VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 355: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Bắt đầu từ ngày Đinh Hợi tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng.
[1] Tháng 4, ngày Đinh Hợi, Thái hoàng thái hậu truy phong tằng tổ là Tề Vương Quỳnh, tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, Ký Vương, làm Hán Vương; tằng tổ mẫu là Lý thị, tặng Ký quốc Thái phu nhân, làm Hán quốc Thái phu nhân; tặng Ký quốc Thái phu nhân Lý thị làm Ung quốc Thái phu nhân. Truy phong ông nội là Việt Vương Kế Huân, tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, Việt Vương, làm Dự Vương; bà nội là Khang thị, tặng Việt quốc Thái phu nhân, làm Dự quốc Thái phu nhân; Quách thị làm Ngô quốc Thái phu nhân; Vương thị làm Ký quốc Thái phu nhân. Truy phong cha là Lỗ Vương Tuân Phủ, tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, Lỗ Vương, làm Duyễn Vương; mẹ là Tào thị, tặng Lỗ quốc Thái phu nhân, làm Duyễn quốc Thái phu nhân. Hoàng thái hậu truy phong tằng tổ là cố Thượng thư Tả bộc xạ, kiêm Môn hạ Thị lang Bình chương sự, tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, Duyễn quốc công Mẫn Trung, làm Văn An quận Vương; tằng tổ mẫu là Lương thị, tặng Duyễn quốc Thái phu nhân, làm Đường quốc Thái phu nhân; Trương thị làm Kinh quốc Thái phu nhân; Tống thị làm Sở quốc Thái phu nhân; Vương thị làm Việt quốc Thái phu nhân. Truy phong ông nội là cố Giá bộ Viên ngoại lang, tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, Vệ quốc công Phó Lượng, làm Hàn quốc công; bà nội là Ngô thị, tặng Ngụy quốc Thái phu nhân, làm Hàn quốc Thái phu nhân. Truy phong cha là cố Định quốc quân Tiết độ quan sát lưu hậu, tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, Hà Nội quận Vương Kinh, làm Ích Vương; mẹ là Lý thị, tặng Lỗ quốc Thái phu nhân, làm Tần quốc Thái phu nhân; Trương thị làm Ngô quốc Thái phu nhân.
[2] Trung thư tỉnh tâu: Theo chiếu xá tội khi lên ngôi và chỉ dụ triều đình ngày mồng 8 tháng này, các hộ dân còn thiếu thuế hạ thuế tô năm ngoái[1], cùng các khoản thuế tô còn thiếu từ năm Nguyên Phong thứ 6 trở về trước, và các khoản thuế tạm hoãn thu do nộp tiền vật, xin đều được miễn trừ. Vua đồng ý.
[3] Chiếu rằng: “Các hộ dân còn thiếu tiền lãi từ năm Nguyên Phong thứ 7 trở về trước về khoản thường bình và miễn dịch, đều được giảm bớt một nửa. Tiền phạt do mua bán các sở, thuê mướn ruộng đất, nhà cửa, đất trống quá hạn; tiền phạt do điều động phu xuân làm công tác phòng hộ sông ngòi, phu cấp bách đào kênh thành phố và xây dựng thủy lợi; tiền lương công sai cấp nhầm cho người làm việc, cũng đều được miễn trừ.”
[4] Lại chiếu rằng: “Cử Phó tướng thứ nhất của lộ Phu Diên là Lý Phố, chuyên trách việc bắt giặc quân là Vương Xung ở các lộ Thiểm Tây và Kinh Tây. Lệnh cho tuyển mộ ba đến năm trăm binh sĩ dũng cảm, cứ năm mươi người thì được phép không theo quy định thường, chọn một viên quan võ dũng làm sứ thần để chỉ huy, không kể xa gần đều phải truy đuổi. Cứ ba ngày một lần phải báo cáo tình hình bắt giết, gửi nhanh về triều đình. Các quan bắt giặc và những người đã được cử như Nhâm Thanh đều phải nghe theo sự chỉ huy của Lý Phố. Nếu có ai nhút nhát, chần chừ, sợ hãi, Lý Phố được phép chọn sứ thần thay thế, đồng thời gửi văn thư đến cơ quan liên quan để xử lý, sẽ bàn bạc xử phạt nặng. Lý Phố được cấp trung đẳng chi tứ, cùng các sứ thần được cử, đều được cấp giấy phép dịch trạm và ngựa trạm. Binh sĩ ngoài việc được cấp khẩu phần, binh cấp được cấp một nghìn tiền, nhân viên được cấp hai nghìn tiền; mỗi ngày được cấp năm mươi tiền ăn, nhân viên được tăng thêm theo thứ tự. Vũ khí và áo giáp, được chọn mượn tại nơi đến.”
(Ngày 17 tháng 6 bắt được Vương Xung.)
[5] Chiếu cho Quan Mộc Tỵ, Tri châu Thiệu, chọn một chức quan, vì Mộc Tỵ có công chiêu nạp các hộ dân ở Phù Dung, Thạch Dịch, Phù Thành, Giới Khê về quy thuận và xây dựng các trại phố ở Lâm Khẩu. Lại chiếu cho những người được Mộc Tỵ bảo lãnh xin ban ơn, nếu thuộc loại ưu tú, mỗi người được chọn một chức quan, còn lại được giảm năm khảo hạch và cấp thưởng khác nhau.
[6] Chiếu cho các trại bảo xây dựng ở Thiên Thôn và Đại Do thuộc châu Thành, đều lấy tên địa phương làm tên. Theo đề nghị của Chu Sĩ Long, Tri châu Thành.
[7] Ngày Mậu Tý, Thượng thư tỉnh tâu: “Các nơi bắt được kẻ trộm cướp, có kẻ đã từng giết người, cưỡng dâm và nguyên phạm cướp được tha tội chết, bị đày đi nơi khác, nếu tái phạm bị bắt, quan lại xét thấy việc phát sinh có nghi ngờ, thường áp dụng luật biết người muốn tố cáo hoặc tự thú khi bị tra hỏi để được giảm tội. Vả lại, trong luật có quy định về việc biết người muốn tố cáo hoặc tự thú khi bị tra hỏi, được giảm tội, là vì tình tiết không quá nghiêm trọng, có ý muốn sửa đổi lỗi lầm, nên được khoan hồng. Nay những tình tiết trên khác với các tội phạm khác, khó có thể áp dụng giảm tội như nhau. Xin thỉnh cầu: Kẻ cướp đã giết người, hoặc cưỡng dâm, hoặc nguyên phạm cướp được tha tội chết, nếu cầm vũ khí từ ba người trở lên, biết người muốn tố cáo, tự thú khi bị tra hỏi, hoặc được người khác tố cáo mà đáng được giảm tội, thì đều không được áp dụng giảm tội.” Được chấp thuận.
(Cựu lục chép: Trước đây, vào đầu niên hiệu Hi Ninh, Vương An Thạch dẫn luật biết người muốn tố cáo được giảm tội, không có quy định “tội lớn không giảm”, tranh luận với Tư Mã Quang lâu ngày, sau đó cuối cùng theo ý kiến của An Thạch, nhiều người được tha tội. Đến nay, bọn gian thần lừa dối thay đổi. Tân lục biện rằng: Bề tôi đều dựa vào ý kiến của mình để bàn luận pháp luật cho triều đình, không phải là lừa dối. Đoạn từ “Trước đây, Hi Ninh” đến “lừa dối thay đổi” gồm 50 chữ đều bị xóa bỏ. Đến cuối tháng hai năm sau, Phạm Thuần Nhân tấu, cần xem xét lại.)
