VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 354: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Bắt đầu từ ngày Bính Dần tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết ngày Bính Tuất cùng tháng.
[1] Tháng 4 mùa hạ, ngày Bính Dần, Vua lần đầu ngự tại điện Tử Thần, các tể tướng và quan lại dưới quyền tâu việc, các cơ quan khác vẫn chưa được phép vào chầu.
[2] Ngày Đinh Mão, Đại Lý khanh Vương Hiếu Tiên tâu rằng nhà ngục trống không. Chiếu chỉ giao cho Bí thư tỉnh, đồng thời lệnh cho Học sĩ viện ban chiếu khen ngợi.
[3] Ngày Mậu Thìn, phong nhũ mẫu của Vua là Đậu thị làm An Khang quận phu nhân.
[4] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu: “Tái thí tiến sĩ và các khoa vũ cử nhân, bãi bỏ kỳ thi đình năm nay. Những người đủ điều kiện dự thi đình trực tiếp, sẽ được xếp theo thứ hạng của kỳ thi tỉnh trước, đứng dưới những người chính thức dự thi năm nay. Những người chưa từng dự thi tỉnh, sẽ cùng thi một bài sách với tiến sĩ chính thức, nhưng ở phòng thi riêng.”
[5] Trung thư tỉnh xét thấy các quan ở các lộ đã được thay thế hoặc đã nhận chức vụ khác, do Giám ty tâu xin được lưu lại tại chức cũ hoặc được điều về chức cũ để cùng với quan đương nhiệm đốc thúc thu nợ. Nay theo chiếu chỉ ân xá, các khoản nợ của dân đều được miễn giảm. Chiếu chỉ lệnh cho tất cả được miễn nhiệm, những người đang tại chức hoặc đã được điều động nhưng chức cũ chưa có người thay thế, đều được phép trở về chức cũ.
(Ghi chép trong sách ngày 6 tháng 4 năm thứ 8 theo thánh chỉ.)
[6] Ngày Canh Ngọ, Thượng thư tỉnh tâu: “Kinh lược sứ Hà Đông lộ Lữ Huệ Khanh tâu: ‘Quân Dũng Cảm Hà Đông định biên chế 300 người, nhưng bảy lộ chỉ có 200 người[1], lương bổng ít ỏi, nên người ứng mộ rất ít. Thần trước đây khi nhậm chức Kinh lược sứ Phu Diên lộ, đã tâu xin tăng lương ba bậc, cấp ngựa tỉnh và bảy phần thảo liệu, đặt doanh trại tại Diên Châu, cử chỉ huy dạy võ nghệ. Từ đó, số người ứng mộ tăng lên, xin được áp dụng theo chỉ huy đã được ban ở Thiểm Tây lộ.'” Vua đồng ý.
[7] Xu mật viện tâu rằng, theo chế độ gần đây, các quan lớn nhỏ khi vào chầu tạ ơn hoặc từ biệt mà có hành vi xấc xược, sẽ bị phạt tội đồ hai năm. Nay xin rằng các quan trong các ban trực, các quân trung tá, thân tòng, thân sự quan và các hạng người khác, khi vào điện mà có hành vi xấc xược, cũng bị phạt tội đồ hai năm, nếu tình tiết nặng thì xin chỉ, người quản lý sẽ bị xử tội không phát hiện. Chiếu chuẩn y.
[8] Ngày Tân Mùi, Lễ bộ tâu rằng, việc tôn phong sách cho Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng thái phi, xin đợi ba năm tang chế xong mới cử hành lễ. Theo đó.
[9] Kinh Đông lộ đô chuyển vận sứ, Thiên Chương các đãi chế Ngô Cư Hậu bị giáng làm Tri Lư châu, vì có người tâu rằng ông ta hà khắc.
(Cần tra xét tên người tâu. Hàn Quán chép lời Lưu An Thế rằng[2]: Cuối năm Nguyên Phong, ở Kinh Đông có mấy nghìn giặc cướp, định bắt viên lại bóc lột Ngô Cư Hậu ném vào lò luyện sắt, may nhờ Cư Hậu phát hiện sớm, trốn đi đường tắt, nếu không thì giặc giết một đô chuyển vận sứ, quan trên có thể yên ổn được sao?”)
[10] Chiếu cho Hộ bộ thị lang Lý Định, lấy các việc mà Đô đề cử Biện Hà đê ngạn ty đang quản lý, cùng các lợi tức mà Đề cử kinh thành sở quản lý[3], phân tích rõ rồi tâu lên.
(Tháng 5 ngày Ất Mùi đều bãi bỏ. Đô đại đề cử Biện Hà đê ngạn ty, bắt đầu đặt ngày 22 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 2, ngày 12 tháng 5 năm thứ 3 đổi tên như hiện nay.)
[11] Chiếu cho Thượng thư tỉnh Tả, Hữu ty lấy các khoản tiền miễn hành nạp chi tại kinh đô, xin chỉ dụ.
(Cựu lục chép: Tiên đế thấy nước đục chảy vào sông Biện, gây bồi lắng và dòng chảy xiết, dân kinh đô lo lắng về nước lụt, bèn dẫn nước sông Lạc thông với sông Biện, lập ty để quản lý. Lại có việc các quan ty mua vật phẩm, bắt buộc người buôn phải cung ứng, lại nhân cơ hội làm điều gian trá, khiến dân chúng phải bỏ trốn hoặc phá sản, dân chúng lo sợ. Bèn chia hạng nộp tiền để miễn phải đi buôn, dùng tiền đó thuê người cung ứng, còn các quan ty cấm không được mua bán với dân, dân chúng mới được yên ổn. Đến nay, bọn gian thần lừa dối triều đình, cho rằng việc này không đúng. Lúc đó, Tiên đế mới băng hà chưa đầy một tháng[4], việc thay đổi pháp độ bắt đầu từ đây, sau đó mọi việc lớn nhỏ đều cải cách, Vua chưa thân chính. Tân lục biện giải rằng: Thần Tông hoàng đế từng trách cứ về tệ hưng lợi, nói: “Việc quá nhỏ nhặt, có hại cho quốc thể.” Đó là lời trách sâu sắc về lỗi của các quan ty. Những gì thi hành đều sai lệch bản ý, đều có ý thay đổi. Chiếu thư còn đầy đủ, có thể tra cứu mà biết. Ty Thông Biện vốn là để cứu nạn, tiền miễn hành vốn là để tiện dân, nhưng cuối cùng các quan ty đều gần với việc hưng lợi, đến nay chiếu lấy các việc để định có thể hay không, cũng là theo ý của Thần Tông mà thi hành. Từ “Tiên đế thấy nước đục chảy vào sông Biện” đến “Vua chưa thân chính” 116 chữ đều bị xóa bỏ.)
[12] Lại chiếu rằng các quan viên tông thất đã đến mức pháp lệnh ma khám, được hưởng ân điển ngày 6 tháng 3 năm nay, đều đặc cách thăng chức[5], theo lệ gia ân.
[13] Lại có chiếu rằng: “Các khu vực thuộc phủ Khai Phong, Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông nuôi ngựa dân, gần đây đã chi tiền mua bổ sung, phân bổ điền vào các quân thiếu ngựa ở các lộ Hà Đông, Phu Diên, Hoàn Khánh. Từ nay, các chỉ huy nuôi ngựa ở phủ giới và các lộ Kinh Đông v.v…[6] đều bãi bỏ.”
[14] Lại có chiếu rằng: “Pháp nuôi ngựa bảo giáp ở các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, thời hạn quy định ban đầu rất khoan dung, dân gian dễ dàng thực hiện, nhưng quan lại không chịu tuân thủ, lại dám tâu xin thay đổi, thời hạn gấp gáp, dẫn đến nhiễu loạn. Tiên đế từng ban chiếu trách cứ và ước thúc, đến nay vẫn không tuân hành. Nay các lộ này nuôi ngựa bảo giáp, nên theo đúng thời hạn quy định ban đầu mà thu mua, số lượng mua vượt quá thì tính vào năm sau.”
