VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 352: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Từ ngày Giáp Ngọ tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết ngày đó.
[1] Tháng 3, ngày Giáp Ngọ mùng một, các quan chấp chính đến cửa Đông Nội vào hỏi thăm sức khỏe. Hoàng thái hậu ngồi sau rèm, hoàng thái tử đứng ngoài rèm. Hoàng thái hậu bảo Quách Khuê và các quan rằng: “Hoàng tử thông minh tuấn tú, hiếu học, đã đọc xong 7 quyển Luận ngữ, không ham chơi, chỉ thích học chữ. Từ khi hoàng đế uống thuốc, hoàng tử đã tự tay chép 2 quyển kinh Phật để cầu phúc.” Rồi đưa bản chép kinh cho Quách Khuê và các quan xem, chữ viết rất cẩn thận, Quách Khuê và các quan bái tạ chúc mừng. Sau đó tuyên chỉ, lập làm hoàng thái tử, đổi tên là Hú, và lệnh cho Hữu ty chọn ngày làm lễ sách phong. Lại ban chiếu rằng: “Việc quân quốc, tạm để Hoàng thái hậu cùng xử lý, đợi khi hoàng đế khỏe lại thì như cũ.”
Giờ Mùi, các quan chấp chính lại vào hỏi thăm sức khỏe, dâng lệnh lập hoàng thái tử và giảm tội. Hoàng thái hậu bảo Quách Khuê và các quan rằng: “Hoàng thái tử đã lập, việc lớn đã định, việc thiên hạ còn ở chỗ các khanh dốc lòng.” Quách Khuê và các quan nói: “Pháp độ kỷ cương của triều đình vốn đã đầy đủ, thần đâu dám không hết lòng phụng hành.” Từ đó các quan chấp chính mỗi ngày vào hỏi thăm hai lần.
(Cựu kỷ chép: “Ngày Giáp Ngọ, lập Diên An quận vương Dung làm hoàng thái tử, đổi tên là Hú. Chiếu rằng việc quân quốc tạm để Hoàng thái hậu cùng xử lý.” Tân kỷ cũng chép như vậy. Việc Triết Tông lập làm hoàng thái tử, Cựu lục có lời vu báng, sử quan thời Thiệu Hưng đã biện minh rõ,[1], văn tự rất nhiều, nay tạm ghi lại mục lục. Tân lục biện bác quyển 1, gồm 6 đoạn, lại có truyện Cao Tuân Dụ, truyện Yến Đạt, truyện Kinh vương Quần, truyện Thái Xác, truyện Đặng Nhuận Phủ, truyện Lưu Duy Giản, lại Cựu lục năm Thiệu Thánh thứ 4 tháng 5 ngày Kỷ Tỵ, lại năm Thiệu Thánh thứ 4 tháng 4 ngày 24 Đinh Mùi, lại tháng 11[2] truyện Lương Đào, lại năm Nguyên Phù thứ nhất tháng 2 lời khai của Trương Sĩ Lương, cùng các chứng cứ trong sách biện bác của Thiệu Bá Ôn, đến đầu năm Kiến Viêm, đều chép riêng ở sau. Chỉ có việc Lã Đại Phòng tấu xin phê chuẩn ở Viện Thực lục, vẫn chú đầy đủ ở dưới đây. Vì sách biện bác của Thiệu Bá Ôn không chép, sử quan thời Thiệu Hưng cũng chưa thấy. Việc Lã Đại Phòng đề cử tấu xin phê chuẩn ở Viện Thực lục, thần Đào từng thấy ở cháu của Đại Phòng là Thế Tu, làm chức Cán biện công sự ở Ty Đề điểm hình ngục lộ Thành Đô phủ.
Năm Thiệu Hưng thứ 29 (1159), tháng 9, con của Thế Tu là Khoan Nhân, thực sự theo lệnh của Ty Chuyển vận Lộ Thành Đô phủ, đã đưa vào Quốc sử viện[3]. Nay ghi chép đầy đủ như sau: “Giao cho Lã Đại Phòng.” Đóng ấn ngự bảo.
“Ngày 3 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8 (1085), ghi chép thời chính của Môn hạ tỉnh[4]: ‘Ngày 29 tháng 2, Quý Tỵ, nghỉ lễ Hàn tiết, Tam tỉnh và Xu mật viện đến cửa Đông Nội dâng tờ tấu, vào hỏi thăm sức khỏe Hoàng đế, tâu rằng: “Mùa đông năm ngoái từng phụng chỉ, Hoàng tử Diên An quận vương sẽ ra khỏi cung vào mùa xuân năm nay. Nay thánh thể không khỏe, mong sớm lập Đông cung.” Tâu ba lần, Hoàng đế nhìn ba lần, chỉ hơi gật đầu mà thôi, lúc đó bệnh tình đã rất nguy kịch. Lại tâu: “Xin Hoàng thái hậu tạm thời cùng nghe chính sự, đợi khi khỏe bệnh sẽ trở lại như cũ.” Hoàng đế cũng nhìn và gật đầu. Lui ra, liền dời sang phía đông, buông rèm, yết kiến Hoàng thái hậu, tâu lại như trước, Hoàng thái hậu từ chối. Cận thần tâu rằng: “Xin vì xã tắc, không nên cố từ.” Đến ba lần, Hoàng thái hậu khóc và đồng ý, rồi lui.
Ngày 1 tháng 3, Giáp Ngọ, nghỉ lễ Hàn tiết, Tam tỉnh và Xu mật viện theo chiếu đến cửa Đông Nội dâng tờ tấu, vào hỏi thăm sức khỏe Hoàng đế. Hoàng thái hậu buông rèm, các tể thần trở xuống làm lễ, Hoàng thái tử đứng ngoài rèm, gặp Vương Khuê và các quan. Hoàng thái hậu tuyên dụ với Khuê rằng: “Hoàng thái tử rất thông minh hiếu học, đã đọc xong bảy quyển Luận ngữ, không thích chơi đùa, chỉ thích học chữ. Từ khi Hoàng đế uống thuốc, đã tự tay chép hai quyển kinh Phật để cầu phúc[5].” Nhân đó, đưa ra hai quyển kinh đã chép cho Khuê xem, chữ viết rất cẩn thận. Khuê và các quan lạy tạ và chúc mừng. Lui ra, trăm quan văn võ đến điện Văn Đức nghe tuyên chỉ lập Hoàng thái tử. Giờ Mùi, lại vào hỏi thăm sức khỏe Hoàng đế, rồi trình việc lập Hoàng thái tử theo lệ phải ban hành đại xá. Sau đó trình lên Hoàng thái hậu, được chấp thuận. Rồi dụ Khuê rằng: “Hoàng thái tử đã được lập, việc lớn đã định, việc thiên hạ còn ở chỗ các khanh dốc lòng.” Khuê tâu: “Pháp độ kỷ cương của triều đình vốn đã đầy đủ, thần đâu dám không hết lòng phụng hành, xin Hoàng thượng yên lòng.” Lui ra.’
Thần phụng chỉ đề cử tu soạn 《Thần Tông Hoàng đế Thực lục》, đã lấy được ghi chép thời chính của Môn hạ tỉnh mùa xuân năm Nguyên Phong thứ 8, xét thấy ngày 29 tháng 2 năm đó, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng phụng chỉ, Hoàng đế từ Hoàng tử Diên An quận vương lập làm Hoàng thái tử, ngày hôm sau tuyên chỉ tại điện Văn Đức, cùng ngày Hoàng thái hậu tuyên dụ các việc, cẩn thận ghi chép như trên, lo rằng còn có việc chưa đầy đủ, mong xét lại ban xuống, để làm căn cứ tu soạn, xin chỉ thị. Ngày tháng 5, thần Đại Phòng kính tấu. Phụng ngự phê: ‘Xem tờ tấu việc ngày đó, đều đúng sự thật, chỉ có việc đầu tiên nhận được chỉ của Thần Tông, tâu Hoàng thái hậu tạm thời cùng nghe chính sự, ghi chép chưa đầy đủ, cũng sợ rằng việc ngày đó trong cung có rèm che, quan ngoài không thể biết hết. Nay có thể thêm vào dưới chữ Hoàng thái hậu sự thật được phê, cận thần là Trương Mậu Tắc vậy.’ Nay đính kèm tờ tấu trước, xin theo lời phê của ngự bảo, chiếu theo thi hành. Lại gửi đến Viện Tu soạn 《Thần Tông Hoàng đế Thực lục》 chuẩn theo đây.
Ngày tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 4, thần dâng tờ tấu trình bày về sự kiện trong sách “Thời chính ký” của Môn hạ tỉnh ngày 3 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8, được ngự bút phê rằng: “Dưới chữ Hoàng thái hậu, thêm vào sự thật.” Đã dán định và ban xuống. Thần đã theo lời phê mà dán định và ban chỉ huy cho Viện Thực lục thi hành, kính cẩn tâu trình. Ngày tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 4, thần dâng tờ tấu, ngày 7 ký tên.”
Sách “Nguyên Hựu thực lục” chép: “Dời ban sang phía đông, hoàng tử cùng Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, Chu Đức phi đều ở dưới rèm, Vương Khuê và các quan tâu xin Hoàng thái hậu tạm quyền nghe chính sự, Hoàng thái hậu từ chối, Trương Mậu Tắc nói: “Hoàng thái hậu hãy vì việc lớn của quốc gia xã tắc, không nên cố từ chối.” Vương Khuê và các quan xin đến ba lần, Hoàng thái hậu khóc mà đồng ý. Vương Khuê tâu rằng: “Từ năm ngoái, Thượng hoàng cho hoàng tử dự yến, quần thần đều từng thấy, nay chắc đã lớn hơn, xin được nhìn lại.” Đây đều là sự thật được phê, đến khi Thiệu Thánh trùng tu, bèn xóa bỏ. Bản Thiệu Hưng đã theo bản Nguyên Hựu mà thêm vào. Sách “Tân lục” biện bạch cho sự vu khống của “Cựu lục”, nay ghi đầy đủ như sau.
Quyển thứ nhất “Biện vu” trong sách “Triết Tông thực lục” chép: “Thái tử chưa lập, trong ngoài xôn xao. Hoàng đệ Ung vương Hạo vào thăm bệnh, liền xuyên qua màn đi thẳng đến chỗ Hoàng thái hậu nói chuyện, thấy cung nữ không tránh, Thần Tông nhiều lần giận dữ nhìn, Hạo không còn kiêng sợ.” Thần biện rằng: “Theo sách tay của Tăng Bố, Thần Tông bệnh nặng, Kỳ vương và Gia vương mỗi ngày vào điện thăm hỏi. Khi bệnh tình nặng thêm, Thái hoàng thái hậu liền mặt dạy, đều bảo về cung, không được triệu thì không được vào. Từ “Thái tử chưa lập” đến “không còn kiêng sợ” 42 chữ, đều xóa bỏ.” “Hoàng hậu lo sợ, bỏ tiền ra chùa làm lễ trai, treo bảng viết “Diên An quận vương cầu đảo”, mong thiên hạ biết vương đã lớn, có thể tỏ lòng hiếu thảo.” Thần biện rằng: “Thần Tông bệnh nặng, Hoàng hậu bỏ tiền làm lễ trai, chỉ là để cầu nguyện, há lại có ý mong cầu, phòng ngừa trước? Đây thực là vu khống nặng nề cho Khâm Thánh. Từ “Hoàng hậu lo sợ” đến “có thể tỏ lòng hiếu thảo” 30 chữ, đều xóa bỏ.”
“Tháng 2, Thần Tông bệnh nặng, ngày Tân Mão, các quan phụ chính vào thăm, đến điện Tử Thần. Hạo liền mời ở hành lang nói: “Việc quân quốc, nên xin Hoàng thái hậu buông rèm nghe chính.” Lại tâu xin ở lại chầu bệnh, Hoàng hậu cố tranh, nên không ở lại. Sau đó ở lại trong cung, Tào vương Quần nhiều lần kéo tay dẫn ra.” Thần biện rằng: “Triều đình đối với thân vương và tể chấp, pháp chế rất nghiêm, chưa từng nói chuyện. Việc gọi là Hoàng hậu cố tranh[6], Hoàng hậu với thân vương không có lễ gặp mặt, nếu nói cùng Tuyên Nhân cố tranh, thì thần nghe Tuyên Nhân tính nghiêm nghị, người không dám phạm. Khâm Thánh hiếu thuận, hết đạo làm vợ, há có lý cố tranh? Việc kéo tay, càng quái đản, không chỉ vu khống hai hậu, mà còn không biết gia pháp tổ tông và điển lễ triều đình. Từ “tháng 2” đến “dẫn ra” 60 chữ[7], đều xóa bỏ.” “Hữu bộc xạ Thái Xác sợ hãi, bèn lấy ý lập thái tử hỏi Tả bộc xạ Vương Khuê, Khuê không trả lời, Xác càng sợ, không biết làm sao. Việc càng gấp, gặp lúc mẹ Xác được vào cung, Hoàng hậu bảo dụ Xác, bảo bên ngoài nhờ chủ binh quan Yến Đạt giúp lập, lại nhờ nội thị Diêm Thủ Cần dụ Xác hợp sức sớm định. Có người bảo Xác rằng: “Đây là việc lớn, xin cùng mọi người hỏi Khuê, nếu không nói, thì trị tội.” Lúc đó, các quan phụ chính Hàn Chẩn, An Đào, Trương Tảo, Lý Thanh Thần âm thầm giữ hai lòng, im lặng không nói. Xác một mình hẹn với Môn hạ thị lang Chương Đôn cùng hợp sức.”
Ngày Quý Tỵ, các phụ thần tụ tập ở Nam sảnh, Thái Xác nhìn Vương Khuê, Khuê cũng không nói gì. Xác nói: “Mùa xuân năm ngoái, Diên An quận vương hầu yến, từng có chỉ dụ rằng mùa xuân năm nay sẽ ra khỏi cung, việc đã bàn định, sao không nói gì?” Chương Đôn nói: “Nói đúng thì theo, không đúng thì cùng ông chết.” Khuê mới nói: “Thánh thượng đã có con, còn bàn gì nữa!”
Hôm đó, vào buổi chiều, Khuê đến trước long sàng tâu rằng: “Mùa đông năm ngoái nhận được chỉ dụ, hoàng tử Diên An quận vương mùa xuân năm nay sẽ ra khỏi cung, xin lập làm Hoàng thái tử để giữ lòng thiên hạ[8].” Tâu ba lần, Thần Tông ba lần gật đầu đồng ý. Lại tâu: “Xin Hoàng thái hậu tạm thời cùng nghe chính sự, đợi đến khi khỏe lại.” Thần Tông cũng nhìn và gật đầu[9]. Sau khi lui ra, chưa kịp tâu xin, ở gian phía đông điện đã buông rèm. Do đó, các phụ thần trước rèm tâu lại ý chỉ của Thánh thượng như trước, Hoàng thái hậu khóc và đồng ý. Hôm đó, Triệu Hạo kéo rèm định vào, Triệu Quần kéo lại ngăn cản.”
Thần đây biện rằng: “Các tể tướng triều ta có lúc đưa mẹ và vợ vào cung, đâu có riêng mẹ Thái Xác được vào cung. Theo 《Tăng Bố thủ ký》: “Cuối năm Nguyên Phù, Khâm Thánh nói: ‘Chương Đôn và những người khác đã làm sai nhiều việc của Triết Tông.’ Bố nói: ‘Chỉ như việc nói Tuyên Nhân và các đại thần có ý định lật đổ và phế lập, dùng việc này để kích động Triết Tông, e rằng không thể lấy làm tin, bèn nói Thần Tông không phải do Tuyên Nhân sinh ra.’ Khâm Thánh nói: ‘Tuyên Nhân là con nuôi của Từ Thánh, gả cho Anh Tông, lúc đó là thời thế gì? Hơn nữa, Tuyên Nhân thực sự đố kỵ, mới mười sáu, mười bảy tuổi, sao có thể có con của người khác? Việc phế lập cũng oan cho bà ấy[10].'” Xét rằng Kinh, Biện đã soạn xong sử lục, liền đốt hết các bản thời chính ký, phỉ báng tùy tiện, làm sao kiểm chứng được? Nếu lúc đó thực sự có việc như vậy, Khâm Thánh sao không nói đến? Cũng sao có thể che giấu được? Lại theo 《Thực lục》 và 《Hội yếu》 các sách, tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7 ngày Đinh Tỵ, mở yến lớn ở điện Tập Anh, giữa yến, Diên An quận vương đứng hầu, tể thần Vương Khuê dẫn trăm quan chúc mừng, Thần Tông tuyên đáp rằng: “Việc mừng của hoàng gia, cùng các khanh vui mừng sâu sắc.” Khi lên điện, Thần Tông lại bảo quận vương gặp Khuê và các quan, lại chia ban lạy tạ, ngồi lâu rồi lui. Mùa đông năm đó, Thần Tông bảo các phụ thần rằng: “Hoàng tử năm sau ra khỏi cung, nên lấy Lữ Công Trước làm thầy bảo.”
Năm thứ 8, tháng 3, ngày Giáp Ngọ, các phụ thần Vương Khuê vào hỏi thăm sức khỏe của Thần Tông, hoàng tử đứng ngoài rèm. Tuyên Nhân bảo Vương Khuê rằng: “Hoàng tử thông minh hiếu học, đã đọc xong 7 quyển Luận Ngữ, không ham chơi, chỉ chăm học chữ. Từ khi Thần Tông uống thuốc, hoàng tử đã tự tay chép 2 quyển kinh Phật để cầu phúc.” Rồi đưa kinh cho Vương Khuê xem, chữ viết rất cẩn thận. Vương Khuê bái tạ. Hôm đó, ban chiếu lập hoàng thái tử. Tăng Bố trong sách ghi chép cũng nói rằng khi lập thái tử, các đại thần không ai dám khuyên can, Thái hoàng thái hậu đưa ra bản kinh Phật do Triết Tông tự tay chép, cho các quan xem, rồi sai soạn chiếu. Kính nghĩ rằng Thần Tông truyền ngôi cho con, Tuyên Nhân lập cháu, vốn không có gì ngăn trở, việc đã định sẵn, nhưng bọn gian thần vu cáo, đều cho là công lao định sách của Thái Xác và Chương Đôn. Từ chữ “Hữu bộc xạ” đến “vãn chỉ chi” 283 chữ[11], đều xóa bỏ.”
“Thái tử lập, hoàng hậu tạ Thái hoàng thái hậu trong rèm, Thái hậu vỗ ngực hoàng hậu nói: ‘Việc xong rồi.’ Sau đó, Khâm Thánh nhiều lần chỉ ngực nói với Vua: ‘Vẫn còn đau.’ Vua khóc tạ.”
Thần xét rằng: “Việc vỗ ngực, dù là trong gia đình thường dân, mẹ chồng và con dâu cũng không làm, huống chi Tuyên Nhân làm vậy. Chỉ ngực nói với Vua ‘Vẫn còn đau’, Khâm Thánh thật sự nói thế sao? Triết Tông khóc tạ, càng thêm hư cấu, không biết dựa vào đâu mà nói vậy. Huống chi Khâm Thánh đã tuyên dụ với các quan, nói rằng oan cho Tuyên Nhân, thì việc này đã rõ. Đoạn này, Tuyên Nhân, Khâm Thánh, Triết Tông đều bị vu cáo, bọn gian thần vì lợi, còn coi Vua cha ra gì? Không kiêng nể gì, đến mức như vậy. Từ chữ ‘Thái tử lập’ đến ‘Vua khóc tạ’ 37 chữ đều xóa bỏ.” Như câu “Trông thấy uy nghi, lên ngôi như đã quen.” Thần xét rằng: “Triết Tông vốn tính hiếu thảo, khi Thần Tông mới băng hà, lòng đau xót ắt hiện ra nét mặt, như câu ‘Trông thấy uy nghi, lên ngôi như đã quen’, có vẻ như bôi nhọ đức của Vua, nay xóa bỏ.”
Truyện Cao Tuân Dụ: “Cuối năm Nguyên Phong, Thần Tông bệnh nặng, chưa lập thái tử, tể thần Vương Khuê ban đầu còn do dự, từng bí mật triệu con của Tuân Dụ là Sĩ Sung, hỏi ý Tuân Dụ muốn lập ai. Tuân Dụ nghe vậy, vừa khóc vừa giận, dặn con đừng đến nữa. Lâu sau việc này mới bị đồn ra.” Thần xét rằng: “Triết Tông là con trưởng, nhân đức thánh thiện, việc lập thái tử đã định từ ngày hầu yến, mà Vương Khuê lại hỏi ý Tuân Dụ muốn lập ai, đây đâu phải việc Tuân Dụ được dự vào! Bọn gian thần nói vậy, ý muốn vu cáo Tuyên Nhân. Từ chữ ‘Cuối năm Nguyên Phong’ đến ‘lâu sau việc này mới bị đồn ra’ 51 chữ[12], đều xóa bỏ.”