[8] Ngày Kỷ Sửu, Tam tỉnh và Xu mật viện tâu: “Tiếp tục thảo luận về nghi thức cũ khi thái hậu buông rèm nhiếp chính, các quan lại cần đến tạ ơn, đều dẫn vào khi thái hậu buông rèm, theo nghi lệ hiện hành của Các môn.” Được chấp thuận.
[9] Ung vương Triệu Hạo và Tào vương Triệu Quần dâng biểu xin từ chối việc được miễn xưng tên khi bái kiến, chỉ cần vào triều kiến năm ngày một lần trong cung, theo nghi thức như khi gặp Đại trưởng công chúa. Chiếu không chấp thuận.
[10] Ngày Canh Dần, Thượng thư tỉnh tấu: “Hình bộ tâu rằng: ‘Theo chiếu xá năm nay vào ngày mồng 9 tháng giêng, những người chưa được phục hồi chức vụ cũ theo phép xét duyệt, nếu đã đủ ba kỳ thì được xét duyệt một lần. Những người đã được bổ nhiệm chính thức[2], mỗi lần xét duyệt sẽ được thăng chức[3]. Nếu người được tuyển chọn đến ngày xét duyệt và đủ thời hạn[4], thì sẽ được xét duyệt lại. Xét theo thông lệ, nếu người được tuyển chọn chưa phục hồi chức vụ cũ, phải qua một nhiệm kỳ, khi trở về Lại bộ và đủ thời hạn, mới được phép xét duyệt lại. Nay nhờ ân xá đặc biệt, xử lý ba kỳ, không cần đợi đến khi về bộ, đều được xét duyệt cùng lúc[5], những người đang tại chức, căn cứ vào chức vụ được xét duyệt mà tạm giữ, vẫn được hưởng bổng lộc theo chức vụ đó.'” Được chấp thuận.
[11] Cung bị khố phó sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân Văn Di Khánh được bổ nhiệm làm Phụng nghị lang, Đô quan viên ngoại lang.
(Di Khánh là con thứ hai của Ngạn Bác.)
[12] Tư Mã Quang dâng sớ tâu rằng:
[13] “Thần trộm thấy Tiên đế thông minh sáng suốt, chăm chỉ tìm cách trị nước, muốn dùng người hiền tài để đạt được thái bình, giao phó và tin dùng họ, nghe theo lời nói và kế sách của họ, không ai có thể xen vào. Dù như Chu Thành Vương dùng Chu Công, Tề Hoàn Công dùng Quản Trọng, Yên Chiêu Vương dùng Nhạc Nghị, Thục Tiên chủ dùng Gia Cát Lượng, cũng khó sánh được. Đó là bậc minh chủ hiếm có, ngàn năm khó gặp. Không may, người được giao phó lại không thông hiểu nhân tình vật lý, không đủ để đáp ứng ý nguyện của Thánh thượng. Lại tự mãn, cho rằng người xưa nay không ai bằng mình, không biết chọn lấy điển chương tốt đẹp của tổ tông, hợp với mưu kế hay của thiên hạ để khai sáng tâm trí, giúp đỡ sự nghiệp lớn, mà lại dùng ý riêng sửa đổi các quy chế cũ, gọi là Tân pháp.”
[14] Những người này muốn làm gì thì làm, Vua không thể ngăn cản, thiên hạ không thể lay chuyển. Những ai cùng phe với họ thì được đề bạt lên chức cao, những ai khác phe thì bị đẩy xuống vực sâu. Họ chỉ muốn thỏa mãn lòng tham của mình, không quan tâm đến đại cục quốc gia. Theo lẽ thường, ai chẳng yêu giàu sang mà sợ hình phạt, vì thế các quan lại sĩ đại phu đua nhau xu phụ, tranh nhau dâng kế sách, cốt sao kỳ lạ khéo léo, bỏ đúng lấy sai, gây hại bỏ lợi. Bề ngoài là thương dân, nhưng thực chất là hại dân; bề ngoài là có ích cho nước, nhưng thực chất là làm tổn hại đất nước. Họ đặt ra các phép như thanh miêu, miễn dịch, thị dịch, xa thải, lấy việc vơ vét làm mục đích, lấy sự hà khắc làm phương châm, gây ra mầm họa, đến nay vẫn còn là trở ngại.
[15] Lại có những bề tôi ở biên cương, liều lĩnh mạo hiểm, nói lớn lừa dối, khinh suất động binh, tùy tiện quấy nhiễu man di. Binh lính là việc lớn của quốc gia, sự hưng phế tồn vong đều ở đó. Nhưng những người này chỉ lo kiếm chác quan tước cho bản thân, không quan tâm đến sinh tử của dân chúng, lợi hại của đất nước, suy nghĩ nông cạn, hành động hấp tấp. Cai quản quân đội không có phép tắc, gần như trò trẻ con; tiến sâu vào đất địch, ngồi giữ thành cô lập, lương thảo cạn kiệt, hoảng loạn bỏ chạy. Xây dựng đồn lũy ở biên giới xa xôi, công việc chưa xong, khinh địch không phòng bị, cả thành bị tàn phá. Khiến hàng chục vạn binh lính phơi xác nơi đồng hoang; khí giới trị giá hàng tỷ bị bỏ rơi nơi đất khách.
[16] Lại có những bề tôi gây chuyện, muốn nhân cơ hội tiến thân, đề nghị đặt ra bảo giáp, hộ mã, bảo mã để tăng cường võ bị. Thay đổi các phép về trà, muối, luyện sắt, tăng thuế nhà cửa, lấn chiếm đường phố, buôn bán để cung ứng quân nhu. Khiến dân chín châu thất nghiệp nghèo khổ, như sống trong lửa đỏ. Đó đều là do bầy tôi nóng lòng tiến thủ, làm mê muội tiên đế, khiến lợi về mình, oán về Vua, không phải là ý nguyện ban đầu của tiên đế.
[17] Thần mang ơn lớn của Tiên đế, thường nghĩ đến việc báo đáp. Khi còn ở triều đình, nhiều lần nói rằng pháp luật mới không tiện lợi, đụng chạm đến quyền quý, mạo phạm đến sự tức giận của mọi người, tranh luận không phải một lần. Tiên đế thương xót sự trung thành cô độc của thần, không coi đó là tội, lại được sủng ái đề bạt, đặt vào chức vụ trong cơ mật viện. Thần vì lời nói chưa được thực hiện, cố từ chối không nhận. Thần không phải ghét giàu sang mà thích nghèo hèn, chỉ muốn cảm động Tiên đế, biết rằng thần vì nước chứ không vì thân, mong rằng sẽ được nghe theo lời nói điên rồ của thần, để trăm họ được yên ổn, nền móng vững chắc mà thôi. Sau đó lại tự xin làm quan nhàn, lui về sống ở quê nhà, tuy thân ở ngoài, nhưng tấm lòng nhỏ bé, sớm tối suy nghĩ, lúc nào cũng như ở bên cạnh Tiên đế. Lý do không dám tự mình đến triều đình lâu như vậy, cũng là do ý chí từ chối chức vụ trong cơ mật viện vậy.