[15] Lại có chiếu chỉ cho Đề cử Kinh Đông lộ bảo mã kiêm bảo giáp Dương Cảnh Phân và Đề cử Kinh Tây lộ bảo mã kiêm bảo giáp Trương Tu đều được phép đi ngựa trạm về kinh, đến Tam tỉnh để trình bày và bàn việc sửa đổi hoặc bãi bỏ. Sau đó, chiếu chỉ rằng ngựa bảo mã của Kinh Đông và Kinh Tây lộ sẽ được phân cấp và phân phối cho các quân, số còn lại gửi về Thái bộc tự. Những con ngựa không đủ tiêu chuẩn để phân phối thì trả lại cho dân để đổi hoặc bán, và nộp lại số tiền đã nhận.
(Cựu lục chép: Tiên đế vì số ngựa quốc gia không đủ, nên noi theo chế độ Khâu thừa, gửi ngựa cho dân, căn cứ vào tài sản mà định giá, đặt ra thời hạn để dân mua ngựa nuôi, được tự do huấn luyện, khi cần thì tập hợp lại để sử dụng, lại miễn giảm lao dịch cho họ, pháp này rất tốt. Tư Mã Quang cho rằng không tiện, nên bãi bỏ. Tân lục biện rằng: Tuyên Nhân tham khảo chế độ của tổ tông, suy xét tâm ý của Thần Tông, bảo hộ Triết Tông hoàng đế, để đạt được sự trị vì của Nguyên Hựu, công luận trong thiên hạ rất rõ ràng, nhưng sử quan lại xuất phát từ tư ý, lấy ý kiến của quần thần lúc đó để so sánh với Thần Tông hoàng đế về được mất, sao có thể để lại cho hậu thế? Từ câu “Tiên đế vì số ngựa quốc gia” đến “không tiện nên bãi bỏ” gồm 60 chữ đều bị xóa bỏ. Xét lúc này Tư Mã Quang chưa dâng sớ bàn về việc dân nuôi ngựa, không rõ Cựu lục vì sao lại chép như vậy? Sau đó thì Quang vẫn cho rằng không nên. Lã Đại Phòng trong Chính mục chép: Ngày 22 tháng 12, chiếu chỉ: “Ngựa bảo mã của Kinh Đông và Kinh Tây lộ cao trên 4 thước thì bổ sung vào quân phủ, trên 4 thước 3 tấc thì gửi về giám mục, số còn lại giao cho dân đổi hoặc bán và nộp tiền.”)
[16] Lại có chiếu rằng các trường buôn bán vật hóa ở kinh đô, phía tây kinh đô và Tứ Châu đều bãi bỏ. Ở kinh đô, giao cho Giám sát ngự sử Hoàng Giáng, Giá bộ viên ngoại lang Giả Chủng Dân; phía tây kinh đô, lệnh cho Chuyển vận sứ bản lộ là Thẩm Hi Nhan[7]; Tứ Châu, lệnh cho Quyền phát khiển Giang Hoài đẳng lộ Phát vận phó sứ Lộ Xương Hoành kiểm điểm số lượng vật phẩm, tính toán cùng các quan chức đương nhiệm giao nhận quản lý, phân tích các biện pháp xử lý và báo cáo.
(Ngày 8 tháng 4, ngày 18 tháng 7 cùng tham khảo.)
[17] Lại có chiếu rằng các khoản nợ thuế hạ thu và các khoản tiền vật phải nộp tích lũy từ trước năm Nguyên Phong thứ 6, đều theo lệnh trong chiếu thư ngày 6 tháng 3, đặc biệt được miễn trừ.
[18] Trung thư tỉnh tâu: “Chiếu thư ngày 9 tháng giêng năm nay, các hộ dân trong và ngoài kinh đang nợ tiền vật của thị dịch, đều phải do cơ quan có thẩm quyền xem xét lại số tiền gốc và lãi đã vay, cùng số tiền đã nộp và còn nợ, liệt kê báo cáo. Số tiền lãi sẽ được xem xét giảm bớt. Ở kinh đô đến nay chưa thấy cơ quan nào theo chiếu thư báo cáo.” Chiếu rằng Giám sát ngự sử Lưu Chửng, Binh bộ viên ngoại lang Đỗ Thường, Thái phủ thiếu khanh Tống Bành Niên đến Ngự sử đài lập cục kiểm điểm số tiền lãi còn nợ. Các hộ lớn được miễn 7 phần, các hộ nhỏ được miễn toàn bộ, số còn lại phải nộp, giao cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định thu nộp, đồng thời thông báo rõ ràng cho dân chúng, và báo cáo về việc không có gian lận, thời hạn trong một tháng.
[19] Lại có chiếu rằng: “Quân đầu ty nên dẫn việc ra mắt ở hậu điện[8], như người trình diễn thử võ nghệ, phải báo lên Xu mật viện[9], lệnh cho quan ty Thừa chỉ cùng với Quân mã ty cùng khảo thí, nếu có người bị nghi ngờ, thì cùng với Quân mã ty không liên quan cùng thử, nếu đều có liên quan, thì cùng với Quân đầu ty cùng thử, đều phải làm tờ tâu lên. Những người không trình diễn thử võ nghệ, đều lệnh cho Quân đầu ty áp giải đến Xu mật viện thẩm tra xong, báo lên cơ quan có thẩm quyền thi hành. Việc ra mắt, tạ ơn và quân đội trở về qua quân[10], đều lệnh cho ra mắt và tạ ơn ở cửa, nếu được ban thưởng vật phẩm và rượu thịt, Quân đầu ty phải báo lên theo quy định thi hành; những người nên được dẫn ra mắt, nếu có người tự trình bày, thì Quân đầu ty phải hỏi và báo lên Xu mật viện.” Vì lúc đó đang buông rèm, Vua chưa ngự ở hậu điện nên có chiếu này.
(Ngày 4 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ 2, Xu mật viện lại có tâu xin.)
[20] Lại có chiếu rằng: “Các cơ quan hiện đang thi hành điều lệ, nếu văn bản có chỗ chưa tiện, cần sửa đổi cho hợp lý, đều phải làm tờ tâu lên Thượng thư tỉnh, Xu mật viện. Nếu được chỉ dụ trực tiếp, hoặc xử lý tạm thời, cần ghi thành luật, hoặc cần sửa đổi điều lệ, phải báo lên Trung thư tỉnh, Xu mật viện thẩm tra tâu lên. Nếu có truyền tuyên hoặc chỉ dụ trong cung, hoặc yêu cầu và tâu xin của cơ quan, dù được chỉ dụ nhưng nguyên không có điều lệ, đều phải tùy việc báo lên Trung thư tỉnh, Xu mật viện phúc tấu xin chỉ dụ.”
(Bản mới bỏ đoạn này, cần xem xét.)
[21] Nhập nội tỉnh tâu xin, chuẩn cho các nội thần đều được thay đổi chức vụ. Lý Hữu Tuân, Thạch Lân, Tống Dụng Thần, Phùng Trọng Lễ, Diêm Thủ Cần, Phùng Cảnh, Lương An Lễ, Lô Thủ Chính, Sử Hoàn, Lão Bật, Lưu Hữu Ích, Hoàng Kinh Thần, Lôi Dịch đều được lệnh chuyển ra ngoài, cùng với Lý Cấu cũng được chuyển ra. Câu đương Ngự dược viện Lưu Duy Giản được chuyển ra, lấy Câu đương Nội đông môn ty Diêm An thay thế. Phùng Tông Đạo làm Câu đương Ngự dược viện, Lão Tông Nguyên, Lương Duy Giản đều làm Câu đương Nội đông môn ty. Lương Duy Giản kiêm thêm chức Thái hoàng thái hậu điện Chi hậu, Lão Tông Nguyên kiêm thêm chức Hoàng đế điện Chi hậu.
