VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 351: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Từ tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng hai năm đó.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Mậu Tuất, Vua bị bệnh nặng. Buổi chiều, ba tỉnh và Xu mật viện đến cửa Đông Nội xin vào thăm hỏi sức khỏe hoàng thượng, Vua sai Câu đương Ngự dược viện là Lương Tòng Chính và Lưu Duy Giản truyền chỉ cho phép. Tể tướng Vương Khuê và các quan lại phụ tá Tòng Chính tâu xin, Vua bèn cho Tòng Chính dẫn vào, gặp Vua ở điện Phúc Ninh, phía đông phòng ngủ. Từ đó, việc thăm hỏi sức khỏe đều làm như vậy.
(Hai bộ sử đều chép rằng Vua bị bệnh.)
[2] Ngày Kỷ Hợi, Vua ra chiếu không thiết triều trong năm ngày. Ba tỉnh và Xu mật viện đến điện Phúc Ninh, phía đông phòng ngủ thăm hỏi bệnh tình. Tể tướng tâu rằng Vua chưa thiết triều, nên các việc cần thiết xin tạm làm theo thánh chỉ để thi hành, việc quan trọng thì xin Vua phê chuẩn. Lại tâu: “Ngày mùng 6 muốn thiết lập đạo trường cầu tiêu tai phúc lành ở điện Đại Khánh trong bảy ngày đêm, khi xong sẽ tổ chức đại tiếu. Ngày khai mạc và bế mạc, các quan ba tỉnh và Xu mật viện đều phải ở lại trai giới, các ngày khác thay phiên nhau. Các cung quán, chùa chiền trong kinh đều thiết lập đạo trường trong bảy ngày đêm, sai quan khai mạc và bế mạc. Năm ngọn núi Ngũ Nhạc và bốn con sông lớn, sai quan địa phương làm theo.” Vua không nói được, gật đầu đồng ý. Chiều lại, các quan lại đến điện Phúc Ninh[1], Vua viết chữ truyền cho Vương Khuê và các quan, từ ngày mai chỉ cần vào sớm. Khuê và các quan dâng ba bình trúc lịch.
[3] Vua ra chiếu cho sứ thần Liêu đến chúc mừng ngày chính đán, lệnh ngày mùng 6 từ biệt ở cửa, trao thư và ban vật lệ.
[4] Ngày Canh Tý, các quan chấp chính chiều lại đến cửa Đông Nội, thái giám truyền chỉ cho phép. Từ đó, mỗi ngày chỉ vào một lần.
[5] Ngày Tân Sửu, sứ thần Liêu từ biệt ở ngoài cửa điện Tử Thần.
[6] Ngày Nhâm Dần, các quan chấp chính đến điện Phúc Ninh, phía đông phòng ngủ thăm hỏi, tâu xin ban đại xá thiên hạ, vì liên tiếp được mùa, trong ngoài yên ổn, mùa xuân vạn vật sinh sôi, nên ban ân huệ làm ý văn, Vua đồng ý.
[7] Từ đó, các quan chia nhau ở lại tại cơ quan, Hữu thừa Lý Thanh Thần ở tạm tại Môn hạ tỉnh.
[8] Ngày Giáp Thìn, đại xá thiên hạ, phép xá dùng bậc thứ hai.
(Hai kỷ đều chép việc xá thiên hạ.)
[9] Lệnh cho Hộ bộ thị lang Lý Định tạm quyền coi việc thi cử.
[10] Ngày Ất Tỵ, sai các quan phụ chính đến cung Cảnh Linh hành lễ.
(Kỷ cũ chép ngày Bính Ngọ bãi bỏ việc triều hiến ở cung Cảnh Linh. Kỷ mới chép lệnh các quan phụ chính thay mặt đến cung Cảnh Linh.)
[11] Ngày Đinh Mùi, Trung thư tỉnh tâu rằng: Tiết Thượng Nguyên muốn bày đặt nhạc ở điện Thần Ngự cung Cảnh Linh và quán Vạn Thọ, mở cửa các cung, quán, chùa, viện trong năm ngày, thắp đèn, tấu nhạc, không cấm đêm, không ngự ở cửa Tuyên Đức, ban thưởng vật phẩm cho các nghệ nhân, vẫn theo lệ cũ. Đều theo lời tâu.
[12] Viện Ngự liễn tâu: “Lễ viện định nghi vệ của Hoàng thái hậu: Đô ngu hậu và Đô đầu Ngự long cốt đoá tử trực mỗi chức một người, Thập tướng và Trưởng hành mỗi chức ba mươi người; Chỉ huy sứ, Đô đầu và Phó đầu Cung tiễn nỗ trực mỗi chức một người, Thập tướng và Trưởng hành mỗi chức hai mươi người; các quan giám ở các ty, cục, viện trong và ngoài mỗi khi Hoàng thái hậu ra ngoài, sai quan quản áp. Xin từ nay luân phiên quan giám của viện này đi theo.” Đều theo lời tâu.
[13] Ngày Nhâm Tý, Hoàng thành sứ Quách Trung Thiệu tâu rằng cung Thần Tí chưa có lệnh dạy tập. Chiếu cho các bộ nhân nỗ thủ và hạng nhất đều lệnh kiêm tập.
[14] Ngày Quý Sửu, Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu rằng các tướng thứ hai, thứ tư, thứ năm ra khỏi ải đánh giặc, bắt được tám mươi tám thủ cấp. Chiếu ban tiền đặc chi cho quân cấm, dân binh và phiên binh. Tướng thứ sáu Giải Nguyên Trung bắt được năm trăm năm mươi bốn thủ cấp, trâu, dê, lạc đà, ngựa kể hàng vạn. Chiếu ban trà, thuốc, bạc cho các tướng quan, sứ thần theo thứ bậc.
[15] Ngày Ất Mão, Vua viết thư bảo Vương Khuê rằng từ nay có thể cách ngày vào hỏi thăm. Từ ngày Mậu Tuất Vua không khỏe, Tam tỉnh, Xu mật viện mỗi ngày đến cửa cung, đến nay Vua đã khỏe ít nhiều, nên có chỉ này.
