"

VI. TỐNG THẦN TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 357: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)

Từ tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng.

[1] Ngày mùng một tháng 6, Quý Hợi, các quan vào chầu ở điện Phúc Ninh, Vua xuống chiếu cho xem lại bức họa của Đại Hành Hoàng Đế ở điện Tập Anh, vì bức họa trước không giống.

[2] Ngày Giáp Tý, xuống chiếu cấp 100 đạo độ điệp để tu sửa tháp chùa Tướng Quốc.

[3] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu: Lương Tòng Chính đổi làm Dao Quận Phòng Ngự Sứ, Ngô Tĩnh Phương đổi làm Dao Quận Đoàn Luyện Sứ, đều được hưởng lương bổng theo chức vụ hiện tại, kể từ ngày nhận chức.

[4] Lại xuống chiếu cho Thủy Ma Trường và Trà Trường thuộc Thái Phủ Tự, vẫn thuộc Hữu Ty của Hộ Bộ.

(Ngày 4 tháng 9 xuống chiếu, đến ngày 28 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất thì bãi bỏ.)

[5] Ngày Bính Dần, bãi bỏ lệnh cấm dân phủ giới và ba lộ không được đầu quân và sung làm Cung Tiễn Thủ Chỉ Huy.

(Ngày 22 tháng 4, Ất Dậu. Cần xem xét.)

[6] Khai Phong Phủ Thôi Quan Hồ Cập bị bãi chức, vì để lộ lời nói trong khi điều tra vụ án của Ngô (Sơn Kỷ).

(Theo Chính Mục, việc xảy ra tháng 4. Ngày 24 được phục chức.)

[7] Ngày Đinh Mão, ban cho nhà cũ của Tả Bộc Xạ Vương Khuê ở phường Thọ Xương, đề bia thần đạo là “Ý Văn”, và cho 10 người được hưởng ân trạch theo di biểu. Xuống chiếu cho Cấp Sự Trung Lục Điền giám sát việc tang lễ.

(Ban cho 178 gian nhà. Theo Ngự Tập, việc này xảy ra ngày 20 tháng 5, nay theo Thực Lục. Chính Mục chép: Xuống chiếu cho tang lễ Vương Khuê theo lệ của Hàn Kỳ.)

[8] Ngày Kỷ Tỵ, cho em trai của Tả Thị Cấm Hác Trọng Thông là Hác Trọng Liên và cháu là Hác Tường đều làm Tam Ban Tá Chức, vì Hác Trọng Thông chết vì việc công.

[9] Tả Chính Nghị Đại Phu trí sĩ Lý Cập Chi mất.

[10] Ngày Canh Ngọ, xuống chiếu: “Ngày Hưng Long Tiết, các nơi thi tuyển đồng tử vẫn theo lệ cũ. Ngày Khôn Thành Tiết, vì linh cữu Đại Hành Hoàng Đế còn đang quàn, chỉ có Khai Phong Phủ được độ tăng đạo, giảm hai phần ba so với Hưng Long Tiết. Vẫn cấm giết mổ và xử tội chết. Các việc khác theo lệnh năm Nguyên Phong.”

[11] Chiếu: Con trai của Dương vương là Hiếu Khiên, chức Hữu Vũ vệ tướng quân, được bổ nhiệm làm Thứ sử Đoan châu; con trai thứ tư được ban tên Hiếu Tích, làm Hữu Kiêu vệ Đại tướng quân, kiêm Thứ sử Thành châu. Con trai của Kinh vương là Hiếu Di, chức Hữu Vũ vệ Đại tướng quân, làm Thứ sử Ninh châu; Hiếu Tham làm Thứ sử Hòa châu; Hiếu Dịch làm Thứ sử Khánh châu; Hiếu Chất làm Thứ sử Vinh châu; con trai thứ bảy được ban tên Hiếu Thầm, làm Hữu Kiêu vệ Đại tướng quân, kiêm Thứ sử Tú châu; con trai thứ tám được ban tên Hiếu Dĩnh, làm Hữu Kiêu vệ Đại tướng quân, kiêm Thứ sử Anh châu; con trai thứ chín được ban tên Hiếu Nguyện, làm Kiêu vệ Đại tướng quân, kiêm Thứ sử Thông châu.

[12] Chiếu rằng: Các hộ quân nhân ở Hà Đông châu còn nợ lương thảo trong việc hòa địch, từ ngày 6 tháng 3 khi chiếu thư đến, những khoản nợ trước năm Nguyên Phong thứ 7 đều được miễn trừ.

(Trong 《Lữ Huệ Khanh gia truyền》 có sớ của Huệ Khanh dâng lên có thể tham khảo, đã ghi chép vào ngày 4 tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 2.)

[13] Lễ bộ tâu: “Ngày sinh của Thái hoàng thái hậu, xin cho ty biên tu chư tư định lệnh về vật phẩm dâng lên, mỗi thứ tăng gấp đôi so với lệ cũ, hoa tăng thêm 12 đóa. Ngày sinh của Hoàng thái phi và các vật phẩm ngày lễ cũng nên theo lệ của Hoàng hậu.” Được chấp thuận.

[14] Chiếu ban cho Hiếu tử Từ Tích ở Sở châu 30 tấm lụa và 30 hộc gạo. Tích đỗ Tiến sĩ năm Trị Bình thứ 2. Năm lên ba tuổi mất cha, khóc thương rất mực. Phụng dưỡng mẹ rất hiếu thảo, khi mẹ mất, để tang đúng lễ, ở cạnh mộ hơn 10 năm, sớm tối phụng dưỡng bàn thờ như khi mẹ còn sống. Hàng năm, sương ngọt đều rơi xuống khu mộ hơn một tháng, cây cối đan xen thành hình. Quan địa phương mời ông vào học đường, sương ngọt lại rơi xuống nơi ông ở. Dân làng đều noi theo gương ông. Châu dâng tấu lên, nên có lệnh ban thưởng này.

[15] Ngày Quý Dậu, Thượng thư tỉnh tâu: “Xin từ nay Đại Lý tự khi xét án cần tấu lên hoặc trình lên Thượng thư tỉnh, không cần báo trước cho bản tào.” Được chấp thuận.

[16] Ngày Giáp Tuất, chiếu rằng: “Nghi vệ khi Hoàng thái hậu ra vào, theo quy định tham khảo từ tháng 4 năm Trị Bình thứ 4. Xe của Hoàng thái hậu có sáu con rồng. Hoàng thái phi ra vào, dùng kiệu.”

(Chi tiết ghi vào ngày 6 tháng 10 năm Thiệu Thánh nguyên niên.)

[17] Kinh lược ty Hoàn Khánh lộ tấu: “Quan phiên Tả Thị cấm Tuần kiểm Mộ Hóa ở trại Túc Viễn và Bộ tướng Đái Tông Vinh thuộc Đệ nhị tướng Hoàn Khánh lộ, sai người do thám biết được quân mã ở giếng Giảm (Nạch long) thuộc Tây giới muốn đến gây hấn, cùng dẫn hơn một trăm người, chặn ở đường hiểm để đánh, chém được hơn bốn mươi thủ cấp.” Chiếu cho Mộ Hóa và Đái Tông Vinh mỗi người thăng một chức. (Việc ghi mật ngày 12).

[18] Đồng đề cử kinh độ chế trí mục mã sự, Xu mật phó đô thừa chỉ Tào Tụng tấu: “Thần thấy triều đình dùng phép của Sùng nghi phó sứ Ôn Tòng Cát, lập ra giám nuôi ngựa sinh sản, đến nay đã hai năm, số ngựa con được ít, mà ngựa chết và hư hại, chuyển vận ngày càng nhiều, nghĩ rằng nên bàn thêm. Xin chiếu cho quan Binh sát ở Ngự sử đài, lấy các văn bản từ khi lập giám đến nay, xem xét lợi hại, hạn trong nửa tháng phải tâu lên.” (Việc ghi mật ngày 12 tháng 6, xử lý ngày 26 tháng 8).