[18] Năm Hi Ninh thứ bảy, trải qua thời gian dài không mưa, Tiên đế gặp tai họa mà lo sợ, tự trách mình sâu sắc, ban bố chiếu thư, mở rộng đường lối ngôn luận. Thần lúc đó, không kìm được sự hăng hái, đã hết lòng trình bày. Nhưng các quan đưa ra kiến nghị, biết rằng pháp luật mình đặt ra không hợp lòng dân, người trong thiên hạ ắt sẽ chỉ trích, sợ Tiên đế tỉnh ngộ mà mình phải chịu tội làm hại nước, bị trừng phạt vì tội lừa dối, bèn khuyên Tiên đế tiếp tục ban chiếu thư, nói rằng tân pháp đã thi hành, nhất định không thể thay đổi. Những điều thần nói, chính là về tân pháp, nếu không thể thay đổi, thần còn nói gì nữa? Từ đó, thần im lặng, không dám tham gia bàn luận triều chính suốt mười một năm. Tuy nhiên, mỗi khi thấy dân chúng oán than, lo lắng cho nguy cơ của xã tắc, vào lúc nửa đêm[6], mỗi lần nghĩ đến, không khỏi đau lòng. Lòng thành như cỏ quỳ hoắc, vẫn mong Tiên đế một lần triệu kiến, hỏi han việc ngoài, để thần được bày tỏ hết lòng, dù có phải chịu tội chém đầu cũng không hối hận. Không ngờ trời giáng họa, Tiên đế băng hà, lòng thành của thần không được bày tỏ, uất ức phẫn nộ, tự cho là đến cuối đời. Khi về kinh chịu tang, may được Thái hoàng thái hậu bệ hạ đặc cách sai trung sứ đến hỏi han được mất[7], đó là nguyện vọng tích tụ bao năm của thần được thỏa mãn trong một sớm một chiều, cảm kích rơi lệ, không biết phải làm sao.
[19] Xét việc thiên hạ rất nhiều, thần suy nghĩ chưa thấu đáo, không dám khinh suất trình bày điều gì, chỉ xin ban chiếu cho phép quan lại và dân chúng đều được dâng thư kín trình bày, để những nỗi khổ của dân gian đều được thấu đạt. Sau đó, nghe nói có chỉ lệnh đình chỉ việc sửa chữa thành trì, rút bớt quân tuần tra, ngừng các công việc xây dựng trước cung điện, người dân kinh thành đã vui mừng. Khi thần trở về Tây Kinh, lại nghe nói đã cách chức những kẻ thân cận vô dụng, răn dạy các cơ quan thi hành pháp luật sai trái, gây phiền nhiễu quá mức, bãi bỏ các trường buôn bán vật phẩm và việc dân nuôi ngựa, lại nới lỏng thời hạn bảo mã, người dân bốn phương đều vui mừng! Đức thánh truyền đi, một ngày ngàn dặm, tiếng ca ngợi như một, lan tỏa khắp nơi. Mới biết Thái hoàng thái hậu bệ hạ ở sâu trong cung cấm, hoàng đế bệ hạ tuy còn trẻ nhưng việc thiên hạ không gì không biết, tình cảm dân gian đã lâu nằm trong lòng thánh, sinh linh bốn biển thật may mắn biết bao! Những điều thần muốn nói, bệ hạ đã phần nào thực hiện, tội chậm trễ của thần thật đáng chết muôn lần!
[20] Việc trị nước cần thuận theo lòng dân, nếu điều gì dân muốn thì ban cho, điều gì dân ghét thì bỏ đi, giống như dẫn nước từ cao nguyên đổ xuống thung lũng, không gì là không thành. Nếu không làm như vậy, giống như đẩy hòn bi ngược dốc, dù có dùng hết sức để đẩy lên, chắc chắn nó sẽ lại lăn xuống. Hiện nay, tệ nạn của pháp luật mới, người trong thiên hạ, không phân biệt sang hèn, ngu dốt hay thông minh, đều biết rõ. Vì vậy, chỉ cần bệ hạ hơi thay đổi, thì người gần xa đều vui mừng. Tuy nhiên, vẫn còn những điều làm hại dân, tổn thương quốc gia, có hại mà không có lợi, như phép bảo giáp, tiền miễn dịch, và việc bổ nhiệm tướng quan, đều là những việc cấp bách hiện nay, cần phải cải cách trước tiên. Thần nay xin trình bày riêng tấu chương, mong bệ hạ quyết định theo ý mình, sớm ban hành.
Những người bàn luận chắc chắn sẽ nói: “Khổng Tử nói: ‘Hiếu của Mạnh Trang Tử, những điều khác có thể làm được, nhưng không thay đổi bề tôi và chính sách của cha, đó là điều khó làm được.’ Lại nói: ‘Ba năm không thay đổi đạo của cha, có thể gọi là hiếu vậy.'” Họ cho rằng những điều không hại dân, không tổn quốc, thì không cần vội vàng thay đổi theo ý mình. Nhưng nếu là những điều làm hại dân, tổn thương quốc gia, há có thể ngồi nhìn mà không thay đổi sao? Kinh Dịch nói: “Con trai sửa chữa lỗi lầm của cha, cha không bị tội.” Tượng truyện nói: “Sửa chữa lỗi lầm của cha, ý là kế thừa cha vậy.” Lỗi lầm là việc có sai sót mà sửa chữa. Sửa chữa lỗi lầm của cha, bề ngoài có vẻ trái ngược, nhưng ý nghĩa là kế thừa sự nghiệp, hoàn thành cái đẹp của cha. Lại nói: “Khoan dung lỗi lầm của cha, đi sẽ gặp khó khăn.” Tượng truyện nói: “Khoan dung lỗi lầm của cha, đi chưa được.” Khoan dung là tên gọi của sự gia tăng thêm. Nếu không nỡ làm trái, thêm lỗi lầm của cha, đi mà không trở lại, thì không phải là điều thích hợp.
Xưa Hán Văn Đế bỏ hình phạt xẻo thịt, người bị chặt ngón chân phải bị xử tử[8], người bị đánh năm trăm roi phần nhiều chết; đến năm đầu niên hiệu Cảnh Đế liền thay đổi, người bị đánh mới được toàn mạng. Vũ Đế thi hành các phép diêm thiết, độc quyền rượu, quân thâu, thiên hạ khốn khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi; Chiêu Đế nghe theo lời bàn của hiền tài văn học mà bãi bỏ, đời sau khen ngợi. Đường Đại Tông để cho hoạn quan công khai đòi hối lộ, đặt khách sảnh giam giữ người bốn phương; Đức Tông lên ngôi chưa đầy ba tháng, đã cấm chỉ và giải tán, người đương thời mong đợi thái bình. Đức Tông về già có chợ trong cung, bọn trẻ con năm phường hung hăng làm hại dân, diêm thiết mỗi tháng dâng tiền thừa; Thuận Tông lên ngôi, đều bãi bỏ, trong ngoài đều vui mừng. Đó đều là những việc thay đổi chính sách của cha mà đúng, ai lại chê trách được? Huống chi ý chí của tiên đế vốn muốn cầu trị, nhưng bọn dưới tranh nhau tiến thân, đua nhau thay đổi pháp luật cũ của tổ tông theo ý riêng, khiến thiên hạ xôn xao như vậy, đều là tội của quần thần, chứ không phải lỗi của tiên đế.