[16] Sắc cho các tể thần, xu mật, thân vương trai giới cầu đảo trời đất, tông miếu, các quan Tam tỉnh, trưởng nhị các tự, giám chia nhau cầu đảo xã tắc và các đền thần trong kinh đô.
(Kỷ cũ chép quần thần cầu đảo trời đất, tông miếu, xã tắc, đền thần. Kỷ mới chép sai quần thần chia nhau cầu đảo trời đất, tông miếu, xã tắc.)
[17] Ngày Đinh Tỵ[2], Vương Khuê và các quan tâu rằng thánh thể đã dần hồi phục, sắp đến ngày ngự điện, bề tôi vô cùng vui mừng. Vua vui vẻ gật đầu đồng ý.
[18] Ngày Kỷ Mùi, Vua dời đến nằm ở giường phía đông trong tẩm cung. Câu đương ngự dược Lương Tòng Chính và y quan Trần Dị Giản báo với Vương Khuê rằng hôm qua Vua đi lại nhiều, cơ thể mệt mỏi, đổ mồ hôi, lại cảm nhiễm hàn khí. Vương Khuê và các quan muốn xin vào cung thăm hỏi hàng ngày, nhưng vừa nhận được chiếu chỉ cho phép vào cung cách ngày, nếu đột ngột xin vào cung hàng ngày lại sợ khiến lòng người lo lắng, nên tạm thời xin vào cung cách ngày.
[19] Tam tỉnh tâu: “Ngày Kỷ Hợi, vì Vua chưa xử lý chính sự, các việc cần thiết đều tạm thời thi hành theo thánh chỉ rồi tâu lên, việc quan trọng hơn thì xin ý chỉ. Nay thánh thể đã dần hồi phục, xin hủy bỏ chiếu chỉ trước đó.” Vua đồng ý.
[20] Chiếu rằng: “Nghe nói quan lại, quân dân, tăng đạo trong và ngoài kinh thành đều lập đạo trường cầu phúc, nay đã bình an, có thể lệnh cho các cơ quan khuyên bảo, đừng để tốn kém quá nhiều. Những đạo trường đã lập, cho phép hoàn thành rồi giải tán.”
[21] Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh tâu rằng đã chiêu dụ được Bá Đức, một quan chức người Thổ ở châu Vi thuộc Tây Hạ, dẫn 250 nhân khẩu về quy phụ. Chiếu phong Bá Đức làm Cung bị khố phó sứ, Tuần kiểm bản tộc, ban thưởng 300 lượng bạc và lụa.
[22] Ngày Tân Dậu, các quan chấp chính vào đến điện Phúc Ninh, Vương Khuê tâu rằng việc tra xét vụ án của Lý Hiến, sứ giả Kinh lược ty Hi Hà Lan Hội lộ, về việc thưởng công khi quân Hi Hà tiến vào biên giới, xin đợi Vua ngự điện rồi xin ý chỉ. Vua đồng ý. Lại tâu rằng vào tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 5, có chiếu chỉ rằng các tờ tấu của quan lại khi lên điện đều gửi về Trung thư tỉnh để xin ý chỉ, nay xin giao cho các cơ quan xem xét, việc nhỏ thì tạm thời trình lên xin ý chỉ rồi thi hành; việc khó giải quyết thì Trung thư tỉnh thu lại, tâu lên đợi Vua ngự điện rồi xử lý như cũ. Vua đồng ý.
[23] Ngày Nhâm Tuất, Ty Chuyển vận lộ Hà Đông tâu rằng: “Năm ngoái, Kinh lược ty ba lần xuất binh canh tác ở những vùng đất không canh tác như Mộc Qua Nguyên, tổng cộng sử dụng 18.545 binh lính, 2.036 ngựa, chi phí hết 7.365 quan tiền, 8.081 thạch lương thực, 47.000 cân lương khô, 14.300 bó cỏ. Lại điều động 2.637 bảo giáp luân phiên lên phòng thủ, chi phí hết 1.300 quan tiền, 3.200 thạch gạo, huy động 1.500 dân canh tác, thuê 1.000 con trâu, đều không phải là nguyện vọng của dân. Thu hoạch được 18.000 thạch gai, kê, kiều mạch, 102.000 bó cỏ, không đủ bù đắp chi phí. Lại còn mượn trước tiền của ty này để làm giống, đến nay chưa trả, chi phí tăng thêm cho việc phòng thủ nhân mã vẫn nằm ngoài kế hoạch năm. Lo rằng năm tới Kinh lược ty lại muốn canh tác, mong sớm được chỉ thị ràng buộc.” Xu mật viện tâu rằng năm ngoái Kinh lược ty Hà Đông điều mượn trâu của dân để canh tác ruộng ở các trại Gia Lô, lại điều quân mã bảo giáp phòng thủ, hao tổn lương thảo đắt đỏ ở vùng biên giới xa xôi, còn cướp mất thời vụ nông nghiệp, khiến dân mất việc, đến khi thu hoạch, không đủ bù đắp chi phí. Chiếu gửi cho Lữ Huệ Khanh, nên xem xét kỹ lợi hại, không lặp lại sai lầm trước.
(Ngày 21 tháng 3 năm thứ 7. Ngày 10 tháng 7 có thể tham khảo.)
[24] Ngày Quý Hợi, các quan chấp chính vào đến điện Phúc Ninh, Vương Khuê tâu rằng ở cửa Cáp Môn thấy việc tạ từ, tạm thời cho phép, những người không được phép tùy ý vào, lệnh cho vào cửa gặp, các quan thần lên điện không phải là người được triệu về kinh, nếu có việc tấu trình, tạm thời cho vào, và đến việc thị sự vẫn như cũ. Theo đó.
[25] Ngày Ất Sửu mùng một tháng 2, chiếu cho Triều tán đại phu trí sĩ Tôn Kỳ, Tri Thái y cục Phan Cảnh, Tịch Diên Thưởng, Giáo thụ Thiệu Hóa đến Ngự dược viện chầu hầu, theo lời thỉnh cầu của các quan chấp chính.