Truyện Yến Đạt: “Thăng chức Điện tiền phó đô chỉ huy sứ, nhận chức Vũ Khang quân Tiết độ sứ. Năm Nguyên Phong thứ 8, Thần Tông bệnh nặng, mẹ của Thái Xác vào cung, hoàng hậu sai người bảo Thái Xác, nhờ các quan cầm quân như Yến Đạt phụ lập hoàng thái tử. Khi Thần Tông băng hà, Đạt canh giữ ở cửa Đông. Các quan vào chầu, từ điện Thùy Củng vào, hoàng tộc và thân vương từ cửa Đông vào. Đạt nói với người khác: ‘Thiên tử mới lên ngôi, ta đóng quân ở đây để phòng bất trắc, nếu có kẻ gian theo hoàng tộc vào, thì việc xảy ra không lường được, lại không thể xét từng người.’ Định vào tâu, có người can: ‘Việc hoàng tộc, không nên nói, nói ra sợ bị tội.’ Đạt nói: ‘Ta được tiên đế đại ân, thường được thăng chức trước mọi người, nếu nói đúng, dù chết cũng không hối hận!’ Rồi vào tâu, các đại thần khen ngợi.” Thần xét rằng: “Việc Thái Xác vu cáo, triều đình đã truy xét tội, việc nhờ Yến Đạt phụ lập hoàng thái tử, nên xóa bỏ.” Truyện Kinh vương Quần: “Khi Thần Tông bệnh, Từ vương Hạo có ý tranh ngôi, mỗi lần hầu bệnh, thường kéo rèm đi thẳng vào, Quần nhiều lần ngăn lại. Gặp Thái Xác, Quần nhiều lần thúc giục: ‘Diên An quận vương là thái tử, không lập còn đợi gì?’ Thái Xác còn do dự, Quần nói: ‘Chậm thì người khác sẽ được.’ Thần Tông bệnh nặng, Hạo muốn ở lại trong cung, Quần tâu, nên không cho ở lại.”
Thái tử được lập, Quần có nhiều công lao giúp đỡ trong nội bộ. Đến đầu năm Nguyên Hựu, mới được ban tư dinh ở phường Hàm Nghi, gọi là Trạch Thân Hiền, cho ở. Lại ban sách Quốc Tử Giám. Các con từ khi mặc áo dài trở lên, đều cung kính lễ bái, ứng đối rất cẩn thận, Vua đều cho thăng chức.
Từ khi Thái hoàng thái hậu nghe chính sự, Quần chưa từng vào triều kiến nếu không phải đại triều hội, thỉnh thoảng sai sứ đến triệu, Quần nói: “Chưa phục vị, không dám đi.” Ông sống thanh đạm, khiêm tốn, thích viết chữ, chữ Phi Bạch, Triện, Trứu đều giỏi. Đối đãi lễ độ với các quan trong cung, khi họ xin từ chức thì tâu xin giữ lại, có người ở lại đến hơn mười năm. Ông thích sách Phật, Lão, đặc biệt yêu sách, tự tay viết sách 《Phổ Huệ Thừa Nhàn Tập Hiệu Phương》, thường dùng thuốc cứu người bệnh, lòng nhân hậu là bẩm tính trời cho. Ông đột ngột mắc bệnh, tả hữu không báo lên, Thái hoàng thái hậu không kịp hỏi thăm, đến khi mất, miệng mũi đều chảy máu, lại có người ngăn cản, cũng không đến dự lễ điếu. Khi đất nước nguy nghi, hoàng tự chưa lập, Quần có thể không phụ lòng Thần Khảo, liều mình không tiếc thân, vì kế xã tắc, dù là người xưa gọi là đứng trước đại tiết mà không thể lay chuyển, cũng không thể hơn được!”
Thần đây bàn rằng: “Đây chính là lời nói của Thái Xác và đồng bọn phù hợp với thời thế, báng bổ đức lớn của Tuyên Nhân. 《Thực lục》 năm Nguyên Phong thứ 8, tháng 3 chép việc Vua lên ngôi, đã bàn rõ rồi, đoạn này nên bỏ đi.”
《Truyện Thái Xác》 chép: “Mùa thu năm Nguyên Phong thứ 6, Xác cùng Trung thư thị lang Trương Tảo tâu việc ở điện Sùng Chính, Vua buồn không tự chủ được, bảo Xác rằng: ‘Việc thiên hạ chỉ có thế thôi.’ Xác kinh hãi nói: ‘Dám hỏi nguyên do.’ Vua nói: ‘Con nhỏ biết làm sao!’ Xác nói: ‘Bệ hạ đang tuổi thanh xuân, bỗng nói lời không lành, thần không hiểu ý gì.’ Vua nói: ‘Việc thiên hạ, có nên để người lớn tuổi duy trì không?’ Xác nói: ‘Diên An quận vương là con trưởng của bệ hạ, thần không biết gì khác, thần chỉ có chết mà thôi, không dám vâng chiếu.’ Vua nói: ‘Khanh quả thật vì kế xã tắc, nên sớm định đoạt.’ Xác cùng Tảo đều tâu rằng: ‘Thần đây dám lấy cái chết để giữ.’ Vua nói: ‘Tốt.’ Xác được ủy thác, bèn mưu xin Vua ra khỏi cung, việc lập thái tử không thành. Lại nghĩ Vua chỉ buồn bã vô cớ mà thôi, do dự không quyết.
Mùa xuân năm thứ 7, Diên An quận vương ra dự yến ở điện Tập Anh, Xác mới tâu xin mùa xuân năm sau ra khỏi cung, Vua đồng ý. Sau đó có người tâu việc liên quan đến Xác, Vua nói: ‘Các quan đều là người tiên đế để lại cho Trẫm, như Xác từ chức nhỏ, Trẫm tự tay đề bạt đến đây, ắt không phụ Trẫm. Nhưng khí lực yếu, cần người phụ tá mới được.’ Xác nghe thế càng tự phấn đấu. Lâu ngày, tháng giêng năm thứ 8, Thần Tông bệnh đã một tháng, hoàng tự chưa lập, trong ngoài xôn xao, Xác mới sợ, bèn đem ý định lập thái tử hỏi Tả bộc xạ Vương Khuê, Khuê không trả lời, Xác càng sợ[13], không biết làm sao. Việc càng gấp, gặp lúc mẹ Xác được vào cung, Khâm Thánh Hiến Túc hoàng hậu bảo Xác, sai bên ngoài nhờ các quan cầm quân như Yến Đạt phụ lập, lại nhờ nội thị Diêm Thủ Cần bảo Xác sớm định đoạt. Có người bảo Xác rằng: ‘Đây là việc lớn, xin cùng mọi người hỏi Khuê, nếu không nói, thì trị tội.’ Lúc đó các phụ thần Hàn Chẩn, An Đào, Trương Tảo, Lý Thanh Thần đều giữ thái độ lưỡng lự, im lặng không nói, Xác một mình hẹn với Môn hạ thị lang Chương Đôn cùng ra sức.
Ngày Quý Tỵ, các phụ thần họp ở sảnh Nam, Xác hỏi Khuê, Khuê cũng không nói. Xác nói: ‘Mùa xuân năm ngoái Diên An quận vương dự yến, đã có chỉ, mùa xuân năm sau ra khỏi cung. Việc đã định, không nói là sao?’ Đôn nói: ‘Nói đúng thì theo, không thì cùng ông chết.’ Khuê mới nói: ‘Vua có con, còn bàn gì nữa?’ Hôm đó chiều tối bàn xong, đến trước giường tâu rằng: ‘Mùa đông năm ngoái được chỉ, hoàng tử Diên An quận vương mùa xuân năm nay ra khỏi cung, xin lập làm hoàng thái tử, để nối ngôi thiên hạ.’ Tâu ba lần, Vua gật đầu ba lần.”
Thần đây bàn rằng: “Văn án Quốc sử của Bí thư tỉnh chép việc Thái hoàng thái hậu ngự điện Sùng Chính tuyên dụ ba tỉnh giáng chức Xác rất rõ, gồm 713 chữ. Trong đó nói: ‘Hoàng đế là con trưởng của Thần Tông, con nối nghiệp cha, là lẽ đương nhiên. Trước đây Thần Tông uống thuốc đã lâu, từng nhân lúc các tể chấp vào chầu, ta đem kinh Phật do hoàng đế viết ra cho xem, lúc đó trong chúng chỉ có thủ tướng Vương Khuê, nhân đó tâu Diên An quận vương nên lập làm hoàng thái tử, những người khác không nói gì, An Đào lúc đó đều thấy.’ Lại nói: ‘Hoàng đế là con trưởng của tiên đế, nối ngôi là việc thường tình từ xưa, ai có lời nào khác.’ Thái Xác đứng dưới Khuê, sao lại nói riêng có công định sách? An Đào tâu rằng: ‘Lúc đó chỉ có thủ tướng Vương Khuê một người vào chầu, Thái hoàng thái hậu bèn khóc mà đồng ý, liền phê thánh ngữ.’ Các chấp chính khác đâu từng nói gì?”
Huống chi năm trước, Hoàng đế đã tuyên chiếu cho Hoàng tử ra mắt quần thần, đủ biết ý định của Tiên đế từ lâu đã quyết. Hơn nữa, ngày đó, sách 《Tam tỉnh thời chính ký》 đã ghi chép như vậy và trình lên, làm sao người ngoài dám bàn tán bừa bãi như thế? Kính xét việc này đã được ghi vào sự kiện ngày Đinh Hợi tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 4, khi Thái Xác bị giáng làm Biệt giá châu Anh và an trí ở châu Tân. Xem kỹ việc này, rõ ràng những ghi chép trước đó trong truyện của Thái Xác là vu khống, nay xóa bỏ 462 chữ từ “năm thứ 6 mùa thu” đến “ba lần gật đầu”[14].
“Thái Xác cuối cùng bị cách chức, nhưng Lương Đào và những người khác vẫn không ngừng bàn luận, nên Thái Xác bị giáng làm Biệt giá châu Anh và an trí ở châu Tân. Thái Xác nhận di chiếu của Tiên đế, bị gian thần dòm ngó, bị vu oan đày ra nơi xa xôi, nên Hoàng đế sai sứ giả đưa ông đến nơi bị biếm. Trải qua nhiều lần ân xá, không ai không được tha, chỉ riêng Thái Xác suốt 4 năm không được trở về. Ngày 6 tháng giêng năm thứ 8, ông qua đời tại nơi bị biếm, hưởng thọ 57 tuổi. Thiên hạ không ai không thương xót.”
Thần xin bàn rằng: “Thái Xác cuối cùng bị cách chức là do việc Ngô Xử Hậu dâng thơ[15]; Lương Đào và những người khác vẫn không ngừng bàn luận là do Thái Xác tự xưng nhận di chiếu. Nếu coi đây là một lời nói, khiến đời sau không thể hiểu được, thì đều là lời vu khống. Nay xóa bỏ 82 chữ từ “Thái Xác cuối cùng” đến “thương xót”.
Truyện Đặng Nhuận Phủ: “Các quan đương quyền năm Nguyên Hựu kết bè phái hãm hại, vì soạn chiếu giáng chức Thái Xác mà vu cáo ông có công định sách, nên bị giáng làm Long đồ các Học sĩ, nhậm chức Tri châu Bạc.”
Thần xin bàn rằng: “Theo 《Nguyên Hựu thời chính ký》, khi Thần Tông băng hà, Tuyên Nhân Thánh Liệt Hoàng hậu đem kinh sách do Triết Tông viết ra cho các tể tướng xem, lúc đó chỉ có Vương Khuê tiến lên đối đáp, còn những người khác đều im lặng. Hơn nữa, Triết Tông là con trưởng của Thần Tông kế vị, ai dám có lời bàn tán? Thế mà Nhuận Phủ trong chiếu giáng chức lại suy tôn công định sách của Thái Xác, sự lừa dối quá rõ ràng. Sử quan lại nói rằng các quan năm Nguyên Hựu kết bè phái hãm hại, đó là vu khống. Nay xóa bỏ 10 chữ.”
Truyện hoạn quan Lưu Duy Giản chép: “Khi Thần Tông lâm bệnh, Thái Xác vào thăm, nhưng trong màn trướng kín đáo, không rõ thấy Hoàng đế[16], Duy Giản nhiều lần thúc giục Thái Xác lập Thái tử, nhưng Thái Xác do dự. Một hôm, Duy Giản cầm đuốc ngoài màn dẫn Thái Xác vào gặp Hoàng đế, Thái Xác biết bệnh tình nguy kịch, bèn lập Thái tử. Khi Hoàng đế lên ngôi, Thái Xác sợ hãi, chọn Duy Giản và 9 người khác ngày đêm bên cạnh phò tá. Gian thần đang dòm ngó, chưa đầy một tháng, Duy Giản bị cách chức, 9 người còn lại đều bị bãi, ai nấy đều lạnh lùng.”
Thần xin bàn rằng: “Việc Triết Tông được lập làm Thái tử không phải do Thái Xác. Thái Xác là Tể tướng, không nghĩ đến đại kế của xã tắc, lại bị hoạn quan thúc giục mà lập Thái tử, lẽ nào có chuyện như vậy? Từ “Khi Thần Tông lâm bệnh” trở xuống 85 chữ nên xóa bỏ.”
《Cựu lục》 quyển 61, ngày Kỷ Tỵ tháng 5 năm Thiệu Thánh thứ 4, Tam tỉnh tâu: “Xét Lưu Duy Giản, Trần Diễn thời Nguyên Hựu, trong thì kết bè phái, ngoài thì giao kết quyền thần, mưu kế gian trá, không gì không làm. Tuyên Nhân Thánh Liệt thành tâm đức ý không thể lay chuyển, Hoàng Thái hậu, Hoàng Thái phi hết lòng bảo vệ, ngày đêm chăm lo, nên Duy Giản, Diễn không thể thực hiện được ý đồ gian ác. Xét tội ác của họ, nên tội diệt tộc, nhưng Bệ hạ khoan nhân, chỉ đày đi xa. Tuy nhiên, nghe nói Duy Giản, Diễn vẫn có thân thích đang làm việc trong cung, bọn này trong lòng lo sợ, sao có thể tiếp tục làm nội thị được? Xin Bệ hạ quyết đoán, bắt thân thích của Duy Giản, Diễn và những người thân cận đuổi ra ngoài.”
Thần xin bàn rằng: “Đoạn này tuy tôn vinh Đông triều, quy tội cho hoạn quan, nhưng ý đồ vu khống rất sâu sắc, nay xóa bỏ 76 chữ[17].”
Cựu lục quyển thứ 67, năm Thiệu Thánh thứ 4, tháng 11, truyện Lương Đào: “Ngô Xử Hậu dâng lên bài thơ của Thái Xác, tố cáo lời oán báng, Lương Đào cùng Ngô An Trì, Lưu An Thế hợp sức công kích, muốn lấy tội bội nghịch bất đạo để xử tử Thái Xác. Lại tạo ra lời lẽ hiểm độc để kích động Tuyên Nhân. Bành Nhữ Lệ can thiệp giải cứu, và xin trị tội Xử Hậu.” Thần đây xét rằng: “Xem xét thực lục, Thái Xác tự cho mình là bề tôi được ủy thác việc lập Vua, cậy công trời làm của mình, Lương Đào từng dâng sớ bàn việc này. Sử thần cho rằng tạo ra lời lẽ hiểm độc để kích động Tuyên Nhân, thật là vu cáo quá đáng. Nay xóa bỏ.”
Cựu lục quyển thứ 70, năm Nguyên Phù thứ nhất, tháng 2, lời khai của Trương Sĩ Lương: “Có lần các quan dâng sớ xin Đông triều trả lại chính quyền, Diễn liền chê trách rằng: ‘Đây là kẻ bất trung bất hiếu.’ Giấu tờ sớ trong hòm, không báo lên Đông triều, cũng không tâu lên Vua. Khi cùng Lã Đại Phòng qua lại, đem hộp quà bí mật tặng vợ Đại Phòng, đều không báo lên Vua.” Thần đây xét rằng: “Di cáo của Tuyên Nhân nói: ‘Muốn buông bỏ gánh nặng thiên hạ, về nghỉ ngơi nơi Đông triều, trả lại ngôi Vua đúng lúc, thật là ý nguyện của ta.’ Như vậy các quan trước đó chưa từng dâng sớ xin trả lại chính quyền, nếu có, thì Tuyên Nhân còn tại vị, há để Trần Diễn giấu giếm? Lại nữa, vợ Lã Đại Phòng là Quốc phu nhân, hẳn phải vào chầu tam cung mỗi năm, nếu Thái hoàng thái hậu ban tặng hộp quà, có lẽ không cần báo lên Vua[18], lời sử thần nói đây, rõ ràng là vu cáo. Nay xóa bỏ 59 chữ trước.” Lại tâu xin bổ nhiệm Phạm Thuần Nhân làm Hữu bộc xạ, triệu Văn Ngạn Bác làm Bình chương sự.” Thần đây xét rằng: “Tuyên Nhân bổ nhiệm đại thần, há đến mức bàn bạc với hoạn quan, sử thần ngụy tạo ý tưởng rèm cửa dễ lừa, tăng nặng tội Trần Diễn, để làm nhục Thánh mẫu, không biết rằng vu cáo không căn cứ không thể lừa dối thiên hạ đời sau. Nay xóa bỏ 16 chữ trước.”
“Trước đây, năm Nguyên Hựu thứ 5, Văn Cập Phủ viết thư gửi Hình Thứ, trong thư có câu ‘Tâm ý Tư Mã Chiêu, người ngoài đường cũng biết’, và ‘lấy thân nhỏ bé làm nơi thỏa mãn, thật đáng sợ’, ‘bè đảng đông đảo, khí thế đáng sợ’ v.v., bèn hạ chiếu cho Thứ nộp lại nguyên bản thư. Thư đến, sai Kinh, Đôn tra hỏi Cập Phủ, cho rằng Lưu Chí là Tư Mã Chiêu, ‘thân nhỏ bé’ là chỉ Vua, ‘bè đảng’ là chỉ Vương Nham Tẩu, Lương Đào, Lưu An Thế, Tôn Thăng, Hàn Xuyên v.v. Kinh, Đôn dâng lên, Vua nói: ‘Người Nguyên Hựu quả nhiên như vậy!’ Kinh đáp: ‘Thật có ý đó, nhưng chưa có bằng chứng phản nghịch, Chí đã bị đày xa.’ Vua nói: ‘Như Trần Diễn, Trẫm đã thấy tận mắt, không thể tha.’ Nên có lệnh này.” Thần đây xét rằng: “Thư của Văn Cập Phủ là việc ‘phấn côn’ ở quyển 64, không nên chép lại ở đây. Việc này đã chép đầy đủ trong sách sự tích Tuyên Nhân Thánh Liệt, Đôn, Biện muốn phế Tuyên Nhân, Triết Tông ném tờ tấu xuống đất, bèn đòi Trương Sĩ Lương từ Lôi Châu về, định ép thành án để thỏa cơn giận, Sĩ Lương không chịu khuất nên thôi. Nay nói Vua thấy tận mắt tội Trần Diễn, là vu cáo. Xóa bỏ 144 chữ trước.” Xét việc ‘phấn côn’, Tân lục chép ở quyển 135, Cựu lục ở quyển 64 chép sơ lược, chi tiết ở quyển 70 này.
Cựu lục quyển 59, Tân lục quyển 132, năm Thiệu Thánh thứ 4, tháng 4, ngày Đinh Mùi, Tam tỉnh tâu: “Ngày 29 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 8, Ngự sử trung thừa Hoàng Lí tâu: ‘Nghe nói các đại thần Lưỡng phủ từng bàn việc tâu xin hoàng tử học tập, lập thái tử, Vương Khuê nói với Lý Thanh Thần rằng: “Việc nhà họ, triều đình không nên can thiệp.” Thái Xác, Chương Đôn nghe được, hỏi thẳng trước mặt mọi người về người được lập, Khuê đành phải nói: “Trên đã có con.” Xác, Đôn bèn tuyên bố với mọi người, việc bàn định xong. Thần lại nghe Vương Khuê ngầm giao thiệp với Cao Tuân Dụ, từng gọi con ông ta là Sĩ Sung truyền đạt lời nói. Thần nghĩ bệ hạ đối xử với Khuê bằng tấm lòng chí công vô tư, cho ngồi ngôi cao, hưởng bổng lộc hậu, đã 16 năm, nay thánh thể hơi khó chịu, mà Khuê đã có hai lòng, nếu tha thứ, lấy gì răn dạy thiên hạ?” Tờ tấu của Hoàng: “Gần đây có Cao Sĩ Anh đến nhà thần, nói rằng khi Vua uống thuốc, nếu Thái hậu hoặc Hoàng hậu tạm nghe chính sự, thì người truyền lệnh phải thận trọng. Thần nghiêm nghị trả lời, cho rằng sao có thể bàn riêng? Thần đảm nhận chức vụ trung chấp pháp, Sĩ Anh còn dám nói bừa như vậy, nay Khuê vô cớ gọi Sĩ Sung, lại nói với Thanh Thần như thế, e rằng ắt có âm mưu gian hiểm.”
Đến đầu tháng ba, Lý Lại lại tâu: “Đại thần lo việc nước, mọi việc có quyền biến, tự nên tâu bẩm, há lại có thể tư ý triệu tập và nói ‘không đáng quản việc khác’? Việc này mà có thể dung thứ, thì lấy gì để răn dạy? Thần khi bàn việc lập thái tử với Tả bộc xạ Vương Khuê, đã nghe như vậy, không dám không bàn. Nay đã nhiều ngày, chưa thấy thi hành, thần suy nghĩ, nếu lời thần quả hợp nghĩa, thì Khuê không thể không bị trách[19], nếu lời thần không có ích gì, thì thần không thể vô tội. Nay Hoàng thái hậu quyền xử lý việc nước, lập thái tử để yên thiên hạ, thần dù chết vạn lần, cũng như được sống, mong triều đình sớm ban chỉ dụ.”