(Việc này ghi chép bí mật ngày mùng 8 tháng 4.)
[22] Ngày Nhâm Thân, phong An Nhân Bảo hựu phu nhân họ Trương làm Tần quốc, Tấn quốc An Nhân Bảo hựu phu nhân.
[23] Ngày Giáp Tuất, Đức phi họ Miêu được tiến phong làm Quý phi, Đức phi họ Chu và Hiền phi họ Hình được tiến phong làm Thục phi. Con gái thứ 12 của Nhân Tông được tiến phong từ Ngụy quốc Đại trưởng công chúa lên Sở quốc Đại trưởng công chúa, con gái thứ 10 của Nhân Tông là Hàn quốc Đại trưởng công chúa được phong làm Chu quốc Đại trưởng công chúa. Con gái thứ 3 của Anh Tông là Vệ quốc Trưởng công chúa được phong làm Ký quốc Đại trưởng công chúa. Con gái thứ 3 của Đại hành hoàng đế được phong làm Thục quốc Công chúa lên Ôn quốc Trưởng công chúa, con gái thứ 4 của Đại hành hoàng đế làm Khang quốc Trưởng công chúa, con gái thứ 8 làm Hân quốc Trưởng công chúa, con gái thứ 9 làm Gia quốc Trưởng công chúa, con gái thứ 10 làm Đức quốc Trưởng công chúa. Vì Đại hành hoàng đế đang để tang, nên bãi bỏ lễ sách phong, chỉ ban cáo mệnh.
[24] Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, Đặc tiến, Kiểm hiệu Thái úy, An Nam đô hộ, Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức được gia phong làm Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự. Thủ lĩnh Tây Phiên Mạc Xuyên, Hà Tây quân Tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái phó, Vũ Uy quận vương Đổng Chiên được đổi làm Kiểm hiệu Thái úy.
[25] Chiếu rằng: “Kính nghĩ rằng tiên đế trị vì thiên hạ mười chín năm, ngày đêm chăm chỉ, xây dựng chính sự, ban ân huệ cho thiên hạ, để lại cho đời sau. Gần đây nghe các cơ quan thi hành pháp lệnh, thường không đúng, hoặc quá phiền nhiễu, trái với ý chỉ ban đầu của chiếu chỉ, hoặc làm qua loa, không thể ban bố ân huệ thực sự, hoặc tùy tiện suy đoán, lười biếng trong việc thực hiện chức trách, e rằng pháp luật của triều đình sẽ bị suy yếu. Nay ra lệnh cho trong ngoài, từ nay về sau, cùng nhau tuân theo lẽ phải, thi hành chiếu chỉ, để xứng đáng với tấm lòng của tiên đế thay đổi pháp luật, ban ân huệ cho dân chúng. Ai dám không tuân, sẽ bị trị tội. Vẫn giao cho Ngự sử đài điều tra, tâu lên.”
(Cựu lục chép: Lúc đó Thái Xác lo pháp luật dần bị thay đổi, bãi bỏ, nên ban chiếu này, nhưng cuối cùng không thể ngăn cản. Tân lục biện rằng: Thái Xác biết các cơ quan thi hành tân pháp, đều không đúng, quá phiền nhiễu, ân huệ thực sự không đến được dân, nên không thể không thay đổi pháp luật. Pháp luật thay đổi ít, thì bản thân sẽ không yên vị, chiếu này thực sự là do Thái Xác khởi xướng. Sử quan không suy xét ý yêu dân của thần tổ, mà che đậy mưu đồ của Thái Xác để lừa dối hậu thế, nay hợp xóa bỏ[11]. Lã Đại Phòng 《Chính mục》 chép chiếu các cơ quan thi hành chiếu chỉ tiên đế không đúng, tâu lên, vào ngày mồng 8.)
[26] Thượng thư tỉnh tâu: “Tam tỉnh và các cơ quan quan lại trong kinh, hàng năm so sánh công tội và ghi vào sổ những vi phạm, trước đây dù gặp đại xá thường, vẫn tính chung để xử phạt. Nay gặp đại xá đăng cơ ngày 6 tháng 3, những tội thường xá không tha đều được tha. Những vi phạm trước ngày 5 tháng 3 năm nay, trừ những tội đã được dùng công để bù trừ, những tội còn lại, đều nên được miễn.” Theo đó.
[27] Lễ bộ tâu: “Theo lệ thời Trị Bình, sau khi lấp xong hoàng đường ở sơn lăng, Tông chính khanh làm lễ ngu tế. Theo chế độ cũ của quan chế thái miếu, đều thuộc Thái thường tự, xin đổi do Thái thường khanh làm lễ ngu tế trong tương lai.” Theo đó.
[28] Ghi chép việc bổ nhiệm con trai của Vương Thiên là Vương Lượng, nguyên là Hữu thị cấm, làm Tam ban phụng chức, và cháu là Vương Thắng làm Tá chức, do Vương Thiên đã mất.
[29] Ngày Ất Hợi, Tống Bành Niên, Triều phụng lang, Thủ thái phủ thiếu khanh, tâu rằng các chức quản quân ở Ty Mã bộ quân Điện tiền đang khuyết, xin theo lệ cũ bổ nhiệm tám người, và mỗi ty thường để lại một đến hai người túc trực. Chiếu chỉ rằng việc quản quân là việc trọng đại của triều đình, Tống Bành Niên dám can thiệp bừa bãi, nên phạt 30 cân đồng.
[30] Trương Mậu Tắc, Diên Phúc cung sứ, Nhập nội đô tri, Lợi Châu quan sát sứ, được bổ làm Ninh Quốc quân lưu hậu. Hồ Tông Dũ, Nhập nội đô tri, Lại bộ lang trung, được bổ làm Hữu ty lang trung. Cao Tuân Huệ, Công bộ viên ngoại lang, được bổ làm Hữu ty viên ngoại lang. Phạm Tử Kỳ, Tả ty lang trung, được bổ làm Trực Long đồ các, Hà Bắc lộ chuyển vận sứ. Phạm Thuần Túy, Hữu ty viên ngoại lang, được bổ làm Trực Long đồ các, Kinh Đông lộ chuyển vận sứ.
[31] Chiếu chỉ lấy ngày 16 tháng 7 là ngày sinh của Thái hoàng thái hậu làm Khôn Thành tiết.
(Triệu Tử Tung trong 《Trung ngoại cựu sự》 chép: Khi Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu buông rèm nhiếp chính, vào ngày Khôn Thành tiết, các mệnh phụ trong và ngoài cung vào chúc mừng. Sau khi dâng lễ chúc thọ, Lão Tông Nguyên, nội thị, hô lớn ở hiên điện rằng: “Ngoại trừ các tể tướng, tông thất và mệnh phụ theo lệ cũ, các mệnh phụ họ Cao đều ra ngoài phủ để dự yến tiệc.” Khi trở về, được cung cấp trướng màn rất sang trọng, ban ơn đến cả nô bộc, việc này trở thành lệ thường. Đó là vì Thái hoàng thái hậu ghét việc nhờ vả nên xa lánh họ, có thể nói là công bằng. Cao Thế Đản xác nhận rằng: “Tuyên Nhân đã tu sửa Bắc trạch để phụng dưỡng thân mẫu, mẹ là Lý thị, Lưỡng quốc thái phu nhân, vào tạ ơn, nhân đó xin đặt một đội phòng cháy. Hoàng hậu nói: “Chỉ cần Công Hội và Công Kỷ lo việc, há lại sợ cháy sao?” Lý phu nhân không vui, lại nói: “Nhà họ Tào cũng từng thêm người phòng cháy ở Nam trạch khi nghe chính sự.” Hoàng hậu đổi sắc mặt nói: “Chị không nghĩ kỹ lắm sao! Hai chị đâu dám so với nương nương, nương nương đối với nhà Triệu có công lớn, không thể so sánh được.” Rồi viết thư riêng dặn hai người họ Cao không được tùy tiện xin xỏ, gia đình họ đến nay vẫn còn giữ bức thư đó. Cao Thế Đản nói, đoạn này nên ghi chép riêng.)