[19] Điện trung thị ngự sử Hoàng Giáng tâu: “Nghe nói Kinh Tây chuyển vận phó sứ Thẩm Hi Nhan tính tình hà khắc, càng già càng thêm nặng. Dân Kinh Tây vốn nghèo khó, Hi Nhan đến nhậm chức chỉ chăm chăm bóc lột, đòi hỏi nhiều tiền thừa, mong nhờ đó được triều đình thăng chức. Xuân phu huyện Tích Xuyên, châu Đặng vốn phải nộp tiền thuê, nhưng không được phát động. Năm ngoái, Hi Nhan bắt phải đi ra khỏi huyện, dân phải trả tiền thuê gấp đôi. Hi Nhan thu gom bất hợp pháp, cả vùng chịu thiệt hại, có thể thấy rõ. Lại nghe Hi Nhan tâu rằng từ khi thi hành pháp luật về muối, tính toán việc vận chuyển của quan lại tốn kém hơn so với thương nhân. Lại thêm lãi suất hai phần ngoài vốn quan, bán cho dân, giá muối tăng so với trước, mà việc vận chuyển không đều, có khi bị đứt đoạn, dân xã Tây Kinh lại bị quấy rối bởi việc thuê xe, không tiện cho dân. Xin giao cho quan lại trong vùng xem xét và xử lý, để có thể thực hiện lâu dài.” Chiếu lệnh Thẩm Hi Nhan phân tích tâu lên. Giáng lại tâu: “Hi Nhan nói: ‘Đến nhậm chức một năm, thu nhập so với năm trước của quan cũ tăng thêm hơn 82 vạn quan.’ Thần trước đã trình bày việc Hi Nhan làm trái pháp luật, đã theo chiếu chỉ, lệnh Hi Nhan phân tích. Việc xuân phu huyện Tích Xuyên, châu Đặng, lại lệnh mỗi phu nộp tiền thuê 5 quan 500 văn, tổng cộng hơn 5 vạn quan, vốn không nên tính vào thu nhập hàng năm của ty này, không rõ số 80 vạn quan tâu lên là thật hay giả, xin xem xét kỹ, lệnh Hi Nhan phân tích rõ.” Chiếu lệnh Hi Nhan phân tích tâu lên.

(Chính mục ngày 12 tháng 6, Hoàng Giáng tâu Thẩm Hi Nhan thu gom bóc lột, chiếu Hi Nhan phân tích. Nguyên hữu mật sớ có bản tấu của Giáng, nay ghi thêm vào. Chính mục ngày 28 tháng 7 lại sai quan xem xét.)

[20] Triều thỉnh đại phu, Thiên Chương các đãi chế trí sĩ Tôn Thản mất.

[21] Ngày Ất Hợi, xuống chiếu để ấn bài của Diên An quận vương ở trong cung, chọn ngày lành dời cờ tiết đến Thiên Chương các.

[22] Ngày Bính Tý, Tư chính điện học sĩ, Đề cử Sùng Phúc cung Hàn Duy nhậm chức Tri châu Trần. Khi Duy mới đến kinh đô, Thái hoàng thái hậu sai trung sứ mang chiếu thư đến hỏi thăm. Duy tâu rằng:

[23] “Đạo trị thiên hạ không cần tìm kiếm điều gì quá cao xa, chỉ cần hiểu rõ tình người là đủ. Hiểu tình người không khó, lấy lòng mình suy ra lòng người thì sẽ thấy. Đại để tình người, nghèo thì muốn giàu, khổ thì muốn vui, mệt nhọc thì muốn nghỉ ngơi, bế tắc thì muốn thông suốt. Bệ hạ nếu thực sự luôn lấy lợi dân làm gốc, thì dân sẽ giàu. Luôn lấy yêu thương dân làm tâm, thì dân sẽ vui. Bỏ bớt những việc lao dịch gây trở ngại nông vụ, thì dân sẽ được nghỉ ngơi. Bãi bỏ những pháp lệnh không có ích cho đạo trị nước, thì mọi bế tắc sẽ thông suốt. Suy rộng ra, hết lòng thực hiện, thì thần tôn sẽ noi theo phép tắc của bệ hạ[1], không cần dạy mà tự thành; bậc thánh đức hiền sĩ nghe phong cách của bệ hạ, không cần khuyên bảo mà đua nhau dốc lòng trung. Lo gì quân dân không vui mừng tôn kính, xã tắc không vững bền? Thần đời đời hưởng ân nước, anh em đều giữ chức vụ hiển hách, dù bệ hạ không dạy bảo, thần vẫn nghĩ cách bổ khuyết, huống chi nay được trực tiếp nghe lời dạy của bệ hạ!”

[24] Lại tâu rằng:

[25] Thần trộm nghe bệ hạ ban bố đức âm, đuổi Tống Dụng Thần ra khỏi triều đình, bãi bỏ chức vụ mà hắn đang nắm giữ; cách chức Ngô Cư Hậu, buộc hắn rời khỏi địa phương, trách tội bóc lột và quấy nhiễu dân chúng. Trong ngoài đều đồn đại, ai nấy đều hiểu rõ ý sâu xa của bệ hạ là lo cho nước, thương dân, không ai là không vui mừng chúc mừng. Thần tuy đang trong thời kỳ tang chế, nhưng không kìm được lòng mà reo hò. Tuy nhiên, thần vẫn còn một điều ngu muội, không dám không tâu hết lên. Thần e rằng có người bàn rằng Vua mới lên ngôi, nên tuân theo đạo của cha, ba năm không thay đổi, điều này thật không đúng. Kính nghĩ Thái hoàng thái hậu, là mẹ của Đại Hành hoàng đế, có địa vị tôn quý là bà nội của hoàng đế hiện tại, lúc này nhiếp chính, là vì đại kế xã tắc, việc gì bất tiện thì nên bãi bỏ để lợi dân, xét cổ xem thời, lý nào không được. Thần cho rằng nếu có kẻ dám đưa ra luận điệu này làm mê hoặc thánh thượng, nếu không phải là kẻ gian hãm hại chính sự, thì cũng là kẻ nho tục không biết thời thế, mong bệ hạ đừng nghe theo.

[26] Thần gần đây rời kinh đô, từng dâng tấu trình lên bệ hạ, xem xét nguyên nhân nổi dậy của bọn trộm cướp, bãi bỏ những mệnh lệnh không cần thiết, nới lỏng quy trình huấn luyện, chủ yếu là vì chính sách bảo giáp và bảo mã. Tại sao vậy? Nông dân sống bằng nghề nông, bắt họ bỏ tiền mua ngựa đã là điều họ không muốn, lại còn phải chăm sóc, tưới tắm, vốn không quen thuộc với việc này. Nếu chẳng may ngựa chết hoặc bị hư hại, lại phải mua lại. Trước đây một con ngựa chỉ có giá hai ba chục ngàn tiền, nay đã lên tới trăm ngàn. Nông dân như thế này, không biết bao giờ mới kết thúc, tiếng than thở vang khắp nơi. Gần đây, bảo giáp dùng việc xây tường làm nơi tập luyện, gọi là đoàn giáo. Một người phải đi huấn luyện, lại cần thêm một người khác lo việc cung cấp ăn uống. Gia đình thiếu người làm ruộng, bản thân chịu khổ cực, không khỏi oán hận. Để những người thất nghiệp, oán hận cầm vũ khí tập luyện đánh đấm, há chẳng phải là điều đáng lo sao? Gần đây lại nghe nói bảo mã ở Kinh Tây bị bọn cướp cướp đoạt, đổi ngựa để cưỡi, như thể là chuồng ngựa bên ngoài. Bảo giáp ở Hà Bắc cũng dần phạm tội, ức hiếp dân lành, châu huyện gần như không thể ngăn cấm. Mối họa này đã hiện rõ trước mắt, thần e rằng cần phải thay đổi cách làm ngay, không thể chậm trễ. Vả lại, thần không nói rằng không thể nuôi ngựa quốc gia, chỉ cần đặt quan giám mục là được; cũng không nói rằng dân binh không cần huấn luyện, chỉ cần tập luyện vào lúc nông nhàn là được. Mạnh Tử nói: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa.” Nhân hòa có thể thắng thiên thời, há chẳng nên chú trọng sao? Thần kính mong Thái hoàng thái hậu bệ hạ, xin hãy suy nghĩ kỹ, cân nhắc thực hiện.