Lại vào tháng 11 năm Thiệu Thánh thứ hai, Hữu chánh ngôn Lưu Chửng tấu: “Tiên đế bệnh, tể thần Vương Khuê có hai lòng, thần liêu đã từng tâu hặc, Thái Xác cùng các người khác định kế nhận cố mệnh, phò tá bệ hạ. Sau đó quyền thần chuyên chính, Xác cùng các người bị đuổi, lại sợ ngày khác được dùng làm hại mình, bèn nhân việc vu cáo, đẩy vào chỗ chết, rồi chuyển công định kế cho Vương Khuê. Khi Khuê chết, được ban nhà, tặng chức, cấp con, chôn cất đặc biệt hậu, còn Xác chết nơi lưu đày, tuy được minh oan, tặng lại chức tước, nhưng ân điển so với Khuê rất mỏng. Huống cha con nối đời, tuy có lễ định, nhưng việc nước nặng nhẹ, cũng tùy thời, công tội không rõ, còn gì lớn hơn? Nay người trung bị họa, kẻ gian được thưởng, lấy gì dạy thiên hạ, chỉ bảo hậu thế? Mong xét tội Khuê, ghi công Xác, ban ân điển hậu.”
Lại năm nay, Cung uyển phó sứ, Tây Kinh thứ bảy phó tướng Cao Sĩ Kinh dâng trạng nói: “Tiên thần Tuân Dụ, khi tiên đế bệnh nặng, có tể tướng cũ Vương Khuê triệu em thần là Thừa nghị lang Sĩ Sung, bàn kín để quyết định với tiên thần, muốn biết ý Thái hoàng thái hậu muốn lập ai. Vì lúc đó tiên thần là trưởng họ Cao, lại biết tiên đế, Thái hoàng thái hậu thường nghe theo[20], nên đến hỏi. Khi đó tiên thần khóc, giận dữ nói: ‘Kẻ gian thần dám như thế! Huống chi nước nhà có chính thống, sao lại quyết định ở ta?’ Rồi mắng em Sĩ Sung: ‘Nếu dám đi nữa, sẽ đánh chết.’ Sau đó đem ý này nói với Cơ nghi quan Vương Vực, có thể chứng minh. Thần nghĩ tiên thần, trước đây vì đánh Linh Châu, quân mệt lương thiếu, sông lớn không đóng băng, nên không thể theo lệnh, bị giáng chức tản quan, rồi qua đời. Sau đó tuy được phục chức, nhưng chưa được tặng thêm, lại không được tâu với bệ hạ, xin ban ân điển hậu.”
Lại Cấp sự trung Diệp Tổ Hiệp nói: “Tiên đế đối với Vương Khuê, có thể nói là hậu, từ Hàn lâm học sĩ thừa chỉ thăng làm Tham tri chính sự, từ Tham tri chính sự thăng làm Hữu tướng, từ Hữu tướng thăng làm Tả tướng, ở triều đình 16 năm. Lại cho con làm chức quán, từ Khuê đến anh em, con cháu, tôi tớ, được triều đình ban ơn, thần không biết bao nhiêu. Thế thì tiên đế đối với Khuê, có thể nói là không phụ. Khi tiên đế bệnh nặng, ngôi thái tử chưa định, trong ngoài lo lắng, trông chờ, Khuê làm thượng tướng, mọi người đều nhìn, nên đề nghị trước, định kế lớn để yên tông miếu; Khuê lại do dự, không quyết, đến nỗi đồng liệt ép bằng đại nghĩa, bất đắc dĩ mới theo, không biết ý Khuê thế nào? Nếu đồng liệt không ép, thì Khuê sẽ không nói, há chẳng hỏng việc? Thiên hạ đến nay vẫn trách. Thần lúc đó, đang ở triều đình, nghe các sĩ đại phu bàn tán, đều trách Khuê. Sau đó Khuê chết, thiên hạ đều vui. Nhưng lúc đó, triều đình ban ơn hậu, cấp nhà, đều là ân điển đặc biệt. Thần nghe ban nhà đặc biệt, là để đãi công thần đức lớn, làm tôi bất trung, sao được thế? Xin giao hữu ty xét tội Khuê, để răn kẻ bất trung bất hiếu, khiến biết phép nước, không có tư tình.” Tổ Hiệp lại nói: “Thần từng bàn tội bất trung của Vương Khuê, chưa thấy thi hành, không biết thế nào. Nếu cho việc Khuê không có chứng cứ, thì lúc đó mấy vị chấp chính còn sống, và các thị tòng hiện nay có người biết rõ[21], đều có thể xét. Hoàng Lý làm Ngự sử trung thừa, từng bàn trước, Lưu Chửng làm Hữu chánh ngôn, lại bàn sau, gần đây Cao Sĩ Kinh lại tâu rõ. Mong bệ hạ xét lời thần, xuất phát từ công luận, hợp với lòng dân, quyết đoán, để yên trong ngoài.”
Chiếu rằng các ân lệ trong di biểu của Vương Khuê đều bị truy đoạt, con cháu của ông được bổ nhiệm làm các chức vụ giám đương ở những nơi xa, và vĩnh viễn không được bổ nhiệm vào các chức vụ gần kinh đô. Nhà cửa được ban tặng trước đây đều bị thu hồi. Cố Thừa nghị lang Cao Sĩ Sung bị đặc cách truy hủy tất cả văn tự liên quan đến xuất thân của ông.
Chiếu chỉ viết: “Bề tôi không được có hai lòng, kẻ gian phải bị trừng trị, quốc gia có pháp luật thường xuyên, tội ác không thể trốn tránh.
Nay ban hành hình phạt để sửa chữa lỗi lầm trước đây. Cố Kim tử Quang lộc đại phu[22], Thượng thư Tả bộc xạ kiêm Môn hạ Thị lang, tặng Thái sư Vương Khuê, đỗ cao trong khoa cử, nhưng lại có hành vi gian trá, dần leo lên địa vị cao, cuối cùng trở thành Tể tướng. Tiên đế bao dung bề tôi, hết lòng đối đãi, che giấu lỗi lầm của ông trong nhiều năm, ân đức như núi non, nhưng ông chưa từng báo đáp dù chỉ một chút. Khi Tiên đế lâm chung, là lúc quốc gia đang trong tình thế lo lắng, cần sớm ổn định lòng dân và chính thức lập người kế vị.
Hơn nữa, ý chỉ của Tiên đế về việc truyền ngôi cho con đã rõ ràng; Thái hậu yêu thương cháu, không hề có sự ngăn cách. Thế mà ông lại dám suy đoán bậy, chỉ biết nịnh hót, coi triều đình như nhà người khác, dùng xã tắc để mưu lợi riêng. Đồng liệu chất vấn, nhưng ông không có lời giải thích rõ ràng, âm thầm giữ hai lòng, không nghĩ đến đại nghĩa. Ông may mắn thoát khỏi hình phạt khi còn sống, lại được hưởng vinh hoa sau khi chết, nhưng công luận không chấp nhận, các tài liệu cũ vẫn còn, xem xét kỹ lưỡng, tâm địa của ông rõ ràng. Nếu để ông thoát tội một thời, thì khó lấy đó làm gương răn đe cho muôn đời, nên giáng chức xuống hàng tản quan, truy đoạt các ân điển sai lầm. Mong rằng các quan lại gian tà đều biết cảnh giác, có thể đặc cách truy giáng chức Vạn An quân Ty hộ Tham quân.”
Thiệu Bá Ôn biện bạch rằng: “Hình Thứ dụ dỗ Cao Sĩ Kinh dâng thư, nói rằng khi cha ông sắp chết, đuổi hết người hầu ra ngoài và bảo Sĩ Kinh rằng: ‘Khi Thần Tông lâm chung, Vương Khuê sai Cao Sĩ Sung đến hỏi ta rằng không biết Thái hậu muốn lập ai, ta đuổi Sĩ Sung đi.’ Hình Thứ cũng không tra cứu kỹ việc Cao Tuân Dụ trước đây vì đề nghị đánh chiếm Linh Vũ khi làm Tri Khánh châu mà thất bại, Thần Tông giáng chức Tuân Dụ xuống tản quan, nhờ ân điển của Tuyên Nhân Thái hậu nên không bị đày đi nơi khác, mà được ở lại kinh đô.
Tuyên Nhân Thái hậu vẫn không ưa ông, dù có ân điển khi Triết Tông lên ngôi, cũng không cho ông được phục chức, làm sao có thể tham gia vào việc lập người kế vị? Chương Đôn, Thái Biện chỉ muốn vu cáo Tuyên Nhân, nên đã truy tặng Tuân Dụ chức Tiết độ sứ, thăng Sĩ Kinh làm Hoàng thành sứ, đặc cách truy giáng Vương Khuê làm Nhai châu Ty hộ Tham quân, giáng Cao Sĩ Sung xuống tản quan.
Đến cuối năm Nguyên Phù, Cao Sĩ Dục dâng thư, tự xưng là con út của Tuân Dụ, được cha yêu quý nhất, khi cha bệnh nặng sắp chết, ông luôn ở bên cạnh, không thấy Sĩ Sung đến nói những lời mà Vương Khuê hỏi, Sĩ Kinh cũng không có mặt lúc đó. Lúc đó Khâm Thánh Thái hậu nhiếp chính, đặc cách cho Sĩ Dục đổi sang văn chức[23], bổ nhiệm làm Cán biện công sự ở Kinh lược An phủ ty Hoàn Khánh lộ[24], vì xét thấy lời của ông là sự thật. Bá Ôn nghe Cao Công Gián nói, Sĩ Kinh là con nuôi của Tuân Dụ, còn Sĩ Dục mới là con út thực sự của Tuân Dụ. Sĩ Kinh bị Hình Thứ dụ dỗ làm việc này, sau đó hận Chương Đôn không trọng dụng mình, nhiều lần muốn tự thú về sự hư cấu, nhưng cả hai chi họ Cao đều từ chối. Đầu năm Tĩnh Khang, Giang Đoan Hữu, Tán độc của các vương phủ, dâng thư nói rất rõ về việc của Sĩ Kinh, Đoan Hữu quen biết con cháu họ Cao.
Hình Thứ còn nói rằng Hoàng Lý vào cuối năm Nguyên Phong từng có tấu chương nói việc Tuyên Nhân Thái hậu muốn lập người nhà họ Từ, Bá Ôn sau này ở Đồng châu, tại nhà con trai Tăng Bố là [Mịch Tỉnh], thấy một bản ghi chép tay của Tăng Bố về sự việc lúc đó, viết rằng: ‘Trong cung không có văn tự nào của Hoàng Lý, gia đình Hoàng Lý đưa bản thảo giả vào ngục, để vu cáo Hoàng Lý và Thứ từ khi chưa đỗ đã thân thiết, Thứ cũng cùng mưu với Lý.’ Vương Vực, người kinh đô, có tài hùng biện, thích bàn luận. Năm Hi Ninh, làm Tẩu mã Thừa thụ ở Hi Hà lộ rồi về hưu. Gia đình giàu có, thường lui tới nhà các quan lại, kết thân với Hình Thứ như đảng phái. Bá Ôn từng thấy Vương Vực, Thượng Chu, Lý Tuân ở nhà Thứ, đều là những kẻ bịp bợm. Sau này Chương Đôn nhờ Thứ tiến cử, bãi chức hưu trí của Vực, bổ nhiệm làm Tri Bắc Bình quân[25].
Không lâu sau Vực chết, con trai là Trực Phương không đồng tình với cha, thường nói với các sĩ đại phu rằng cha ông lúc cuối đời bị bệnh tâm thần. Trực Phương sau cũng chết, không có con, thân thiết với Triều Tải Chi, đem toàn bộ sách vở và tranh ảnh thu thập được trong đời giao cho Tải Chi. Xem qua những sách vở và tranh ảnh mà Trực Phương để lại, trong đó có một bức thư qua lại giữa Vương Vực và Hình Thứ, đều là những mưu đồ vu cáo người khác về việc phế lập.”
Ngày tháng năm Tĩnh Khang thứ nhất, thần là Giang Đoan Hữu, chức Tán Đọc ở các phủ vương, kính cẩn dập đầu dâng thư lên Hoàng đế bệ hạ: Thần trộm thấy Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu vào cuối năm Nguyên Phong, buông rèm nghe chính sự, bảo hộ Hoàng đế Triết Tông, dùng Tư Mã Quang làm Tể tướng, thiên hạ đều quy phục. Trong chín năm, triều đình trong sáng, bốn biển yên ổn, người đời đến nay vẫn ca ngợi. Đạo lớn công bằng chính trực, lòng nhân ái yêu dân của bà, có thể sánh với Nhân Tông, đến việc ra sức thực hiện chính sách của tổ tông, ngăn chặn ân huệ riêng cho ngoại thích, lúc đó, các bậc lão thành đức cao, kẻ ngu dân nơi thôn dã, đều có lời khen là Nghiêu Thuấn trong hàng nữ lưu. Công đức cao vời như thế, thiên hạ ca tụng như vậy, mà một tên Hình Thứ dựng lên lời vô căn cứ để phỉ báng, khiến đời sau nghi ngờ, như mặt trời mặt trăng sáng mà mây che khuất, thần vô cùng đau xót.
Ban đầu, năm Nguyên Phong, Cao Tuân Dụ đại bại ở Linh Vũ, bị giáng làm tản quan an trí. Chẳng bao lâu, Thần Tông băng hà, Triết Tông lên ngôi. Tể tướng Thái Xác cho rằng Tuân Dụ là chú họ của Tuyên Nhân, bèn dâng sớ xin phục chức để làm vui lòng Tuyên Nhân, mà không biết Tuyên Nhân không thiên vị người thân. Tuyên Nhân từ trong rèm tuyên dụ rằng: “Tuân Dụ làm mất mấy chục vạn quân[26], Tiên đế vì việc này mà kinh động, buồn rầu thành bệnh, đến nỗi bỏ thiên hạ. Nay thịt chưa nguội, há nỡ vội vì tình thân mà quên Tiên đế sao?” Ngay hôm đó phê rằng: “Tuân Dụ có tội với Tiên đế, nay buông rèm nghe chính, mọi ân huệ cho họ Cao, chỉ không được đến Tuân Dụ.” Mưu của Xác bị bác bỏ. Sau đó, Xác bị giáng làm Tri châu An Châu, làm thơ châm biếm, bị biếm làm Tân Châu.
Còn Hình Thứ là tay chân thân tín của Xác, tình cờ cùng làm quan với con của Tuân Dụ là Sĩ Kinh ở Trung Sơn, bèn lấy việc không phục chức cho Tuân Dụ lúc buông rèm để kích động Sĩ Kinh, khiến y dâng thư nói rằng Vương Khuê từng sai con của Tuân Dụ là Sĩ Sung đến bàn việc lập Vua, Tuân Dụ đuổi đi. Sĩ Kinh nhu nhược không biết chữ, thực ra là Thứ dạy y viết thư. Sĩ Sung là tiểu thần xa cách, vốn không quen biết Khuê, Khuê sao có thể bàn việc đại kế xã tắc với y? Lại từ đâu mà thông tin trong cung cấm? Hơn nữa lúc dâng thư, Khuê, Sĩ Sung, Tuân Dụ đều đã chết, lấy gì để khảo xét? Thần nghe nói sách 《Thời chính ký》 năm Nguyên Phong thứ tám do Xác biên soạn, chép việc lập Vua tháng ba rất chi tiết, đâu có lời nào đáng ngờ. Bản tâm của Thứ chỉ cho rằng không nêu rõ sự khác biệt của Vương Khuê, thì khó quy công cho Thái Xác, mà không biết tội vu cáo Thánh mẫu là lớn lắm. Thứ làm người, không chỉ người có học không chấp nhận, con trai y là Cư Thực cũng không vui với việc làm của cha. Thiên hạ đều biết.
Chương Đôn là kẻ bài xích nguyên hữu, trước rèm tấu sự, Đôn kiêu ngạo không kính, ở Đô đường hội nghị dùng lời chợ búa chế nhạo đồng liệt, há phải là quân tử trung hậu sao? Còn nói ra sức xóa bỏ lời gièm pha về việc Từ vương nhòm ngó ngôi Vua. Đôn cùng Vương Khuê, Thái Xác đều là phụ chính cố mệnh, nếu lúc đó quả có khác biệt, há lại nói lời này sao? Thế thì lời gièm của Thứ có thể nói là lừa dối trời vậy. Vì thế năm Thiệu Thánh, Thái Biện một mình đề xướng việc truy phế Thánh mẫu, may nhờ Triết Tông nhân hiếu, không nghe lời ấy, nếu không, người thần đau xót, mất lòng thiên hạ, để đời sau cười, hối sao kịp? Từ năm đó đến nay, ba lần biến loạn liên tiếp, họa loạn dấy lên, hạn hán liên miên, giặc phương Bắc xâm phạm, há chẳng phải linh thiêng tổ tông nổi giận ở đây sao? Đến như họ Cao, oan ức chất chứa, không được giải tỏa, cũng đủ làm tổn thương hòa khí, gây nên tai ương, chưa hẳn không do việc này. Thần nghĩ đức của thánh nhân không gì hơn hiếu với tổ miếu, chính trị của đế vương cần gấp rõ thị phi, Bệ hạ lên ngôi đến nay, dùng người hiền tài, đuổi kẻ gian tà, như việc truy tặng Tư Mã Quang, đã rõ lời gièm của bề tôi mà phân biệt thị phi vậy.
Mà Hoàng hậu Tuyên Nhân Thánh Liệt là mẹ của Thần Tông, là tằng tổ mẫu của bệ hạ[27], bị vu oan hơn ba mươi năm, các công khanh đại thần chưa từng nói một lời về việc này, há chẳng đau lòng sao? Di biểu của Phạm Thuần Nhân có viết: “Sự vu oan của Tuyên Nhân chưa được minh oan, nếu Thuần Nhân còn ở triều đình, ắt sẽ biện minh được.”
Thần mong bệ hạ hạ lệnh cho các cơ quan kiểm tra lại hồ sơ, truy xét nguồn gốc của những lời vu oan, xem chúng xuất phát từ ai, chứng cứ ở đâu, thì tâm địa của tiểu nhân sẽ lộ rõ. Sau đó, ban chiếu minh oan, tuyên cáo trong ngoài, để thần dân xa gần tiêu tan nghi ngờ, như băng tan dưới ánh mặt trời, há chẳng vui sao!
Rồi dùng sách văn cáo với miếu Tuyên Nhân và Thần Tông, trên là an ủi linh hồn nơi chín suối, dưới là giải tỏa nỗi phẫn nộ của người và thần. Xưa Hán Linh Đế mơ thấy Uy Đế giận vì trách Tống Hoàng hậu[28]; thời Chu Thành Vương, trời cao nổi giận, làm rõ đức của Chu Công.
Từ đó có thể thấy, linh thiêng của tông miếu, sự biến hóa của họa phúc, thật đáng sợ. Sự vu oan của Tuyên Nhân, thần cho rằng bệ hạ chỉ là chưa nghe thấy, nếu nghe mà không biện minh, há chẳng phải là dạy thiên hạ về chữ hiếu sao? Thần không kìm được lòng thành, mong bệ hạ xét đoán.”
Tiểu thiếp tử: “Việc trước không chỉ là nỗi oan sâu của họ Cao, mà còn là nỗi nhục lớn của triều đình, nỗi sỉ nhục của tông miếu, Phạm Thuần Nhân chết mà còn hận. Từ đó về sau, các công khanh đại thần đều coi việc này không liên quan đến mình, nên im lặng chịu đựng, không ai nói gì, nhưng thực ra đây là việc chính sự cần ưu tiên hiện nay. Kính mong bệ hạ đặc biệt xuất ý chỉ, triệu tập Nhị phủ để bàn bạc trực tiếp, dặn dò ân cần, khiến họ làm theo lời thần xin. Việc tông miếu phải do bệ hạ tự đảm nhận trách nhiệm, nếu giao xuống Tam tỉnh, e rằng ý kiến bất đồng, khó bàn bạc, hoặc thi hành qua loa, khó an ủi linh hồn nơi chín suối, đáp ứng nguyện vọng của thần dân, thì không bằng không ban xuống. Kính mong bệ hạ đặc biệt lưu tâm.”
Lại tiểu thiếp tử: “Thần xem xét những lời vu oan từ xưa, đen trắng đảo lộn, sau khi giác ngộ, không ai không biện minh. Nay sự vu oan của Tuyên Nhân, thiên hạ đều biết là sai, mà triều đình lại không biện minh, thần ngu muội không hiểu vì sao. Bệ hạ phụng sự tông miếu rất hiếu thảo, thực sự không thể không coi việc này là ưu tiên.”
Thiệu Bá Ôn trong 《Biện Vu》 chép sách của Giang Đoan Hữu, không rõ thực sự dâng lên vào ngày tháng nào, cần tra cứu.