[21] Để giải quyết vấn đề hiện nay, không gì bằng chọn lấy những điều trong phép mới có lợi cho dân và ích nước thì giữ lại, còn những điều gây hại cho dân và tổn thương đất nước thì bỏ hết. Khiến cho thiên hạ hiểu rõ ý chí của triều đình yêu thương dân chúng, những quan lại hà khắc sẽ thay đổi thành trung hậu, dân chúng oán hận sẽ trở nên thân thiện và ca ngợi, đức nghiệp rạng rỡ, phúc lộc vô cùng, há chẳng phải là điều tốt đẹp sao? Hiếu của thiên tử[9], là làm sao để được lòng yêu mến của muôn nước mà phụng sự cha mẹ. Nếu sắp đặt như vậy, lòng yêu mến nào lớn hơn? Việc phụng sự cha mẹ nào đầy đủ hơn? Nếu không, hiện nay trong cõi đất nước, khắp nơi dân chúng kêu than, tình thế nguy cấp như treo ngược, họ ngóng cổ lắng tai chờ đợi cải cách để được sống yên ổn. Nếu triều đình không để ý, ngày qua ngày, một khi gặp phải nạn châu chấu hoặc hạn hán trải dài nghìn dặm[10], công tư đều kiệt quệ, không có gì để cứu giúp, dân chúng thất nghiệp sẽ nổi dậy làm giặc, biết đâu không có kẻ gian hùng nhân cơ hội mà hành động, thì đất nước sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm như chồng trứng. Thân Đồ Cương nói: “Chưa đến lúc dự ngôn, thường là hư vô, đến khi xảy ra rồi thì không kịp nữa.” Triều đình lúc này, giải quyết tình thế nguy cấp của dân chúng, cứu đất nước khỏi nguy hiểm, há còn đợi ba năm sau mới cải cách sao! Huống chi việc quân quốc hiện nay, Thái hoàng thái hậu bệ hạ tạm thời xử lý, đó là mẹ sửa đổi chính sách của con, chứ không phải con sửa đổi đạo của cha, có gì phải ngại mà không làm? Xin bệ hạ sáng suốt xem xét!
[22] Lời tâu xin bãi bỏ phép bảo giáp rằng:
[23] Thần trộm nghĩ rằng việc binh lính xuất thân từ dân gian, tuy nói là phép xưa, nhưng xưa kia tám trăm nhà mới xuất được ba người giáp sĩ, bảy mươi hai người bộ tốt, dân nhàn rỗi rất nhiều, ba mùa làm ruộng, một mùa tập võ, không cản trở việc cày cấy. Từ đời trước truyền lại, tập quen thành lệ, dân không kinh động. Từ chức Lưỡng tư mã trở lên, đều chọn người hiền sĩ đại phu làm, không có nạn cướp bóc, nên quân lính hòa thuận, hành động thì có công. Nay bắt dân làng xã, hai đinh lấy một, làm thành bảo giáp, đều cấp cung nỏ, dạy cách đánh trận, khiến nửa số nông dân thành lính. Ba bốn năm nay, lại lệnh cho Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây đặt đô giáo trường, không kể bốn mùa, cứ năm ngày tập một lần. Đặc biệt đặt sứ giả ngang với Giám ty, chuyên lo việc đề cử, châu, huyện không được can dự. Mỗi một đinh đi tập, một đinh phải cung ứng, tuy nói năm ngày, nhưng bảo chính, bảo trưởng lấy cớ đắp bờ, nhổ cỏ, ngày ngày tụ tập ở giáo trường, nhận hối lộ thì tha, không thì giữ lại, khiến việc cày cấy, gặt hái ở ba lộ này gần như bỏ bê hết.
[24] Từ thời Khai Nguyên nhà Đường trở đi, phép binh dân bị hỏng, việc phòng thủ và chiến đấu đều dựa vào việc tuyển mộ binh sĩ trường kỳ, dân gian từng nào quen với việc binh đao? Binh khí là thứ hung hiểm, thánh nhân chỉ dùng khi bất đắc dĩ. Quốc gia đã hưởng thái bình hơn trăm năm, bốn phương dân tộc đều thuần phục, những bậc lão thành đầu bạc chưa từng biết đến chiến tranh, bỗng chốc những người nơi ruộng đồng đều mặc áo giáp cầm vũ khí, chạy khắp nơi, ai thấy cũng đều kinh hãi. Các bậc kỳ cựu than thở, cho là điềm chẳng lành. Việc mới khởi đầu, điều động không có phép tắc, nhà nhà đều bị quấy nhiễu, không sót một hộ nào. Lại thêm Tuần kiểm, Chỉ sử đi khắp thôn xóm, qua lại như thoi đưa; Bảo chính, Bảo trưởng ỷ thế lộng quyền, ngồi không đòi cung cấp, nhiều kẻ đòi hối lộ, nếu không vừa ý thì tùy tiện đánh đập, ăn mòn hàng ngũ[11], không biết đâu là giới hạn. Dân chúng trung hạ bán hết của cải, thịt xương bị bòn rút, không còn gì để cung ứng, khổ sở cùng cực, không biết kêu ai, phải lưu lạc khắp nơi, đường xá đầy người.
[25] Lại nữa, triều đình thường sai sứ giả đi khắp nơi để kiểm tra, đến đâu cũng khao thưởng, tiêu phí vàng bạc lụa là, tính ra đến hàng vạn. Những thứ này đều là do đánh đập dân thường, thu từng đồng từng tấc mà tích cóp lại, một khi dùng thì như đổ phân đất. Còn dân làng quê chỉ khổ vì lao dịch, chẳng được hưởng ân trạch. Thần không biết việc thiết lập bảo giáp khiến nông dân khổ cực như thế, mà chi phí quốc gia lại lớn như vậy, rốt cuộc để làm gì? Nếu bảo họ bắt trộm cướp, bảo vệ làng xóm, thì cần gì nhiều đến thế? Nếu bảo họ trấn giữ biên cương, đánh giặc nước ngoài, thì dân nước đó lấy cưỡi ngựa bắn cung làm nghề, lấy đánh nhau làm thói quen, từ nhỏ đến lớn, chẳng làm việc gì khác; còn dân Trung Quốc sinh trưởng trong thái bình, cày cấy làm ruộng, dù có trao cho binh khí, dạy họ đánh đâm, ở trong trường tập, ngồi đứng tiến lui, có vẻ nghiêm chỉnh, nhưng nếu bắt họ đối mặt với quân địch, đánh trống rầm rầm[12], tên bay bắt đầu giao chiến, thì việc họ bỏ chạy tan tác, có thể đoán trước được, chắc chắn không nghi ngờ gì. Đó chẳng khác nào đuổi bầy dê đi đánh chó sói. Lúc đó, há chẳng làm hỏng việc nước sao? Lại nữa, bãi bỏ hết binh sĩ dưới quyền tuần kiểm ba lộ và các huyện, đều thay bằng bảo giáp, lệnh cho chủ bạ kiêm chức huyện úy, chỉ quản lý trong thành thị[13]; còn trộm cướp ở thôn quê, đều giao cho tuần kiểm, mà tuần kiểm lại kiêm quản việc tuần tra, kiểm tra việc tập luyện bảo giáp, sớm tối chạy ngược chạy xuôi, còn sợ không xong, thì lấy đâu ra thời gian để đuổi bắt trộm cướp?