[27] Lại tâu:

[28] Tiên đế làm việc này, vốn là lo lắng biên cương, dự phòng từ trước, không phải là việc tốt, nhưng đến nay mới thấy rõ những tệ hại này. Lão thần ngu muội, không biết kiêng kỵ, chỉ vì yêu mến Vua, lo lắng cho đất nước, nên mới nói nhiều, mong Thánh từ rộng lượng và thấu hiểu lòng thành của thần.

(Ngày mồng 8 tháng 4, Ngô Cư Hậu bị giáng chức làm Tri châu Lư Châu. Ngày mồng 2 tháng 5, Lương Tòng Cát thay Tống Dụng Thần quản lý Hoàng thành. Ngày mồng 3 tháng 5, niêm yết ở triều đường. Ngày 25 tháng 6, hạ chiếu cầu lời nói.)

[29] Lại tấu:

[30] Thần gần đây trộm thấy bảng văn được truyền lục từ triều đường, mở rộng lòng tin lớn, chiêu tập lời nói của mọi người, đều là việc cao quý của các đế vương đời trước và là việc cấp bách của triều đình hiện nay, thật là may mắn cho thiên hạ!

[31] Tuy nhiên, thần vẫn còn nghi ngờ về đoạn từ “nếu trong lòng có điều gì” đến “không thể không làm” gồm 75 chữ, e rằng không phải là ý chính của thánh chỉ ban đầu, mà dường như được thêm thắt vào. Tại sao vậy? Trước đó nói rằng “dù có điều trái lòng nghịch tai, vẫn sẽ vui vẻ chấp nhận mà không từ chối”, lại còn dùng tước lộc để khuyến khích. Nhưng đoạn sau lại khác với điều này, lại dùng việc cách chức để răn đe[2]. Hơn nữa, việc cơ mật quan trọng, có gì hại khi nói kín đáo? Mệnh lệnh đã ban hành, có thể có người chưa biết. Ý của triều đình nếu tốt, sao lại ghét việc họ do dự? Lời nói của thế tục ắt nông cạn, tự nhiên có thể không nghe. Giả sử có người vi phạm bốn điều cấm này, cũng chưa đến mức trái lòng nghịch tai, vẫn thuộc hàng nên vui vẻ chấp nhận, sao có thể lập tức cách chức? Nếu lời này xuất phát từ bệ hạ, thì là chiếu văn trước sau tự mâu thuẫn, khiến người xem nghi ngờ lầm lẫn. Nếu xuất phát từ bề tôi bàn luận, thì là trái ý thánh, khéo léo dùng lời lẽ để răn đe người sau, ngầm tạo thành ý đồ xấu xa.

[32] Người xưa cầu lời nói, ắt nói “đừng có điều gì kiêng kỵ”, lại nói “đừng sợ hậu họa”, nay lại đặt nhiều điều cấm, lại dùng việc cách chức để răn đe, khiến người ta phải kiêng kỵ và sợ hậu họa. Người xưa vì dân, tuyên truyền để họ nói, xuống đến cả người hái cỏ bên đường cũng được thu thập. Nay bảng văn chỉ treo ở triều đường, chiếu chỉ không đến các đạo, vừa trái nghĩa xưa, cũng không phải thể chế cũ. E rằng không phải là cách để mở rộng thánh đức, phổ cập đến nơi xa xôi, mở đường cho lời nói, không bỏ sót nơi khuất lấp. Việc này nếu không sửa đổi, thần e rằng từ nay thánh thông sẽ dần bị che lấp!

[33] Thần ở triều đại tiên đế, từng vâng theo thánh chỉ, vì hạn hán soạn chiếu, tự xét mình để cầu lời nói thẳng. Ngày chiếu ban xuống, người dân kinh thành đều vui mừng, mưa lành cũng đổ xuống. Chưa đầy mấy ngày, kẻ gian theo ý tể tướng, làm mê hoặc thánh thông[3], soạn riêng một chiếu khác, che đậy vẻ đẹp của chiếu trước, bảo vệ sai lầm của pháp luật mới. Lòng người nghi ngờ sợ hãi, nên không dám nói, chiếu trước chỉ thành văn suông mà thôi. Nay ý của bảng sau cũng giống như vậy. Việc này đối với quốc thể không nhỏ, kính mong bệ hạ xem xét kỹ tệ nạn này và dứt khoát chấm dứt mầm mống của nó, đặc biệt ban chỉ dụ theo ý thánh, ra lệnh xóa bỏ bảy mươi lăm chữ này, chỉ dùng những gì đã nói trong bảng trước, soạn lại chiếu văn, ban bố khắp thiên hạ. Khiến muôn dân hiểu rõ lòng yêu thích điều thiện và ưa nghe lời can gián của bậc thánh nhân, như xua tan mây mù để thấy trời xanh ngày sáng, há chẳng vui sao! Há chẳng lớn lao sao!

[34] Do đó, được bổ nhiệm làm Tri châu Trần, chưa đi nhậm chức, được triệu về kinh, rồi ở lại giảng kinh kiêm chức Thị độc.

(Ngày 12 tháng 7, nay ghi chung.)

[35] Ngày hôm đó, Tư Mã Quang tâu:

[36] Thần kính thấy hoàng đế bệ hạ vừa lên ngôi, thái hoàng thái hậu bệ hạ cùng quyết định việc nước, khiêm tốn tự xét, khao khát cầu lời can gián, vào ngày mùng 3 tháng 5 đặc biệt ban chiếu thư, mở rộng đường ngôn luận, đây thực sự là việc cần làm trước của bậc minh chủ, là gốc rễ của thái bình. Thần thấy trong đó có một đoạn, người trong thiên hạ xem qua chưa hiểu được ý thánh, đều cho rằng triều đình tuy nói là cầu lời can gián, nhưng thực chất ghét người bàn việc, đã đặt sẵn điều cấm, ai dâng lời đều có thể bị tội theo sáu điều. Vì thế, họ do dự, không dám nói hết. Như vậy thì ơn trên không thấu đến dưới, tình dưới không thông lên trên, trên dưới bế tắc, muôn việc sai lệch.

[37] Lại nữa, chiếu thư trước đây chỉ dán ở triều đường, nơi hỏi ý không rộng, người xem rất ít. Thần ngu muốn mong Thánh từ hạ lệnh cho Học sĩ viện soạn riêng chiếu thư, bỏ đi đoạn giữa, chú trọng tìm kiếm lời nói thẳng, khiến họ hết lòng trung thành, không giấu giếm điều gì. Lại xin ban bố khắp thiên hạ, ở kinh thành thì dán ở trước Thượng thư tỉnh và phố Mã Hành; ở ngoài thì các châu, phủ, quân, giám đều dán ở nơi đông người. Không phân biệt người có chức vụ hay không, ai biết được những thiếu sót trong chính sự triều đình và nỗi khổ của dân chúng đều được phép dâng sớ kín trình bày sự việc. Ở kinh thành thì nộp tại Đăng văn cổ viện, Kiểm viện, giao cho quan chủ phán kịp thời dâng lên; ở ngoài thì nộp tại châu, phủ, quân, giám, giao cho quan trưởng lại ngay ngày hôm đó gửi theo trạm trình tấu, không được yêu cầu bản sao, cưỡng ép từ chối. Những người dân không có gia nghiệp, lo có kẻ gian trá, thì lệnh cho bản châu bảo lãnh, tâu xin chỉ thị, cho họ tự do. Sau khi có những sớ kín dâng lên đến trong cung, mong Bệ hạ nhân lúc rảnh rỗi xem qua. Những điều bàn luận đúng đắn thì dùng lời của họ và làm rạng danh họ; những điều đúng sai lẫn lộn thì bỏ ngắn lấy dài; những lời không đáng nghe, việc không thể làm thì cũng nên khoan dung, không nên trị tội. Như vậy thì tình hình dưới không gì không thông, lời hay không bị chôn vùi, trí tuệ thông suốt bốn phương, trong nước như trong lòng bàn tay. Hoặc lo sớ tấu nhiều, khó xem hết, thì xin giao xuống Tam tỉnh, giao cho quan Tam tỉnh xem xét kỹ, chọn những điều có thể dùng, dùng giấy vàng đánh dấu, lại dâng lên. Hoặc xin để lại bên cạnh, để phòng ngừa răn dạy. Hoặc xin giao xuống các cơ quan thi hành. Đều theo lời tâu.