《Nhật lục》 của Tăng Bố chép: Tam tỉnh dùng lời của Diệp Tổ Hợp, truy giáng Vương Khuê làm Tư hộ Xương Hóa, truy tặng nhà, ân điển di biểu và con cháu, như chỉ huy của Lưu Chí, chưa kịp tấu việc, bệ hạ liền tuyên dụ: “Vương Khuê khi Tiên đế bệnh nặng đã tỏ ra lưỡng lự, lại triệu con của Cao Tuân Dụ để bàn việc, lúc đó Hoàng Lí từng có văn bản luận tội, đến khi các đồng liêu thúc ép, sau đó mới nói ‘trên đã có con’.” Bố nói: “Việc này thần đều không biết, chỉ thường nghe Chương Đôn, Hình Thứ nói sơ lược, không biết chương sớ của Hoàng Lí còn không?” Bệ hạ nói: “Có!” Bố nghe nói trong cung không có chương sớ này, Lí từng vào đầu năm Thiệu Thánh sao chép tấu lên, Tam tỉnh lại bảo Lí sao chép bản thảo riêng làm chứng cứ. Bệ hạ lại nói: “Cao Sĩ Anh đến gặp Hoàng Lí, hỏi ai nên lập, việc này cũng từng được Lí đề cập trong thiếp hoàng.” Bố và Lâm Hi nói: “Thiên mệnh sao có thể thay đổi, chỉ là tiểu nhân vọng tưởng đoán mò mà thôi. Hơn nữa Tuyên Nhân cũng không có ý đó.” Bệ hạ nói: “Tuyên Nhân là Nghiêu Thuấn của phụ nữ. Bên ngoài là Khuê, bên trong là Lưu Duy Giản[29], chỉ là vọng tưởng gây rối mà thôi.” Bố nói: “Đức âm như vậy, thần còn nói gì nữa! Nhưng mong bệ hạ dụ Tam tỉnh, trong chiếu lệnh nên nêu rõ ý này, để thiên hạ hiểu rõ, biết triều đình trừng phạt đại thần mà bệ hạ suy tôn đức ý của Thái mẫu như vậy, thì ai dám bàn tán nữa? Cũng nên ghi vào sách vở, để lại cho đời sau.” Lâm Hi tiến lên nói: “Thần xin ghi vào 《Thời chính ký》.”
Bệ hạ nói: “Chiếu mệnh nên cho tiến trình, rồi mới ban hành.” Bố và Lâm Hi đều khen hay. Lui về nói với Lâm Hi rằng, Bố muốn thêm bốn câu: “Tiên đế phó thác, quần thần đều biết; Thái mẫu thông minh, thánh đức không sai.” Hi khen hay. Rồi thúc Hi báo với Đôn, Bố cũng lo chiếu lệnh ban ra, trong ngoài sẽ nghi ngờ về Tuyên Nhân, bèn đưa cho Đôn xem, Đôn đành phải sửa thành: “Ý của Chiêu Khảo truyền ngôi cho con, vốn đã rõ ràng; lòng thương yêu cháu của Thái mẫu, không hề có khoảng cách.” Hi rất mừng, cho rằng nếu không có Bố đề xuất, sao có được như vậy! Khiến mọi người biết đức hiếu của bệ hạ, không nghi ngờ gì về Tuyên Nhân, điều này thực sự có lợi cho quốc thể.
Khi tiến trình lên, Vua chỉ vào bốn chữ thêm vào và nói: “Rất đúng!” Lại thêm rằng gần đây ba tỉnh cho rằng Đại Phòng và những người khác có ý định phế lập và mưu phản, lại đề cao Vương Khuê do dự, để làm rõ công lao định sách, nên nghiêm khắc giáng chức Đại Phòng, Khuê và những người khác. Lại nói rằng Nham Tẩu và những người khác không nhắm vào Xác, mà đều muốn dùng việc này để kích động ý Vua, nhằm giết hại những kẻ hung ác phản nghịch, không sợ oán giận, coi đó là lòng trung thành, nên Vua cũng vui lòng chấp nhận. Tất cả những việc gian ác đều được thực hiện như ý, nếu có ai dám nói khác, liền bị coi là đồng đảng phản nghịch, nhằm bịt miệng thiên hạ. Than ôi, thật đáng sợ! Hôm đó, Bố buồn bã, ăn ngủ không yên, vô cùng phẫn nộ, nhưng Lâm Hi cũng nói rằng việc giáng chức và đày ải chưa đáng kể, chỉ là lời nói này nhằm ly gián Tuyên Nhân, khiến Vua không thể không nghi ngờ Tuyên Nhân, làm cho tình cảm ruột thịt có sự ngăn cách, điều này càng đáng phẫn nộ[30].
Thêm nữa, Thái Kinh từng nói rằng thời Nhân Tông từng muốn dùng lễ của thứ dân để chôn cất Chương Hiến, nhưng tra cứu quốc thư thì không có việc này, Kinh và những người khác thường muốn như vậy. Kinh còn nói rằng xa giá không nên đến Sở Để. Lại nói rằng gần đây Vua đã giác ngộ Sở Vương, hai con rể đều bãi chức ở Hàn Lâm Ty và Ngự Trù, những người này sao có thể ở đây? Lời bàn này thật kỳ lạ. Lại nói rằng Kinh từng nói rằng căn bản thiên hạ chưa chính, ý là nếu không giết Sở Để thì không yên ổn. Lúc đó Sở Vương chưa mất, nên mới có lời bàn này. Khi được lệnh viết minh văn trên mộ, Kinh cố từ chối, cũng là ý này. Bố lại nói: “Lương Đào nói về Sở Để, không biết ý Vua thế nào?” Vua nói: “Hắn chắc chắn không biết.” Bố nói: “Đúng như lời Vua, nếu đại thần thông đồng với Sở Để, thực sự có mưu này, thì sao một hai người có thể giải quyết[31]? Bên ngoài đều nghi ngờ triều đình muốn xử lý Sở Để, thần chỉ cho rằng ý Vua vốn không như vậy, chắc chắn không có lý do này. Nay lời Vua đã rõ ràng, thần còn nói gì nữa! Nói Sở Để không biết, thì không có gì để bàn, giả sử lúc đó thực sự có mưu này, bệ hạ cũng nên bao dung rộng lượng, điều này không chỉ làm tổn thương ân tình yêu thương anh em của tiên đế, mà còn làm rõ hình tích Tuyên Nhân, đối với quốc thể có ổn thỏa không? Như vậy thì sẽ làm tổn hại đức lớn của Vua không nhỏ.” Vua cũng đồng ý.
Thái mẫu lại than thở: “Làm sai nhiều chỗ.” Bố nói: “Chỉ như nói Tuyên Nhân và đại thần có ý định lật đổ phế lập, dùng việc này để kích động tiên đế, e rằng không thể lấy được lòng tin, bèn nói rằng Thần Tông không phải do Tuyên Nhân sinh ra.” Thái mẫu nói: “Tuyên Nhân là con nuôi của Từ Thánh[32], gả cho Anh Tông, lúc đó là tình thế gì? Lại nữa, Tuyên Nhân thực sự đố kỵ, mới mười sáu mười bảy tuổi, sao có thể có con của người khác? Việc phế lập cũng oan cho bà ấy, nương nương sao có ý này? Như vậy làm sao tiên đế không ghét?” Bố nói: “Tiên đế căm ghét người Nguyên Hựu, chính vì điều này. Việc này không ai biết rõ hơn Hoàng Thái hậu.”
Thái mẫu nói: “Không có việc này. Sở Vương hy vọng không thể biết.” Bố nói: “Đại thần thực sự có mưu này không?” Thái mẫu nói: “Lúc đó không nghe thấy, ai dám nói đến việc này? Hắn chỉ nói người ta mắng Thần Tông, lại nói ra việc này, làm sao không ghét?” Bố nói: “Bên ngoài đều nói Đôn đã vu cáo người Nguyên Hựu về việc phế lập, lại nghiêm khắc giáng chức Vương Khuê vì lúc định sách do dự, hôm nay Đôn trước rèm nói lời không chính, người ta đều cho là báo ứng.” Thái mẫu nói: “Đúng là báo ứng.”
Lã Đại Phòng tự tay viết 《Thời chính ký》, ngày Bính Thân, mùng 1 tháng giêng, mùa xuân năm Nguyên Phong thứ 8[33], ngày Đinh Dậu mùng 2, giờ Mùi ngày Mậu Tuất mùng 3, ba tỉnh và Xu mật viện đến cửa Đông Nội dâng tờ trình, xin vào hỏi thăm sức khỏe Vua, Vua sai Lương Tòng Chính, Lưu Duy Giản truyền lệnh miễn. Vương Khuê và những người khác lại lệnh truyền tấu, Vua liền sai Tòng Chính và những người khác dẫn vào gặp ở cửa giữa phòng ngủ phía đông điện Phúc Ninh, từ đó việc hỏi thăm sức khỏe Vua đều như vậy.
Ngày mồng 4 Kỷ Hợi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm và tâu việc, Vua đều gật đầu đồng ý. Chiều lại vào hỏi thăm, Vua viết chữ dụ Vương Khuê và các quan: “Từ ngày mai chỉ cần vào sớm.” Ngày mồng 5 Canh Tý, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, chiều lại vào hỏi thăm, Lương Tòng Chính và Lưu Duy Giản truyền chỉ cho phép, từ hôm đó chỉ vào một lần. Ngày mồng 6 Tân Sửu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, chiều mở đạo trường ở Đại Khánh điện. Ngày mồng 7 Nhâm Dần, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, tâu xin ban đại xá, Vua đồng ý. Ngày mồng 8 Quý Mão, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, giờ Mùi lại vào. Ngày mồng 9 Giáp Thìn, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày mùng mười Ất Tỵ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm.
Ngày 11 Bính Ngọ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 12 Đinh Mùi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 13 Mậu Thân, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 14 Kỷ Dậu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Chiều, đến Tập Hi Quan để tịnh trai, mở đạo trường. Ngày 15 Canh Tuất, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 16 Tân Hợi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 18 Quý Sửu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, Vua đã dần khỏe. Ngày 19 Giáp Dần, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 20 Ất Mão, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Hôm đó Vua đã khỏe hơn, viết chữ dụ Vương Khuê và các quan: “Từ nay cách ngày vào hỏi thăm.” Từ ngày mồng 3 Vua bị bệnh, Tam tỉnh và Xu mật viện hàng ngày đến cung tẩm, đến nay Vua đã khỏe, nên có chỉ dụ này.
Ngày 21 Bính Thìn, Tam tỉnh dâng trát tử hỏi thăm, chiều, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng đến Tập Hi Quan tịnh trai, giải tán đạo trường. Ngày 22 Đinh Tỵ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Hôm đó, thấy Vua rất tỉnh táo, Vương Khuê và các quan cùng tâu: “Thánh thể như thế, sắp ngự điện, bọn thần vô cùng mừng rỡ.” Vua vui vẻ gật đầu đồng ý. Ngày 23 Mậu Ngọ, Tam tỉnh dâng trát tử hỏi thăm. Ngày 24 Kỷ Mùi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, hôm đó, Vua dời sang giường phía đông, tinh thần và sắc mặt không bằng ngày 22. Hỏi Ngự dược Lương Tòng Chính và y quan Trần Dị Giản, nói rằng hôm qua Vua đi lại nhiều, trong người mệt, có mồ hôi, lại cảm hàn khí. Lúc đó muốn vào hỏi thăm lại, nhưng vì vừa mới cách ngày vào hỏi thăm, sợ lòng người lo lắng, nên tạm cách ngày vào. Ngày 25 Canh Thân, Tam tỉnh dâng trát tử hỏi thăm. Ngày 26 Tân Dậu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 27 Nhâm Tuất, Tam tỉnh dâng trát tử hỏi thăm. Ngày 28 Quý Hợi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 29 Giáp Tý, Tam tỉnh dâng trát tử hỏi thăm.
Ngày mùng một tháng 2 Ất Sửu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, tâu xin cho Tôn Kỳ và các quan đến Ngự dược viện hầu hạ. Ngày mồng 2 Bính Dần, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày mồng 3 Đinh Mão, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày mồng 4 Mậu Thìn, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày mồng 5 Kỷ Tỵ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày mồng 6 Canh Ngọ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, dâng trát tử tâu: “Hoàng đế uống thuốc, nay chưa giảm, vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, xin hạ chỉ cho Hàn Giáng và các quan tìm danh y.” Ngày mồng 7 Tân Mùi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày mồng 8 Nhâm Thân, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, dâng trát tử tâu: “Tôn Tể thông y thuật, xin cho đến kinh.” Ngày mồng 9 Quý Dậu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày mùng một0 Giáp Tuất, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm.
Ngày 11 Ất Hợi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 12 Bính Tý, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 13 Đinh Sửu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 14 Mậu Dần, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 15 Kỷ Mão, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 16 Canh Thìn, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, dâng trát tử tâu: “Thánh thể tuy đã dần khỏe, nhưng chưa xử lý việc triều, nên cầu phúc, xin mở đạo trường Kim Cương và đốt hương ở thần từ.” Ngày 17 Tân Tỵ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 18 Nhâm Ngọ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 19 Quý Mùi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 20 Giáp Thân, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm.
Ngày 21 Ất Dậu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 22 Bính Tuất, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, chiều đến Đại Khánh điện mở đạo trường. Ngày 23 Đinh Hợi, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 24 Mậu Tý, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 25 Kỷ Sửu, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 26 Canh Dần, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 27 Tân Mão, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 28 Nhâm Thìn, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Ngày 29 Quý Tỵ, Tam tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, tâu xin lập thái tử. Đến giờ Mùi lại vào hỏi thăm.
Tháng 3, ngày Giáp Ngọ (mùng 1), ba tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, rèm buông xuống để vấn an, tuyên dụ việc Thái tử. Lui ra, nghe tuyên chế. Giờ Mùi, lại vào hỏi thăm lần nữa, Thái hậu tuyên dụ Vương Khuê và các quan. Ngày Ất Mùi (2), ba tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm, lui ra, nghe tuyên xá. Giờ Mùi, lại vào hỏi thăm. Ngày Bính Thân (3), ba tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Giờ Mùi, lại vào hỏi thăm. Ngày Đinh Dậu (4), ba tỉnh và Xu mật viện vào hỏi thăm. Thái hậu sai Lương Tòng Chính và các quan tuyên hỏi Vương Khuê và các quan về việc dâng Long Thọ đan do nhà sư ở Ôn Châu tiến lên cho Hoàng đế. Giờ Mùi, lại vào hỏi thăm.
Ngày Mậu Tuất (mùng 5), Hoàng đế băng hà tại điện Phúc Ninh, thọ 38 tuổi. Bá quan vào chầu, khóc lóc thảm thiết. Tể thần Vương Khuê đọc di chế ở bậc thềm phía tây điện. Hàn Thái Trung Tông Vũ ghi lại lời của cha là Thừa tướng Chẩn. Chẩn, cuối năm Nguyên Phong làm Tri Xu mật viện, cùng Vương Khuê, Thái Xác và các quan cùng dự việc cố mệnh. Năm Nguyên Phong thứ 8, Thần Tông uống thuốc đã lâu, một hôm cha tôi nói với Trương Tảo rằng: “Hoàng thượng uống thuốc đã lâu, việc lập Thái tử thế nào?” Tảo nói: “Tử Hậu nhiều lời, thử nói xem sao.” Một hôm, cha tôi lại nói với Chương Đôn, Đôn nói: “Việc này rất tốt.” Nói với hai vị tể tướng, cũng đều cho là phải. Một hôm, hẹn họp bàn ở sảnh phía nam Xu mật viện, đuổi hết người hầu, chỉ để lại một bộ bút nghiên, vài tờ giấy. Ngồi lâu, không ai nói gì.
Cha tôi nhìn Vương Khuê nói: “Hôm nay bàn việc lập Diên An quận vương làm Hoàng thái tử. Năm ngoái Hoàng thượng đã cho dự yến tiệc, ra mắt quần thần, lại có chỉ dụ ngày 1 tháng 4 ra khỏi cung, việc này có gì phải nghi ngờ. Tể tướng là người đứng đầu trăm quan, hôm nay bàn việc, sao lại không nói gì?” Khuê nói: “Ý của các quan cũng là ý của tôi, còn nghi ngờ gì nữa.” Trương Tảo đẩy bút nghiên giấy cho Chương Đôn, bảo viết trên giấy “Lập Diên An quận vương làm Hoàng thái tử”, rồi hẹn ngày mai vào hỏi thăm sức khỏe Hoàng thượng để tâu việc. Hôm sau đến cửa cung, gọi nội thần Trương Mậu Tắc nói: “Hôm nay muốn tâu việc, lập Diên An quận vương làm Hoàng thái tử.” Trương Mậu Tắc bảo đặt án trước long sàng của Thần Tông, Vương Khuê trải tờ giấy đã viết lên án, tâu xin lập Diên An quận vương làm Hoàng thái tử. Lúc đó Thần Tông đã bị bệnh không nói được, chỉ buồn bã lâu, mọi người đều đứng im, không dám nói gì.
Lúc đó Thái phi cũng ở trong màn lộ nửa mặt, bà bà bồng Triết Tông ngồi. Một lát sau lại tâu, bà bà nói: “Thánh ý đã đồng ý.” Vương Khuê hỏi Trương Mậu Tắc: “Thái hậu ở đâu?” Thái hậu tự nói: “Ở đây.” Trương Mậu Tắc bảo nội thần kéo rèm, Thái hậu ở dưới rèm nói: “Tể tướng lập được đứa trẻ này là tốt, đứa trẻ này thật là hiếu thảo, từ khi Hoàng thượng uống thuốc, chỉ ăn chay và chép kinh.” Trong rèm truyền ra hai quyển kinh, một quyển là Tiêu Tai kinh, một quyển là Diên Thọ kinh. Cuối đề rằng: “Diên An quận vương vì Hoàng đế uống thuốc đã lâu, chép kinh này một quyển, nguyện sớm khỏi bệnh.” Từ trong rèm, cung nhân bồng Triết Tông ra, đội mũ, mặc áo, đeo đai, đứng ngoài rèm. Các quan nhìn lâu, không nói gì, rồi tuyên chế thi hành. Sau khi Thần Tông băng hà, tuyên di chiếu lập Hoàng thái tử, trong ngoài đều vui mừng, không có tin tức gì khác.
Năm Tuyên Hòa đầu, Thái Mậu dâng sớ lên điện, tờ sớ này xuất phát từ nhà nội thị Diêm Thủ Cần. Ban đầu, Thái Xác và Thủ Cần thực sự cùng mưu làm việc vu cáo. “Thần ngày 18 tháng 3 lên điện tâu việc, mặt nhận chỉ dụ, bảo thần trình bày đầu đuôi việc tiên thần Xác nhận di chiếu định sách cuối năm Nguyên Phong[34]. Thần tra xét ngày 2 tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 8, sức khỏe Thần Tông hơi khá, đến ngày 26, bệnh Thần Tông lại nặng, chưa lập Thái tử, trong ngoài xôn xao. Tiên thần lúc đó làm Thượng thư Hữu bộc xạ, nghĩ đến trách nhiệm tể tướng, ngày đêm lo sợ, trên đường vào triều, dùng lời kín hỏi tể thần Vương Khuê, Khuê chỉ ậm ừ, tiên thần nghi ngờ. Sau hỏi Hình Thứ, nói gần đây gặp quan về hưu Vương Vực nói, Vương Khuê từng sai Cao Sĩ Sung hỏi cha là Tuân Dụ rằng: ‘Nếu có biến cố, Trưởng Lạc muốn lập ai?’ Tiên thần nói: ‘Khuê không trung với vương rồi!’ Vì thế tự mình đảm đương, thấy Chương Đôn có khí phách đáng tin, mà Đôn làm Môn hạ Thị lang, bảo Hình Thứ hẹn cùng lo việc lớn, Đôn thích công danh, vui vẻ nhận lời. Thấy Yến Đạt trung thực đáng tin, mà Đạt làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Lại bảo thúc thần Thạc hẹn với Đạt, Đạt báo rằng: ‘Nguyện hết sức giúp tể tướng.’ Bảo Thái Kinh làm Tri Khai Phong, mặt dặn Kinh rằng: ‘Kẻ gian nếu có ý khác, phải trị tội.’ Kinh bèn chuẩn bị đao theo. Lại bảo thúc thần Thạc dò xét trong ngoài, sợ chậm trễ mất thời cơ.
Thần là Thúc Thạc lúc đó làm Giám quân khí, cùng Diêm Thủ Cần có việc công liên quan, nghe Diêm Thủ Cần nói: “Hai vương mỗi lần hỏi thăm thánh thể của Thần Tông, thường không tránh mặt cung nhân, thẳng đến bên cạnh Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu, đuổi người ra nói chuyện, lâu không ra. Thần Tông bệnh không nói được, chỉ trừng mắt nhìn mà thôi.” Thủ Cần lại nói: “Tháng 12 năm ngoái, Thủ Cần ở Diên Xuân các tâu việc, Thần Tông xuống các nói: ‘Ta đau chân nhức đầu.’ Lại than thở: ‘Ta thật cô đơn lạnh lẽo!’ Khi nói đến việc của Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu, thường nhớ lại cảm động khóc. Tháng 2, khi viết chữ chỉ huy việc, chỉ có Thủ Cần ở bên cạnh, viết một chữ ‘Thái’ chỉ cho Thủ Cần, trầm ngâm lâu, lại xóa chữ ‘Thái’, rồi viết cho Thủ Cần: ‘Không vào cục làm gì?'” Thủ Cần nói với Thần là Thúc Thạc, không hiểu ý thánh thượng viết chữ ‘Thái’ là gì, Thần là Thúc Thạc bạch với tiên thần rằng: “Thánh ý sâu xa, viết chữ ‘Thái’, há chẳng phải là muốn viết chữ ‘Hoàng thái tử’ sao? Việc này nếu đại thần chủ trương đã định, thì không cần chỉ huy, nếu đại thần bất trung, chủ trương không định, chỉ thêm họa loạn, nên không muốn trực tiếp chỉ huy phụ thần, biết ngươi với Thủ Cần thường gặp nhau, muốn truyền thánh ý cho ta đó thôi.”