[32] Chiếu chỉ thúc giục xây dựng phủ đệ bên ngoài cho hai vương.
(Việc này ghi trong 《Chính mục》 ngày 12.)
[33] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu rằng, bộ lạc Phiên là Y Thực dẫn đường vào địa giới phía Tây giết chết Phó Giám quân và những người khác, xin được ban thưởng theo hàng gần thượng ban. Chiếu ban cho chức Hạ ban Điện thị.
[34] Đô Kiềm hạt Chuyển vận ty Hồ Bắc tâu rằng, Quyền Tri châu Thành Châu, Tây Kinh Tả Tàng khố Phó sứ kiêm Cáp môn Thông sự Xá nhân Chu Sĩ Long có công chiêu nạp các động Khê. Chiếu thăng một chức, cho tiếp tục tại nhiệm.
[35] Ngày Bính Tý, Lễ bộ tâu rằng, theo lệ cũ năm Nguyên Phong thứ hai, các quan viên biên giới ba lộ, sau khi tế xong ở miếu, được phép mở nhạc. Năm Trị Bình thứ tư, các quan viên biên giới phải đợi trăm ngày mới được mở nhạc, xin theo lệ cũ năm Nguyên Phong thứ hai. Được chấp thuận.
[36] Ngày Đinh Sửu, Lữ Công Trước, chức Tư chính điện Đại học sĩ, Ngân thanh Quang lộc Đại phu, kiêm Thị độc. Lúc đó Lữ Công Trước đang làm Tri châu Dương Châu, được triệu về sử dụng, là theo ý của Tiên đế.
(Tân lục chép riêng ở đây rằng: Trước đó, Thần Tông dụ các phụ thần rằng: “Hoàng tử năm sau ra khỏi cung, nên lấy Lữ Công Trước làm Bảo phó.” Đến nay triệu Lữ Công Trước làm Thị độc, là theo ý của Tiên đế. Xét lời dụ của Thần Tông với phụ thần đã chép trước, không cần chép lại, nay chỉ giữ lại câu “là theo ý của Tiên đế”. Tân lục tự chép riêng, nên không thể không như vậy.)
[37] Tư Mã Quang, chức Tư chính điện Học sĩ, Đại trung Đại phu, làm Tri châu Trần Châu. Tôn Giác, chức Triều phụng Lang, Bí thư Thiếu giám, kiêm Thị giảng. Lưu Thứ Trang, chức Phụng nghị Lang, Tông chính Tự Thừa, làm Điện trung Thị ngự sử. Tôn Thăng, chức Phụng nghị Lang, Câu đương công sự ty An phủ lộ Chân Định phủ, làm Giám sát Ngự sử.
(Xét Tân lục và Cựu lục đều chép truyện Tôn Thăng rằng: Trung thừa Lưu Chí tiến cử làm Giám sát Ngự sử. Lúc đó Lưu Chí chưa vào đài, Hoàng Lý đang làm Trung thừa. Cựu lục đã sai, Tân lục theo đó, như vậy Tôn Thăng chắc là do Hoàng Lý tiến cử, cần xét lại. Ngày 14 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ hai, Hoàng Lý vì tiến cử Lưu Thứ Trang, bị giáng từ Long học xuống Thiên chế, ngày 8 tháng 4 lại bị cách chức, có thể xem tấu nghị của Lương Đào.)
[38] Lưu Chí, chức Triều phụng Lang, Trương Nhữ Hiền, chức Tuyên đức Lang, làm Lại bộ Lang trung. Lương Đào, chức Triều phụng Lang, Tập hiền Hiệu lý, làm Công bộ Lang trung. Hoàng Đình Kiên, chức Phụng nghị Lang, làm Hiệu thư Lang.
[39] Chiếu cho Thủ Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, Lộ quốc công trí sĩ Văn Ngạn Bác không được từ chối miễn nhiệm hai chức Tiết độ sứ.
(Ngày Giáp Dần tháng 11 năm thứ 6, đã chép việc Ngạn Bác được miễn kiêm chức Vĩnh Hưng Tiết độ sứ, nay lại có chiếu này, cần xem xét. Hoặc là do ân điển ban rộng nên có mệnh lệnh này, ngày 12 tháng 5 được miễn.)
[40] Chiếu cho phép Xu mật viện theo chế độ cũ mở cửa tiện, thông với Trung thư tỉnh, đến Đô đường bàn việc.
(Cựu lục chép: Tiên đế đặt quan phân chức, mỗi người có phần việc riêng, không thể rối loạn. Lúc đó muốn cùng nhau làm việc xấu, nên có chiếu này. Tân lục biện rằng: Mật viện và Trung thư việc đều là một thể, cửa tiện thông nhau là chế độ cũ của tổ tông, cùng với việc Tiên đế đặt quan phân chức, mỗi người có phần việc riêng, lý không hại gì, “cùng nhau làm việc xấu” là lời bỉ ổi vô căn cứ. Từ “Tiên đế đặt quan” đến “có chiếu này” 24 chữ đều bỏ đi. Mật ký ngày 14: Từ trước Xu mật viện bàn việc với Tam tỉnh, đều họp ở Nam sảnh, muốn theo lệ mở cửa tiện, thông với Trung thư tỉnh, đến Đô đường bàn việc, nếu gặp lên ngựa, vẫn theo lệ Tả Hữu thừa, cùng Tam tỉnh, vâng chỉ theo.)
[41] Ngự sử trung thừa Hoàng Lý tâu: “Pháp chế muối ở Phúc Kiến lộ, chỉ có Thiệu Vũ quân và Đinh Châu là nhận số lượng nhiều. Gần đây, huyện Thiệu Vũ vì muối nhiều mà dân thiếu thốn, khó bán được, bèn dùng tiền sản nghiệp của dân để định giá bán muối, không tuân theo pháp chế của triều đình về việc bán muối ở các làng. Đến các huyện Kiến Ninh, Quang Trạch cũng có tệ nạn tương tự. Ở Đinh, Kiếm, Kiến ba châu cũng có việc ép buộc, xin sai quan đi xem xét.” Giám sát ngự sử An Đôn tâu: “Phó sứ chuyển vận Phúc Kiến là Vương Tử Kinh đã lập kế hoạch mua trà lạp của quan mỗi năm ba trăm vạn cân, nghe nói có việc ép nhận, xin cử quan đi điều tra.” Bèn hạ chiếu: “Trước đây, Tiên đế cho rằng trách nhiệm của các giám ty ở các lộ không nhẹ, triều đình nên tăng cường khảo hạch, những kẻ phiền nhiễu, vơ vét và những kẻ lười biếng, không làm tròn chức trách, nên có biện pháp trừng phạt. Năm ngoái đã hạ chiếu tu sửa, lập ra pháp chế phân phái lang quan, ngự sử đi xem xét, cử người. Nay có thể theo chiếu chỉ của Tiên đế mà thi hành. Giang Nam Tây lộ cử Giám sát ngự sử Trần Thứ Thăng, Phúc Kiến lộ cử Giám sát ngự sử Hoàng Giáng.”
(Tân lục chỉ chép việc cử Thứ Thăng và Giáng đi xem xét, cử người, bỏ đi những lời tâu của Hoàng Lý và An Đôn. Nay theo Cựu lục chép cả, ngày 16 tháng 5 đổi sai.)