(Tư Mã Quang tự chú rằng: “Ngày 14 tháng 6 dâng tráp tử, ngày 18 trình lên theo lời tâu. Ngày 25 mới hạ chiếu.”)

[38] Hộ bộ tâu: “Từ khi thi hành chế độ mới[4], bổng lộc của lại viên các tỉnh, tào, tự, giám đều thống nhất một mức, không phân biệt lương cũ hay lương mới tăng thêm, không thể thấy rõ số tiền tăng thêm theo luật mới cần phải hoàn trả. Hơn nữa, các lại viên đều lần lượt tạm nhận chức, nên so với trước không thể tăng thêm.” Triều đình ra chiếu lấy số tiền năm Nguyên Phong thứ 3 làm mức chuẩn, và từ năm thứ 6 bắt đầu, theo điều khoản cũ mà hoàn trả.

[39] Ngày Đinh Sửu, Thừa nghị lang, Tân trừ Tông chính tự thừa Trình Hạo mất. Hạo từng bàn luận về việc năm Hi Ninh đầu tiên, Trương Tiển tranh luận rằng pháp luật mới không thể thi hành, sau đó dùng lời lẽ chạm đến Vương An Thạch, nói rằng: “Việc thi hành pháp luật mới là do phe ta kích động mà thành, lúc đó tự thẹn vì không thể dùng lòng thành cảm hóa được lòng Vua, nên mới gây ra tai họa như ngày nay. Phe ta nên cùng Vương An Thạch chia sẻ tội lỗi này.” Hạo rất có chí kinh bang tế thế, vừa được triệu dụng thì đột ngột qua đời, các sĩ đại phu dù quen biết hay không đều thương tiếc. Văn Ngạn Bác thu thập ý kiến mọi người, đề trên mộ ông là “Minh Đạo tiên sinh”.

[40] Ngày Mậu Dần, Tân tri Vĩnh Hưng quân Đặng Oản được bổ nhiệm làm Tri Đặng châu, Tân tri Thanh châu Lưu Tường vẫn giữ chức Tri Vĩnh Hưng quân.

(Việc đổi chỗ giữa Oản và Tường diễn ra vào ngày Mậu Ngọ tháng 5.)

[41] Phụng nghị lang, Tri Định châu An Hỷ huyện sự Vương Nham Tẩu được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử. Nham Tẩu là con của Tuân Long.

[42] Chiếu cho Diên Phúc cung sứ, Vũ Tín quân lưu hậu, Hi Hà Lan Hội lộ kinh lược an phủ chế trí sứ Lý Hiến, sai sung chức Vĩnh Hưng quân lộ phó đô tổng quản. Hiến vì bệnh xin từ chức nên có chiếu này.

(Việc này chắc chắn có người tâu lên. Ngày mùng một tháng 3, Hiến được triệu vào làm nhập nội phó đô tri[5], chức Vũ Tín quân lưu hậu và sai khiển ở Hi Hà Lan Hội lộ vẫn như cũ. Nay lại bị giáng làm phó tổng quản Vĩnh Hưng.)

[43] Ngày Kỷ Mão, Triều thỉnh lang, Đồng đề cử bảo giáp các lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng là Hồ Tông Hồi tâu rằng đã bắt được tướng giặc Vương Xung. Chiếu cho Tông Hồi làm Triều phụng đại phu, Cung bị khố phó sứ; Quyền Phu Diên lộ đệ nhất phó tướng Lý Phố làm Tả tàng khố phó sứ; Cung tiễn thủ Hạ Anh làm Hữu thị cấm; Lưu Ngộ làm Tam ban tá chức. Phố, Anh, Ngộ đều được ban thưởng bạc lụa, cùng với binh lính, bảo giáp, cung tiễn thủ đều được ban tiền theo thứ bậc.

(Ngày 24 tháng 4, Phố, Xung, Tông Hồi đều được thăng chức[6], chính mục chép vào ngày 16 tháng 10.)

[44] Ngày Tân Tỵ, Ty chuyển vận an phủ kiềm hạt Kinh Hồ Nam lộ tâu rằng: Phụng chiếu ở địa danh Lâm Khẩu, huyện Thạch Dịch, châu Thiệu xây dựng trại đã hoàn thành, xin ban tên là Lâm Khẩu. Được chấp thuận.

(Ngọc điệp chép vào ngày Tân Mùi là sai.)

[45] Ngày Quý Mùi, chiếu cho Hộ bộ đề hạt câu thôi tiền vật thị dịch, theo lệ xá trừ tiền lãi, còn tiền gốc phải nộp thì đặc cách gia hạn thêm ba năm.

[46] Hôm ấy, Lữ Công Trước vào yết kiến, Thái hoàng thái hậu sai trung sứ ban đồ ăn. Công Trước dâng tấu rằng:

[47] Thần kính thấy Hoàng đế bệ hạ kế thừa ngôi vị tôn quý, vừa qua vài tháng, ngự triều uy nghi, có phong độ của bậc quân chủ[7]; Thái hoàng thái hậu bệ hạ chăm lo việc chính sự, bảo hộ thánh thể, ân đức lan tỏa, đã đến khắp thiên hạ. Thần từ nơi xa xôi được triệu về bên cạnh[8], kính nghĩ rằng khi bậc quân chủ mới lên ngôi, nên tìm hiểu những điều cốt yếu của việc tu đức trị nước, để chính đạo ngay từ đầu. Sau đó, ngày tháng dần trôi, học hỏi không ngừng, tiến bộ rõ rệt, mới lại càng mới, để đạt đến cảnh thịnh trị. Vì vậy, thần dốc hết lòng thành, nghiên cứu đạo thánh, nêu ra mười điều, kính dâng lên bệ hạ. Một là kính trời, hai là yêu dân, ba là tu thân, bốn là giảng học, năm là dùng người hiền, sáu là nghe lời can gián, bảy là giảm thuế, tám là giảm hình phạt, chín là bỏ xa xỉ, mười là không lười biếng. Đều tùy theo sự việc mà giải thích, sơ lược thành hệ thống[9], không dùng lời rườm rà, để tiện xem xét. Kính mong bệ hạ lưu tâm xem xét, nếu lời nói có chỗ đáng dùng, xin đặt ở chỗ ngự tọa, sớm tối xem lại, may ra có thể giúp ích phần nào cho thánh đức. Phần kính trời viết rằng:

[48] 《Thư》 viết: “Hoàng thiên không thân ai, chỉ phù hộ người có đức.” Lại viết: “Chỉ có Thượng đế là không thường[10], làm việc thiện thì giáng trăm điều lành; làm việc ác thì giáng trăm điều họa.” Trời tuy cao xa, nhưng ngày ngày giám sát dưới thế, Vua có hành động gì, trời ắt ứng nghiệm. Nếu tu thân bằng đức, đối đãi người bằng lòng thành, khiêm tốn, tĩnh lặng, từ hiếu, trung hậu, thì trời ắt giáng phúc, hưởng nước lâu dài, tai họa không sinh, loạn lạc không xảy ra. Nếu khinh thần ngược dân, không sợ mệnh trời, thì hoặc sớm hoặc muộn, tai họa ắt đến. Từ xưa, Vua Vũ, Vua Thang, Vua Văn, Vua Vũ nhờ sợ trời mà hưng thịnh; Vua Kiệt, Vua Trụ, Vua U, Vua Lệ vì khinh thần mà diệt vong, như bóng theo hình, không sai chút nào. Từ thời Hán trở lại đây, những người bàn về đạo trời thường nói quanh co, gán ghép việc đời, khi có thiên tai dị biến, nhật thực, nguyệt thực, Vua đương thời đang lo sợ tu tỉnh, muốn sửa mình tu đạo, nhưng các quan tả hữu lại dẫn kinh truyện, hoặc chỉ việc bên ngoài là nguyên nhân gây tai họa, hoặc bày ra những lời hư văn làm cách tiêu trừ tai biến, khiến Vua lơ là việc ứng phó với trời, đó là kẻ bất trung nhất. Kinh Thi nói: “Ta phải sớm hôm, sợ uy trời, để giữ được lâu dài.” Vậy thì người có thiên hạ, ắt phải sửa mình, chính sự, không dám buông thả, khiến mỗi lời nói, việc làm đều hợp lòng trời, sau đó xã tắc, dân chúng mới được bảo toàn. Mối quan hệ giữa trời và người, sao có thể coi thường được?