[26] Lại nữa, trong bảo giáp thường có kẻ tự làm trộm cướp, cũng có kẻ cưỡi ngựa bảo giáp đi cướp bóc, như vậy việc thiết lập bảo giáp, bảo mã vốn để trừ trộm cướp, lại thành giúp trộm cướp. Sách viết: “Dân là gốc nước, gốc vững nước yên.” Lại viết: “Đáng sợ không phải là dân.” Sông cạn cá đi, rừng cháy chim bay, dân mất kế sinh nhai, không thể tự tồn tại, kêu van không được, mất chỗ nương tựa, sao không bỏ đi làm trộm cướp được?
[27] Từ khi thực hiện việc giáo duyệt bảo giáp, ở Hà Đông, Thiểm Tây, Kinh Tây, bọn trộm cướp đã nhiều, thậm chí dám công khai hoạt động giữa ban ngày, xông vào huyện trấn, giết hại quan lại. Quân đội truy bắt, trải qua nhiều năm tháng, cuối cùng vẫn không thể kiểm soát được. Huống chi ba vùng này chưa đến mức đói kém lớn, mà bọn trộm cướp đã hoành hành như vậy, nếu gặp phải nạn châu chấu và hạn hán kéo dài hàng ngàn dặm, những người thất nghiệp, đói rét, có võ nghệ cao cường, sẽ nổi dậy khắp nơi để ứng phó, mối họa cho quốc gia, sao có thể kể xiết! Đây không phải là chuyện nhỏ, không thể xem thường. Cướp đoạt cơm áo của dân, khiến họ không có cách sinh sống, chính là đẩy dân vào con đường trộm cướp; bắt họ tập luyện chiến đấu, dùng chức tước để khuyến khích, chính là dạy dân làm trộm cướp; lại bãi bỏ những người bắt trộm cướp, chính là buông lỏng cho dân làm trộm cướp. Mưu kế trị quốc như vậy, rốt cuộc là có lợi hay có hại?
[28] Hơn nữa, những kẻ xu nịnh trước đây, đã khuyên tiên đế dùng sách lược chinh phạt tứ di, mở mang bờ cõi, nên mới đặt ra các phép bảo giáp, hộ mã, bảo mã. Gần đây, trong tờ chiếu xá tội khi lên ngôi có đoạn viết: “Các châu quân ở biên giới, phải theo lệnh của các quan địa phương cùng tuần kiểm, sứ thần, kiềm hạt, binh sĩ và dân biên giới, không được xâm phạm ngoại giới, phải giữ yên bờ cõi, không để gây rối loạn.” Đây chính là ý thánh nhân muốn ban ân huệ cho phương xa, cho Trung Quốc được nghỉ ngơi, người Hoa hay người Di, ai chẳng quy phục! Vậy thì bảo giáp, hộ mã còn dùng để làm gì nữa[14]? Nay tuy đã bãi bỏ hộ mã, nới lỏng bảo mã, nhưng bảo giáp vẫn còn tồn tại, có lẽ là vì chưa có ai tâu trình rõ ràng về lợi hại của nó.
[29] Thần ngu muội cho rằng nên bãi bỏ toàn bộ chế độ bảo giáp, cho dân trở về làm ruộng, triệu hồi các quan đề cử về triều, căn cứ vào số hộ khẩu của từng huyện, cứ mỗi năm mươi hộ thì đặt một người làm cung thủ[15], dựa theo phép của cung thủ vùng biên, cho phép họ được hưởng lợi từ hai khoảnh ruộng của hộ mình và miễn toàn bộ thuế dịch. Ngoại trừ những khu vực có giặc cướp sẽ bị xử phạt nghiêm khắc và bắt đóng tiền thưởng, những nơi khác không đặt ra ba hạn kỳ khảo sát, chỉ yêu cầu bắt giặc để nhận thưởng. Nếu bắt được nhiều giặc hoặc bắt được những tên giặc hung ác, tùy theo công trạng lớn nhỏ mà thăng chức hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ, hoặc bổ vào hàng ngũ quan lại, cốt sao ưu đãi cung thủ, khiến người ta hăng hái ứng tuyển. Sau đó, chiêu mộ những người trong hộ thôn quê của huyện có sức mạnh và võ nghệ để bổ sung, tính ra hiện nay trong số bảo giáp, những người có sức mạnh và võ nghệ chắc chắn sẽ nhiều người muốn ứng tuyển. Nếu một người bị khuyết chỗ, có hai người trở lên tranh nhau ứng tuyển, thì giao cho lệnh úy của huyện đó chọn người có võ nghệ cao cường để bổ sung. Hoặc nếu người nào võ nghệ suy yếu, cho phép người khác chỉ tên so sánh, nếu võ nghệ hơn người cũ thì cho thay thế, người bị thay không được hưởng lợi từ ruộng nữa. Như vậy, không cần phải dạy tập, võ nghệ tự nhiên sẽ tinh thông. Trong một huyện, những người tráng kiện đã làm cung thủ, còn những người yếu đuối dù có làm giặc cũng không gây hại được.
Vẫn giao cho châu đó và đề điểm hình ngục thường xuyên kiểm tra[16], nếu lệnh tá có sự thiên vị không công bằng, sẽ xử phạt nghiêm khắc theo pháp luật. Nếu chiêu mộ không đủ, thì tạm thời theo điều lệ cũ, chọn từ các hộ thôn quê, đợi khi có người ứng tuyển thì cho thay thế. Những người khác như tuần kiểm binh sĩ, huyện úy cung thủ, kỳ trưởng tráng đinh bắt giặc, đều xin theo pháp cũ của tổ tông.
[30] Lại xin bãi bỏ chế độ miễn dịch rằng[17]:
[31] Thần trộm nghĩ rằng dân chúng bỏ sức ra để cung ứng việc phục dịch cho bề trên, từ xưa đến nay chưa từng thay đổi. Vào niên hiệu Hi Ninh, những người nắm quyền cho rằng dân chúng chỉ khổ vì phải chịu sai dịch đến nỗi phá sản, không ngại tăng thuế, bèn xin căn cứ vào tài sản nhiều ít của từng nhà, bắt họ xuất tiền thuê người đi làm thay. Xét ra, những người phá sản vì sai dịch chỉ có hộ dân ở các làng xã phải làm nha tiền, còn những người khác như tán tòng, thừa phù, cung thủ, thủ lực, kỳ hộ trưởng, tráng đinh thì chưa từng nghe có ai phá sản. Nguyên nhân khiến hộ dân làm nha tiền phá sản là do họ vốn là những người quê mùa chất phác, không biết làm việc, lại bắt họ quản lý tài sản của quan, hoặc gặp phải thiên tai hỏa hoạn, hoặc bị cấp trên lừa gạt, dẫn đến thiếu hụt, bồi thường không đủ, nên mới có người phá sản. Còn những người làm nha tiền lâu năm, quen việc công, mỗi lần được giao nhiệm vụ khó khăn, tích lũy được công trạng, lại được thưởng những việc nhẹ nhàng hơn, thường trở nên giàu có, làm gì có chuyện phá sản!