Thần là Thúc Thạc lại nghe Ngự dược Lưu Duy Giản nói, Vương Khuê không biết sai ai viết văn thư đến, Duy Giản ở trong phòng của Trương Mậu Tắc, trộm thấy trong đó viết: ‘Việc lập thái tử lần này, trên là do thánh đoán của hoàng thái hậu, ngoại đình không nên can dự.’ Tiên thần nói: ‘Khuê thường nói với đồng liệt rằng: “Lập người kế vị là việc nhà của hoàng đế, chúng ta không cần quản.” Lời của Duy Giản, hẳn không sai.’ Sau đó Thần là Thúc Thạc lại gặp Lý Tự Huy, kể hết âm mưu của gian nhân không thể lường được, lại nói: ‘Nếu lỡ bọn họ làm trước, đêm khuya đưa ra một tờ chiếu, ngày mai biết làm sao?’ Lại gặp Hướng Tông Hồi, hỏi những gì nghe được, Tông Hồi nói: ‘Nếu hỏi những gì nghe được, lạnh cả tim khó nói. Trước nghe Ung vương xin ở lại trong cung, trung cung lớn tiếng tranh cãi mới thôi.’ Tiên thần cho rằng tình thế nguy cấp như vậy, mà bệnh tình của Thần Tông lại nguy kịch, e rằng biến cố xảy ra bất ngờ, cần sớm định đại kế, khiến gian nhân không kịp mưu tính, đó mới là đạo vạn toàn. Nhưng cần trong ngoài hợp sức, việc mới thành.
Trước khi lập thái tử, sai Thần là Thúc Thạc bảo Yến Đạt rằng: ‘Nhà phụ thần, bình thường không được nói chuyện với trung quan, quân suý, nay quốc gia gian nan, chính là lúc quên mình báo đáp, không thể vì hiềm khích nhỏ mà hỏng việc lớn.’ Bèn sai Thần là Thúc Thạc cảm tạ Lưu Duy Giản, Diêm Thủ Cần rằng: ‘Những lời trước đã truyền đạt, đã thấy lòng trung với quốc gia. Ngự dược phụng sự bên cạnh, mọi việc càng thêm cẩn thận xem xét, có gì cần biết, phải báo ngay. Việc thành bại, trên liên quan đến an nguy của tông xã, họa phúc của đôi bên không đáng nói.’ Lại bảo Đạt rằng: ‘Việc trong chốc lát, nếu lỡ có bất đồng thì sao?’ Đạt nói: ‘Thừa tướng dẫn trăm quan, Đạt dẫn tướng hiệu tranh lại, thề chết không hai lòng.’ Lại sai Diêm Thủ Cần bí mật báo với Khâm Thánh Hiến Túc hoàng hậu, ngày mai lập thái tử, mọi việc trong cung, xin thêm ý dò xét, đến lúc trung cung phải có mặt ở Phúc Ninh điện. Khâm Thánh Hiến Túc hoàng hậu nói: ‘Việc trong cung không cần lo, bên ngoài bàn tán thế nào?’ Thủ Cần nói: ‘Tể tướng Thái đã sắp xếp xong việc lớn.’
Ngày 29 tháng 2, tiên thần không nghỉ đêm, hẹn các đại thần từ cửa Đông trong cung trở về, trực tiếp mời Vương Khuê cùng các quan chấp chính đến sảnh Nam họp bàn. Tiên thần liền nói với Vương Khuê: “Bệnh tình của Thần Tông ngày càng nguy kịch, nếu trên có người hỏi, nên trả lời thế nào?” Khuê cúi đầu không nói. Một lúc lâu, tiên thần nói: “Hôm nay không phải là lúc bàn việc thường, sao có thể im lặng đứng nhìn?” Quay lại nhìn Chương Đôn, Đôn lại dùng lời đe dọa, Khuê biến sắc không đáp. Tiên thần nhìn Đôn nói: “Tướng công đâu có ý gì khác, chỉ là gặp việc lớn nên thận trọng thôi.” Lại nói với Khuê: “Mùa xuân năm ngoái, Diên An quận vương ra dự yến lớn, ý thánh đã định.” Khuê đành phải nói là Diên An quận vương. Đôn nói: “Đây là câu thứ nhất, không biết câu thứ hai thế nào?” Khuê không nói. Tiên thần nói: “Lời tướng công đã đủ rồi.” Tiên thần bèn lấy giấy viết tờ tấu, bảo Đôn viết tay và cùng các đại thần ký tên điểm chỉ. Tối hôm đó, cùng các quan chấp chính đến trước long sàng của Thần Tông tấu rằng: “Mùa xuân năm ngoái được chỉ, lệnh Diên An quận vương mùa xuân năm nay ra khỏi cung, nay đại bản chưa thấy, xin lập làm hoàng thái tử để yên nền tông xã. Xin sớm ban chỉ riêng, lại đại xá thiên hạ.” Thần Tông nghe xong gật đầu rơi lệ, các phụ thần nghẹn ngào khóc, cung nhân sau màn nghe thấy đều khóc lặng. Tiên thần cầm tờ tấu nhìn Trương Mậu Tắc, lớn tiếng nói: “Đã được thánh chỉ, lập Diên An quận vương làm hoàng thái tử, xin đô tri tấu hoàng thái hậu, chúng tôi xin chúc mừng.” Mậu Tắc bèn dẫn các phụ thần đến trước rèm lạy hai lần rồi ra. Thái hậu xem kỹ tờ tấu, sai trung sứ khoá học sĩ viện.
Ngày mùng một tháng 3, tại điện Văn Đức tuyên chế, nhân tấu xin đổi miếu hiệu của Triết Tông, dán tờ thiếp thi hành. Ngày mồng 2, đại xá thiên hạ. Sau đó chọn mười trung sứ được Thần Tông tín nhiệm, lệnh hộ vệ hoàng thái tử. Ngày mồng 5 tháng 3, Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu vội triệu hai phủ đến cửa điện, tiên thần lùi bước nói với Vương Khuê: “Vạn nhất có chuyện chẳng lành, phải xin hoàng thái tử lên ngôi hoàng đế trước.” Khuê nói: “Đợi đến trước rèm xin chỉ.” Tiên thần nói: “Việc hôm nay, liên quan đến gia tộc mỗi người, ngôi thái tử đã định, tướng công còn nói xin chỉ làm gì?” Khuê hoảng hốt nói: “Xin nghe theo mệnh lệnh.” Khi đến trước rèm, Thần Tổ đã băng hà, các phụ thần hướng về rèm khóc lóc. Vương Khuê và Trương Mậu Tắc bàn nhau, muốn đến trước linh cữu ngồi trước, tức vị hoàng đế.
Tiên thần tấu, xin kéo rèm để cùng các phụ thần gặp mặt tân quân. Xong, xuống điện lạy hai lạy, lui đến trướng phía nam cửa Hội Thông. Phàm có việc chỉ huy, đều do tiên thần tự viết, sai tiểu hoàng môn mang đến cửa Nội Đông, giao cho bản phòng thi hành. Lại vào điện trước linh cữu Thần Tông, rồi triệu quân suý và hai vương lên điện, trước rèm dụ rằng Thần Tông đã băng hà, tân quân kế vị. Sau đó dẫn bách quan và quân hiệu vào hàng lễ ở điện Phúc Ninh, tuyên đọc di chế, gặp mặt tân quân xong. Lúc lui, trước rèm đọc di chế, không nhắc đến Khâm Thành hoàng hậu, tiên thần tấu rằng: “Đức phi Chu thị sinh ra thánh tự, trong di chế không có lễ tôn sùng, xin thêm vào Đức phi Chu thị, có thể tôn làm Hoàng thái phi.” Lâu sau, Vua nói: “Được!” Tiên thần lại cùng các đại thần tấu xin cho Lương Tòng Chính nhận việc văn tự ở đường Tư Thiện. Tiên thần ở lại trong cung bảy ngày, về nhà, khóc lóc nói với bà nội là Minh thị rằng: “Mùa đông năm ngoái, Trung thư tấu việc, Thần Tông bàn việc thiên hạ, rơi lệ, ta hỏi vì sao buồn, chẳng lẽ trong cung có điều gì không vui? Thần Tông lâu sau nói: ‘Việc thiên hạ chỉ làm đến đây, con còn nhỏ, cần phải có người lớn kế tục.’ Ta tấu: ‘Bệ hạ tuổi còn trẻ, sao lại nói lời ấy?’ Thần Tông nói: ‘Việc thiên hạ chỉ như vậy.’ Ta lại nói: ‘Bệ hạ có con thông minh, thần chưa chết, sẽ lấy cái chết báo đáp bệ hạ.’ Thần Tông vui, nhìn ta nói: ‘Khanh chắc chắn không phụ lòng.’ Lại khi ta mới nhận chức Hữu bộc xạ, Thần Tông dụ rằng: ‘Triều đình bổ nhiệm tể tướng, phải là người có thể gửi gắm việc nước và lập thái tử.’ Hai ngày trước, ta lẩn sau hàng ngũ để xem, Thần Tông không thấy ta, trên giường trằn trọc kinh ngạc, ta đến gần, Thần Tông mới yên lòng. Nhưng ta vốn được Thần Tông gửi gắm, nay có thể không hổ thẹn, chỉ là nhà ta như Triệu Thác thời Hán vậy.'”
Thần Tông đã an táng xong, Triết Tông và Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu ngự tại cửa Nghênh Dương, buông rèm nghe chính sự. Lúc đó, mọi người bàn rằng Triết Tông và Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu nên cùng ngồi chung một chỗ. Bỗng có một hoạn quan đến cửa cung Sùng Chính gặp hai phủ, nói rằng muốn dời ghế ngự và hơi lệch đi một chút để tỏ lòng tôn kính đối với Bảo Từ. Tiên thần nói: “Triều đình và trong cung khác nhau, sao có thể làm như vậy! Xin tâu lên, hãy làm theo đúng nghi thức.”
Bà nội của thần là Minh thị và mẹ là Tôn thị vào yết kiến, Khâm Thánh Hiến Túc hoàng hậu nói rằng khi tướng công trước rèm tâu xin lập hoàng thái tử, hoàng thái hậu ôm Triết Tông giao cho Lưu Duy Giản, ra ngồi, còn thái hoàng thái hậu dùng tay chỉ vào hoàng thái hậu, nói: “Lần này bà yên tâm đi.” Rồi chỉ vào ngực bà nội của thần, vẫn còn vết xanh, và khi gặp Khâm Thành hoàng hậu, bà khóc lóc nói: “Nếu không có tướng công, mẹ con ta hầu như không có chỗ đi.” Tiên thần vâng chiếu làm sứ lo việc sơn lăng, bà nội của thần vào yết kiến, nhân đó xin tâu lên Khâm Thánh Hiến Túc hoàng hậu rằng khi linh cữu Thần Tông xuất phát, xin hãy bảo hộ vị Vua kế vị, không nên đi xa, nên mời hoàng thái phi đi theo.
Lúc đó, trong ngoài đều yên ổn, Tư Mã Quang và các đại thần từng bị Thần Tông cách chức đều muốn nhân cơ hội trút giận. Do đó, pháp độ của Thần Tông bị muốn xóa bỏ hết. Triều đình không hỏi đúng sai, đều làm theo. Tiên thần tâu rằng: “Thái hoàng thái hậu là mẹ của Thần Tông, hành động như vậy, ngược lại giống như có thù hằn. Hoàng đế bệ hạ là cha con kế thừa, chính sự vốn có sự thay đổi tùy thời, không nên nghe lời người khác quá nhiều, làm tổn thương đại thể.”
Sau khi làm sứ lo việc sơn lăng Vĩnh Dục trở về, tiên thần liền xin từ chức, Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu chưa cho phép, sau đó xin nghỉ bệnh, càng kiên quyết, bèn cho làm quan Văn điện ở Trần Châu. Kính cẩn ghi chép trình lên, xin chỉ thị. Thần Thái Mậu dâng tờ tấu.”
Tĩnh Khang thần liệu chương sớ, Trung thư xá nhân Nhan Khi nộp từ đầu trạng của Thái Mậu: “Thần liệu tâu rằng: Kính xét Thái Mậu tính tình hiểm ác, xử sự gian tà, nịnh bợ Thái Du, kết thành bè đảng. Du ở Xu phủ đòi làm tể tướng, biết Mậu làm doãn kinh có thể thường xuyên vào chầu, bèn sai Mậu ngày ngày bàn tội ác của Vương Phủ[35], Phủ tuy bị cách chức tể tướng, nhưng đạo quân hoàng đế biết Du vốn không có học thuật, không cho làm tể tướng. Nhưng Du vẫn tiến cử Mậu làm Xu mật, để báo đáp sự giúp đỡ của mình. Khi quân Kim gây rối, kinh thành bị vây, Mậu ở chức vụ quản lý quân đội, cuối cùng không nói một lời để giúp kế hoạch, bệ hạ hẳn tự biết.
Nay bệ hạ vì việc biên cương chưa yên, dù đang mùa hè nóng nực, vẫn mỗi ngày hai lần lên điện, hỏi han chăm chỉ, đến nỗi quên ăn quên ngủ. Còn Mậu làm tướng ở Đại Danh, không thương dân, không lo việc biên cương, ngày ngày dùng ca kỹ uống rượu, may nhiều áo múa áo hát, say sưa vui chơi, hoàn toàn không có ý lo cho nước, quân dân đều không chịu nổi, lời muốn giết vang khắp đường. Đại thần như vậy, thật là nhục quốc.
Lại xét Mậu trước đây dùng việc của cha là Xác để thêm thắt, vu cáo Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu buông rèm nghe chính, lừa dối đạo quân hoàng đế, xin ngự chế truyện của Xác, ghi lời vu cáo của Mậu, để nêu công lao của cha. Trong ngoài đọc xong, không ai không đau xót, đây là tội lớn đáng giết của Mậu.
Bệ hạ làm chính sự theo đúng phép tắc của tổ tông, mà Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu bảo hộ triều trước, công đức rất cao, bị Mậu vu cáo, lời không thể đọc, trung thần nghĩa sĩ đều phẫn nộ, mong sớm rửa oan, bệ hạ chưa kịp làm, thần rất lấy làm lạ. Nay Mậu vẫn mang chức học sĩ, an nhàn ở cung từ, bệ hạ lấy gì để làm gương cho thiên hạ? Lấy gì để khuyên trung hiếu?
Thần mong bệ hạ hãy bãi chức không xứng của Mậu, trị tội lớn của hắn, cho làm tản quan, đày đến Lĩnh Kiều, vĩnh viễn không cho về, để an ủi linh hồn Tuyên Nhân trên trời, thiên hạ may mắn lắm. Kính chờ chỉ dụ.”
Tháng 6, ngày 18, vâng theo thánh chỉ, cách chức và bổ nhiệm vào chức cung từ. Trung thư xá nhân An Phù dâng tấu về việc Thái Mậu: “Thần liêu tâu rằng, vâng theo thánh chỉ, Thái Mậu bị cách chức và bổ nhiệm vào chức cung từ. Thần thấy rằng, Thái Mậu vốn là cựu phụ, giữ chức nguyên soái, khi biên sự chưa yên, bệ hạ đang lo lắng vất vả, mà ông ta lại chỉ lo việc yến ẩm, khiến quân dân oán hận, thậm chí có lời muốn giết, đáng bị trừng phạt nặng. Hơn nữa, ông ta còn vu cáo Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu, lừa dối Đạo Quân Thái Thượng hoàng đế, hai tội này lớn nhất. Xét việc Thái Mậu viết về cha mình là Thái Xác, toàn là ý riêng, thêm thắt vô căn cứ. Từ xưa đến nay, gian thần lừa dối chưa ai dám làm đến mức này. Tính ông ta hung bạo, khinh miệt triều đình, không chút e dè, trong ngoài đều phẫn nộ. Bệ hạ lên ngôi đến nay, dù kẻ thất phu có oan cũng được minh oan, mà Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu bị vu cáo, mang tiếng oan đã nhiều năm, bệ hạ không động lòng sao? Nay Thái Mậu chỉ bị cách chức cung từ, sao đủ để trừng trị tội vu cáo và lừa dối hai thánh? Xin bệ hạ minh xét, trị tội Thái Mậu, đày đi xa. Chờ chỉ.”
Ngày 23 tháng 6, tam tỉnh cùng vâng theo thánh chỉ, Thái Mậu bị giáng làm Trung đại phu, Bí thư thiếu giám, phân ty Nam Kinh, cư trú ở Bạc Châu. Sắc chỉ: “Tội ác của kẻ bề tôi, không gì lớn hơn lừa dối; lỗi lầm với bề trên, không gì nặng hơn vu cáo! Nên trừng phạt rõ ràng, để thỏa lòng dân. Tư chính điện học sĩ, Thông phụng đại phu, đề cử Tây Kinh Sùng Phúc cung Thái Mậu, hung hãn ngang ngược, dùng thủ đoạn để đạt mục đích, công khai vu cáo Thánh Liệt, che giấu sự thật với Thượng hoàng. Nói dối về công lao của cha, thực chất là mưu đồ cá nhân. Chỉ muốn lợi dụng ân sủng triều đình, không nghĩ đến việc làm nhục tông miếu. Khi làm phụ chính không có công trạng, được cử giữ phiên trấn cũng không tự giác. Quên việc nước, không lo cho dân, chỉ lo yến tiệc, khiến lòng người oán hận. Tấu chương dồn dập, công luận không dung. Pháp luật nước nhà được thi hành, không chỉ để răn đời; gian tà đã lộ, cũng phần nào an ủi linh hồn người đã khuất. Hãy nhận lấy ân điển khoan hồng, đừng để hối hận về sau!”
Gián nghị đại phu Dương Thời dâng tấu lên điện: “Thần nghe rằng, gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà. Thần nghĩ, Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu bảo hộ Triết Tông hoàng đế, bị vu cáo oan uổng, lâu nay chưa được minh oan, thần xin trình bày đầu đuôi. Trước đây, cuối năm Nguyên Phong, thần thấy Thần Tông hoàng đế bệnh nặng, Triết Tông hoàng đế còn nhỏ, Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu có chỉ, lệnh hai vương không được vào cung nếu không được triệu, việc phòng bị rất nghiêm ngặt. Lúc đó, Vương Khuê đứng ra đề nghị lập Diên An quận vương làm hoàng thái tử, không ai phản đối. Sau đó, thánh chỉ được ghi lại ở Trung thư, gửi đến Thực lục viện, các quan ký tên, đầu đuôi rõ ràng. Trời đất quỷ thần chứng giám, không thể bịa đặt.
Đến năm Nguyên Hựu, Thái Xác bị tội, bọn đồng đảng bắt đầu bày mưu, mong được hưởng phúc về sau. Đầu năm Thiệu Thánh, Chương Đôn, Thái Biện nắm quyền, muốn hãm hại cựu thần, trả thù riêng, nên đưa ra lời vu cáo. Vu cáo Thánh mẫu, đổ tội đại nghịch cho Vương Khuê, gán công định sách cho Thái Xác, và tự nhận mình cũng có công. Mưu đồ này không phải vì Thái Xác, mà thực chất là vì bản thân, nhằm hãm hại người thời Nguyên Hựu. Thiên hạ oán hận, đã gần bốn mươi năm. Nay bệ hạ kế vị, sáng suốt như mặt trời không gì không soi rõ, thần may mắn được làm quan trong gián viện, không thể không tâu lên bệ hạ. Những chính sự thời Nguyên Hựu, ghi trong giáp lệnh, đều bị đốt hết, nên những thánh chỉ ghi ở Trung thư thời đó chắc chắn không còn. May mắn là thời chính ký thời Thiệu Thánh vẫn còn, ở Bí thư quốc sử án có thể tra cứu. Đây là trời để lại cho bệ hạ, xin bệ hạ hạ lệnh cho Bí thư quốc sử án, lấy thời chính ký thời Nguyên Hựu, xem qua một lần, đủ để thấy sự thật, rửa oan cho Vương Khuê, tước bỏ những tặng phẩm mà Thái Xác nhận được, sửa lại những ân điển sai lầm, để giải tỏa nỗi oán hận tích tụ lâu nay của thiên hạ, thần vô cùng mong mỏi. Xin bệ hạ xem xét.”