Về việc yêu dân, 《Thư》 viết: “Thương ta thì là Vua, hại ta thì là thù[11].” Vua đã lên ngôi, thì là cha mẹ của dân, muôn phương trăm họ đều là con của mình. Cha không thể không thương con, Vua không thể không yêu dân. Nếu ban đức thi ân, theo ý dân, thì dân ắt vui mừng tôn kính mãi. Vui mừng tôn kính mãi, thì trời giáng phúc. Nếu lấy của dân mà không lo dân khốn khổ, dùng sức dân mà không thương dân vất vả, thích chiến tranh không ngừng, dùng hình phạt tàn khốc để thỏa mãn, thì dân ắt oán hận phản loạn. Oán hận phản loạn mãi, thì nước theo đó mà nguy. Cho nên nói: “Dân là gốc nước, gốc vững thì nước yên.” Từ xưa, Vua ngồi triều nghe chính, đều lo cho dân như con đỏ, nhưng một khi dùng binh thì không còn nghĩ đến sinh linh nữa. Đó là do các quan hiến kế, dùng lời gian trá để dẫn dụ ý Vua, coi việc mở mang bờ cõi là công lớn, coi việc tạm khổ nhọc để hưởng an nhàn là kế sách tối thượng, khiến Vua đời ấy cam tâm mà không tỉnh ngộ. Dùng binh không ngừng, trai tráng đi lính, già yếu mệt mỏi chuyển lương, xác chết đầy đồng, máu chảy thành sông, mà thắng bại được mất vẫn chưa biết được. Dân khổ thì nước trước hết suy yếu, làm sao có thể coi là công lao? Binh đao nổi lên thì triều đình nhiều việc, cũng không thể an nhàn được. Cho nên, những kẻ hiến kế dùng binh, chỉ muốn gây sự để mong được sủng ái, lừa dối Vua để mưu lợi riêng, há có lợi gì cho quốc gia?

Về việc tu thân, 《Thư》 viết: “Gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà là thân.” Muốn nhà yên nước trị mà thiên hạ hóa, không gì bằng tu thân. Đạo tu thân, lấy chính tâm thành ý làm gốc. Tâm chính thì từ quan lớn đến dân thường, không ai dám không chính. Ý thành thì trời đất thần minh đều có thể cảm động. Không thành thì dân không tin, không chính thì lệnh không thi hành. Huống chi, Vua một lời nói, một việc làm, đều được quan ghi chép. Nếu thân có lỗi đức, không chỉ dân chịu hại, mà còn được chép vào sử sách, để đời sau chê cười. Cho nên, phải sớm tối lo lắng, lấy việc tu thân làm niềm. Lấy nghĩa chế sự, lấy lễ chế tâm, dù việc thiện nhỏ cũng không thể không làm, dù việc ác nhỏ cũng không thể không bỏ. Nhưng Vua tiến đức tu nghiệp, thực sự phụ thuộc vào tả hữu tiền hậu. Ở cùng người chính thì không thể không chính, như sống ở đất Tề thì không thể không nói tiếng Tề. Ở cùng người không chính thì không thể không không chính, như sống ở đất Sở thì không thể không nói tiếng Sở. Cho nên nói: “Gần người chính, quyết định sau này sẽ chính; gần người du, quyết định sau này sẽ tự thánh.”

Về việc giảng học, 《Thư》 viết: Vua nối nghiệp tổ tông, ở trên muôn dân, lễ nhạc chinh phạt đều từ đó mà ra, bốn phương muôn dặm đều noi theo. Trí đủ để thấu hiểu lý lẽ thiên hạ, thì lời nịnh không thể mê hoặc; đức đủ để phục lòng thiên hạ, thì chính lệnh không gì không thi hành. Nếu không thân cận bậc đại nho, học hỏi sâu xa, sao có thể đạt được điều đó? Nhưng việc học của thiên tử khác với người thường. Phân tích văn tự, khảo cứu chương cú, đó là việc của nho sinh đời sau để cầu lợi lộc, đỗ đạt mà thôi! Không phải là việc mà bậc nhân chủ nên học. Điều mà nhân chủ nên học là xem xét tâm ý của thánh nhân xưa, bàn luận về sự hưng vong, trị loạn của các đế vương đời trước, tìm hiểu yếu lĩnh của việc lập chính, học hỏi thuật yêu dân lợi vật, tự nhiên ngày càng tiến bộ, đức trạch lan tỏa khắp thiên hạ. Sách viết: “Vua nên cầu học nhiều, để thấy rõ việc đời.” Lại viết: “Nhớ mãi lời dạy trong sách, tu đức mà không biết mệt.” Cho nên, Phó Duyệt khuyên Cao Tông, chỉ cần tu đức lập sự là đủ. Đến thời Hán, có người cho rằng nhân chủ không thể không học thuật số. Ý của họ là muốn nhân chủ dùng mưu mẹo xảo quyệt để khống chế quần thần. Nhưng Cảnh Đế dùng nó, trong vài năm, nhà Hán gặp họa bảy nước, còn người đó bị giết chết. Bởi vì cái mà họ chủ trương, không xuất phát từ thành tín. Từ đó mà xem, việc chọn thuật không thể không cẩn thận.

Về việc dùng người hiền, 《Thư》 viết:

Huống chi bậc nhân quân một lời một việc đều được sử quan ghi chép. Nếu bản thân có hành vi thất đức, không chỉ dân chúng chịu hại, mà còn bị ghi vào sử sách, để đời sau chê cười. Vì vậy, phải sớm khuya tự rèn luyện, lấy việc tu thân làm trọng. Lấy nghĩa để xử lý công việc, lấy lễ để kiềm chế tâm ý, dù là việc thiện nhỏ cũng không thể không làm, dù là việc ác nhỏ cũng không thể không bỏ. Tuy nhiên, việc tiến đức tu nghiệp của bậc nhân quân thực sự phụ thuộc vào những người xung quanh. Nếu sống cùng người chính trực, không thể không chính trực, giống như sống ở nước Tề thì không thể không nói tiếng Tề. Nếu sống cùng người không chính trực, không thể không bị ảnh hưởng xấu, giống như sống ở nước Sở thì không thể không nói tiếng Sở. Vì thế có câu: “Bề tôi chính trực, Vua sẽ chính trực; bề tôi nịnh hót, Vua sẽ tự cho mình là thánh nhân.”

Về việc học hành, bậc vương giả kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, đứng trên muôn dân, là nơi xuất phát của lễ nhạc, chinh phạt, là tấm gương cho bốn phương muôn dặm. Trí tuệ đủ để thấu hiểu lý lẽ thiên hạ, thì lời gièm pha không thể làm mê hoặc; đức hạnh đủ để khiến lòng người kính phục, thì chính lệnh không gì không thi hành. Nếu không tôn sùng Nho học, thân cận học vấn, sao có thể đạt được điều này? Tuy nhiên, việc học của thiên tử khác với kẻ thường dân. Việc phân tích văn tự, khảo cứu chương cú, chỉ là cách của kẻ nho sĩ đời nay để cầu lợi lộc, đỗ đạt mà thôi! Đó không phải là điều bậc nhân chủ nên học. Điều bậc nhân chủ nên học là xem xét tâm ý của các bậc thánh nhân xưa, bàn luận về dấu tích hưng vong, trị loạn của các đế vương qua các thời đại, tìm hiểu yếu lĩnh của việc lập chính, nghiên cứu phương pháp yêu dân, lợi vật, tự nhiên đức hạnh sẽ ngày càng tiến bộ, lan tỏa khắp thiên hạ. 《Thư》 viết: “Bậc vương giả, người cầu hiểu biết rộng, là để xây dựng sự nghiệp.” Lại viết: “Luôn nghĩ đến việc học từ đầu đến cuối, đức hạnh sẽ tu dưỡng mà không tự giác.” Vì thế, Phó Duyệt khuyên Cao Tông chỉ cần tu đức và lập sự mà thôi. Đến thời Hán, Triều Thác cho rằng bậc nhân chủ không thể không học thuật số. Ý của Thác là muốn nhân chủ dùng mưu mẹo, quyền biến để kiểm soát quần thần. Nhưng Hán Cảnh Đế dùng cách này, chỉ trong vài năm, nhà Hán gặp họa bảy nước, còn Thác bị xử tử ở chợ Đông. Bởi vì cái gốc của việc trị quốc không nằm ngoài thành tín. Từ đó có thể thấy, việc chọn phương pháp không thể không thận trọng.

