinh hoàng'. ↵
- 'Công lao hiếm có', bản các viết là 'công lao trăm năm'. ↵
- 'Liên tiếp' nguyên bản là 'lý', căn cứ theo bản trong các sách và 《Tống sử》 quyển 344, truyện Lý Chi Thuần sửa lại. ↵
- 'Mới thấy' trong các bản khác là 'Tư kiến', 《Tống sử》 quyển 344, truyện Lý Chi Thuần chép là 'Dĩ chương'. ↵
- Uy nguyên bản là 'Uy', theo các bản, 《Tống sử》 quyển 89 《Địa lý chí》 và 《Cửu vực chí》 quyển 7 sửa lại. ↵
- 16.660 người, 'sáu ngàn', các bản và 《Tống sử》 quyển 191, 《Binh chí》 đều chép là 'năm ngàn'. ↵
- 'Chuyên' nguyên văn là 'chuyển', căn cứ vào các bản, Tống hội yếu chức quan 56-14 và văn bản dưới sửa lại. ↵
- 'Tá chi' nguyên văn là 'Tá khiếm', căn cứ vào các bản và văn bản dưới 'Hà Bắc lộ mượn từ kho Thường bình' sửa lại. ↵
- Sằn vụ: 《Tống sử》 quyển 189, Binh chí Kinh Tây lộ không có hai chữ 'Sằn vụ'. ↵
- Diêm xa: Nguyên văn là 'Giám quân'. Theo 《Tống sử》, Diêm xa từ thời Kiến Long đã được thành lập, đóng quân ở Hoài Nam lộ, châu Thái, Chân, sau Hi Ninh vẫn không thay đổi. 'Giám quân' có lẽ là sai, nay sửa lại. ↵
- Bạt đầu thủy quân: 'Bạt' nguyên văn là 'Chi', theo bản các và 《Tống sử》 quyển 189, Binh chí sửa lại. ↵
- Đính thủ: 《Tống sử》 Lưỡng Chiết lộ không có hai chữ 'Đính thủ'. ↵
- Tân vụ: 《Tống sử》 Lưỡng Chiết lộ không có hai chữ 'Tân vụ'. ↵
- Cống vận: 'Vận' nguyên văn là 'Quân', theo 《Tống sử》 quyển 189, Binh chí sửa lại. ↵
- Thanh tu vụ: Bản các viết là 'Thanh tửu vụ', 《Tống sử》 viết là 'Thanh vụ'. ↵
- Quảng Nam lộ: 'Nam' nguyên văn là 'Tây', theo bản các và 《Tống sử》 sửa lại. ↵
- Giá võng thủy quân: 《Tống sử》 viết là 'Giá cương thủy quân'. ↵
- Đệ giác trường: 'Trường' nguyên văn là 'Thành', theo bản các và 《Tống sử》 quyển 189, Binh chí sửa lại. ↵
- Phòng hà: 'Phòng' nguyên văn là 'Phương', theo 《Tống sử》 sửa lại. ↵
- 44: Nguyên văn là 43, theo 《Tống sử》 sửa lại. ↵
- Thanh Hóa: Nguyên văn là 'Thanh Bắc', theo 《Tống sử》 sửa lại. ↵