[26] Ngày Đinh Mão, chiếu rằng các động Phù Dung, Thạch Dịch, Phù Thành ở châu Thiệu đã tu sửa trại phố, các hộ quy minh và dân ở đất nguyên tỉnh, theo pháp đất tỉnh về hôn nhân, ra vào, mua bán ruộng đất, chiêu mộ điền khách, đều được tùy tiện. Theo lời thỉnh cầu của Quan Kỷ, Tri châu Thiệu.
[27] Ngày Canh Ngọ, xuống chiếu cho các quan thủ thành ở các phủ Hà Nam, Đại Danh, Dĩnh Xương và các châu Vận, Thanh, Dương, Đặng tìm những người thông thạo y thuật, cho đi ngựa trạm đến kinh đô.
[28] Ngày Tân Mùi, Hộ bộ tâu rằng Phó sứ Chuyển vận lộ Phúc Kiến là Vương Tử Kinh xin cấm buôn bán trà ở các lộ lân cận là Lưỡng Chiết, Giang Nam, Quảng Đông, các lộ khác vẫn cho thông thương, nhưng chưa có chỉ dụ của triều đình. Xuống chiếu rằng ngoài khu vực thông thương ở kinh đô, phủ Khai Phong và lộ Thiểm Tây, các nơi khác đều là đất quản lý trà.
(Ngày 17 tháng 10 năm thứ 7, có thể tra cứu. Ngày 2 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất sửa lại điều này[3].)
[29] Ngày Nhâm Thân, xuống chiếu cho Tuyên đức lang Tôn Tể, người Hà Đông đang khảo sát việc khai thác mỏ, đi ngựa trạm đến kinh đô, vì Tôn Tể thông thạo y thuật.
[30] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu rằng những ngựa con do dân bảo giáp ở phủ Khai Phong và ba lộ nuôi dưỡng, nếu không đưa đến quan để cân đo mà tự ý bán hoặc giấu mua, cùng với những người dẫn đường, môi giới và người quản lý, đều bị xử phạt nhẹ hơn một bậc so với tội trộm cắp và buôn bán ngựa quan, cho phép người tố cáo, thưởng 20 ngàn tiền.
[31] Ngày Canh Thìn, xuống chiếu cho các châu huyện dùng đá làm chủ thần ở đàn xã[4]. Trước đó, Ty Chuyển vận lộ Hà Đông tâu xin dùng đá làm chủ thần ở đàn xã, trồng cây để làm dấu. Lễ bộ tâu: “Tế xã không có nhà mà dùng đàn, phải chịu sương móc gió mưa, để thông với khí trời đất, nên dùng đá làm chủ thần, lấy sự bền vững lâu dài. Nay Thái Xã đã dùng chủ thần bằng đá, dài 5 thước, vuông 2 thước[5], trên nhọn, dưới vuông, chôn nửa phần. Lại theo lễ chế, xã tắc của thiên tử vuông 5 trượng, chư hầu bằng một nửa, chủ thần bằng đá ở đàn xã các châu huyện, kích thước dài rộng, nên bằng một nửa chế độ của Thái Xã.” Do đó giao cho Thái thường tự tu chỉnh nghi lễ tế tự, và có chiếu này.
[32] Chiếu rằng: Thu nhận thuế tô, mỗi hộc thêm một thăng, cỏ hao mỗi mười bó thêm một bó làm hao phí. Theo lệ cũ, nếu nhiều hơn và thuế kho thường bình đều theo lệ. Nếu cỏ hao đã chi hết mà còn thiếu, thì trong phần hao phí cho phép trừ đi hai phần.
[33] Ngày Tân Tỵ, Tổng lĩnh binh tướng người Thổ ở Hi Châu là Hoàng thành sứ Lã Cát lĩnh chức Cao Châu thứ sử; cùng Tổng lĩnh Hoàng thành sứ Vương Thiệm lĩnh chức Gia Châu thứ sử; Binh tướng người Thổ ở Hà Châu là Hoàng thành sứ, Quang Châu đoàn luyện sứ Lý Trung Kiệt lĩnh chức Hùng Châu phòng ngự sứ, lại cho một chức quan để truyền lại cho con trai ông. Binh tướng người Thổ ở Dân Châu là Hoàng thành sứ, Nghi Châu đoàn luyện sứ, đeo ngự khí giới, quyền bản lộ đô giám Lý Tường thăng chức, Kiềm hạt quan người Thổ là Hoàng thành sứ Giai Châu phòng ngự sứ Bao Thuận, truyền cho con trai một chức quan. Hoàng thành sứ, Dân Châu thứ sử Bao Thành lĩnh chức Ân Châu đoàn luyện sứ, Hoàng thành sứ, Vinh Châu thứ sử Triệu Thuần Trung lĩnh chức Quang Châu đoàn luyện sứ, Hoàng thành sứ, Khánh Châu thứ sử Lý Lận Chiên Nột Chi lĩnh chức Khang Châu đoàn luyện sứ, Hoàng thành sứ, Đan Châu thứ sử Ôn Ngọc lĩnh chức Vinh Châu đoàn luyện sứ, Hoàng thành sứ Dĩnh Sấm Tát Lặc lĩnh chức Vinh Châu thứ sử, Tả tàng khố sứ Nhược Trở Một Di làm Hoàng thành sứ, còn lại những người được thăng chức do công lao, tổng cộng một trăm hai mươi bốn người. Do Lý Hiến, chế trí sứ Hi Hà Lan Hội lộ tâu rằng: Cát và những người khác vượt sông tiến sâu vào đất giặc, chuyển chiến, đại phá quân giặc, chém được tướng giặc là Sắc Thần Đại Sở ngay tại trận, nên ban thưởng công lao.
[34] Đêm đó, vào lúc canh tư, chùa Khai Bảo nơi tạm trú của Lễ bộ Cống viện bị cháy, Thừa nghị lang Hàn vương Ký vương cung đại tiểu giáo thụ kiêm Mục thân, Quảng thân trạch giảng thư Trạch Man, Phụng nghị lang Trần Chi Phương, Tuyên đức lang Thái học bác sĩ Mã Hi Mạnh đều bị chết cháy, lại và lính chết bốn mươi người.
(Hai bộ sử đều chép việc chùa Khai Bảo Cống viện bị cháy.)