Về việc dùng người hiền tài, 《Thư》 viết:

[49] Xưa Vua Thành Vương mới lên ngôi, Triệu Khang Công làm bài thơ “Quyển A” để răn dạy, nói về việc tìm người hiền tài và dùng người tốt. Bởi vì cốt yếu của việc trị nước là ở chỗ dùng người hiền và sử dụng người tài. Người tài không nhất thiết phải là người hiền, nên có thể sử dụng; người hiền ắt phải có đức, nên có thể tôn trọng. Người hiền nhỏ có thể giao nhiệm vụ quản lý dân chúng, người hiền lớn có thể cùng bàn việc nước. Những người nói năng luôn nghĩ đến lợi ích quốc gia, hành động đủ để thuyết phục lòng người, vượt qua hiểm nguy một mực và có thể tin cậy từ đầu đến cuối, nếu không phải là bậc đại hiền thì không thể làm được. Vua tuy có lòng yêu mến người hiền, nhưng người hiền vẫn khó tiến thân, bởi vì người quân tử chí hướng ở đạo, còn kẻ tiểu nhân chí hướng ở lợi. Chí hướng ở đạo thì không tùy tiện hợp tác; chí hướng ở lợi thì chỉ cầu tìm lợi lộc. Lời nói trung thực, luận bàn chính đạo thường trái với ý trên; còn lời nịnh hót, tà thuyết lại chuyên làm vừa lòng Vua. Vì thế, người quân tử thường khó tiến thân, còn kẻ tiểu nhân thường dễ lọt vào, không thể không xem xét kỹ. Từ xưa đến nay, dù là Vua vô đạo, cũng không ai không muốn trị mà ghét loạn, nhưng Vua trị ít mà nước loạn nhiều, bởi vì những kẻ được gọi là trung thực lại không trung, những người được gọi là hiền tài lại không hiền. Sách viết: “Lời nói trái với lòng ngươi, ắt phải xét xem có hợp đạo không; lời nói thuận với chí ngươi, ắt phải xét xem có trái đạo không.” Nếu nhà Vua thực sự giữ tâm này để xem xét tình hình bề tôi, thì hiền hay không hiền đều có thể biết được. Lời khuyên can rằng:

[50] Sách xưa khen đức của Vua Thang rằng: “Nghe lời can gián mà không trái nghịch”, “Sửa lỗi không tiếc”. Thang là bậc thánh quân. Không nói là không có lỗi mà nói là sửa lỗi, ý nói rằng biết bỏ ý mình mà nghe lời can gián, thì không hại gì đến sự thánh thiện của mình. Đến khi Trụ làm thiên tử, sức mạnh đủ để chống lại lời can gián, trí tuệ đủ để che đậy lỗi lầm. Trụ không phải là không có tài trí, nhưng thân bị diệt, nước bị mất, và mọi điều xấu xa trong thiên hạ đều quy về hắn, ý nói rằng hắn cố chấp không nghe lời can gián, tự ý hành động, tài trí chỉ đủ để gây hại. Các đế vương đời trước không ai là không nhờ nghe lời can gián mà hưng thịnh, vì chối bỏ lời can gián mà diệt vong, điều này được ghi chép rõ ràng trong sử sách, có thể xem xét từng việc một. Bậc quý là thiên tử, giàu có bốn biển, quý thì dễ sinh lòng kiêu ngạo, giàu thì dễ động lòng xa xỉ, một ngày xử lý vạn việc, thì không thể không có sai lầm, vì vậy cần mở đường mà cầu lời can gián, vui vẻ mà tiếp nhận. Lời nói có thể dùng thì dùng lời nói đó và làm rạng rỡ thân người; lời nói không thể dùng thì tha tội để khuyến khích người can gián. Những bề tôi trung thành thích can gián, ban đầu nghe có vẻ nghịch tai đáng ghét, nhưng ý của họ là yêu Vua và lo cho nước; những kẻ nịnh hót a dua, ban đầu nghe có vẻ thuận ý đáng vui, nhưng tình của họ chỉ là nịnh bợ trên để cầu lợi. Bậc quân chủ nếu thực sự biết xem xét điều này, thì việc làm không có sai lầm, thân được hưởng tiếng tốt. Vì vậy nói: “Gỗ theo dây mực thì ngay, Vua nghe lời can gián thì thánh.”

Về việc giảm thuế, sách viết: Người xưa có câu: “Dân đủ thì Vua cùng với ai mà không đủ? Dân không đủ thì Vua cùng với ai mà đủ?” Bậc quân chủ cung kiệm tiết kiệm, thu thuế của dân có chừng mực, thì sức dân được nhàn rỗi, cơm áo đầy đủ, tự nhiên vui vẻ nộp thuế để cung cấp cho nhà nước. Nếu thuế má nặng nề, cướp đoạt lợi ích của dân, sức dân đã kiệt quệ mà lại dùng hình phạt để ép buộc, tất sẽ khiến dân chết đói ngoài đồng, hoặc trở thành giặc cướp. Làm người trên, thì có lợi gì trong việc này? Vì vậy, người giỏi bàn về đạo trị nước, đặc biệt ghét những kẻ bòn rút của dân. Nói: “Thà có kẻ trộm cướp, chứ không nên có kẻ bòn rút.” Các đế vương đời trước, hoặc đam mê thanh sắc, hoặc ham mê săn bắn, hoặc thích xây cung điện, hoặc vui thích đánh nhau, vì vậy bọn tiểu nhân thừa cơ tung hoành mưu đồ xấu xa, vơ vét của cải để phụ trợ cho những chi tiêu phung phí. Bậc quân chủ không tỉnh ngộ, cho rằng có lợi cho nước, mà không biết rằng cuối cùng sẽ gây hại. Khen ngợi họ vì đã trung thành với Vua, mà không biết rằng đó là sự bất trung lớn; khen ngợi họ vì đã gánh chịu oán hận, mà không biết rằng oán hận đó sẽ quy về Vua. Xưa kia, của cải ở Lộc Đài, lúa thóc ở Cự Kiều, Vua Trụ thu gom để rồi mất nước, Vua Vũ nhà Chu phân phát để được lòng dân. Từ đó có thể thấy, điều mà bậc quân chủ cần làm là nhân nghĩa mà thôi, cần gì phải nói đến lợi!

Về việc giảm hình phạt, sách viết: Cai trị dân bằng sự giản dị, trị vì chúng dân bằng sự khoan dung, đó là đạo lý bất biến của trăm Vua. Xưa kia, Hán Cao Tổ bỏ sự hà khắc của nhà Tần, ước định ba điều luật, để thuận lòng dân, từ đó định được nghiệp vương. Hiếu Văn Đế noi theo đó mà thanh tĩnh, gần như không cần dùng đến hình phạt. Như vậy, cốt yếu của việc trị nước thực sự là ở chỗ giảm bớt hình phạt, chứ không phải ở chỗ gia tăng hình phạt. Huống chi, bậc quân chủ đối với việc hình ngục, thế không thể tự mình xét xử, tất phải uỷ thác cho bề tôi. Vì vậy, nếu tra xét gắt gao, thì quyền lực sẽ rơi vào tay ngục lại; nếu mở rộng việc do thám, thì quyền lực sẽ rơi vào tay tiểu nhân; nếu thi hành hình phạt tàn bạo, thì quyền lực sẽ rơi vào tay bề tôi cường quyền; nếu thông đồng xin xỏ, thì quyền lực sẽ rơi vào tay kẻ thân cận. Từ xưa, bọn gian thần muốn trừ khử người tốt[12], độc chiếm quyền lực, tất nhiên sẽ nhiều lần dựng lên những vụ án lớn, để làm lung lay lòng người. Tại sao vậy? Trong nhà ngục, tình hình khó lòng biết được, việc tra tấn bức cung, đều do ngục lại quyết định. Đến khi tâu lên thành án, thì dù có oan khuất, bậc quân chủ làm sao mà xét được? Như vậy, muốn cho bọn gian hùng không thể lộng quyền, người lương thiện được yên ổn, thì không gì bằng giảm bớt hình phạt.