Ngự sử trung thừa Trần Quá Đình tâu: “Thần nghe xưa Chu Công gặp lời gièm pha của Quản Thúc, Thái Thúc, trời nổi uy, sấm chớp gió mưa, lúa ngã cây đổ, để tỏ rõ đức của Chu Công. Bởi lòng thánh nhân hợp với trời đất, nên không may gặp biến cố, ắt có điều cảm động mà chấn động. Kính nghĩ triều ta thánh thánh nối tiếp, trong ngoài yên ổn, gần hai trăm năm. Từ niên hiệu Thiệu Thánh, Sùng Ninh, Đại Quan, Tuyên Hòa đến nay, thiên văn biến hiện, nhật thực, địa chấn, hạn hán lụt lội liên miên, giặc cướp đầy đồng, dẫn đến quân Kim xâm lấn, không chỉ do gian thần chuyên quyền, trung lương bị bài xích, chính sự không tu chỉnh, trăm họ khổ sở mà thôi. Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu bảo hộ Triết Tông, công lao với xã tắc, để phúc muôn đời, thế mà lại bị vu cáo gièm pha trong thiên hạ gần bốn mươi năm, trời đất u uất, thần người phẫn uất, biến cố trước đây suýt gây đại loạn, chưa hẳn không do việc này.
Gần đây các bậc sĩ phu đều bảo thần rằng, khi Tuyên Nhân Thánh Liệt buông rèm nghe chính sự, dùng lại các bậc lão thành, yêu thương dân chúng, những kẻ gian ác như Chương Đôn, Tăng Bố, Thái Kinh và Biện đều bị bãi bỏ không dùng, bọn tiểu nhân ôm hận, chuyên tìm cách trả thù. Đến khi chúng đắc chí, mượn tiếng kế thừa, cấm đoán mọi chính sự thời Nguyên Hựu, các bậc hiền tài làm tể tướng, thị tòng thời ấy chết nơi biên viễn xa xôi, không sao kể xiết. Đến lúc tuổi già, Chương Đôn bị biếm trích, tỏ ra hối lỗi, trong biểu tạ ơn viết: ‘Hết sức ngăn chặn lời gièm pha về Từ vương, một lòng làm sáng tỏ công lao bảo hộ của Tuyên Nhân.’ Xem đó biết rằng lúc ấy đã từng dấy lên lời gièm pha về Từ vương, mà che lấp công lao của Tuyên Nhân.
Phạm Thuần Nhân từng nói: ‘Huống chi lời vu cáo gièm pha Tuyên Nhân chưa được làm sáng tỏ, khiến công lao bảo hộ lo toan không được rõ ràng.’ Thuần Nhân ôm lòng trung nghĩa, phẫn uất mà nói vậy, nhưng việc làm sáng tỏ oan khuất, chính là lúc này. Kính mong bệ hạ xét kỹ, sai Tam tỉnh, Xu mật viện cùng các quan thị tòng bàn bạc việc này, làm rõ công lao tốt đẹp, phát huy ánh sáng tiềm ẩn, rồi ban chiếu minh bạch để cáo trong ngoài, cử đại thần tế cáo lăng miếu, trên để yên ủi linh hồn nơi chín suối, dưới để giải tỏa nỗi phẫn uất của thần người, ý trời thông suốt, lòng người cảm phục, thì nghiệp trung hưng từ đây sẽ thành vậy. Thần vô cùng khẩn thiết. Xin tuân chỉ.”
Lại bộ thị lang Phùng Giải dâng sớ tâu: “Thần kính nghĩ Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu đức lớn ơn sâu bảo hộ Triết Tông, tám chín năm trời, hết lòng hết sức, trời đất thần minh đều soi xét. Công lao với xã tắc, đức độ khắp nơi, như mặt trời mặt trăng sáng ngời, sao có thể che lấp được! Thế mà bọn gian thần thời Nguyên Phong lại vu cáo gièm pha, dựng chuyện phế lập, gây chuyện, ép buộc con cháu bất hiếu làm chứng, trên dưới đều biết, thần dân đều phẫn nộ, ba mươi năm qua không ai dám nói.
Bệ hạ hiếu thảo thông với thần minh, sáng suốt như mặt trời mặt trăng, lúc còn ở tiềm để đã rõ việc này, nay kính thừa tông miếu, nghiêm cúng tế, sao để thần linh mãi bị vu cáo gièm pha? Thần thấy gần đây chiếu trách phạt Thái Mậu cũng đã nói sơ qua việc này. Nhưng xử lý chưa thấu đáo, thần người chưa yên.
Kính mong bệ hạ sáng suốt quyết đoán, ban chiếu minh bạch, nêu rõ công lao bảo hộ của Tuyên Nhân Thánh mẫu, định tội gian trá của Thái Xác cha con, truy thu tước vị, đập bia đá, tuyên cáo trong ngoài, để mọi người đều biết, trên yên ủi linh hồn chín miếu, dưới giải tỏa nỗi phẫn uất tích tụ lâu năm của thiên hạ. Xin tuân chỉ.”
Thị lang Hộ bộ Thiệu Bạc dâng sớ lên triều đình nói: “Thần trộm nghĩ, triều đình ta có thiên hạ, trị an không lo ngại, đã hơn 160 năm. Đó là nhờ đạo của tổ tông, đều lấy lòng trung hậu làm gốc, lòng người vững chắc, mới đạt được như vậy. Tổ tông dựng nghiệp truyền ngôi, thật là gian nan thay! Loạn lạc cuối đời Đường và thời Ngũ Đại, độc hại lan khắp thiên hạ, dân chúng lâm vào cảnh lầm than, đều là những điều mắt thấy tai nghe, nên mới đặt ra pháp độ, ban bố hiệu lệnh, chưa từng không lo nghĩ sâu xa, vì kế vạn đời. Việc thống nhất Trung Hạ, chữa trị vết thương, há phải là sức một ngày! Khiến cho dân chúng trong thiên hạ yêu mến kính trọng bề trên, con cháu hưởng phúc an phú tôn vinh, nền tảng thái bình vững chắc, thực là công tích lũy của tổ tông.
Từ khi Vương An Thạch nêu ra thuyết ‘thiên mệnh không đáng sợ, tổ tông không đáng noi theo’ để mê hoặc tai nghe của Vua, Chương Đôn, Tăng Bố, Thái Kinh vin vào luận điệu ‘kế thừa’, đặt ra hình phạt phỉ báng, để khống chế miệng lưỡi thiên hạ, không còn biết đến tổ tông, đã trải qua ba đời. Công đức của Thần Tông hoàng đế lưu lại trong lòng người, không ai sánh bằng, có gì phụ bạc thiên hạ? Thế mà bọn nịnh thần gian ác lại đặt ra lệnh cấm phỉ báng tiên liệt, hạ thấp tổ tông, không thể lấy đó làm khuôn phép. Sách viết: ‘Miếu thờ bảy đời, có thể xem đức’, truyện nói: ‘Học sĩ đại phu thì biết tôn kính tổ tiên’, há có thể vì sự thay đổi chính sự nhất thời, sự thêm bớt pháp độ, mà bỏ tổ tông sao!
Bệ hạ lên ngôi được 14 ngày, quân Kim đã kéo quân thẳng đến dưới thành, Bệ hạ lo lắng nghĩ đến nguyên nhân gây ra giặc loạn trước đây, vội ban chiếu minh, tuân theo chính sự của tổ tông, để ứng với thiên mệnh, thuận lòng người, đã làm hết mực rồi. Mạnh Tử nói: ‘Gốc của thiên hạ là ở nước, gốc của nước là ở nhà, gốc của nhà là ở thân’. Gốc trung hậu của tổ tông, Bệ hạ một mình thực hiện trong nhà, rồi mới suy rộng ra thiên hạ. Khi xưa, bọn tiểu nhân không biết Vua có tổ tiên, dẫn đến việc ly gián cốt nhục của Vua, làm hại gia đạo của Vua, rồi dần đến loạn lạc thiên hạ. Thần xin mạo muội nói về việc Bệ hạ ngày nay từ nhà mà suy rộng ra thiên hạ.”
Vào niên hiệu Nguyên Phong, Thái Xác nhờ việc khởi tố ngục án mà lên đến chức phụ tướng. Khi Thần Tông hoàng đế băng hà, ông ta sợ Tư Mã Quang và Lữ Công Trước trở lại triều đình sẽ không dung thứ mình, bèn bịa đặt những lời ám muội vô căn cứ để vu cáo và chê bai Tuyên Nhân thánh hậu, nhằm mục đích tạo công trạng để củng cố địa vị và bổng lộc. Sau đó, bọn gian thần lấy đó làm vốn liếng. Đến niên hiệu Thiệu Thánh, Chương Đôn muốn sánh ngang công lao của Thái Xác để tự đề cao mình, bèn tiếp tục chủ trương thuyết này. Lúc đó, các đại thần đồng liệt như Hàn Chẩn, An Đào vẫn còn tại chức, nhưng ban đầu không nghe thấy có ý kiến này.
Đến niên hiệu Chính Hòa, Thái Kinh nhân danh Vương Khuê để ngăn cản Trịnh Cư Trung làm tướng, bèn sai sử quan chép sử về Triết Tông. Đến niên hiệu Tuyên Hòa, Thái Mậu nhờ Thái Kinh để mưu cầu việc phong vương cho Thái Xác, bèn xin thượng hoàng viết truyện về Thái Xác. Tuyên Nhân là mẹ của Thần Tông. Hàng năm vào tháng chín, tế Thần Tông ở Minh Đường, ngày kỵ của Tuyên Nhân rơi vào kỳ tán trai, thượng hoàng không nhận sự an ủi, các quan trong triều không ai đến Cảnh Linh cung. Tôn kính Thần Tông mà coi thường mẹ của Thần Tông, có thể thấy Thái Kinh không biết kiêng sợ gì. Thượng hoàng là cháu của Tuyên Nhân, chỉ vì Thái Xác mà nghe theo lời của Thái Mậu, tự tay viết sử báng bổ bà nội, có thể thấy Thái Xác không biết kiêng sợ gì.
Trước đây, Thần Tông hoàng đế phụng sự hai cung, hiếu đức nổi tiếng, yêu thương hai em, chỉ ở Đông Cung, nhưng Thái Xác, Chương Đôn, Thái Kinh, Thái Mậu lại dám khinh thường Tuyên Nhân, che lấp sự hiếu thảo thánh thiện của Thần Tông trong 19 năm. Di biểu của Phạm Thuần Nhân viết: “Nếu như lời vu cáo Tuyên Nhân chưa được làm sáng tỏ, khiến công lao bảo hộ của bà không được rõ ràng.” Vốn là bọn quyền thần chỉ muốn thỏa mãn sự phẫn nộ riêng, chứ không phải Thái Lăng thực sự cho là đương nhiên, đâu phải là ý của Triết Tông! Sử ký về Triết Tông, truyện về Thái Xác, không phải là những gì được ghi chép trong sách thời chính ký của tam tỉnh và Xu mật viện thời Nguyên Phong, không có căn cứ, đều là do Thái Mậu bịa đặt. Thậm chí còn mượn lời của bà nội họ Minh, không chỉ vu cáo Tuyên Nhân, mà còn liên lụy đến Khâm Thánh, đâu phải là ý của thượng hoàng?
Con cháu, anh em của Thái Xác dù còn sống hay đã chết đều được khen thưởng, khiến mẹ của Thần Tông hoàng đế phải chịu oan khuất, bốn biển đau lòng phẫn nộ, trái đạo trời nghịch lòng người, không gì lớn hơn thế. Gây họa chiêu loạn, làm sao tránh khỏi! Thần mong bệ hạ đặc biệt ban chiếu minh, tuyên dương công lao bảo hộ chín năm của Tuyên Nhân, làm rõ ràng cho muôn đời, xóa bỏ sử ký và truyện, tấu cáo lăng tẩm, để an ủi linh hồn nơi chín suối. Trừng trị Thái Xác, Chương Đôn dù đã chết, xử tội Thái Kinh, Thái Mậu bằng hình phạt nặng, để đáp ứng nguyện vọng của thiên hạ. Thật là may mắn biết bao! Lại như trong bài ký Thái Thanh lâu viết: “Từ thời Nghiêu, Thuấn, Tam Đại trở xuống, việc làm của các bậc vương giả, đến thời Thần Tông mới thực sự đại hữu vi”, mà không nhắc đến tổ tông. Bài ký điện Tuyên Hòa coi ba triều thánh mẫu là phụ nữ, không phải là văn chương do thượng hoàng chế tác, đều là lời lẽ trái đạo lý hại giáo hóa của bọn Thái Kinh, khắc vào kim thạch, không thể truyền lại cho hậu thế. Bệ hạ có thể sửa chữa ba điều này, thì cái gốc của thiên hạ sẽ chính, chính sự của tổ tông sẽ được thực hiện khắp nơi. Kinh Dịch viết: “Điều mà trời giúp là thuận, điều mà người giúp là tin.” Tình thế thiên hạ hiện nay như vậy, bệ hạ hãy nghĩ đến những điều trời trách phạt, người oán giận trước đây, dẫn đến họa Kim nhân mà cải cách, nếu chỉ thay đổi ở ngọn nguồn, mà cho là khôi phục chính sự của tổ tông, thần e rằng lòng tin và sự thuận theo chưa đủ, trời người chưa giúp, họa ngoại xâm chưa dứt. Kính nghĩ thượng hoàng trao thần khí cho bệ hạ, là gửi gắm xã tắc tổ tông vô cùng, mọi sự cải cách, thực ra đều xuất phát từ chiếu chỉ ban đầu của thượng hoàng, mong bệ hạ đừng nghi ngờ mà ra sức thực hiện, để hoàn thành chí nguyện của thượng hoàng. Kính mong bệ hạ xét định. Xin chỉ thị.
Ngày 23 tháng 7, ba tỉnh cùng vâng theo thánh chỉ, lệnh cho các quan thị tòng bàn định rồi tâu lên. Gián nghị đại phu Từ Bỉnh Triết dâng lên tờ tấu: nộp liền sách báng sử trước đó. Sách 《Thượng hoàng ngự chế Triết Tông hoàng đế kỷ》 chép: “Tháng 2, Thần Tông bệnh nặng, các phụ thần vào thăm, đến điện Tử Thần, Ung vương Hạo đón ở hành lang nói: ‘Bệnh của hoàng thượng nguy cấp, việc quân quốc nên thỉnh hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính.’ Các phụ thần ngạc nhiên không đáp. Lại xin ở lại hầu bệnh, hoàng hậu tranh cãi, nên không ở lại, nhưng nhiều lần vào cung không chịu rời, Tào vương Quần nhiều lần nắm tay kéo ra. Hữu bộc xạ Thái Xác lo sợ, bèn hỏi Tả bộc xạ Vương Khuê về việc lập thái tử, Khuê không đáp, Xác càng lo sợ, không biết phải làm sao. Gặp lúc mẹ của Xác được vào cung, hoàng hậu bảo dụ Xác, nhờ chủ binh quan Yến Đạt giúp lập, lại nhờ nội thị Diêm Thủ Cần bảo sớm định đoạt.
Có người bảo Xác: ‘Đây là việc lớn, nên bàn với mọi người, nếu không nói, thì chém để răn đe.’ Lúc đó các phụ thần Hàn Chẩn, An Đào, Trương Tảo, Lý Thanh Thần khoanh tay không nói gì, chỉ có Xác mời Môn hạ thị lang Chương Đôn giúp, rồi nhìn Vương Khuê, Khuê không nói. Xác nói: ‘Năm ngoái ngài hầu yến, có chỉ mùa xuân năm sau ra khỏi cung, đã bàn định, nay sao không nói?’ Đôn giận nói: ‘Nói đúng thì theo, không thì đều chết.’ Khuê mới nói: ‘Hoàng thượng đã có con, còn bàn gì nữa?’ Thế là cùng đến trước long sàng xin ba lần, Thần Tông gật đầu ba lần. Lại Khuê vội xin hoàng thái hậu tạm cùng nghe chính sự, Thần Tông cũng nhìn rồi gật đầu. Lui ra đến gian đông điện, đã buông rèm, trước rèm bạch chỉ vừa nhận, hoàng thái hậu đồng ý. Lúc đó Hạo kéo màn muốn vào, Quần gắng kéo lại. Thái tử lập, hoàng hậu tạ hoàng thái hậu, thái hậu vỗ ngực hậu nói: ‘Việc xong rồi!’ Sau đó nhiều lần chỉ ngực nói với hoàng thượng: ‘Đau vẫn còn!’ Hoàng thượng khóc tạ. Sau mẹ Xác vào cung, thái hậu chỉ vết đánh vẫn còn.
Ngày mùng một tháng 3, các phụ thần vào, thái tử đứng ngoài rèm, hoàng thái hậu dụ Khuê rằng, thái tử thông minh tuấn tú hiếu học, đã đọc thuộc bảy quyển Luận ngữ, không thích chơi đùa. Đưa ra hai quyển kinh Phật tự tay viết để cầu bệnh khỏi, Khuê bái tạ chúc mừng. Hôm đó đổi tên hiện nay. Xác xin chọn mười nội thị trung thành cẩn thận để hộ vệ bên cạnh thái tử[36], để phòng bất trắc. Ngày Ất Mùi, đại xá thiên hạ, việc quân quốc, hoàng thái hậu tạm cùng xử lý. Ngày Mậu Tuất, lên ngôi hoàng đế[37], bá quan dâng lời chúc mừng, nhìn thấy uy nghiêm, lên ngôi như đã quen thuộc.”
Sách 《Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu truyền》 quyển 1 chép: “Hoàng hậu rất yêu Ung vương Hạo, khi tiên đế bệnh, Hạo nhiều lần xuyên rèm vào bạch với hoàng hậu, hoàng hậu cuối cùng không nghe. Đến khi thái tử lập, tay vỗ ngực hoàng hậu nói: ‘Việc xong rồi.’ Hoàng đế lên ngôi, răn Hạo không được đến chỗ hoàng thượng. Bảo hộ hoàng thượng, hết mực yêu thương. Bọn gian thần nhiều lần nhòm ngó, thậm chí có kẻ dâng sớ xin triệu ngoại thích kế vị, nhờ ý hoàng hậu không đổi[38], mưu đồ gian ác mới dừng. Thần Tông bệnh nặng, hoàng thượng tự tay viết kinh Phật để cầu phúc, sau khi chính thức lập thái tử, nhân các phụ thần tấu sự, hoàng hậu ở trước rèm đưa ra chữ viết của mình cho xem và nói: ‘Thái tử thông minh tuấn tú, là phúc của xã tắc.’ Đến khi hoàng thượng lên ngôi, lại ban sách ngự thư cho các tể thần trở xuống, mỗi người một bộ, nói: ‘Trong cung chỉ thích học, sách ban cho các khanh, muốn các khanh biết.'”
Truyện về con của Anh Tông là Triệu Hạo, quyển 5, phần dưới: “Hạo trước được phong làm Từ vương, sau đổi phong làm Ung vương. Cuối niên hiệu Nguyên Phong, Thần Tông bệnh nặng suốt tháng, Thái tử chưa được lập, trong triều ngoài nội đều xôn xao. Hạo có ý muốn tranh ngôi, mỗi lần vào thăm bệnh, thường xuyên xuyên qua rèm thẳng đến chỗ Hoàng thái hậu nói chuyện, gặp cung nữ cũng không tránh, Thần Tông nhiều lần giận dữ nhìn Hạo, nhưng Hạo vẫn không kiêng sợ. Tháng 2, bệnh Thần Tông càng nặng, các đại thần vào thăm, đến điện Tử Thần, Hạo liền mời ra hành lang, thưa rằng: ‘Bệnh tình của Thánh thượng như vậy, việc quân quốc nên thỉnh Hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính.’ Lại tâu xin được ở lại trong cung để hầu bệnh, Hoàng hậu ra sức ngăn cản, Kinh vương Triệu Quần cũng tâu xin ngăn lại, nên Hạo không được ở lại. Sau đó, Hạo nhiều lần ở lại trong cung, Quần thường kéo tay dẫn ra ngoài.
Hữu bộc xạ Thái Xác lo sợ, bèn lấy ý định lập Thái tử hỏi Tả bộc xạ Vương Khuê, Khuê không trả lời, Xác càng sợ hãi, không biết phải làm sao. Tình hình càng gấp, nhân lúc mẹ của Xác được vào cung, Hoàng hậu sai người bảo Xác, bên ngoài nhờ chủ binh quan Yến Đạt và Tri Khai Phong phủ Thái Kinh phụ lập, lại nhờ nội thị Diêm Thủ Cần khuyên Xác hợp sức sớm định đoạt. Hai ngày sau, Thái tử được lập, hôm đó Hạo kéo rèm muốn vào, Quần kéo lại ngăn cản, Hạo tỏ ý không vừa lòng. Tuyên Nhân gặp Hạo vào chầu, không cho gặp Thánh thượng.” Lại có lời báng bổ như trước[39].