[35] Ngày Giáp Thân, con gái thứ năm của hoàng đế mất, mẹ là Chu Đức phi, mới sinh được bảy tuổi, truy phong làm Huệ Quốc công chúa.
[36] Ngày Bính Tuất, sai quan đi cầu đảo khắp trời đất, tông miếu, xã tắc, trăm thần.
[37] Lễ bộ tâu: Thuận Tổ và Huệ Minh hoàng hậu đã dời bài vị vào giáp thất, nên bỏ việc hành hương vào ngày giỗ. Xin theo lệ cũ của Hi Tổ, vào ngày giỗ, ở phía đông điện Thiên Hưng tại cung Cảnh Linh, dựng rèm để cúng tế. Khi gặp ngày giỗ, ở phía đông điện Phật tại viện Vĩnh Xương, dựng rèm làm lễ trai tế truy tiến. Chiếu rằng: Hi Tổ, Thuận Tổ, Dực Tổ cùng sáu vị hoàng hậu, khi gặp ngày giỗ, đều dựng rèm tại viện Vĩnh Xương để làm lễ truy tiến.
[38] Ngày Đinh Hợi, ba tỉnh tâu rằng: Lễ bộ cống viện bị cháy, ba phần đề thi chỉ thu được một phần, xin cho Lễ bộ tổ chức thi riêng. Được chấp thuận.
(Sách 《Tân Kỷ》 ghi lệnh cho Lễ bộ tổ chức thi riêng. Sách 《Cựu Kỷ》 không ghi.)
[39] Môn hạ tỉnh tâu: Trung thư lục hoàng: “Tiền Hoài Nam tiết độ suy quan Lã Công Hiến và các người khác đã trình đơn xin cải quan, xin giao cho Lại bộ tiến hành dẫn nghiệm trước.” Lại bộ đã dẫn nghiệm bốn người, tấu rằng đã xuống chiếu, ngày Canh Tý tháng giêng sẽ dẫn kiến, cùng tám người chưa dẫn nghiệm, hiện có mười chín người đang chờ ma khám. Chiếu rằng: “Những người chuyển quan theo lệ được bổ nhiệm, còn lại đợi khi hội vấn không có trở ngại, theo thứ tự trước tiến hành dẫn nghiệm xong, cho phép họ đều được dẫn kiến. Sau này nếu người tiến cử có sự cố[6], cũng không cản trở việc dẫn kiến, đợi khi Trẫm ngự điện sẽ theo lệ cũ.”
[40] Chiếu rằng: Gần đây có hỏa hoạn, có thể tổ chức đạo tràng cầu phúc cho dân tại tập Hi Quan trong một tháng, khi kết thúc, tổ chức đại tiếu.
[41] Ngày Tân Mão, chiếu rằng: “Các buổi triều hội, điện trung thị ngự sử gửi công văn cho giám sát ngự sử, lại gửi công văn cho các quan chức sự tại kinh; khởi cư xá nhân gửi công văn cho trứ tác bí thư lang, trứ tác tá lang, lại gửi công văn cho trung thư xá nhân; các chấp sự quan khác gửi công văn cho quan trong ban nhiếp chức, đều báo lên các môn. Các quan tam tỉnh, ngự sử đài, tự giám trưởng nhị, Khai Phong phủ suy phán quan tham gia lục tham, các quan chức sự, huyện thừa xích huyện trở lên, các quan ký lộc thăng triều tại kinh đang làm việc tham gia vọng tham, không làm việc tham gia sóc tham.”
[42] Ngày Quý Tỵ, bệnh tình của Vua rất nguy kịch, dời ngự đến gian phía tây của điện Phúc Ninh. Tam tỉnh và Xu mật viện vào thăm hỏi sức khỏe của Vua, gặp Vua trước giường. Vương Khuê tâu rằng mùa đông năm ngoái từng vâng theo thánh chỉ, hoàng tử Diên An quận vương sẽ ra khỏi cung vào mùa xuân tới, mong sớm lập Đông cung. Tâu ba lần, Vua ba lần nhìn, chỉ hơi gật đầu mà thôi. Lại xin Hoàng thái hậu tạm quyền cùng nghe chính sự, đợi khi Vua khỏe lại sẽ trở về như cũ, Vua cũng nhìn và gật đầu. Sau khi lui ra, dời ban đến gian phía đông. Hoàng tử cùng Hoàng thái hậu, Hoàng hậu và Chu Đức phi đều đứng dưới rèm, Khuê và các quan tâu xin Hoàng thái hậu tạm quyền cùng nghe chính sự, Hoàng thái hậu từ chối. Nhập nội đô tri Trương Mậu Tắc nói rằng việc của Hoàng thái hậu liên quan đến quốc gia xã tắc, không nên cố từ chối. Khuê và các quan xin đến ba lần, Hoàng thái hậu khóc mà đồng ý. Khuê tâu rằng từ năm ngoái Vua đã cho hoàng tử dự yến, quần thần đều từng thấy, nay chắc đã lớn hơn, xin được nhìn lại. Tháng này, Tam tỉnh, Xu mật viện và các thân vương từ ngày mùng một đến nay, mỗi ngày đều vào từ cửa Đông nội, đến điện Phúc Ninh thăm hỏi, chỉ riêng ngày hôm nay sau giờ Mùi lại vào[7].