[42] Chiếu cho Điện tiền Mã bộ quân ty: “Phàm những binh sĩ cấm quân mới chiêu mộ trước sau, trước hết cho ở trong doanh trại chỉ dạy một trăm ngày, nếu không đạt đến bậc hai, lại gia hạn hai tháng, hết hạn vẫn chưa đạt, thì cho ra giáo trường dạy thêm hai tháng, đợi hết hạn, người không đạt, mã quân đổi làm bộ quân, bộ quân đổi làm sương quân. Lại lệnh Xu mật viện triệu tập các thần liêu quản quân để bàn bạc.”
[43] Tả thị cấm, quyền Giám áp trại Vương Khẩu, Châu Dung là Đỗ Lâm, Tả ban điện trực, quyền Huyện úy Cừ Dương, Châu Thành là Đỗ Chấn, em là Đỗ Cấu được làm Tam ban tá chức. Trước đây, Lâm, Chấn xin dùng công chiêu an và chiến công để chuyển quan, giảm năm, lại cho Cấu làm quan, triều đình ủy cho ty chuyển vận bản lộ thẩm vấn, mới biết Cấu là hậu duệ của em trai Chiêu Hiến hoàng hậu là Thẩm Tiến, nên có mệnh lệnh này.
[44] Ngày Mậu Dần, ghi chép việc ban tặng cho chồng của con gái Văn Tư phó sứ Vi Định đã mất là Tả ban Điện trực Hướng Đạt làm Hữu thị cấm, Tương Nghi, Cừu Tông Lượng đều làm Tam ban tá chức, vì việc Vi Định đã chết.
[45] Ngày Canh Thìn, Tri Thái Nguyên phủ Lữ Huệ Khanh sai quân vào địa giới phía tây[12], phá sáu trại, chém hơn sáu trăm đầu.
(Ngày mùng 8 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, Lưu Chí, Vương Nham Tẩu, Tô Triệt, Vương Địch đều có lời tâu trách Lữ Huệ Khanh đã xuất quân vào ngày 17 và 19 tháng 4, việc này căn cứ vào lời tâu mà thêm vào. Ngày mùng 2 tháng 5 thưởng công. 《Lữ Huệ Khanh gia truyền》 chép: Ban đầu, Lữ Huệ Khanh đến Hà Đông quản câu lộ quân mã Lân Phủ, Yến Phục nhiều lần xin đem quân vào địa giới để đánh dẹp, dùng kế đến rồi đi nhanh, khiến giặc không được yên ổn. Lữ Huệ Khanh cho các tướng họp bàn, đều cho rằng người Hạ nhiều lần bị tập kích, tộc trướng dời đi xa, mà quân do thám cảnh giác nghiêm ngặt, gián điệp không biết rõ tình hình, đánh nông thì không có lợi, đánh sâu thì đáng lo, Lữ Huệ Khanh cho là phải, bèn lệnh cho các tướng chia đất bỏ phòng bị, chuyên việc cày cấy chăn nuôi, để nghi hoặc kế giặc. Tháng 4 năm thứ 8, triều đình vì việc quốc tang, địch mưu xâm phạm, chiếu cho Lữ Huệ Khanh xuất quân trước. Lữ Huệ Khanh biết được nơi đóng quân, sai tướng Hình Tá Thần, Chiết Khắc Hành, Ti Hổ đem hai vạn hai ngàn quân bộ kỵ Hán và Phiên ra khỏi Tả Sương, đến các nơi Tụ Tinh Bạc, Mãn Lãng, Gia Y, Cách La Lãng, Tam Giác, phá sáu trại giặc, chém hơn sáu trăm đầu, tổng cộng mười ba thủ lĩnh, bắt được mười bốn ấn đồng, lạc đà, trâu ngựa kể hàng vạn, đuổi chạy mấy chục dặm, rồi rút quân về. Lưu Chí hặc Lữ Huệ Khanh tự tiện động binh, người Tây Hạ báo thù, tháng 5 xâm phạm biên giới, tướng biên thùy tử trận, quân sĩ bị bắt. Nên kiểm tra chi tiết để bổ sung. Nay tháng 5 thực lục không chép việc người Tây Hạ báo thù. Vương Địch nói, Cung phụng quan Vương Anh tử trận, quân sĩ bị bắt hơn sáu nghìn người. Lời của Lưu Chí, Vương Địch, nay phụ vào cuối tháng 5. Tấu của Vương Nham Tẩu ngày 20 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, nói Lữ Huệ Khanh ngày 21 tháng 4 năm thứ 8 sai quân ra khỏi địa giới.)
[46] Ngày Tân Tỵ, Phụng nghị lang, Chức phương viên ngoại lang Hình Thứ được bổ nhiệm làm Hữu ty viên ngoại lang. Thái Xác ban đầu không biết Hình Thứ, khi Văn Ngạn Bác trở về Lạc Dương, Hình Thứ có làm thơ tiễn hành, Thần Tông từng khen ngợi Hình Thứ trước mặt Thái Xác và nói rằng Hình Thứ đã lâu ở trong quán, nên được thăng chức. Thái Xác nói: “Lúc đầu khi biến pháp Hi Ninh, Hình Thứ có ý kiến khác, không thể dùng.” Thần Tông không trả lời. Thái Xác lui triều, liền triệu Hình Thứ đến báo cho biết. Hình Thứ sau đó được thăng làm Trứ tác tá lang. (Ngày 1 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 7.) Chưa đầy nửa năm, lại được thăng làm Chức phương viên ngoại lang. (Ngày 9 tháng 11 năm thứ 7.) Hình Thứ vốn thân thiện với Tư Mã Quang và Lữ Công Trước, Thái Xác đoán rằng Tư Mã Quang và Lữ Công Trước sẽ được trọng dụng lại, bèn kết thân với Hình Thứ, ý muốn thông qua Hình Thứ để kết giao với hai người. Tuy nhiên, Hình Thứ là người xảo quyệt, bèn cùng Thái Xác âm mưu, nói rằng Thái Xác có công định sách, vì thế Hình Thứ được thăng chức nhanh chóng làm Đô ty.
(Theo 《Thiệu Bá Ôn Hình Thứ truyền》, nhưng Thiệu Bá Ôn nói rằng Hình Thứ làm Đô ty, tiến cử Lưu Chí với Thái Xác, nhưng Thái Xác không dùng. Lưu Chí sau đó công kích Thái Xác và cả Hình Thứ, Hình Thứ tức giận, bèn dùng việc mưu phế lập để báo thù Lưu Chí. Xét rằng Hình Thứ cùng Thái Xác bàn kế, muốn hạ bệ Vương Khuê, khoảng cuối tháng 2, nay thăng làm Đô ty, có lẽ là do Thái Xác dựa vào kế sách của Hình Thứ, chứ không phải vì muốn thông qua Hình Thứ để kết giao với Tư Mã Quang, nay lược bớt.)
[47] Thừa nghị lang, thí Trung thư xá nhân Vương Chấn được cử làm Đại hành hoàng đế di lưu Bắc triều lễ tín sứ, Nội điện thừa chế Khiên Dục làm phó sứ.
[48] Chiếu phong mẹ của Thái hoàng thái hậu là Lỗ quốc phu nhân Lý thị làm Hàn, Triệu quốc thái phu nhân.
[49] Cử Thừa nghị lang, Tả ty lang trung Mãn Trung Hành làm Hoàng đế đăng bảo vị Bắc triều quốc tín sứ, Tả ban điện trực Cáp môn chi hậu Tiêu Nhan Thúc làm phó sứ. Chiếu cho Trung Hành và đoàn sứ giả khi đến Liêu Quốc thông báo với quan tiếp đón rằng theo di chế của Đại hành hoàng đế, tôn Hoàng thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, cùng xử lý việc quân quốc, nghi lễ theo như câu chuyện Thái hậu Chương Hiến thùy liêm, hai triều hợp tác thông tin sứ, lệnh phải báo cáo việc này cho Bắc triều.