[32] Phu sai dịch xuất từ dân, tiền cũng xuất từ dân, nay bắt dân xuất tiền thuê người làm dịch, khác nào cắt mũi nuôi miệng? Sáng ba chiều bốn, dân được lợi gì? Lại nữa, trước đây người làm dịch đều là hộ thượng đẳng, còn hạ đẳng đơn đinh, nữ hộ cùng phẩm quan, tăng đạo vốn không phải làm dịch, nay lại bắt họ đều nộp tiền, khiến thuế má càng nặng, không phải là cách để khoan thứ cho dân. Từ khi thi hành pháp miễn dịch, nhà giàu được khoan thứ, còn kẻ nghèo ngày càng khốn cùng, đâu phải là cách để ngăn chặn sự thôn tính, thương xót kẻ cô độc, cân bằng thuế dịch. Lại nữa, những kẻ bất nhân trong giám ty, thủ lệnh, ngoài tiền thuê người làm dịch, còn thu thêm tiền thừa, có huyện thu đến mấy vạn quan, mong được ban thưởng, mưu cầu tiến thân, không nghĩ đến hậu họa đời đời cho dân. Lại nữa, theo chế độ cũ của quốc gia, nhất định phải sai hộ thanh miêu làm người dịch, vì họ có ruộng vườn, gia thuộc, nếu phạm tội khó mà trốn tránh, nên họ rất tự trọng. Nay thuê người phù lưu làm dịch, thường ngày buông thả làm điều phi pháp, một khi sự việc bại lộ, đơn thân trốn tránh, châu huyện nào chẳng thể đăng ký? Lại nữa, nhà nông chỉ có lúa gạo, vải vóc và sức lực, từ xưa đến nay thuế dịch không ngoài ba thứ đó. Từ khi thi hành tân pháp, tiền thanh miêu, miễn dịch và thuế má đều đòi tiền mặt. Tiền không phải do tư gia đúc, phải mua bán từ bên ngoài, năm được mùa lúa rẻ, đã tự hại nông dân, huống chi bị thúc ép trong kỳ hạn, không được nửa giá, bán hết thu hoạch vẫn không đủ số, lương thực trong nhà không kịp để dành. Nếu gặp năm mất mùa, lại không có lúa để bán, mọi người bán ruộng, không có gì để bán, đến nỗi giết trâu bán thịt, chặt dâu bán củi, kế sinh nhai năm sau không dám bàn đến, đó là lý do khiến nông dân càng thêm khốn khổ.
Lại nữa, tiền là vật lưu thông, nên gọi là tuyền bố. Những năm gần đây, vật giá càng rẻ mà dân chúng càng khốn đốn, lý do là tiền đều tụ về quan phủ, dân gian thiếu tiền, hàng hóa nặng mà vật phẩm nhẹ. Giả sử có người bán củi mua gạo, giá gạo tuy rẻ, giá củi cũng rẻ vậy.
[33] Thần ngu muội cho rằng nên bãi bỏ toàn bộ tiền miễn dịch, các loại người làm việc dịch ở châu, huyện vẫn theo chế độ cũ, giao cho lệnh tá của huyện mở sổ sách định người đi làm dịch, thay thế những người đang được thuê làm dịch. Đối với nha tiền, trước hết chiêu mộ người tình nguyện làm trưởng danh, nếu chiêu mộ không đủ thì sau đó mới sai người dân trong làng xã đi làm. Mỗi khi trải qua những việc dịch nặng nhọc, vẫn theo lệ cũ dùng những công việc nhẹ nhàng hơn để làm phần thưởng. Số tiền miễn dịch hiện có, chuyển sang làm vốn thường bình của châu, huyện, lấy số hộ khẩu làm tỷ lệ, dự trữ đủ ba năm, nếu còn dư thì giao về chuyển vận ty. Phép miễn dịch này, dù người giàu mạnh phải đi làm dịch, nhưng lại đánh vào sức lực của người nghèo yếu không phải làm dịch[18], có lợi cho người giàu mà không có lợi cho người nghèo. Nay tai mắt còn tiếp xúc, vẫn có thể khôi phục lại chế độ cũ, nếu để lâu năm nữa, người giàu đã quen, dân không thể khôi phục lại chế độ sai dịch được nữa.
Lại xin bãi bỏ chức tướng quan rằng: Thần kính nghĩ rằng châu, huyện là gốc rễ của trăm họ, quan lại cai trị là gốc rễ của châu, huyện, gốc rễ nguy thì cành lá sao được yên ổn, nên từ xưa đến nay, mỗi khi đặt châu quận, ắt phải nghiêm chỉnh việc võ bị, đặt quan lại cai trị, ắt phải tăng cường thị vệ. Không phải để tăng thêm quyền lực, kiêu ngạo với người khác, mà là để yên dân, bảo vệ triều đình. Nhà Tần rút kinh nghiệm từ tệ nạn nhà Chu yếu gốc mạnh ngọn, sau khi diệt sáu nước, cho rằng thiên hạ không còn dùng binh nữa, dù chia làm ba mươi sáu quận, đặt quận thủ, lại dùng ngự sử giám sát. Phá hủy thành trì, tiêu hủy vũ khí, trói buộc bằng pháp luật hà khắc, mọi hành động đều không được tự chuyên. Vì thế Trần Thắng, Ngô Quảng chỉ là kẻ thất phu giơ tay hô lớn, quận huyện không thể ngăn chặn, giết nhiều quan lại để hưởng ứng. Tuy do sự tàn bạo dẫn đến diệt vong, nhưng cũng là do quan lại cai trị không có quyền, không có binh lực. Tấn Vũ Đế bình định Ngô, cũng cho rằng thiên hạ đã thống nhất, binh lực không còn dùng nữa, bãi bỏ toàn bộ binh lực của châu quận. Đào Hoàng, Sơn Đào đều nói rằng võ bị của châu quận không thể bỏ, nhưng Vua không nghe. Đến sau niên hiệu Vĩnh Ninh, giặc cướp nổi lên khắp nơi, châu quận không có phòng bị, không thể bắt giữ, thiên hạ đại loạn. Binh lực là để răn đe kẻ bất chính và tỏ rõ đức văn, ai có thể bỏ binh lực được? Châu huyện yên ổn thì quốc gia an định; châu huyện không giữ được thì quốc gia nguy vong.
[34] Thần trộm thấy từ khi quốc triều lập nước, đặt chức Tổng quản, Kiềm hạt, Đô giám áp làm quan tướng súy, phàm các châu, huyện có binh mã, thì trưởng quan của châu huyện đó đều kiêm nhiệm quản hạt. Bởi vì Tri châu tức là tướng của một châu, Tri huyện tức là tướng của một huyện. Tiên đế muốn chinh phạt tứ di, lo ngại các quan binh châu không chuyên cần huấn luyện, quân sĩ lười nhác, nên có người dâng lời xin chia quân các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông, Kinh Đông, Kinh Tây thành từng tướng, đặt riêng chức Tướng quan, để họ chuyên lo huấn luyện. Các chức Tổng quản trở xuống ở các châu cùng Tri châu, Tri huyện đều không được can dự. Khi có việc sai phái, thì tùy nghi giữ lại những quân yếu kém và quân dư để sung vào việc bạch trực và các việc sai phái khác của châu. Còn lại cấm quân đều do Tướng quan quản lý, chuyên lo việc huấn luyện.