Thần nghe gần đây các quan đã hai lần luận tội Thái Mậu vu cáo Tuyên Nhân Thánh Liệt Hoàng hậu và lừa dối Đạo Quân Thái Thượng Hoàng đế, lần đầu bị cách chức, lần sau bị điều đi nơi khác, không chỉ tội ác của Mậu chưa được xử lý đúng mức, mà tình trạng vu cáo lừa dối cũng chưa được làm rõ, thần không thể không trình bày đầu đuôi sự việc với Bệ hạ. Thần nghe rằng sau khi Triết Tông lên ngôi, Thái Xác và Chương Đôn ghét Vương Khuê làm Thủ tướng, sợ ông ta độc chiếm công lao phò tá, bèn bịa đặt lời lẽ, vu cáo Tuyên Nhân. Nói rằng khi Thần Tông bệnh nặng, ý định lập Ung vương chứ không phải Triết Tông, tự xưng có công lập Vua, khiến thiên hạ bất bình đã lâu. Đến khi Xác vì việc em trai là Thạc tham nhũng bị phát giác, bị bãi chức điều ra ngoài. Đến An Lục, không tự xét lại, lại báng bổ Vua cha, bị đày ra Lĩnh Biểu. Lúc đó lời dụ trích rằng: ‘Tiên hoàng truyền ngôi cho con, ai dám nhận công định sách? Thái hậu lập cháu, sao dám tham công trời!’ Ý chỉ rất rõ ràng. Thượng hoàng khi trích Chương Đôn, trong biểu tạ cũng nói: ‘Hết sức ngăn chặn lời báng bổ của Từ vương, một lòng làm sáng tỏ công lao bảo hộ của Tuyên Nhân.’ Thế là Đôn đã hối hận về lời vu cáo trước đây. Huống chi lúc đó sách Thời chính ký của Môn hạ tỉnh do Đôn ghi chép, cũng không có lời nào khác.
Năm Nguyên Hựu thứ 4, Tả chánh ngôn Lưu An Thế cũng từng luận tội, và nói: ‘Chi bằng sớm biện chính[40], để giải tỏa nghi ngờ của thiên hạ, thần e rằng sau này sẽ thành mối lo cho triều đình.’ Xem tình hình hiện nay rối ren không dứt, lời của An Thế đã ứng nghiệm rồi.”
Thái Mậu ban đầu không hợp với Thái Kinh, nhiều lần bị Thái Kinh đày ải. Từ năm Chính Hòa trung, bèn thông đồng với Thái Kinh, hậu hĩ kết giao, Thái Mậu hết lời ca ngợi Thái Kinh làm Tri phủ Khai Phong, lại vào đứng dưới điện, có công giúp định kế sách. Thái Kinh vốn khoa trương, tự cho mình có công danh, bèn hết sức ủng hộ lời nói của Thái Mậu. Ban đầu bổ nhiệm Thái Mậu làm Đãi chế Huy Du các, năm sau thăng làm Trực học sĩ, lại dẫn lệnh lên điện trình bày lời lẽ vu cáo, Xác bèn được phong tước vương, Thái Mậu thăng làm Diên Khang điện học sĩ, nhân đó làm Thượng thư, làm Phủ doãn, làm Chấp chính. Chú của ông ta là Thạc bị tội tham nhũng nhưng được miễn tội chết, cũng được tặng chức Đãi chế. Các em, các con, các cháu, các rể, các con gái, các thiếp, hoặc làm Thị tòng, hoặc làm Lang quan, hoặc làm Giám ty, hoặc được gia phong hiệu, cửa nhà rực rỡ, khí thế ngút trời, vẫn cho là chưa đủ, bèn soạn bậy ra bản kỷ của Triết Tông và hai truyện về Tuyên Nhân, Ung Vương, lừa dối Thượng hoàng, lấy bản kỷ làm ngự chế, khiến người ta không thể bàn luận, điều này càng đáng kinh hãi.
Từ khi bắt đầu làm quan, thần nghe các bậc trưởng lão kể về lời vu cáo Tuyên Nhân, cùng các chương sớ của quần thần dâng lên, vốn không phải một việc, thần chưa dám quyết định đúng sai. Một khi xem bản sử vu cáo của Thái Mậu, đem bản kỷ và hai truyện ra tham khảo, thì công lao bảo hộ của Tuyên Nhân, dấu vết vu cáo của cha con Thái Mậu, rõ ràng tự hiện, há chẳng phải công lao to lớn, thần linh bảo hộ, bọn gian thần tặc tử rốt cuộc không thể che giấu được. Thần xin trích dẫn một hai điều để biện bạch. Kính xét bản kỷ của Triết Tông viết: “Ngày mùng một tháng ba, các phụ thần vào, Thái tử đứng ngoài rèm, Hoàng thái hậu bảo Vương Khuê rằng: Thái tử thông minh tuấn tú, hiếu học, đã đọc xong bảy quyển Luận Ngữ, không thích chơi bời. Khuê bèn lạy chúc mừng, hôm đó đổi tên hiện nay.” Nếu Tuyên Nhân có ý hướng về Ung Vương, há lại hết lời ca ngợi Thái tử trước khi định ngôi sao? Ngày đó lập Thái tử đổi tên, nay bản sử vu cáo không nói lập Thái tử, chỉ nói đổi tên, là để che giấu việc lập Thái tử do lời khen ngợi của Tuyên Nhân.
Lại xét truyện về Tuyên Nhân viết: “Thần Tông lâm bệnh, Thái tử tự tay chép kinh Phật để cầu phúc, sau khi chính thức lập làm Thái tử, nhân các phụ thần tâu việc, Hoàng hậu từ sau rèm đưa bản kinh ra cho xem và nói: Thái tử thông minh sáng suốt, là phúc của xã tắc.” Nếu Tuyên Nhân không có ý hướng về Triết Tông, sao lại hết lời ca ngợi Thái tử trước khi lên ngôi? Xét theo bản sử vu cáo, việc lập Thái tử và lên ngôi của Triết Tông, hoàn toàn do ý định trước của Tuyên Nhân, rõ ràng như mặt trời mặt trăng không thể che lấp, cần gì đến sự giúp đỡ bên ngoài, lẽ này rõ ràng, sĩ thứ đều biết. Dù Thái Mậu gian xảo, cũng không thể thay đổi được.
Lại xét bản kỷ của Triết Tông viết: “Thái tử lập, Hoàng hậu tạ ơn, Thái hậu vỗ ngực Hoàng hậu nói: Việc xong rồi! Sau đó nhiều lần chỉ ngực nói với Triết Tông: Vẫn còn đau. Sau mẹ của Xác vào cung, Thái hậu chỉ vết đánh vẫn còn.” Lại xét truyện về Tuyên Nhân viết: “Thần Tông lâm bệnh, Ung Vương Hạo nhiều lần xông vào rèm báo với Hoàng hậu, Hoàng hậu không nghe. Đến khi lập Hoàng Thái tử, tay vỗ ngực Hoàng hậu nói: Việc xong rồi!” Thần đọc đến đây, không khỏi rơi lệ. Tuyên Nhân là mẹ của thiên hạ, bảo hộ Triết Tông, chính vị thiên tử, buông rèm nhiếp chính mười năm, ân đức thấm nhuần bốn biển, bậc nữ lưu hiền đức, xưa nay chưa từng có. Bọn gian thần tặc tử, bịa đặt công lao của cha, may mắn được ban thưởng, lại đem chuyện ngoài phố chợ không làm mà vu cáo Thánh mẫu, điều này càng đau lòng. Trước nói tay vỗ ngực, giữa nói vẫn còn đau, sau nói vết đánh vẫn còn, là bàn tay độc ác nào, hung hãn đến thế! Thái Mậu chỉ cầu lời nói thống thiết, khiến người ta tin theo, không biết tự mâu thuẫn.
Lại nữa, Thượng hoàng là cháu của Tuyên Nhân, việc khen ngợi cái tốt mà không nói đến cái xấu là trách nhiệm của con cháu. Giả sử thực sự có chuyện đó, tự nhiên phải giữ kín cho bậc tôn trưởng, huống chi sự việc không có thật, hoàn toàn là vu khống, sao có thể ghi chép được? Mậu dám lừa dối Thượng hoàng, mượn danh nghĩa ngự chế, truyền lại cho đời sau, khiến người đời có thể bàn tán việc Thượng hoàng phao tin xấu về bà nội.
Thần e rằng Thượng hoàng không biết nội dung ghi chép trong 《Đế kỷ》 là như vậy, nếu biết chắc chắn sẽ không mượn danh nghĩa ngự chế. Mậu muốn mưu cầu bổng lộc, làm rạng rỡ gia đình mình, khiến Tuyên Nhân và Thượng hoàng mang tiếng xấu trong thiên hạ, như vậy Mậu có yên lòng không? Bệ hạ là con cháu, chắc chắn không muốn nghe những điều này.
Lại nữa, 《Đế kỷ》 chép: “Thái Xác hỏi Tả bộc xạ Vương Khuê về việc lập thái tử, Khuê không trả lời. Các phụ thần Hàn Chẩn, An Đào, Trương Tảo, Lý Thanh Thần đều im lặng, chỉ có Xác mời Môn hạ thị lang Chương Đôn giúp sức, Đôn tức giận nói: ‘Nói đúng thì nghe theo, không thì cùng chết.’ Khuê mới nói: ‘Trên đã có con, còn bàn gì nữa?'” Thần xem thấy Tuyên Nhân vào ngày mùng một tháng ba khen ngợi thái tử thông minh, ham học như vậy, ý của bà đã rõ ràng, cần gì phải đợi Khuê nói! Khuê trả lời rằng trên đã có con, còn bàn gì nữa! Khuê là thủ tướng, nói như vậy thì sự việc đã rõ ràng, các phụ thần còn bàn cãi gì nữa? Lúc đó các đại thần không biết vì tội gì mà đều bị đày đi xa. Nếu Xác chỉ mời Chương Đôn giúp sức, xem 《Thời chính ký》 do Đôn dâng lên, kể lại việc lập thái tử, không hề có lời nào khác. Đôn bị khiển trách, lời tạ biểu đã tự nói rõ, rằng Đôn ban đầu tuy ghét Khuê, nói lời bừa bãi, nhưng thực tế chưa từng giúp Xác.
Lại nữa, 《Đế kỷ》 chép: “Khi mẹ của Xác vào cung, hoàng hậu sai người bảo Xác nhờ chủ binh quan Yến Đạt và các người khác phò lập.”
Lại nữa, 《Ung vương truyện》 chép: “Khi mẹ của Xác vào cung, hoàng hậu sai người bảo Xác, bên ngoài nhờ chủ binh quan Yến Đạt và Tri Khai Phong phủ Thái Kinh phò lập.” Thần xem thấy vào ngày yến tiệc mùa xuân năm Nguyên Phong thứ bảy[41], thái tử ra mắt quần thần, ý của Thần Tông đối với con đã định; sang tháng ba năm sau, thái tử đứng ngoài rèm, ý của Tuyên Nhân đối với cháu đã định; Yến Đạt, Thái Kinh có liên quan gì? Việc lớn của triều đình, tự có tể tướng đại thần lo, liên quan gì đến Điện tiền ty, Khai Phong phủ? Mậu nói nhờ Đạt, là để nói rõ việc chủ binh sẽ có biến cố, muốn làm lớn chuyện. Còn nói nhờ Kinh giúp mình, là để lấy việc phò lập làm vui lòng ông ta, khiến ông ta ra sức. Thái Kinh vốn nhiều mưu mẹo, mưu mẹo của Mậu còn hơn cả ông ta.
Lại xem 《Kỷ truyện》 chép nhất định phải nói mẹ của Xác tuyên dụ, lại nói lấy vết thương cho mẹ của Xác xem. Lúc nguy nghi như vậy, mẹ của Xác sao có thể nhiều lần vào cung cấm? Đây lại là mưu mẹo của Mậu, muốn khen công lao của mẹ Xác. Nhưng Mậu không chỉ khen công lao của mẹ Xác, lại còn nói Xác vì việc lớn chưa định, về hỏi mẹ, có thiếp tham gia bàn bạc, bèn xin phong làm phu nhân, là người do Thái Trang sinh ra. Văn phong cáo vẫn còn có thể tra cứu. Mậu muốn khoe khoang bà nội và thiếp của cha mình có công trong việc định sách, khiến Tuyên Nhân mang tiếng xấu, sao không đau lòng cho được? Thần lại nghe 《Đế kỷ》 chép: “Xác xin chọn mười nội thị trung cần để hầu hạ bên cạnh thái tử, phòng bị ý đồ xấu.” Thần xem thấy Tuyên Nhân bảo hộ Triết Tông, ân nghĩa đã đầy đủ, còn ý đồ xấu gì mà phải phòng bị? Nói đến mức này, vu khống càng thêm quá đáng!
Thần lại nghe rằng Thái Kinh giúp Mậu tạo ra lời vu cáo này, không chỉ vì nhận hối lộ của Mậu và khoe công lao của mình, mà ý đồ của ông ta còn nhằm vào Trịnh Cư Trung. Cư Trung là con rể của Vương Khuê. Khi Thái Kinh làm Thái sư, Cư Trung làm Tể tướng, hai người thường bất hòa trong các cuộc thảo luận. Thái Kinh muốn loại bỏ Cư Trung nhưng chưa có cơ hội, nên đã vu cáo Vương Khuê là bất trung, nhằm đuổi luôn cả con rể của ông ta. Thái Kinh muốn dùng ý đồ riêng để vu cáo nặng nề Tuyên Nhân, khiến bà bị đày ra ngoài biển, nhưng tội đó không xứng với hình phạt. Tuy nhiên, thần hôm nay chỉ bàn về những điều được ghi trong sử sách bôi nhọ, không dẫn thêm lời khác để làm phiền Thánh thượng[42].
Nay thần xin ghi chép riêng phần Đế kỷ và hai truyện về việc lập ngôi, cùng dâng lên. Kính mong Bệ hạ dành thời gian xem xét, và xin lấy bản “Thời chính ký” của Môn hạ tỉnh do Chương Đôn dâng ngày 1 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8, bản “Thời chính ký” của Xu mật viện do Triệu Chiêm biên soạn ngày 22 tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 4, cùng bản “Thời chính ký” của Tam tỉnh do Lưu Chí dâng, để đối chiếu và xác minh. Như vậy, Bệ hạ sẽ thấy lời thần bàn là không sai. Nếu ý trời thấu suốt, thấy rõ tình hình, kính mong Bệ hạ lại hạ chiếu cho sử quan, lấy những ghi chép đương thời để tham khảo, chỉnh sửa, đốt bỏ sách sử bôi nhọ, dứt bỏ căn nguyên, xử tội Mậu, trừng trị nặng, tước bỏ tước vương của Xác, phá hủy bia đá và lầu, thu hồi tất cả ân điển, ruộng đất, nhà cửa mà gia đình, thân thuộc, các vợ thiếp của họ đã nhận được. Các sử quan chấp bút cũng nên bị cách chức trước. Như vậy mới an ủi được linh hồn Tuyên Nhân trên trời, khiến nỗi oán hận ba mươi năm được rửa sạch trong một ngày, há chẳng làm lòng thiên hạ vui sao! Xưa, Đông Hải giết oan một người đàn bà hiếu thảo còn khiến trời hạn hán ba năm, huống chi là mẹ của thiên hạ bị gian thần vu cáo, trời đất há chẳng nổi giận? Việc hôm nay, chính là lúc Bệ hạ làm tròn bổn phận của con cháu, hoàn thành vẻ đẹp của tổ tiên, để lại tiếng thơm muôn đời, công lao thật lớn lao. Kính mong Bệ hạ lưu tâm. Xin chỉ dụ.”
Thiếp hoàng viết: “Thần nghe nói Thái Xác còn có truyện riêng, trong đó có nhiều lời vu cáo, kính xin lấy về xóa bỏ, để tránh lưu truyền, gây hoang mang cho thiên hạ. Các quan từng tâu rằng gần đây đã bàn về việc Thái Mậu vu cáo Tuyên Nhân Thánh Liệt Hoàng hậu, xin chỉnh sửa lại kỷ truyện, nhưng đến nay chưa thấy thi hành. Thần nhân việc công lên điện, lại được Thánh chỉ, sai thần chép lại tờ tấu dâng lên. Lại nghe Bệ hạ có chỉ, sai các quan hầu cận họp bàn. Thần nghĩ rằng việc Tuyên Nhân bị vu cáo, thiên hạ đều biết là sai, không cần họp bàn mới rõ. Nhưng điều đáng bàn là những lời vu cáo trong Đế kỷ của Triết Tông và hai truyện của Tuyên Nhân, Ung Vương, nên sai các quan hầu cận lấy “Thời chính ký” của Tam tỉnh, Xu mật viện đương thời để đối chiếu, bàn luận đúng sai, thật giả, rồi mới chỉnh sửa chính sử, đó mới là điều cấp thiết. Hơn nữa, những điều thần bàn trong tờ tấu, chỉ là xem xét lại sự việc trong Đế kỷ và hai truyện, đã rõ ràng. Nay kính theo Thánh chỉ, chép lại nguyên tờ tấu, kỷ truyện dâng lên, kính mong Thánh từ sớm ban xuống, để họp bàn, khiến công đức của Tuyên Nhân được tỏ rõ khắp thiên hạ, thật là may mắn. Xin chỉ dụ.”
Lại chép tiếp từ ngày 26 tháng 7 phụng Thánh chỉ: “Sai các quan hầu cận họp bàn.” “Tờ tấu gửi Lại bộ và Thượng thư tỉnh tuân theo chỉ dụ đã ban, thi hành ngay.”
Năm Kiến Viêm đầu tiên, Quốc sử viện dâng tờ trình lên Lưu thủ ty: “Quốc sử viện ngày mồng 8 tháng này nhận được tờ tấu của Thượng thư tỉnh, ngày 2 tháng 5, Môn hạ tỉnh, Trung thư tỉnh, Xu mật viện cùng phụng Thánh chỉ: ‘Tuyên Nhân Thánh Liệt Hoàng hậu bảo hộ Triết Tông, có công lớn an định xã tắc, bọn gian thần vì tư lợi, vu cáo Thánh đức, ghi vào quốc sử để lừa dối hậu thế, nên sai Quốc sử viện căn cứ sự thật chỉnh sửa, tuyên cáo khắp thiên hạ. Còn Thái Xác, Thái Biện, Hình Thứ, Thái Mậu, Tam tỉnh xin chỉ xử lý, không được dẫn dụng. Ngày 1 tháng 5 năm Kiến Viêm nguyên niên.’ Tờ tấu gửi viện[43]. Xét viện chỉ có một viên Hàn lâm học sĩ là Mạc Thù, gần đây đi Nam Kinh nghênh đón xa giá, nên việc sai người khác, xin triều đình chỉ dụ, cần phải trình báo. Kính trình lên Lưu thủ ty. Xin trình lên triều đình sai người khác thi hành, kính đợi chỉ dụ.”
Từ phần biện bạch của Thiệu Bá Ôn đến đây, đều trích từ 《Biện vu lục》.
Sách 《Thái Đôn Trực Bút》 chép: “Vào triều Thần Tông, năm Nguyên Phong thứ 7, trong buổi yến tiệc mùa xuân, Vua nghỉ ngơi tại điện Diên Xuân, nằm mộng thấy điềm lạ, giật mình tỉnh dậy, liền triệu Khâm Thánh Hiến Túc hoàng hậu đến kể lại giấc mộng. Sau đó, Vua gọi Khâm Thành Chu hoàng hậu dẫn theo Triết Tông đến, lúc ấy Triết Tông mới 9 tuổi, cùng Vua ngự tại điện Tập Anh. Vua ban chiếu cho các tể tướng, đại thần và thân vương vào chầu, đứng hầu trước mặt, xem trò đá cầu xong rồi lui về. Lúc ấy, tể tướng Vương Khuê cùng các quan dâng thơ ca ngợi.
Ngày mồng 3 tháng giêng năm Nguyên Phong thứ 8, Vua đột nhiên lâm bệnh nặng, bị trúng phong mất tiếng, ban chiếu xá tội. Từ đó bệnh tình ngày càng nặng, thái y Trần Dị Giản từng khám bệnh cho Thần Tông rất tinh tường, được Vua tin dùng, lúc ấy từ Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu trở xuống, trong cung ngoài triều đều giao phó việc chữa bệnh cho Dị Giản. Đến cuối tháng 2, Dị Giản xin vào điện Bảo Từ tâu việc, Tuyên Nhân triệu kiến, Dị Giản tâu rằng: ‘Bệnh tình của bệ hạ rất nguy kịch, thần đáng chết muôn lần, những ngày qua đã hết sức chữa trị nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Mỗi lần ra ngoài, thần nghe ngóng tình hình triều chính, thấy đều không có biện pháp gì. Nay thần đã dốc hết y thuật, không thể cứu chữa được nữa, xin hoàng hậu sớm bàn bạc với các tể tướng.’ Tuyên Nhân khóc, dặn Dị Giản cố gắng tìm mọi cách chữa trị.
Sau đó, Tuyên Nhân triệu Vương Khuê cùng các quan đến điện Bảo Từ, nói: ‘Vừa rồi Trần Dị Giản tâu rằng bệnh tình của bệ hạ rất đáng lo, nói rằng thần đã không thể cứu chữa được nữa, nghe nói triều đình vẫn chưa có biện pháp gì, xin sớm bàn bạc với các tể tướng.’ Rồi khóc hỏi Vương Khuê cùng các quan nên làm thế nào. Khuê đứng đầu trả lời, nhưng vốn nói lắp, chỉ lặp lại chữ ‘dạ’ mấy lần. Tuyên Nhân nói: ‘Các tể tướng có gì khó xử? Bệ hạ có con trai, đứa bé rất hiếu thuận. Từ khi bệ hạ uống thuốc đến nay, chỉ ăn chay, chép kinh.’ Rồi gọi thái giám đem hai quyển kinh Tiêu Tai do Triết Tông chép ra cho Khuê và các quan xem, sau đó lập Diên An quận vương làm hoàng thái tử. Đến ngày mồng 5 tháng 3, thái tử lên ngôi, tức là Vua Triết Tông.”