[50] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu rằng: “Theo chỉ huy của Tiên đế trước đây, lương tháng của các quân đều được cấp đủ số đấu, phân phái sứ thần đến các doanh trại để kiểm tra. Từ nay, lương tháng phải tuân theo chỉ huy trước đây, lệnh cho quan do Nội thị tỉnh cử đến kiểm tra.”
[51] Lễ bộ tâu: “Tên chính của Cao Lỗ vương và các chữ liên quan đều khó tránh né. Đối với những chữ cần tránh, để trống nét, sau đó dùng giấy vàng che lại. Tên kiêng kỵ theo lễ không cần kiêng, cũng không có tiền lệ tránh né.” Chiếu rằng: “Cho phép.” Từ nay, các văn bản tiến trình và tấu chương, dù là tên kiêng kỵ cũng phải che lại.
[52] Ngày Quý Mùi, Đông nhiễm viện sứ Vương Thù được bổ làm Hoàng thành sứ, Thành châu Đoàn luyện sứ; Lục trạch phó sứ Vương Thực được bổ làm Lục trạch sứ, Lợi châu Đoàn luyện sứ. Thù và Thực đều là con của Yến quốc Đại trưởng công chúa đã mất.
(Thù và Thực đã được nhắc đến trước đây. 《Lâm Hi dã sử》 chép: Ngày Nguyên đán năm Nguyên Phong thứ 7, con trưởng của Vương Sư Ước là Trang trạch sứ Thực, 15 tuổi, búi tóc vào cung yết kiến. Từ thời Chân Tông, Lý Đoan Ý và các anh em là con của Trưởng công chúa được vào yết kiến. Đến các triều Nhân Tông, Anh Tông không có cháu ngoại của hoàng đế. Anh Tông có ba công chúa xuất giá, con của Sư Ước là người đầu tiên được vào yết kiến, họ hàng thân thích đều lấy làm vinh dự. Con thứ của Sư Ước lại được hứa gả cho Thục Thọ công chúa, con gái của Chu phi. Xét năm Nguyên Phong thứ 7 không thấy chép việc Vương Thực vào yết kiến, đến mùa hè năm thứ 8, Thực vẫn là Lục trạch phó sứ, vậy chức Trang trạch sứ mà Lâm Hi nói chắc chắn là sai. Phụ chú cần tra cứu thêm.)
[53] Tả ty lang trung Mãn Trung Hành tâu rằng: “Các cơ quan trong ngoài dâng lên triều đình các báo cáo hàng tuần, tháng, quý, năm, trong đó có nhiều tên mục lộn xộn theo thói quen lâu nay, các cơ quan phụ trách thường không có tài liệu tham khảo, xin bãi bỏ.” Được chấp thuận.
(Đoạn này được thêm vào dựa trên báo cáo ngày 6 tháng 9 năm Sùng Ninh thứ 4.)
[54] Ngày Giáp Thân, Phụng nghị lang, quyền Hà Bắc lộ Chuyển vận phán quan Trương Thích được bổ làm Thông phán Lai châu.
(Trương Thích chắc chắn có người tố cáo nên bị khiển trách, cần tra cứu thêm. Ngày 3 tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 7, thi hành chính sách lợi nhuận từ muối ở Hà Sóc do Thích đề xuất, nay bị giáng chức chắc chắn là vì việc này.)
[55] Chiếu rằng Thủy bộ Viên ngoại lang Vương Ngạc bị phạt 30 cân đồng. Ngạc đã tâu xin cho các cơ quan ở hai lộ Kinh Đông thực hiện đúng các quy định về bảo mã mà triều đình đã ban hành trước đây, và xin thêm chức Bác sĩ môn Xuân Thu ở Thái học. Vì việc bảo mã đã được triều đình xử lý trước đó, và việc thêm Bác sĩ Xuân Thu cũng không thuộc phạm vi chức trách của ông, nên bị phạt.
[56] Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh tâu rằng: Phiên quan Bối Uy và các tướng đánh giặc Tây, bắt được Chính Giám quân châu Hựu của giặc là Ngụy Phò mã Duệ Quyết Ngôi Danh. Chiếu yêu cầu trình bày rõ công trạng để báo lên, Duệ Quyết Ngôi Danh vẫn bị áp giải về kinh.
(Ngày Bính Thìn 24 tháng 5, cần xem xét. Ngày Ất Dậu 22 tháng này, Triệu Tiết được thưởng công. Theo truyện Triệu Tiết: Tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8, người Hạ là Duệ Quyết Ngôi Danh đóng trọng binh ở Hạ Lan Nguyên, thường xuyên ra cướp biên giới. Tiết sai tướng Lý Chiếu Dụng[13] và phiên quan Quy Nhân, mỗi người dẫn 3.000 quân chia hai cánh tả hữu tấn công, cùng với 4.000 quân của Cảnh Đoan Ngạn tiến đánh Hạ Lan Nguyên. Tiết dặn Đoan Ngạn rằng: “Hạ Lan là nơi hiểm yếu, qua khỏi đèo là sa mạc, nếu giặc vào Bình Hạ thì không thể đánh được.” Lại chọn hai phiên quan[14], đều là người thuộc tộc của Ngôi Danh, mỗi người cấp 500 quân nhẹ, sai đi theo đường tắt ra sau trại giặc, chặn đường về. Tháng này, đánh nhau với giặc ở Hạ La Bình, giặc thua, chạy về Bình Hạ. Quân phục nổi dậy, giặc hoảng loạn tan vỡ, chém được 1.000 thủ cấp, bắt sống Ngôi Danh, chém 6 thủ lĩnh, bắt được 700 ngựa chiến, cùng 3 vạn gia súc và người già trẻ con. Tháng 5, Tiết được thăng làm Long đồ các Trực học sĩ, Triều phụng đại phu, lại làm tướng ở Diên An. Truyện này hoàn toàn dựa vào thần đạo bi do Phạm Bách Lộc soạn.)
[57] Hình bộ tâu: “Người được xét dùng nếu gặp liên tiếp ba lần ân xá, hợp lệ được xét bổ ba chức quan. Chỉ có những người gặp ân xá lần đầu, phần lớn trước khi ân xá đã trải qua nhiều năm tháng, và trong văn ân xá có nói đặc biệt tính ba kỳ, nhưng phép xét bổ của quan lại văn võ lại có quy định xét bổ một kỳ hoặc hai kỳ một lần. Những người đáng được xét bổ trước khi ân xá, thời hạn đã đủ, nhưng chưa kịp nộp đơn, thuộc trường hợp ân xá lần đầu, trước hết căn cứ vào thời hạn, sau đó căn cứ vào ân xá, đều được xét bổ. Nếu thời hạn xét bổ theo ân xá lần đầu chưa đủ, thì lấy ân xá để xét bổ xong, nhưng vẫn giữ lại số năm tháng thực tế đã trải qua để xét bổ sau này. Còn những quan lại văn võ hợp lệ xét bổ một kỳ hoặc hai kỳ một lần, dù trong văn ân xá có nói tính ba kỳ, nhưng chỉ hợp lệ mỗi lần ân xá xét bổ một chức quan, không thuộc trường hợp giữ lại thời hạn dư trong văn ân xá.” Vua nghe theo.