[43] Trước đó, Thái Xác nghi ngờ rằng nếu Vua lại dùng Lữ Công Trước và Tư Mã Quang thì chắc chắn sẽ đoạt mất chức tể tướng của mình, bèn cùng Hình Thứ bày mưu để giữ vững địa vị. Thứ vốn quen biết với Công Hội, Đoàn luyện sứ châu Quang, và Công Kỷ, Đoàn luyện sứ châu Ninh, là cháu của hoàng thái hậu (Triết Tông lên ngôi, Công Hội và Công Kỷ mới được thăng làm Đoàn luyện sứ, lúc này chỉ là Thứ sử, nên sửa lại). Khi Vua mới lâm bệnh, Thứ bí mật hỏi Công Hội, nghe kể tình hình bệnh tình đáng lo, Thứ nghe xong, lại nảy sinh mưu đồ xấu. Xác từng sai Thứ mời Công Hội và Công Kỷ, hai người từ chối không đến. Hôm sau, lại sai người mời đến Đông phủ, Xác nói: “Nên đến gặp Hình Chức phương.” Thứ nói: “Nhà tôi có cây đào nở hoa trắng, có thể chữa bệnh cho Vua, lời này xuất phát từ 《Đạo tạng》, xin hãy ở lại xem.” Khi vào trong sân, thấy hoa đào màu đỏ, Thứ kinh ngạc hỏi: “Hoa trắng đâu rồi?” Thứ nắm tay hai người nói: “Tể tướng bên phải lệnh bày tỏ tấm lòng, bệnh của Vua chưa thuyên giảm, Diên An quận vương còn nhỏ, nên sớm định kế, Ung vương và Tào vương đều là bậc hiền vương.” Công Hội sợ hãi nói: “Ngươi muốn hại nhà ta!” Rồi bỏ đi ngay. Sau đó, Thứ lại nói rằng Ung vương Hạo có ý nhòm ngó ngôi Vua, hoàng thái hậu định bỏ Diên An quận vương mà lập ông ta, Vương Khuê thực sự chủ trì việc này. Thứ cùng với Vương Vực, Nội điện thừa chế đã về hưu, cùng nhau bịa đặt lời vu khống. Vực là người Khai Phong, từng theo Cao Tuân Dụ nắm việc cơ mật ở Kinh Nguyên, là kẻ xảo trá, nên Thứ nhờ cậy hắn. Lại biết Xác và Khuê vốn không ưa nhau, muốn nhân cơ hội này để hãm hại Khuê.
[44] Một hôm, Thứ hỏi gấp Xác rằng: “Tình hình sức khỏe của bệ hạ gần đây thế nào?” Xác đáp: “Bệnh tình đã ổn định, sắp chọn ngày để ngự triều.” Thứ khẽ cười nói: “Bệnh của bệ hạ tái phát, mất tiếng và mắt nhìn thẳng[8], nghe nói trong cung đã có quyết định khác, thủ tướng bên ngoài làm chủ. Ông là thứ tướng, lẽ nào không biết sao? Một ngày nào đó, tờ chiếu ban xuống, lập người kia làm người kế vị, thì ông chưa biết chết ở đâu. Ông tự xét mình có công đức gì trong triều không? Thiên hạ sĩ đại phu có quy phục ông không?” Xác sợ hãi nói: “Vậy thì kế sách thế nào?” Thứ nói: “Diên An quận vương mùa xuân này ra khỏi cung, bệ hạ mùa đông năm ngoái đã có lời hứa, quần thần không ai không biết. Sao ông không nhân dịp hỏi thăm sức khỏe, dẫn các quan cùng vào, mau chóng trình bày việc này trước mặt bệ hạ. Nếu Đông cung được lập sớm nhờ lời của ông, thì sau khi bệ hạ băng hà, ông sẽ vững như Thái Sơn.” Xác rất tán thành. Thứ lại nói: “Việc này cần chuẩn bị kỹ, nay khác với bình thường[9], có thể tự biểu hiện. Chi tiết cứ bảo Tử Hậu, đừng để đồng liêu biết.” Tử Hậu là tên tự của Chương Đôn. Xác xấu hổ cảm ơn, nói với Thứ: “Hòa Thúc gặp Tử Hậu, hãy nói rõ điều này.” Đôn vốn hung hiểm, liền đồng ý. Sau đó cùng Xác quyết định kế hoạch, lại hẹn với Tri Khai Phong phủ Thái Kinh đem quân sĩ mạnh mẽ chờ sẵn bên ngoài, nói rằng: “Các đại thần cùng bàn việc lập thái tử, nếu có ai phản đối, lập tức đem quân vào chém.”
[45] Hôm đó, ba tỉnh và Xu mật viện đều vào thăm bệnh, ban đầu cũng chưa dám đề cập đến việc lập thái tử. Sau khi lui ra, họ cùng bàn bạc ở Nam sảnh của Xu mật viện. Xác và Đôn nhiều lần dùng lời lẽ tranh cãi, may sao lời đối đáp có chỗ sai sót, liền lấy Khuê làm người đứng đầu để trị tội. Khuê bị nói lắp, liên tục nói mấy tiếng “phải”, rồi từ tốn nói: “Trên đã có con, còn bàn gì nữa!” Thực ra Khuê không có ý gì khác, chỉ vì rụt rè không thể nói trước, nên khiến người ta nghi ngờ. Đến khi nói ra lời này, Xác và Đôn cũng không làm gì được Khuê. Sau đó lại vào tâu, được chấp thuận, rồi cùng ra ngoài, gặp Ung vương Hạo và Tào vương Quần ở ngoài cửa điện. Đôn lại lớn tiếng nói: “Đã có chỉ, lập Diên An quận vương làm Hoàng thái tử rồi! Làm sao đây?” Hạo nói: “Thiên hạ thật may mắn.” Sau đó trong cung yên ổn như cũ. Các phụ thần đều giải tán về nhà. Hôm sau, bèn lập Hoàng thái tử.