[35] Thần ngu cho rằng việc chức vụ được thực hiện tốt là do chọn được người phù hợp, chứ không phải do thiết lập nhiều chức quan. Nếu không chọn được người tài, dù có đặt ra chức tướng quan cũng chẳng làm được gì. Huống chi, chức tướng quan hiện nay chính là những người trước đây giữ chức Tổng quản, v.v. [19], lẽ nào khi làm Tổng quản thì không thể hoàn thành nhiệm vụ, mà khi làm tướng quan lại có thể hoàn thành được sao? Việc này chỉ là thay đổi danh xưng, chẳng có ích gì cho thực tế, không những không có ích [20], mà còn gây hại nữa. Phàm việc thiết lập chức quan và phân chia nhiệm vụ, cần phải trên dưới phối hợp nhịp nhàng, như thân điều khiển tay, tay điều khiển ngón tay, thì kỷ cương mới được thiết lập.
Nay các chức Trưởng lại ở châu, huyện và Tổng quản, v.v. [21], đối với binh lính dưới quyền lại không có quyền thống lĩnh, không được phái đi làm việc, gần như là người dưng. Đến cả việc canh giữ kho tàng, tuần tra phố chợ cũng đều thiếu người, dù theo điều lệ cho phép điều động binh lính dưới quyền tướng, nhưng châu, huyện không được trực tiếp điều động, phải thông qua văn thư gửi tướng quan, mà tướng quan thường giữ lại, không chịu phái đi. Nếu chẳng may xảy ra biến cố bất thường, các Trưởng lại ở châu, huyện lấy gì để hiệu lệnh quân chúng [22], ngăn chặn kẻ gian tà đây?
[36] Lại nữa, trong những năm gần đây, từ chức Chuyển vận sứ, Tri châu trở xuống, số người hầu hạ và đón rước ngày càng giảm bớt. Việc hộ tống ra vào vốn đã đơn sơ[23], việc cung ứng và gánh vác cũng không đủ. Sự suy yếu trong việc quan sát và phòng thủ khiến không có cách nào uy hiếp và khuất phục được quan lại và dân chúng. Thần xin nêu một việc mắt thấy để chứng minh cho những điều còn lại: thành quách Tây Kinh chu vi mấy chục dặm, thấp và mỏng, đổ nát, chó lợn có thể vượt qua được. Lại có hai con sông Triền và Lạc chảy qua giữa thành, mỗi đêm các cổng thành tuy khóa chặt, nhưng ở những chỗ nước chảy, người ta vẫn có thể đi lại dễ dàng. Quân lính dưới quyền Tuần kiểm Nam Bắc thuộc vùng nước này, ngoài số đi ra ngoài quân doanh, còn lại không nhiều. Các quan từ Thông phán trở xuống, người hầu hạ, việc hộ tống qua lại, canh giữ kho tàng, tuần tra phố chợ, đều phải dựa vào số quân này. Trước đây, khi Tiên đế bệnh nặng, có lệnh cho Lưu thủ Tây Kinh thân hành đến núi Tung Sơn dựng đạo tràng, những quân cấm vệ được điều làm người hầu hạ, theo quy định đều không được ra khỏi thành qua đêm, chỉ để lại bảy tám người dư thừa mà thôi. Tây Kinh là kinh đô phụ của thiên tử, mà việc phòng thủ lại lỏng lẻo như vậy; Lưu thủ là chức quan trọng của cựu tể tướng, mà số người hộ vệ lại ít ỏi như vậy. Huống chi những châu, huyện nhỏ hẻo lánh, việc phòng thủ và số người hộ vệ còn có thể biết được.
Nếu chẳng may có kẻ gian ác, dẫn đám đông ô hợp đột nhập vào thành ấp, hoặc giết hại quan lớn[24], đốt phá nhà cửa, giết hại quan lại và dân chúng, thì lấy gì để ngăn chặn đây? Đây là do thiên hạ thái bình đã lâu[25], phong tục thuần hậu, lòng người yên ổn, giặc không dò được hư thực, gan dạ và trí lực yếu kém, nên chưa dám làm mà thôi! Há có thể coi thường, cho rằng chắc chắn không xảy ra mà không đề phòng sao?
[37] Hiện chỉ có các châu, quân ở biên giới là thành trì kiên cố, binh lính đông đảo, có thể phòng thủ. Còn các châu huyện trong nội địa, vừa không có hào sâu thành cao, lại thiếu binh lính, nếu giặc cướp nổi lên đột ngột, làm sao có thể trách họ hết lòng giữ nghĩa, không bỏ thành chạy trốn, hoặc dùng rượu thịt đón giặc, dùng binh khí dâng giặc, thu tài dân để hối lộ giặc? Giặc cướp còn như vậy, huống chi kẻ địch huy động cả nước tiến đánh lớn, thẳng tiến vào trong? Kinh Dịch nói: “Người quân tử lúc yên ổn không quên nguy hiểm, lúc tồn tại không quên mất mát, lúc trị an không quên loạn lạc.” Binh pháp nói: “Không dựa vào việc địch không đánh ta, mà dựa vào việc ta không thể bị đánh.” Quốc gia há có thể dựa vào sự yên ổn hiện tại, ung dung gối cao mà không lo lắng, cho rằng địch nhất định không dám đến sao?
Thần cho rằng các châu huyện trong nội địa thuộc các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông, Kinh Tây[26], nên dần dần đợi đến mùa màng bội thu, lúc nông nhàn[27], giao cho các quan Đề điểm hình ngục cùng các quan trưởng địa phương bàn bạc, tu sửa thành trì của mình. Thành châu nên cao hơn, thành huyện thấp hơn[28], không cần quá rộng lớn. Lý do là thành cao thì khó vượt qua, nhỏ thì dễ phòng thủ. Còn binh lính đóng ở biên giới[29], vào mùa xuân hạ lúc không có việc, giao cho các quan Kinh lược an phủ sứ và Chuyển vận sứ cùng bàn bạc, giảm bớt số lượng cho về; đóng quân ở các châu quân, hoặc đến nội địa để lấy lương, không nghe theo các tướng nhút nhát chiếm dụng quá nhiều để tự vệ.
Các châu quân trong nội địa, tùy theo quy mô lớn nhỏ và tình hình khẩn cấp, các phiên lớn thường giữ lại hơn nghìn người, châu nhỏ cũng giữ lại vài trăm người, không được điều động sang châu quân khác. Nếu thấy binh lính không đủ, lập tức chiêu mộ thêm. Bãi bỏ hết các chức tướng quan, binh lính cấm quân của các châu huyện đều giao cho các quan trưởng cùng các Tổng quản cùng nhau phụ trách huấn luyện[30], và các việc sai phái khác[31], nếu có ai không chăm chỉ[32], khiến binh lính lơ là, giao cho các quan Đề điểm hình ngục thường xuyên kiểm tra tâu lên, nghiêm khắc xử phạt. Lại lệnh cho các châu chọn người có sức mạnh và võ nghệ làm cung thủ, để bảo vệ thành ấp[33], đánh dẹp giặc cướp. Các quan lại châu huyện được cấp người hầu đón rước, đều theo số lượng quy định trước niên hiệu Gia Hựu. Như vậy có đủ sức phòng thủ, sau đó nếu gặp giặc cướp đến, trách tội bỏ thành mà xử tử, họ cũng cam tâm!