[58] Tư Mã Quang dâng sớ nói:
[59] Thần nghe rằng gốc vững thì ngọn tốt, nguồn đục thì dòng đục. Xưa kia, Hoàng đế Nhân Tông bổ nhiệm thần làm quan ở Viện Gián, khi thần mới lên điện, đã nói về ba đức tính của bậc quân vương: Nhân, Minh, Vũ; và ba phương pháp để đạt đến sự trị vì tốt đẹp: Nhiệm quan, Tín thưởng, Tất phạt. Đến thời Hoàng đế Anh Tông, thần từng dâng lên bức 《Lịch Niên Đồ》, trong phần tựa có viết: “Đạo của bậc quân vương chỉ có một, nhưng đức tính thì có ba.” Tâm nguyện của thần cũng chính là để phụng sự Hoàng đế Nhân Tông. Khi Đại Hành Hoàng đế mới lên ngôi, bổ nhiệm thần làm Ngự sử Trung thừa, lúc thần mới lên điện, đã trình bày về yếu lĩnh tu tâm trị quốc của bậc quân vương, tâm nguyện của thần cũng chính là để phụng sự Hoàng đế Anh Tông. Nay trời giáng tai họa, Đại Hành Hoàng đế bỏ thiên hạ mà đi, Hoàng đế Bệ hạ mới kế thừa ngôi vị, Thái hoàng thái hậu cùng nghe chính sự, không biết thần ngu muội, lại được hỏi ý kiến, vừa hổ thẹn vừa lo sợ, không biết làm sao để đền đáp trách nhiệm, kính cẩn xin dâng lên yếu lĩnh tu thân trị quốc của bậc quân vương, tâm nguyện của thần cũng chính là để phụng sự Đại Hành Hoàng đế. Lý do là vì thần đã xem xét các sự việc xưa nay, dốc hết tâm trí suy nghĩ, đối chiếu với lời dạy của thánh hiền, thấy rằng đạo lý trị loạn, an nguy, tồn vong đều nằm ở đây, không thể thay đổi, nên thần mạo muội dâng lên để các triều đại trước xem xét. Người không hiểu thần, cho rằng thần đưa ra những lời nói cũ kỹ, viển vông; người hiểu thần, thì biết rằng thần đã nhận ra cội nguồn của thiên hạ.
[60] Cái gốc của sự trị loạn, an nguy, tồn vong đều nằm ở tâm của bậc quân chủ. Nhân, minh, vũ là những đức tính xuất phát từ bên trong; dùng người, thưởng công, phạt tội là những việc thi hành ra bên ngoài. Những đức tính xuất phát từ bên trong, tuy có dày có mỏng, có nhiều có ít, nhưng đều do trời ban. Tuy nhiên, nếu ham học thì biết điều gì nên theo, nếu nỗ lực thực hành thì đức sáng ngày càng mới mẻ. Những việc thi hành ra bên ngoài, nếu làm đúng thì giữ được sự trị, sự an, sự tồn; nếu làm không đúng thì dẫn đến loạn, nguy, vong. Việc thực hiện là do chính mình. Sở dĩ làm được đúng là nhờ sự sáng suốt tột bậc; sở dĩ sáng suốt là nhờ sự công bằng tột bậc. Vì vậy, bậc minh quân giỏi dùng người thì tìm kiếm rộng rãi, đề cử người tài từ xa, chọn lấy những người xuất chúng. Người có đức hạnh cao được coi là hiền, người có trí dũng vượt trội được coi là năng. Hiền chưa chắc đã năng, năng chưa chắc đã hiền, tùy theo sở trường của mỗi người mà trao chức vụ. Có công thì thưởng, có tội thì phạt. Nếu người đó hiền năng, dù là kẻ thù cũng phải dùng; nếu người đó tầm thường ngu muội, dù là người thân cũng phải bỏ. Thưởng phải có mục đích khuyến khích, phạt phải có mục đích răn đe. Thưởng không vì vui, phạt không vì giận. Thưởng không quá hậu với người mình yêu, phạt không quá nặng với người mình ghét, mà phải cùng với cả nước chia sẻ sự yêu ghét. Vì thế, người xưa phong tước cho người ở triều đình thì cùng bàn với các sĩ, xử tội người ở chợ thì cùng với dân chúng bỏ rơi họ. Như vậy, làm sao có thể không đúng? Vì thế, thần nói: Sở dĩ làm được đúng là nhờ sự sáng suốt tột bậc; sở dĩ sáng suốt là nhờ sự công bằng tột bậc.
[61] Xưa Tề Hoàn công bỏ qua chuyện bắn mũi tên vào đai lưng, mà dùng Quản Trọng làm tướng. Hán Cao Tổ biết người, khéo dùng người, nếu là kẻ bất tài, dù có được yêu mến cũng bỏ đi, nếu là người tài, dù là kẻ bán rong, tửu đồ, tướng bỏ trốn, lính thú cũng dùng, đó là lý do có thể từ thân phận thường dân mà lấy được thiên hạ. Quán Đào công chúa xin cho con làm lang, Minh Đế không cho, mà ban cho nghìn vạn tiền. Lang là chức quan nhỏ, còn tiếc, huống chi là chức cao hơn? Vì thế thời trị vì Vĩnh Bình được ngợi ca đến nay. Tống Cao Tổ hết lòng hiếu thảo với Tiêu Thái hậu, Thái hậu muốn cho con là Đạo Lân làm Thứ sử Dương Châu, Cao Tổ thấy hắn tham lam ngu dốt nên không cho, vì thế sự nghiệp cao cả, đứng đầu Nam triều. Đường Thái Tông giết Kiến Thành, Nguyên Cát, mà dùng thuộc hạ của họ là Ngụy Trịnh Công, Vương Khuê, đối xử như Phòng, Đỗ không khác, cuối cùng đạt được hiệu quả. Tuyên Tông hết lòng kính cẩn với Trịnh Thái hậu, hỏi chú là Trịnh Quang về việc chính sự, không trả lời được, bèn bãi chức Phương trấn, vì thế người đời khen ngợi, gọi là “Tiểu Thái Tông”. Đó là dùng người công minh.
Hàn Chiêu Hầu tiếc chiếc quần rách, không ban cho kẻ tả hữu vô công; Hán Cao Tổ rất oán Ung Xỉ, mà không quên công lao của hắn; Ngụy Thái Tổ có công lao đáng thưởng, không tiếc nghìn vàng, vô công mà mong ban thưởng, một đồng cũng không cho; Đường Tuyên Tông coi trọng phẩm phục, vì thế người đương thời được mặc áo tía, áo đỏ coi là vinh dự. Đó là thưởng công công minh. Thu Ngưu giết Mạnh Bính, Trọng Nhâm, lập Thúc Tôn Chiêu Tử, Chiêu Tử kể tội rồi giết, Khổng Tử khen là không tốn sức. Đinh Công cứu Hán Cao Tổ khỏi nạn, Cao Tổ cho là bất trung mà chém. Vũ Đế có em gái là Long Lự công chúa sắp chết, gửi gắm con là Chiêu Bình Quân, Chiêu Bình Quân giết người, Vũ Đế khóc mà xử tử. Đường Minh Hoàng có nịnh thần là Hoàng (Biển Qua) hất quan bắt trộm ngã ngựa, Minh Hoàng đánh chết. Tuyên Tông bảo nhạc công: “Ngươi tiếc tài nghệ của La, Trình, ta tiếc pháp luật của Cao Tổ, Thái Tông”. Đó là phạt tội công minh. Thần xin nêu mấy việc này làm bằng chứng rõ ràng, còn lại xin bệ hạ xem xét sách vở để khảo cứu, biết lời thần nói không phải là sai lầm.
[62] Thần là kẻ ngu muội, không thể biết hết mọi việc trong thiên hạ, gần đây đã từng dâng tấu, xin ban chiếu thư, mở rộng đường ngôn luận, kính mong bệ hạ sớm ban bố thi hành. Cùng với tờ trát tử dâng lên ngày 3 tháng 5 năm Trị Bình thứ 4, xin bệ hạ lưu tâm xem xét.