[46] (1) Hán tự: Xác, Đôn, Kinh, Thứ tuy mưu đồ tà ác không thành, nhưng hành tung quỷ quyệt cũng không thể tra hỏi rõ, mỗi người đều tự cho mình có công định kế sách. Việc lâu ngày lộ ra, cuối cùng trở thành đại họa cho triều đình, thực ra bắt nguồn từ Thứ. (Theo sự kiện lập Thái tử cuối năm Nguyên Phong, các nhà có thuyết khác nhau, sử quan thời Thiệu Hưng đã xem xét lại, chuyên lấy văn bản cũ thời Nguyên Hựu, nên đã nắm được sự thật, chỉ tiếc là không chi tiết. Nay tham khảo các sách[10], bổ sung thêm. Suy ra nguyên nhân sau này gây họa thảm khốc như vậy, kẻ địch nhân cơ hội xâm nhập Trung Quốc, là do Vương Khuê làm Tể tướng, không sớm tâu xin lập Thái tử, khiến Thái Xác, Chương Đôn, Thái Kinh nhân cơ hội tạo ra lời gièm pha, mà mầm mống bắt đầu từ Hình Thứ. Việc lệnh Thái Kinh dẫn người cầm dao vào nội đình, Xác, Đôn lúc đó cũng có lời nói khác lừa Khuê, nên Khuê không nghi ngờ. Nhưng Tri phủ Khai Phong có liên quan gì đến việc triều đình, đây chính là do Khuê ngu muội. Nếu Khuê có thể từ chối ngay, không để lại dấu vết nghi ngờ, thì họa lớn từ đâu mà đến? Dấu vết nghi ngờ lúc đó chỉ như vậy. Về sau dần dần thêm thắt, bịa đặt, đến việc Tuyên Huấn, việc Phấn Côn, tờ tâu của Hoàng Lí, thư của Cao Sĩ Kinh, đến tờ tâu của Thái Mậu thời Tuyên Hòa, dùng văn tự vu cáo, mạo danh ngự chế đến cực điểm[11], thực đáng thương xót. Nếu không phải thời Kiến Viêm, Thánh chúa giác ngộ, quyết đoán minh bạch, thì họa triều đình đâu có giới hạn? Việc này đã có sự thật, lại lấy các thuyết khác phụ chú ở sau, để người xem hiểu rõ, xét sự thật sai lầm, tình trạng tiểu nhân, không thể trốn tránh, cũng như Mạnh Tử chép lời Hứa Hành, Dương, Mặc, không dùng cách quét sạch tiêu diệt.
《Triết Tông tân lục》 chép truyện Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu rằng: Trước đó, tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7, yến lớn, trong yến[12], Diên An quận vương đứng hầu, Vương Khuê dẫn trăm quan chúc mừng. Khi lên điện, Thần Tông lại bảo vương gặp Khuê, lại chia ban lạy tạ. Mùa đông năm đó, dụ các phụ thần rằng: “Năm sau lập Thái tử, nên lấy Tư Mã Quang, Lữ Công Trứ làm thầy bảo.” Thần Tông lâm chung, hoàng hậu sai hoạn quan Lương Duy Giản rằng: “Bảo vợ ngươi may một chiếc hoàng bào, vừa với đứa trẻ mười tuổi, bí mật mang đến.” Đó là để phòng khi vội vàng lên ngôi. Thần Tông và Thái hậu đã định trước ý chí lập Vua, rõ ràng không chút nghi ngờ.
Hình Thứ là kẻ nguy hiểm, từng giao du với Quang, Công Trứ. Thái Xác nghe được lời thầy bảo, tìm cách kết thân với hai người mà giao hảo sâu với Thứ. Xác làm Hữu bộc xạ, nhiều lần thăng Thứ làm Khởi cư xá nhân. Một hôm, Xác sai Thứ mời cháu của hoàng hậu là Quang châu đoàn luyện sứ Công Hội, hai người từ chối không đi. Hôm sau, lại sai người mời đến Đông phủ, Xác nói: “Nên đến gặp Hình xá nhân.” Thứ nói: “Nhà có cây đào nở hoa trắng, có thể chữa bệnh cho Vua, lời này trong đạo tạng, may mắn được xem.” Vào sân, hoa đào đỏ, kinh ngạc nói: “Hoa trắng đâu?” Thứ nắm tay hai người nói: “Hữu thừa tướng bảo truyền lòng thành, bệnh Vua chưa khỏi, Diên An còn nhỏ, nên sớm định kế, Kì, Gia đều là vương hiền.” Công Hội sợ hãi nói: “Ông muốn hại nhà ta!” Bỏ đi ngay. Sau đó, Thứ lại nói hoàng hậu và Khuê thông đồng, muốn bỏ Diên An mà lập con mình là Hạo, nhờ mình và Đôn, Xác mới không xảy ra biến cố. Xác đi sứ Sơn lăng, Hàn Chẩn trước rèm tâu rõ việc Thứ vu cáo Thái hậu, khi về, người tố cáo lộ việc gian trá, lại bị giáng làm Tri Tùy châu, sau đó đày đến Tân châu. Lưu Chí làm Hữu bộc xạ, Thứ bị liên lụy, giáng làm Giám tửu thuế Vĩnh châu.
《Tân lục》 chép việc lập Thái tử như vậy. Xác bị giáng Tân châu, Thứ bị đày Vĩnh châu, đều là việc tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 4.
Chí được bái làm Hữu bộc xạ là việc tháng 2 năm thứ 6, không rõ vì sao sách mới lại chép liền với nhau. Thứ được bổ làm Khởi cư xá nhân vào ngày 24 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 8, khi Thần Tông đang ốm nặng, Thứ chỉ là Viên ngoại lang chức phương. Công Hội và Công Kỷ được thăng làm Đoàn luyện sứ là sau khi Triết Tông lên ngôi, lúc này họ chỉ là Thứ sử. Sách mới có chỗ hơi mâu thuẫn[13], nay sửa lại. Lại không rõ việc đào nở hoa trắng được trích từ sách nào? Cần tra cứu.
Xét việc đào nở hoa trắng, thấy trong sổ sách nộp lên Sử quán tháng 11 năm Thiệu Hưng thứ 6 của Cao Thế Tắc, chép ở điều thứ 11, đây là căn cứ của sử quan, sổ sách gồm 41 điều, nay không chú đầy đủ. 《Triệu Tử Tung Trung ngoại cựu sự》 chép: Mệnh cuối năm Nguyên Phong, công bằng minh bạch, hai tướng Vương và Thái, ban đầu không có mâu thuẫn, chỉ do Hình Thứ bịa đặt mà thôi. Khi Văn Cung công qua đời, các danh sĩ trong triều làm thơ viếng, đều cho rằng công lao lập Thái tử thuộc về ông, lúc đó không có ý kiến khác. Từ khi Tư Mã Ôn công vào triều, Thứ dùng mưu kế bác hạp, muốn hợp Thái công với Ôn công, Ôn công không nghi ngờ, ban đầu cũng khen tài năng của Thứ, các quan đều lo sợ, sau đó công luận không chấp nhận, bèn ra làm Thứ sử Uyển Khâu, gặp lúc Thứ cũng phải về chịu tang, nhân Lương Tả thừa Đào đi qua Hoài, Thứ gặp ông, thúc giục Lương bàn về công lao của Thái, không nên để ông ở xa, từ đó bèn tranh công.