《Thái Đôn Trực Bút》 có chỗ khác biệt so với các sách khác, nay phụ chép vào đây.)
[2] Cảnh Phúc điện sứ, Vũ Tín quân lưu hậu, Nhập nội phó đô tri, Hi Hà Lan Hội lộ kinh lược an phủ chế trí sứ Lý Hiến, bị truy làm Nhập nội phó đô tri, Vũ Tín quân lưu hậu, các chức vụ sai khiển ở Hi Hà Lan Hội lộ vẫn giữ như cũ. Do Hiến sai tướng đi đánh giặc có công, đặc cách miễn bị cách chức. An châu Quan sát chi sứ, Quản câu cơ nghi văn tự Chung Truyền, bị tước danh hiệu, cách chức, đày đi Sâm châu. Đông đầu Cung phụng quan, Cáp môn Chi hậu, Thư tả cơ nghi văn tự Lý Vũ, bị truy làm Cáp môn Chi hậu. Hữu Thị cấm, Điểm kiểm văn tự Tương Dụng, Tả ban Điện trực, Hi Hà Bắc quan thủ bả kiêm Chế trí ty dịch ngữ Mễ An, đều bị truy một chức, phạt 10 cân đồng, nhưng được miễn cách chức. Hữu ban Điện trực Hoàng Phủ Đán bị tước danh hiệu, cách chức, đày đi Nam An quân. Tả Thị cấm, Thông Viễn quân Du Mộc sá Tuần kiểm Hà Quý, Tây đầu Cung phụng quan, Hi Hà lộ Giám mục sở Chỉ sử Trương Thủ Cấm, đều bị giáng một chức, nhưng được miễn cách chức. Hiến và những người khác bị kết tội tâu công trạng biên giới không đúng sự thật, giao cho Ngự sử đài xét hỏi. Hiến ba lần bị hỏi mà không nhận tội, Ngự sử đài xin bắt giam, nhưng chiếu chỉ dùng chứng cứ của mọi người để kết án. Đến khi án tâu lên, đặc cách xử phạt họ[44].
(Chiếu dùng chứng cứ của mọi người để kết án, là vào tháng 12 năm ngoái ngày Tân Mùi, nay theo bản Chu nhập vào đây.
Sách cũ 《Lý Hiến truyền》 chép: “Triết Tông lên ngôi, gặp lúc đài quan hặc tội Hoàng Phủ Đán, việc án đã xong, Hiến vì tấu sự không đồng ý nên bị cách chức nội tỉnh, giáng làm Đô tổng quản lộ Vĩnh Hưng. Trước đó, Thần Tông giao cho Hiến chiêu dụ Đổng Chiên, cắt đứt cánh tay phải của người Hạ. Hiến sai Hoàng Phủ Đán đi sứ Chiên, Chiên do dự, Đán báo cáo không đúng sự thật, nên bị liên lụy mà bị trách phạt.”
Sách mới 《Biện》 viết: “Xét việc Hoàng Phủ Đán, so với sách 《Thần Tông thực lục》 chép khác nhau, nay theo 《Thực lục》 mà sửa chữa.” Sách mới 《Lý Hiến truyền》 chép: “Ban đầu chiếu cho Hiến sai người đi dụ A Lý Cốt, liên kết với Hồi Cốt, Thát Đát để quấy rối người Hạ, sau đó Hiến chọn Hữu Ban Điện Trực Hoàng Phủ Đán áp giải hai thủ lĩnh nước này về kinh phục mệnh, mang chiếu dụ Đổng Chiên, A Lý Cốt xuất binh. Hiến giận việc không do mình chủ trương, tấu rằng Đán khó thành công, chắc chắn không thể làm được, khác với bản tấu ban đầu. Đán vào đất Phiên, bị Thanh Nghi chặn lại, dừng ở chùa Trủng Sơn, không thể tiến lên. Lại tấu công trạng bắt giặc, Vua xét ra, sai bắt Đán giao cho đài ngục. Sai Ngự sử đến hặc tội Hiến, việc án xong, cách chức nội tỉnh, giáng làm Đô tổng quản lộ Vĩnh Hưng Quân.”
Sách mới và sách cũ đều chép giáng làm Đô tổng quản lộ Vĩnh Hưng Quân, nhưng theo 《Thực lục》 thì vẫn sai khiển như cũ ở lộ Hi Hà Lan Hội, đến ngày 16 tháng 6 mới bị giáng làm Phó Đô tổng quản lộ Vĩnh Hưng Quân. Sách mới và sách cũ đều sai. Chương Đôn làm bài văn tế Vương Khuê có câu: “Tự phụng Loan Đài trực, thao tùy trắc giáng tung, cộng trần tôn thánh tự, lũ thỉnh bãi quân dung.” Tự chú rằng: “Từ khi lập Tam Tỉnh, Đôn cùng ông ở Môn Hạ. Mùa xuân năm Nguyên Phong thứ 7, trong lúc nói chuyện, cùng ông tấu xin cho nay Thượng làm Diên An Quận Vương thị yến[45]. Hôm sau, Môn Hạ Tỉnh tấu việc, xin định ngày xuất các, nhân đó trình bày việc lập Đông Cung, Đại Hành Hoàng Đế dụ rằng đợi đến mùa xuân năm sau. Lại nữa, Môn Hạ Tỉnh thường tấu việc Lý Hiến lộng quyền khó gần, trong lúc nói chuyện, Đôn nói việc dùng Lý Hiến không thể làm gương cho đời sau, ông liệt kê tội trạng Hiến lộng quyền cậy thế, Tiên Đế gật đầu, nói sẽ cách chức nội tỉnh của Hiến.”
Xét hai việc này đều do Đôn tự thuật trong bài văn tế Khuê vào đầu năm Nguyên Hựu. Việc tôn thánh tự, sau này tự cho là công lao, vu cáo Khuê có lòng bất trung. Vì thế con Khuê là Trọng Tu chép rõ dâng lên, để minh oan cho cha. Việc bãi quân dung, cũng chắc là do Hiến vì tấu biên sự không đúng mà bị cách, rồi Đôn mạo nhận là mình từng cùng Khuê dâng lời, nay không theo, cần xét kỹ thêm. Sách cũ chép Lưu Hậu quân Vũ Tín Lý Hiến vì trái chiếu chỉ tấu báo không đúng, bị giáng làm Quan sát sứ châu Tuyên, bãi chức Nội Phó Đô Tri, sách mới không chép.
《Chu Văn Công ngữ loại》 chép: “Thần Tông quyết tâm muốn lấy Hoành Sơn, vì được Hoành Sơn thì có thể dựa cao mà khống chế địch. Nhưng muốn lấy đất Hoành Sơn, lại phải dựa vào thành Vĩnh Lạc. Người Hạ liều chết tranh giành, quân ta đại bại. Thần Tông nghe tin thất trận đau đớn, từ đó thân thể không được khỏe.”
Xét 《Biên niên》 chép: “Năm Tuyên Hòa thứ nhất, Đồng Quán sai Chủng Sư Đạo, Lưu Diên Khánh đánh lấy các trại Vĩnh Hòa của nước Hạ, đại thắng người Hạ rồi về. Tháng 6, người Hạ xin hàng. Trước đó, người Hạ dựa vào các nơi hiểm yếu ở Hoành Sơn để chống lại Trung Quốc, những năm Khánh Lịch, Vương Tự Tông, Phạm Trọng Yêm đề nghị thu phục, nhưng gặp lúc Nguyên Hạo xin hàng nên dừng lại. Những năm Nguyên Phong, Lý Hiến đề nghị, nhưng gặp lúc quân ta thất bại, Thần Tông chán chiến tranh, không thực hiện được. Quán từng theo Hiến nắm được quy mô, đầu năm Chính Hòa, bàn việc xây dựng, đến lúc này hơn 10 năm, mới lấy được đất Hoành Sơn, người Hạ mất chỗ dựa, nên xin hàng. Nhưng lúc đó nước ta đã có kế hoạch bình Yên, càng thêm nhiều việc. Sau đó Tây Hạ và Nữ Chân có ước, mùa đông năm Ất Tỵ, Nữ Chân vây Thái Nguyên, người Hạ xâm phạm Hà Ngoại, đó là do việc lấy Hoành Sơn đã kết oán với họ.”
Lại nói: “Thần Tông mới lên ngôi, Phú Hàn Công làm tướng, hỏi về yếu lĩnh trị nước, Phú Công nói: ‘Cần 20 năm không nói đến hai chữ dụng binh.’ Câu này đã không hợp ý Thần Tông, sau đó trọng dụng Vương Giới Phủ, đầu tiên dùng lời lẽ về dụng binh hợp ý Vua, Vua tôi rất hòa hợp. Lúc đó Tư Hộ quân Kiến Xương Vương Thiều dâng sách Bình Nhung, Giới Phủ hết lòng tiến cử, đầu tiên làm Cơ Nghi ty Kinh Lược lộ Tần Phượng, sau đến quân Thông Viễn, một trận mà thu phục Hi Hà. Tin thắng trận báo lên, Vua rất vui, cởi đai ngọc bạch ban cho Giới Phủ, khen ngợi ông biết người. Lại gia phong Thiều làm Long Đồ Các Đãi Chế, làm tướng Hi Hà. Hi Hà vốn là quân Trấn Đào, nhân thu phục đất ấy, đổi làm châu Hi, chỉ là vùng đất rộng lớn, có cũng không thêm gì, không có cũng không mất gì. Nhưng sau một trận thắng, triều đình nhất quyết chủ trương dụng binh, ba lần thua đến Vĩnh Lạc là cùng. Trận thua Vĩnh Lạc, Từ Hi tử trận. Hi là cha của Sư Xuyên, em rể của Hoàng Lỗ Trực. Ông giỏi văn chương, thích bàn việc binh, có sách Tiến Sách lưu hành, văn chương rất hay, trước khi văn chương Nhị Tô ra đời, học giả tranh nhau truyền tụng.”)
- Sử quan thời Thiệu Hưng đã biện minh rõ, chữ 'Sử' nguyên là 'Các', theo 《Trị tích thống loại》 quyển 18 'Tuyên Nhân thùy liêm thánh chính' sửa. Xét đoạn dưới có câu 'Sử quan thời Thiệu Hưng cũng chưa thấy', lại sách này quyển 351 năm Nguyên Phong thứ 8 tháng 2 ngày Quý Tỵ chép việc này, có câu 'Sử quan thời Thiệu Hưng đã khảo định riêng', có thể chứng minh. ↵
- Lại tháng 11, 'Tháng 11' nguyên là 'Tháng mười một', theo các bản khác và bản hoạt tự bỏ chữ 'một'. ↵
- 'Hịch' chữ này nghi là nên làm 'chước'. ↵
- 'Tháng 3' nguyên bản là 'tháng 2'. Xét đoạn văn sau có 'ngày 29 tháng 2, Quý Tỵ, nghỉ lễ Hàn tiết', 'ngày 1 tháng 3, Giáp Ngọ, nghỉ lễ Hàn tiết', không thể ghi chép việc sau ngày 29 vào ngày 3 tháng 2, nên sửa lại. Lại xét đoạn văn sau 'thần có tờ tấu trình báo việc ghi chép thời chính của Môn hạ tỉnh ngày 3 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8', 'tháng 3' nguyên bản cũng viết là 'tháng 2', nay đều sửa lại. ↵
- 'Hai' nguyên bản là 'ba'. Xét đoạn văn sau nhiều chỗ viết 'hai quyển', lại xét đoạn văn sau dẫn lời của Hàn Thái Trung Tông Vũ ghi chép lời cha là Thừa tướng Chẩn, có 'trong rèm truyền ra hai quyển kinh, một là kinh Tiêu tai, một là kinh Diên thọ', nên sửa lại. ↵
- Việc gọi là Hoàng hậu cố tranh, chữ 'lực' nguyên là 'lập', theo các bản sửa. Xét trên có 'Hoàng hậu cố tranh', dưới có 'nếu nói cùng Tuyên Nhân cố tranh', 'há có lý cố tranh', có thể chứng minh. ↵
- Từ 'tháng 2' đến 'dẫn ra' 60 chữ, xét: nên là 59 chữ. ↵
- Xin lập làm Hoàng thái tử để giữ lòng thiên hạch 'Hệ' nguyên là 'Bảo', theo bản khác sửa lại. Xem đoạn sau dẫn truyện Thái Xác có câu này, viết là 'Hệ', có thể chứng minh. ↵
- Thần Tông cũng nhìn và gật đầu 'Diệc' nguyên là 'phương'. Xem quyển 351 năm Nguyên Phong thứ 8 tháng 2 ngày Quý Tỵ chép việc này viết là 'Thượng cũng nhìn và gật đầu', theo đó sửa lại. ↵
- Việc phế lập cũng oan cho bà ấy 'tha' nguyên là 'dã', theo bản khác sửa lại. Xem đoạn sau dẫn 《Tăng Bố nhật lục》 có câu này, viết là 'tha', có thể chứng minh. ↵
- Từ 'Hữu bộc xạ' đến 'vãn chỉ chi' 283 chữ, xét ra nên là 282 chữ. ↵
- Từ 'Cuối năm Nguyên Phong' đến 'lâu sau việc này mới bị đồn ra' 51 chữ, chữ 'năm' nguyên là 'ba', theo bản các sửa. ↵
- Xác càng sợ 'càng' nguyên là 'cũng'. Theo các bản sửa. ↵
- Nay xóa bỏ 462 chữ từ 'năm thứ 6 mùa thu' đến 'ba lần gật đầu' theo: nên tính từ 'mùa thu năm Nguyên Phong thứ 6' thì số chữ mới hợp. ↵
- Việc Ngô Xử Hậu dâng thơ: chữ 'dâng' nguyên là 'nối', theo bản các và 《Tống sử》 quyển 471 truyện Ngô Xử Hậu sửa lại. ↵
- Chữ 'rõ' nghi là 'thường'. ↵
- Nay xóa bỏ 76 chữ theo văn nghĩa từ 'Tuyên Nhân Thánh Liệt' đến 'sao có thể tiếp tục làm nội thị', nên là 79 chữ. ↵
- 'có lẽ' nguyên văn là 'mật', ý không rõ, nay theo bản các mà sửa. ↵
- thì Khuê không thể không bị trách 'không trách', bản các các làm 'vô trách'. Xét câu dưới 'thì thần không thể vô tội', có lẽ bản các các nghĩa đúng hơn. ↵
- lại biết tiên đế Thái hoàng thái hậu thường nghe theo bản các các 'thường nghe theo' có chữ 'thường'. ↵
- và các thị tòng hiện nay có người biết rõ 'thị' nguyên là 'đãi', theo bản các các, bản hoạt tự sửa. ↵
- Nguyên văn là 'Cố Kim tử Quang lộc', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 312, truyện Vương Khuê và 《Thái bình trị tích thống loại》 quyển 18, 'Tuyên Nhân thùy liêm thánh chính' sửa lại. ↵
- Nguyên văn 'thời' và 'đặc' đảo lộn, căn cứ theo bản trong các bộ sử sửa lại. ↵
- Nguyên văn 'ty' viết thành 'sứ', căn cứ theo bản trong các bộ sử và 《Tống sử》 quyển 167, 'Chức quan chí 7' sửa lại. ↵
- Nguyên văn 'bắc' viết thành 'triệu', căn cứ theo bản trong các bộ sử và 《Tống sử》 quyển 86, 'Địa lý chí 2' sửa lại. ↵
- Chữ 'sư' trong 'Tuân Dụ tang sư số thập vạn' vốn thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- Hoàng hậu Tuyên Nhân Thánh Liệt là mẹ của Thần Tông, là tằng tổ mẫu của bệ hạ. Chữ 'tằng' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản khác và bản hoạt tự bổ sung. Xét sách của Giang Đoan Hữu dâng lên vào năm Tĩnh Khang thứ nhất đời Khâm Tông, Tuyên Nhân là hoàng hậu của Anh Tông, là tằng tổ mẫu của Khâm Tông. ↵
- Xưa Hán Linh Đế mơ thấy Uy Đế giận vì trách Tống Hoàng hậu. Chữ 'mơ' nguyên bản là 'hoăng', căn cứ vào các bản khác sửa lại. Xét 《Hậu Hán thư》 quyển 10 hạ, phần Hoàng hậu ký: 'Linh Đế Tống Hoàng hậu... lo buồn mà chết... sau đó Linh Đế mơ thấy Hoàn Đế giận nói: Tống Hoàng hậu có tội gì?' Khâm Tông tên là Hoàn, người Tống kiêng húy nên thay bằng chữ Uy, Uy Đế tức là Hoàn Đế. ↵
- Bên trong là Lưu Duy Giản, các bản khác chép là 'bên trong là Tòng Chính Duy Giản', bản hoạt tự chép là 'bên trong là Lương Duy Giản'.
Xét 《Tống sử》 quyển 467, phần Hoạn giả truyện có truyện của Lương Tòng Cát và Lưu Duy Giản, nay tạm giữ nguyên. ↵
- Điều này càng đáng phẫn nộ 'càng' nguyên văn là 'do', theo bản sửa. ↵
- Sao một hai người có thể giải quyết 'giải quyết' chữ nghi là 'biện'. ↵
- Tuyên Nhân là con nuôi của Từ Thánh 'Từ Thánh' nguyên văn là 'Thánh Từ', theo bản sửa và 《Tống sử》 quyển 242, truyện hậu phi. ↵
- Ngày Bính Thân, mùng 1 tháng giêng, mùa xuân năm Nguyên Phong thứ 8 'Quý' chữ nghi là thừa. ↵
- bảo thần trình bày đầu đuôi việc tiên thần Xác nhận di chiếu định sách cuối năm Nguyên Phong 'nhận' nguyên là 'thụ', theo các bản sửa. ↵
- chữ 'luận' nguyên là 'dụ', theo các bản sửa. ↵
- Xác xin chọn mười nội thị trung thành cẩn thận để hộ vệ bên cạnh thái tử 'Thái tử' nguyên bản là 'Hoàng hậu'. Xét tờ tấu của Thái Mậu dâng lên trước đó có chép: 'Sau chọn mười trung sĩ được Thần Tông tin dùng, lệnh cho hộ vệ thái tử', đoạn sau dẫn sách 《Triết Tông hoàng đế kỷ》 có chép: 'Xác xin chọn mười nội thị trung thành cần mẫn để hộ vệ bên cạnh thái tử, phòng bất trắc', đều hợp với tình thế lúc đó, nên sửa lại. ↵
- Ngày Mậu Tuất lên ngôi hoàng đế 'Mậu Tuất' nguyên bản là 'Mậu Thìn'. Xét sách 《Tống sử》 quyển 16 《Thần Tông kỷ 3》 chép: 'Ngày Mậu Tuất, hoàng thượng băng ở điện Phúc Ninh, thọ 38 tuổi, thái tử lên ngôi hoàng đế.' Sách 《Tống sử》 quyển 17 《Triết Tông kỷ》 chép: 'Ngày Mậu Tuất, Thần Tông băng, thái tử lên ngôi hoàng đế.' Nên sửa lại. ↵
- Nhờ ý hoàng hậu không đổi 'Hoàng hậu' nguyên bản là 'mẹ', theo các bản khác sửa lại. Xét đoạn này dẫn sách 《Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu truyền》, nên gọi là hoàng hậu, huống chi Tuyên Nhân là bà nội của Triết Tông, cũng không thể gọi là mẹ. Lại xét câu sau gọi là hoàng hậu, có thể chứng minh. ↵
- Lại có lời báng bổ như trước, chữ 'lại' nghi là chữ 'Hữu'. ↵
- Chi bằng sớm biện chính, hai chữ 'chi bằng' nghi là đảo ngược. ↵
- Ngày yến tiệc mùa xuân năm Nguyên Phong thứ bảy là ngày Đinh Tỵ tháng ba, xem 《Tục thông giám》 quyển 77. Lại nữa, 《Tống sử》 quyển 17 《Triết Tông kỷ》 chép: 'Tháng ba năm thứ bảy, Thần Tông yến tiệc quần thần ở điện Tập Anh, thái tử đứng hầu.' ↵
- Không dẫn thêm lời khác để làm phiền Thánh thượng, chữ 'miễn' nguyên là 'vãn', theo bản khác sửa lại ↵
- Ngày 1 tháng 5 năm Kiến Viêm nguyên niên, tờ tấu gửi viện, chữ 'sắc' nguyên là 'xá'. Xét văn trên nói 'nhận được tờ tấu của Thượng thư tỉnh, ngày 2 tháng 5, Môn hạ tỉnh, Trung thư tỉnh, Xu mật viện cùng phụng Thánh chỉ' vân vân, cuối văn ghi ngày, nên thêm chữ 'sắc', theo bản khác sửa lại ↵
- Đến khi án tâu lên, đặc cách xử phạt họ 'Đến khi án' ba chữ nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản khác bổ sung. ↵
- Nay Thượng làm Diên An Quận Vương thị yến, chữ 'nay' nguyên là 'lệnh', theo bản các sửa. ↵