(Tờ sớ này dâng lên ngày 21 tháng 4, ngày 21 là ngày Giáp Thân.)
[63] Ngày Ất Dậu, Thiên Chương các đãi chế, Tri Khánh châu Triệu Tiết được bổ làm Long Đồ các trực học sĩ, Tri Diên châu; Long Thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ, Xương châu thứ sử Lưu Xương Tộ được lệnh về kinh nhận chức; Triều nghị đại phu, Trực Tập Hiền viện, Tri Hà Trung phủ Phạm Thuần Nhân được bổ làm Trực Long Đồ các, Tri Khánh châu.
(Công lao của Tiết được ghi chú ngày 21 tháng 4, đến ngày 7 tháng 7 năm sau Tiết lại được thăng chức.)
[64] Triều phụng lang, Giám Tào châu tửu thuế Ngô An Trì được quyền Tri Hoạt châu. Tể thần Thái Xác tâu: “An Trì trước đây ở kinh tự, từng dâng tấu bàn việc em thần là Thạc, vì tội dâng thư không đúng sự thật mà bị tội. Tiên đế dùng lời tâu của thần, miễn tội lột chức, cho làm giám đương ở quận gần, tuy nhiều lần được ân xá, nhưng chức vụ chưa từng thay đổi. Vì An Trì có tài năng thực sự, xin giao cho việc khó khăn để được tự chứng tỏ.” Vì thế có mệnh lệnh này.
(Theo lời của Vương Nham Tẩu. Chính mục ghi An Trì ngày 22 nhận chức Tri Hoạt châu.)
[65] Đề cử thường bình ty lộ Hoài Nam Đông tâu rằng, hoàng đế lên ngôi, xin theo lệ của các quan Phát vận, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục, dùng tiền của bản ty để tiến phụng. Được chấp thuận.
[66] Chiếu rằng, cố Xu mật phó đô thừa chỉ Trương Sơn Phủ giữ chức lâu năm, cho con là Trương Vịnh làm Hữu ban điện trực, Trương Dụ làm Tam ban tá chức, con rể là Đào Khí làm Thái miếu trai lang.
[67] Xu mật viện tâu rằng: “Ở phủ giới và ba lộ, những nhà có hai đinh thuộc diện bảo giáp, nếu người được huấn luyện còn nhỏ yếu hoặc bị bệnh lâu ngày, hoặc trừ người đang được huấn luyện ra, nhà chỉ còn người bệnh, cùng những nhà thuộc hạng năm trở xuống có ruộng không quá hai mươi mẫu, cho phép tự trình bày, đề cử ty xét nghiệm và miễn trừ.” Chiếu chuẩn y.
(Ngày Bính Dần mùng 4 tháng 6, ngày Bính Tuất 24, ngày Mậu Tuất mùng 6 tháng 7, ngày Giáp Thìn 12, ngày Giáp Dần 22, đều nên tham khảo.)
[68] Giám sát ngự sử An Đôn tâu: “Thần nghe nói hàng năm ở Thành Đô cấp ba vạn thạch gạo bán cho người nghèo yếu. Gần đây, tri phủ Lã Đại Phòng lại cho phép quan hộ và cử nhân đặt lịch xin mua, nhân đó nhờ vả, hưởng lợi lớn, rõ ràng là sự may mắn bất chính. Thần mong được cử quan xét thực, nếu đúng như lời đồn, xin ban hành xử lý.” Chiếu lệnh Lã Đại Phòng trình bày rõ ràng để tâu lên.
(Theo mật sớ. Việc chính mục của Đại Phòng vào ngày 22 tháng 4, nay phụ vào ngày này, không rõ Đại Phòng phân tích thế nào, cần xem xét.)
[69] Tri phủ Thành Đô Lã Đại Phòng tâu: “Theo công văn của nội thần Trương Lâm, ngoại trừ mười loại gấm vóc sẽ dệt vào năm sau, còn lại gấm vóc và lụa lộc thai đều theo mẫu hiện nay để dệt. Đã đem các vật phẩm chưa lên khung dệt theo mẫu, xin thẩm định lấy chỉ thánh chỉ.” Chiếu tạm ngừng dệt.
(Cựu lục chép: Chiếu tri phủ Thành Đô Lã Đại Phòng xin dệt gấm vóc và lụa lộc thai theo mẫu, đều tạm ngừng. Tân lục chép: Chiếu phủ Thành Đô dệt gấm vóc và lụa lộc thai, đều tạm ngừng, theo lời thỉnh của tri phủ Lã Đại Phòng. Hai lục chép khác nhau, nay theo mật sớ năm Nguyên Hựu.)
[70] Ngày Bính Tuất, Tấn Châu quan sát sứ, Phò mã đô úy Vương Sư Ước tâu: “Yến Quốc đại trưởng công chúa băng, Thái thường tự xét theo lễ phục tang chế là áo xô gai và cầm gậy, cho nghỉ ba mươi ngày. Vì thần được hưởng bổng lộc, đều nhờ công chúa, e khó theo thường lệ.” Chiếu theo nghị của Thái thường tự, đặc cách cho nghỉ một năm.
[71] Quan chức người phiên là Đông đầu cung phụng quan Cao Phúc Tiến tử trận, ghi công cho con là Văn Tuấn, cháu là Vĩnh Đức, Vĩnh Quý, đều làm Tam ban tá chức.
- Bảy lộ chỉ có 200 người, chữ 'bảy' trong các bản khác ghi là 'bản'. ↵
- Hàn Quán chép lời Lưu An Thế rằng chữ 'ngữ' vốn thiếu, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 98 bổ sung. ↵
- cùng các lợi tức mà Đề cử kinh thành sở quản lý chữ 'quản' vốn thiếu, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 94 bổ sung. ↵
- Lúc đó, Tiên đế mới băng hà chưa đầy một tháng, chữ 'nguyệt' nguyên là 'nhật', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- đều đặc cách thăng chức, hai chữ 'dữ chuyển' nguyên bị đảo, theo các bản và Tống hội yếu đế hệ 5 chi 6 sửa lại. ↵
- Chữ 'v.v...' trong 'Kinh Đông v.v...' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 94 về biến pháp mới, quyển 104 về bảo mã, 《Trị tích thống loại》 quyển 22 về việc thay đổi bảo giáp và bảo mã từ Hi Ninh đến Nguyên Hựu, cùng 《Tống hội yếu》 binh chế 24/25 bổ sung. ↵
- Chuyển vận sứ bản lộ Thẩm Hi Nhan, các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 94 'Biến tân pháp' đều chép là 'Chuyển vận phó sứ'. ↵
- Quân đầu ty nên dẫn việc ra mắt ở hậu điện, sách 《Tống hội yếu》 chép: chức quan 36, điều 82, chữ 'ứng' dưới không có chữ 'ư'. ↵
- Báo lên Xu mật viện, chữ 'thân' nguyên là chữ 'do', theo bản trong các bản và sách trên sửa lại. ↵
- Việc ra mắt, tạ ơn và quân đội trở về qua quân, câu này trong sách này, quyển 395, điều Triết Tông Nguyên Hựu năm thứ 2, tháng 2, ngày Đinh Hợi chép là 'nên ra mắt quân và quân trở về'. ↵
- Nay hợp xóa bỏ 'bỏ' nguyên là 'đổi', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 94 biến tân pháp đổi. ↵
- 'binh' nguyên bản là 'nhân', theo bản trong các sách và 《Tống sử》 quyển 17, kỷ Triết Tông sửa lại ↵
- Lý Chiếu Dụng, trong 《Tống sử》 quyển 332 và 《Đông đô sự lược》 quyển 91, truyện Triệu Tiết đều chép là 'Lý Chiêu Phủ'. ↵
- Trong sách trên chép là 'ba'. ↵