Thái tự cho rằng mình bị giáng chức vì bài thơ phỉ báng, Hoàng thái hậu ra lệnh cho Tam tỉnh và Xu mật viện chép rõ việc tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8 vào 《Thời chính ký》 và 《Nhật lục》 để lưu lại cho đời sau, và nói: “Quan gia là con trưởng của Thần Tông, con nối nghiệp cha là lẽ đương nhiên. Trước đây khi Thần Tông uống thuốc, đem kinh Phật do quan gia viết ra cho các tể chấp xem, lúc đó trong đám đông chỉ có Thủ tướng Vương Khuê từng tâu xin lập Diên An quận vương làm Hoàng thái tử, những người khác không nói gì. Nay An Đào lúc đó cũng có mặt, thấy rõ hết. Xác có kế sách gì mà lập được công lao như vậy? Xác ngày sau lại đến lừa dối trên dưới, há chẳng phải là mối họa cho triều đình? E rằng quan gia không kiềm chế được người này, bất lợi cho xã tắc.” Vì thế Hoàng thái hậu không tránh oán hận của gian tà, nhân lúc họ tự chuốc lấy thất bại mà xử trí như vậy, là vì xã tắc vậy. Than ôi! Sự sáng suốt của Nghiêu, Thuấn cũng chỉ đến thế. Xác chết, con trai là Mậu mặc áo tang đứng trong đám tang của Phùng công[14], xông vào cáo biến, Chương Lôi châu ra sức bênh vực, con trai của Văn Cung công là Trọng Tu chép hai bài thơ viếng của Chương, khắc vào bia để tố cáo lên tướng phủ, Chương hổ thẹn không thể đáp lại.
Vào đầu năm Nguyên Hựu, Hoàng thái hậu từng treo bảng ở cổng nhà Cao Công Hội, cấm không được gặp Hình Thứ. Sự gian ác của Mậu không thể kể hết, ngay cả Thái Lỗ công cũng sợ hắn. Ban đầu hắn phụng sự Nguyên Độ, âm thầm ly gián anh em họ, sau lại phụng sự Du, lại ly gián cha con họ, nhưng cuối cùng lại được dẫn vào Tây phủ để giám sát Du. Thời Tuyên Hòa, hắn kết thân với Lương Sư Thành, đến mức xin Thái thượng hoàng tự viết truyện về Xác, chỉ trích Thái hoàng thái hậu không chừa một lời nào. Lại còn ban ân cho anh là Thừa, em là Trang, đều làm quan; con là Kiên, Cao, đều làm lang quan; con rể là Hình Kính, Tăng Vịnh, Vương Tấn Minh, đều làm giám ty. Làm việc thiện để truyền lại cho con cháu, chưa từng nghe nói đến việc truyền lại cho con rể, có lẽ là muốn kích động để loại bỏ Trịnh Yến công. Việc của Vương Vũ Ngọc có liên quan gì đến Trịnh? Cung cấm của triều đình nghiêm ngặt, xưa nay chưa từng có.
Mậu lại nói rằng khi Thần Tông bệnh nặng, Xác sai thiếp là Triệu thị vào gặp Trường Lạc, Triệu thị là mẹ của Trang, nên thời Tuyên Hòa được phong làm phu nhân. Lại nói rằng sai Phủ doãn Thái Kinh đem đao phủ vào cung theo hầu Từ vương, thật đáng kinh hãi, một tấc dao sao có thể vào hoàng thành? Huống chi trong lúc nguy nghi, điều này không thể lừa được cả trẻ con, nhưng cuối cùng lại được dùng để hưởng phú quý nhiều đời, an ổn không gặp họa, trời khó lường thay!
Tử Tung lại nói: Tôi đã chép việc mệnh lệnh cuối năm Nguyên Phong, tháng 4 năm Thiệu Hưng thứ 2, tránh nạn đến Tầm Giang, tình cờ gặp Tư gián Hàn Tụ Thúc Hạ[15] bị giáng làm Giám Tầm châu diêm thuế, nhân lúc rảnh rỗi nói chuyện, mượn được bản ghi chép của cha ông là Văn Nhược về việc Trang Mẫn thừa tướng làm Xu trưởng thời đó, Thần Tông uống thuốc đã lâu, Hàn một hôm nói với Trương Tảo: “Thượng hoàng uống thuốc đã lâu, việc lập thái tử thế nào?” Tảo nói: “Tử Hậu nhiều lời[16], thử nói xem sao.” Hàn bèn nói với Chương Đôn. Đôn nói: “Ý kiến này rất hay.” Nói với hai tể tướng, họ cũng cho là phải. Hẹn họp bàn ở Nam sảnh Mật viện, đuổi hết người ngoài, để lại một bộ bút nghiên, vài tờ giấy.
Ngồi lâu mà không ai nói gì. Hàn nhìn Vương Khuê nói: “Hôm nay bàn việc lập Diên An quận vương làm thái tử. Diên An quận vương năm ngoái vào ngày Thượng Tỵ được lệnh hầu yến, ra mắt quần thần, lại có chỉ vào ngày mùng một tháng 4 ra khỏi cung, việc này sao không ai nói gì?” Khuê nói: “Ý các ông cũng là ý tôi, còn nghi ngờ gì nữa?” Trương Tảo đẩy bút nghiên và giấy cho Chương Đôn, bảo viết trên giấy “Lập Diên An quận vương làm hoàng thái tử.” Hôm sau đến cung tẩm, triệu nội thần Trương Mậu Tắc nói: “Hôm nay tấu việc, muốn lập Diên An quận vương làm thái tử.” Mậu Tắc bảo đặt án trước ngự tháp, Vương Khuê trải tờ giấy đã viết lên án, tấu xin lập Diên An quận vương làm hoàng thái tử.