(Sách 《Tôn Thăng Quân Phu Đàm Phố》 chép: Ôn công đại tu pháp lệnh, Phó Khâm Chi và Tô Tử Chiêm bí mật khuyên nên lo lắng hậu hoạn, Ôn công đứng dậy, chắp tay ngẩng đầu, nói lớn: “Trời nếu phù hộ nhà Tống, ắt không có chuyện này.” Hai người im lặng bỏ đi. Khi ông bệnh, vẫn cõng gặp Lữ Thân Công, bàn việc cải cách đô tỉnh. Lúc lâm chung, giường chiếu đơn sơ, chỉ có một quyển sách dịch trên gối[34]. Xét câu “Trời nếu phù hộ nhà Tống, ắt không có chuyện này”, Thiệu Bá Ôn cũng chép lời này, nhưng không nói rõ nói với ai. Nay phụ chú vào ngày 1 tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ nhất, lúc Ôn công mất, vì việc “dùng mẹ thay con” của Tư Mã Quang, cùng phụ chú ở đây.)
[38] Tháng đó, Tư mã Khang, chức Thừa sự lang, được bổ nhiệm làm Chính tự ở Bí thư tỉnh, vì Khang tham gia biên soạn sách 《Tư trị thông giám》.
(Theo lời cáo bổ nhiệm chức Chính tự của Khang, Xá nhân Tiền Hiệp soạn lời rằng: Con của danh thần, thấm nhuần đạo lý, dâng sách lên, đã có công lao, được thăng chức ở thư tỉnh, càng nên gắng sức rèn luyện. Phạm Tổ Vũ trong văn bia mộ Khang viết: Do Hàn Giáng tiến cử, được thăng chức Chính tự, ngày mùng 2 tháng 5 năm Nguyên niên thăng làm Hiệu thư.)
[39] Triều phụng lang Triệu Tử Kỷ, vừa nhậm chức Tri Châu Truy, được cử làm Đề cử Sùng Phúc cung, vì có người bàn rằng Tử Kỷ bị bệnh phong, đầu óc lú lẫn, không thể giao cho quận nữa.
(Việc này ghi chép bí mật từ tháng 4.)
[40] Giám sát ngự sử An Đôn tấu rằng: “Nghe nói ở hai lộ Kinh Hồ Nam và Kinh Hồ Bắc, việc mua gỗ để tu sửa kinh thành, nội thị cao phẩm Cam Thừa Lập ở các lộ đó chế tạo đồ dùng cung đình, lấy danh nghĩa thuê mướn, bắt ép thợ thuyền làm việc, dùng thủ đoạn phi pháp gây hại, chết rất nhiều người. Lại còn nhân cơ hội mưu lợi riêng, gây ra nhiều tác hại. Triều đình đang thi hành chính sách nhân từ nuôi dưỡng muôn dân, mà Thừa Lập là tiểu thần, dám hoành hành tham bạo, công luận không thể dung thứ. Kính mong Thánh thượng cử quan điều tra, nếu có thật, xin ban hành xử lý.” Chiếu lệnh cho Ty Chuyển vận Kinh Hồ Bắc điều tra sự thật rồi tâu lên.
(Việc này ghi chép bí mật từ tháng 4, nay phụ vào cuối tháng. Ngày 24 tháng 6, áp giải Thừa Lập đến Hồ Bắc để xét hỏi.)
- 'Hạ thuế tô', các bản và 《Trị tích thống loại》 quyển 18 《Tuyên Nhân thùy liêm thánh chính》 đều chép là 'hạ thu thuế'. ↵
- Nguyên văn 'chỉ' sửa thành 'chính' theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 76-18. ↵
- Theo 《Tống hội yếu》, chữ 'chuyển' có thêm chữ 'nhất'. ↵
- Theo 《Tống hội yếu》, chữ 'cập' có thêm chữ 'nhất'. ↵
- Theo 《Tống hội yếu》, chữ 'tự' có thêm chữ 'ngoại'. ↵
- 'ư' trên nguyên có chữ 'Duy', theo các bản và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 46, 《Khất Khứ Tân Pháp Chi Bệnh Dân Thương Quốc Giả Sớ》 sửa. ↵
- 'dĩ' các bản chép là 'cầu'. ↵
- Chữ 'giả' bị thiếu, theo các bản, sách Hán thư quyển 23 Hình pháp chí, sách Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công văn tập và Tục thông giám quyển 78 bổ sung. ↵
- 'Thiên tử' nguyên văn là 'Thiên hạ', theo bản trong các sách và dẫn từ 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 mà sửa. ↵
- Trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 có thêm chữ 'số' trước chữ 'thiên'. ↵
- 'Ngũ' nguyên là 'Vị', theo các bản, dẫn từ 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 và 《Tống Sử》 quyển 192, Binh chí sửa lại. ↵
- đánh trống rầm rầm 'rầm' nguyên là 'Đốn', căn cứ theo sách 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 và 《Tống sử》 mà sửa. ↵
- chỉ quản lý trong thành thị 'thành', sách trên đều viết là 'thảo'. ↵
- Trong 《Tư Mã Ôn Công Văn Tập》 có thêm hai chữ 'bảo mã'. ↵
- 'Mỗi năm mươi hộ đặt một người làm cung thủ': chữ 'thập' nguyên bản viết là 'thiên', căn cứ vào các bản khác và 《Tống sử》 quyển 192, chí về binh mà sửa lại. ↵
- 'Vẫn giao cho châu đó và đề điểm hình ngục thường xuyên kiểm tra': chữ 'thiết' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 mà bổ sung. ↵
- 'Lại xin bãi bỏ chế độ miễn dịch rằng': chữ 'viết' nguyên bản viết là 'điền', căn cứ vào các bản khác mà sửa lại. ↵
- 'Lực' trong bản gốc, sách 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 chép là 'Hộ'. ↵
- Tức là những người trước đây giữ chức Tổng quản, v.v. Chữ 'chi' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung. ↵
- Không những không có ích, chữ 'duy' nguyên bản là 'vi', căn cứ theo sách trên sửa. ↵
- Nay các chức Trưởng lại ở châu, huyện và Tổng quản, v.v. Chữ 'trưởng' nguyên bản là 'chi', căn cứ theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa. ↵
- Các Trưởng lại ở châu, huyện lấy gì để hiệu lệnh quân chúng, chữ 'trưởng' nguyên bản là 'tướng', căn cứ theo bản trong các bộ sách và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa. ↵
- 'vốn' trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 viết là 'đại'. ↵
- Trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 ở trên chữ 'giết' có thêm hai chữ 'cướp bắt'. ↵
- Chữ 'tắc' trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 viết là 'đặc'. ↵
- Trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》, trước 'Kinh Tây' có thêm chữ 'Kinh Đông'. ↵
- Trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》, chữ 'nhàn' viết là 'an'. ↵
- Nguyên văn chữ 'thành' viết là 'tắc', theo bản các và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa lại. ↵
- Nguyên văn chữ 'binh sĩ' viết là 'quân sĩ', theo sách trên sửa lại. ↵
- Nguyên văn chữ 'uỷ' viết là 'tất', theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa lại. ↵
- Chữ 'xử' trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 viết là 'đa'. ↵
- Chữ 'tinh cần' trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 viết là 'cần sức'. ↵
- Chữ 'thủ' bị thiếu, theo bản các và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 bổ sung. ↵
- Chữ 'bình' trong 《Tôn Công Đàm Phố》 viết là 'gian'. ↵