Lúc đó Thần Tông bị phong hàn không nói được[17], chỉ buồn bã lâu. Mọi người đều đứng chắp tay, không dám nói gì. Lúc đó Thái phi cũng ở trong màn lộ nửa mặt, Quốc bà bà bế Vua ngồi. Một lát sau, lại tấu, Quốc bà bà nói: “Thánh ý đã đồng ý.” Trương Mậu Tắc nói: “Thánh ý đã đồng ý.” Vương Khuê hỏi Trương Mậu Tắc: “Thái hậu ở đâu?” Thái hậu tự nói: “Ở đây.” Mậu Tắc bảo nội thần kéo rèm, Thái hậu ở dưới rèm nói: “Các tướng công lập được đứa trẻ này là tốt, đứa trẻ này thật hiếu thảo, từ khi quan gia uống thuốc, chỉ ăn chay, chép kinh.” Trong rèm đưa ra hai quyển kinh, một quyển Diên Thọ kinh[18], một quyển Tiêu Tai kinh, sau mỗi quyển đều đề: “Diên An quận vương thần mỗ phụng vì hoàng đế uống thuốc đã lâu, chép mỗ kinh một quyển, nguyện sớm khỏi bệnh.”
Từ trong rèm, cung nhân bế Triết Miếu ra, Triết Miếu đội mũ, mặc áo đẹp, đứng ngoài rèm, các quan đứng xung quanh hồi lâu, không nói gì, rồi tuyên chế thi hành.
Sau khi Thần Tông băng hà, tuyên di chiếu lập hoàng thái tử, trong ngoài đều vui mừng, ban đầu không có tin đồn gì. Trên đây là bản chép tay của họ Hàn, không dám thêm bớt một chữ. Xét sách của Tử Tung, giống với sách Biện Vu của Thiệu Bá Ôn. Biện Vu chú đầy đủ ở ngày mùng một tháng 3 Giáp Ngọ.
- Chiều lại, các quan lại đến điện Phúc Ninh: 'Chiều' nguyên bản chép là 'Sáng', theo các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 90, 'Thái Xác Hình Thứ tà mưu' sửa lại. ↵
- Đinh Tỵ nguyên bản viết là 'Đinh Sửu', xét tháng này không có ngày 'Đinh Sửu', nên sửa thành 'Đinh Tỵ', do đó căn cứ vào bản các, bản hoạt tự và đoạn trích dẫn từ 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 để sửa. ↵
- Ngày 2 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất sửa lại điều này, chữ 'cải' nguyên là 'phỏng', theo bản các sửa lại. ↵
- Chiếu cho các châu huyện dùng đá làm chủ thần ở đàn xã, chữ 'đàn' nguyên là 'tắc', theo bản các và văn dưới sửa lại. ↵
- Vuông 2 thước, chữ 'thước' nguyên là 'trượng', theo bản các và 《Tống sử》 quyển 102 《Lễ chí》, 《Tống hội yếu》 Lễ 23-1 sửa lại. ↵
- theo thứ tự trước tiến hành dẫn nghiệm xong, cho phép họ đều được dẫn kiến, sau này nếu người tiến cử có sự cố, câu này trong 《Tống Hội Yếu》 chức quan 11-21 viết là 'theo thứ tự trước tiến hành nghiệm xong, đợi chỉ, việc dẫn niệm sau này nếu người tiến cử có sự cố'. ↵
- Chỉ riêng ngày hôm nay sau giờ Mùi lại vào, câu này ngữ nghĩa không thông, xem 《Trị tích thống loại》 quyển 18 chép là 'chưa khỏi lại vào', 《Tống sử》 quyển 242 chép là 'đến lệnh không được vào', nghi ngờ nguyên bản in sai 'vị hậu' thành 'hậu vị'. ↵
- 'Mất tiếng' nguyên là 'mất giọng', theo 《Trị tích thống loại》 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 90 về âm mưu của Thái Xác và Hình Thứ, cùng 《Tục thông giám》 quyển 78 sửa lại. ↵
- 'Nay' trong 《Trị tích thống loại》 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 đều viết là 'lệnh'. ↵
- Nay tham khảo các sách, chữ 'nay' dưới nguyên có thêm chữ 'cố', theo bản các và sách dẫn trên《Trị tích thống loại》, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 mà bỏ. ↵
- Mạo danh ngự chế đến cực điểm, hai chữ 'cực điểm' nguyên bản thiếu, theo văn khí nguyên bản chưa hết, căn cứ《Trường biên kỷ sự bản mạt》 mà bổ sung. ↵
- Tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7 yến lớn trong yến, các bản giống nhau, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 chép 'trong yến' là 'trong cung'. 《Tống sử》 quyển 17, 《Triết Tông kỷ》 và 《Tục thông giám》 quyển 77 đều chép tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7, Thần Tông 'yến lớn quần thần ở điện Tập Anh, hoàng tử Diên An quận vương đứng hầu'. Sách này quyển 352, tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8, ngày Giáp Ngọ, chú nhỏ chép 'tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7, ngày Đinh Tỵ, yến lớn ở điện Tập Anh, trong yến, Diên An quận vương đứng hầu'. ↵
- 'hơi mâu thuẫn' nguyên bản là 'sự', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 và 《Tục thông giám》 quyển 78 sửa lại. ↵
- 'Phùng công' nguyên bản là 'bằng'. Xét 《Tống sử》 quyển 471, 《Thái Xác truyền》 chép: 'Năm Thiệu Thánh thứ nhất, Phùng Kinh mất, Triết Tông đến viếng. Thái Vị, con rể của Kinh, trong đám tang đã kêu oan.' Lại chép: 'Lúc đó Vị đổi tên là Mậu.' Truyện chép Phùng Kinh tức là 'Phùng công', nguyên bản khắc sai. Nay căn cứ sửa lại. ↵
- Hàn Tụ Thúc Hạ 'Tụ', Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 90 Thái Xác Hình Thứ tà mưu, Tục thông giám quyển 78 đều chép là 'Hoàng'. ↵
- Tử Hậu nhiều lời 'Khẩu', sách trên chép là 'Ngôn'. ↵
- Lúc đó Thần Tông bị phong hàn không nói được 'Ấm', sách trên chép là 'Huyễn'. ↵
- Một quyển Diên Thọ kinh 'Kinh' chữ nguyên thiếu, căn cứ sách trên và bản thư quyển 352 năm Nguyên Phong thứ 8 tháng 3 ngày Giáp Ngọ chú văn bổ. ↵