Từ thời Tam Đại trở lại đây, có hàng chục họ làm chủ thiên hạ, chỉ có nhà Tông nhận mệnh trời đến nay đã 126 năm, Trung Nguyên không có việc gì, không thấy binh đao. Xét xem đức chính của họ khác biệt với đời trước, chính là vì hình phạt chém giết, trong thì không dùng đến thân thích, ngoài thì không áp dụng với sĩ đại phu, còn đối với tội của dân thường, đều do Đình uý xét xử công bằng, từ thiên tử trở xuống đến các quan, không còn để ý đến nặng nhẹ trong đó. Vì vậy, có thể lấy đức hiếu sinh, cảm hoá được khí hoà, mà hưởng phúc vô cùng. Tổ tông nhờ đó mà tiêu trừ vận xấu, ngăn chặn mầm loạn, ôi, thật là xa vời vậy!

Dù đức lớn đến đâu, cũng không thể thêm gì nữa! Lời khuyên bỏ xa hoa rằng: Xưa Hạ Vũ chăm chỉ lo việc nước, kiệm ước trong nhà, mà trở thành tổ của ba vương. Hán Văn Đế lên ngôi, cung điện, vườn tược, xe ngựa, y phục, không thêm gì, mà thiên hạ xử án bốn trăm vụ, gần như không còn hình phạt. Vậy thì chăm chỉ kiệm ước, chính là đức cao của đế vương. Huống chi với địa vị tôn quý của thiên tử, giàu có cả thiên hạ, mọi thứ từ bốn phương trăm vật để phụng dưỡng bề trên, đều đã đủ đầy. Nhưng ngày hưởng nước càng lâu, những gì mắt thấy tai nghe đều quen thuộc, trong không có pháp gia thương sĩ, ngoài không có địch quốc ngoại hoạn, thì không mong xa hoa mà lòng xa hoa tự sinh[13], bọn nịnh thần lại theo đó mà dẫn dắt, từ đó cùng cực xa hoa, không gì là không làm.

Vì vậy tiên vương chế định pháp luật, kẻ nào làm trò kỳ lạ xảo trá để lung lạc lòng Vua, thì giết không tha. Kẻ nào vắt kiệt của cải sinh dưỡng của thiên hạ bách tính để cung phụng dục vọng vô cùng của nhà Vua, đẩy nhà Vua vào chỗ mất đức tổn thọ, mà cầu lấy vinh hoa nhất thời cho mình, dù có giết chết cũng không đủ đền tội. Xưa Trụ dùng đũa ngà mà Cơ Tử can ngăn, việc thiên tử dùng đũa ngà, chưa phải là quá xa hoa, nhưng Cơ Tử cho rằng dùng đũa ngà chưa thôi, ắt sẽ dùng vàng, dùng vàng chưa thôi, ắt sẽ dùng ngọc. Lời Cơ Tử, chính là để ngăn ngừa từ nhỏ mà chặn dần. Đến đời Hán, Công Tôn Hoằng làm tướng cho Vũ Đế, cho rằng bệnh của nhà Vua là không rộng lớn, bệnh của bề tôi là không tiết kiệm. Lúc đó, Vua đang đánh dẹp bốn phương, sửa sang cung điện, làm nghìn cửa vạn nhà, từ đó dân số thiên hạ giảm một nửa, trộm cướp nổi lên như ong, mà Hoằng vẫn cho là không rộng lớn, sao mà bất trung đến thế! Vậy nên nhà Vua thực sự có thể không cho lời Cơ Tử là quá đáng, mà nhận ra sự nịnh hót lớn của Công Tôn Hoằng, thì đức của Hạ Vũ, Hán Văn, không khó để đạt được.

Lời khuyên không ham vui rằng: Xưa Chu Công làm thiên 《Vô Dật》 để răn Thành Vương, đại lược rằng: “Xưa Vua Trung Tông nhà Thương, trị dân cung kính sợ hãi, hưởng nước bảy mươi lăm năm. Đến Cao Tông, không dám lười nhác an nhàn, hưởng nước năm mươi chín năm. Từ đó về sau, các Vua lập lên, sinh ra đã ham vui, không nghe nỗi khổ của kẻ tiểu nhân, chỉ theo đam mê vui chơi. Từ đó về sau, cũng không ai sống lâu, hoặc mười năm, hoặc bảy tám năm, hoặc năm sáu năm, hoặc ba bốn năm.” Ôi! Nếu không yêu Vua lo nước sâu sắc, lời nói sao đến thế? Lại nói: “Từ nay về sau, các Vua kế vị, đừng ham mê xem xét, ham vui, du ngoạn, săn bắn! Đừng như Vua Trụ nhà Thương mê loạn, say đắm rượu chè![14] Kẻ tiểu nhân oán trách ngươi, thì hãy tự mình kính đức. Phạt bậy kẻ vô tội, giết người vô tội, oán hận cùng hội, sẽ dồn vào thân ngươi.” Vì nhà Vua ban đầu ham vui, kẻ tiểu nhân ắt oán mà đại thần ắt can, đến nỗi dùng hình phạt bậy bạ để bịt miệng người nói, rồi sau đó đắm đuối không quay lại, không nghe lỗi lầm mà cuối cùng dẫn đến diệt vong. Vậy nên sách 《Vô Dật》, là gương lớn cho các Vua đời sau.

Đường Minh Hoàng mới lên ngôi, Tống Cảnh làm tướng, tự tay viết bức tranh 《Vô Dật》 đặt ở chỗ ngồi của Vua, Minh Hoàng chăm chỉ việc chính sự, từ đó đạt đến trị vì Khai Nguyên. Sau đó Tống Cảnh chết, bức tranh dâng lên cũng hỏng mà bỏ đi, Minh Hoàng bèn lười nhác việc chính sự, tự mình chứng kiến loạn Thiên Bảo. Từ đó mà xem, không gì không có khởi đầu, nhưng ít ai giữ được đến cuối. Nhà Vua thực sự có thể cẩn thận đến cuối như lúc đầu, không dám ham vui, thì đức có tiếng như Nghiêu Thuấn, thân có tuổi thọ như Kiều Tùng, há chẳng tốt sao! Lại nghe Mạnh Tử nói: “Ta không dám đem đạo không phải của Nghiêu Thuấn trình bày trước mặt Vua.” Nay triều đình mới bắt đầu trong sáng, thần tuy học thuật nông cạn, chỉ là những việc chính trị của thánh đế minh vương đời trước có thể làm gương, cùng những con đường dẫn đến loạn lạc của bạo quân ám chủ có thể làm răn, mới dám trình bày trước mặt. Người xưa có câu: “Thuấn là người thế nào? Ta là người thế nào?” Suy nghĩ ngày đêm, bỏ đi những gì không như Thuấn, làm những gì như Thuấn, thì cũng là Thuấn mà thôi. Mong bệ hạ lưu tâm đừng bỏ qua, thì xã tắc may lắm! Thiên hạ may lắm! Hôm đó, cùng dâng tấu rằng:

[51] Thần nghe rằng, ngày xưa thiên tử nghe chính sự, sai trăm quan dâng lời can ngăn những thiếu sót của Vua, các quan gần gũi hết lòng khuyên răn, thân thích bổ sung và xem xét, sau đó mọi việc mới được thi hành không trái đạo. Vì thế Khổng Tử nói: “Thiên tử có bảy bề tôi can gián, dù không có đạo, cũng không mất thiên hạ.” Đường Thái Tông với tư chất cao vời, tự mình an định đại nghiệp, nhưng vẫn có thể kiềm chế bản thân, nghe theo lời can gián để đạt đến thái bình. Đầu niên hiệu Trinh Quan, Tôn Phục Già dâng lời can gián đầu tiên, Thái Tông vui mừng mà ban thưởng. Có người nói rằng ban thưởng quá hậu, Thái Tông đáp: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, chưa có ai can gián, nên đặc biệt ban thưởng mà thôi.” Một hôm, Thái Tông nổi giận với viên giám ở vườn phía tây, thái tử liền can gián, Thái Tông vui mừng nói: “Trẫm từ khi có Ngụy Trưng ngày đêm can gián, Trưng mất rồi lại có Lưu Kỵ, Sầm Văn Bản, Chử Toại Lương, Mã Chu tiếp nối, con ở trước mặt, thấy Trẫm vui vẻ nghe lời can gián đã quen rồi.” Vì thế Thái Tông ban đầu nhờ nghe lời can gián mà đạt được trị đạo, lại dùng việc vui vẻ nghe can gián để dạy bảo con cháu, nên công lao sự nghiệp rất cao mà các Vua khác ít ai theo kịp. Nhưng đến đời cháu là Đức Tông, lại ghét những bề tôi can gián, cho rằng họ làm vậy để mua danh, lúc đó cơ quan phía bắc đóng cửa nhiều tháng, phía nam chỉ có một ngự sử, không nghe thấy lỗi lầm, cuối cùng dẫn đến loạn vong. Từ đó có thể thấy, việc thích nghe lời can gián là đức tính cao quý của đế vương, há chẳng nên cố gắng sao?

[52] Kính nghĩ rằng Thái hoàng thái hậu bệ hạ, tự mình thân chính, đức lớn ngày càng mới mẻ; hoàng đế bệ hạ, ngự triều giữ lễ, chưa từng có việc gì sai trái. Tuy nhiên, thiên hạ rộng lớn, công việc vô cùng nhiều, đúng lúc bắt đầu thời kỳ thanh minh, chính là lúc cần lắng nghe lời can gián. Huống chi, tiên đế mới định lại chế độ quan chức, đặt ra các chức Gián nghị đại phu, Ty gián, Chánh ngôn, số lượng rất đầy đủ. Kính xin hãy ra lệnh cho các bậc phụ tá, chọn những bề tôi trung hậu, cương trực, những người dám nói thẳng, bố trí khắp hai bên tả hữu, để họ nắm giữ việc can gián, không để chức vụ quan trọng bị bỏ trống, mở rộng thêm đường ngôn luận.

Lại nữa, chức Ngự sử, được gọi là tai mắt của thiên tử, nhưng mấy năm gần đây, chỉ chuyên làm việc khảo sát theo lệ cũ, bỏ qua những kế sách lớn về trị loạn của quốc gia, chỉ chú ý đến những lỗi nhỏ trong sổ sách của các ty, huống chi chế độ nhà Đường đã mai một từ lâu, không còn căn cứ rõ ràng, khi thần ở Xu phủ, từng thấy tiên đế đã rất chán những việc rườm rà này, chỉ vì có cận thần dâng lời, nên tạm thử áp dụng phép ấy mà thôi! Kính xin hãy bãi bỏ hết việc khảo sát, chỉ đặt bốn hoặc sáu Ngự sử chuyên lo việc tâu trình. Lại hãy ra chiếu cho các quan Gián và Ngự sử, đều phải nói thẳng không kiêng dè, chỉ ra lỗi lầm của chúa thượng, nêu lên những sai sót của chính sự hiện tại, vạch rõ bè đảng gian thần, trình bày nỗi khổ của dân chúng. Lời nói nào có thể dùng được, không vì người nói thấp kém mà bỏ qua; mệnh lệnh nào chưa thích hợp, không vì đã ban hành mà ngại thay đổi. Những lời nói không có giá trị, cũng hãy tạm dung nạp, để tỏ rõ thời thịnh trị, rốt cuộc không vì lời nói mà trị tội người. Nếu ai im lặng nhút nhát, sợ hãi tránh né không dám nói, thì hãy xử phạt rõ ràng. Như vậy, thì những người tả hữu trước sau không thể che lấp, lời hay không bị chôn vùi, mọi việc đều tốt đẹp, thiên hạ thật may mắn biết bao!

[53] Ngày Bính Tuất, Hữu ty gián Kiển Tự Thần được làm Ty phong viên ngoại lang.

(Tự Thần bị bãi chức ngôn quan ắt có nguyên do, nên khảo cứu kỹ, thêm vào ngày mồng 2 tháng 7 đoạn nói về Tự Thần…)

[54] Ban chiếu cho Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức rằng: “Xem xét biểu văn của khanh, trình bày việc xin đất đai các động Vật Dương, Vật Ác, đã rõ. Khanh trước đây dưới triều Tiên đế đã từng trình bày việc biên giới, nhiều lần ban chiếu dụ, đầu đuôi rất rõ ràng. Đặc biệt chiều theo yêu cầu của khanh, đã cắt đất ban cho. Nay xem tấu chương, lại còn có lời chỉ trích. Trẫm mới lên ngôi, mọi việc đều tuân theo tiền lệ, mệnh lệnh đã định, nghĩa khó thay đổi. Khanh nên giữ lòng trung thành, tuân theo chiếu chỉ trước.”

Vì Càn Đức dâng thư xin dời đất các động Vật Dương, Vật Ác đã được ban trong chiếu chỉ, Xu mật viện tâu rằng nên ban chiếu nhắc lại ý chỉ của triều đình trước, khiến Càn Đức tuân theo.

[55] Chiếu cho các quan Tam tỉnh, Xu mật viện, nếu gặp việc bổ nhiệm, thì không cần dời chỗ ở ở Đông phủ, Tây phủ.

[56] Chiếu cho Khai Phong phủ thôi quan Hồ Cập tiếp tục giữ chức vụ cũ. Vì Khai Phong phủ điều tra việc Ngô (Sơn Kỷ) thêm bớt viết truyện có thật, mà Hồ Cập chỉ vì điều tra không kỹ nên bị cách chức. (Hồ Cập bị cách chức vào ngày mùng 4 tháng 6, việc của Ngô

(Sơn Kỷ) không rõ, cần tra cứu thêm. Ngày Đinh Mùi tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất, Hồ Cập bị đưa về Lại bộ.)

[57] Chiếu cho nội thần Cam Thừa Lập bị áp giải đến Hồ Bắc đề hình ty để điều tra.

(Việc này theo chính mục ngày 24 tháng 6. Năm sau, ngày 25 tháng 3, bị tước chức và đày đến Thiều Châu. Cuối tháng 4, An Đôn hặc tội Thừa Lập.)

[58] Xu mật viện tâu: “Hạ quốc đã sai sứ đến triều đình bày tỏ lòng thương xót, lo rằng các lộ cho rằng người Tây đã thông hiếu, nên lơ là phòng bị biên giới, đã ban chỉ huy, lệnh cho các Kinh lược ty, Chế trí ty ở Thiểm Tây, Hà Đông nghiêm khắc răn bảo các quan biên giới, luôn phòng bị như có giặc đến. Gần đây theo tấu chương của Kinh lược ty Hà Đông, Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Hội, có giặc Tây lẻn vào đất Hán giết hại quan dân, rõ ràng là mất cảnh giác.” Chiếu lệnh cho Kinh lược ty Hà Đông, Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Hội nghiêm khắc răn bảo các tướng quan biên giới, bố trí trinh sát xa và dò xét động tĩnh của giặc Tây, phòng bị cẩn thận. Nếu còn để lọt giặc, sẽ bị trừng phạt nặng.

[59] Lại có lời tâu: “Nghe nói gần đây ở phủ giới và ba lộ, việc tập hợp dạy bảo giáp bị các chính trưởng gây phiền nhiễu, hoặc do các tuần giáo quan chỉ huy hà khắc tàn bạo, khiến tiểu nhân hung hãn, xâm phạm pháp luật. Các quan đề cử ở các nơi phần nhiều chỉ lo nương nhẹ, không muốn châu, huyện công khai thi hành, khiến quan lại sợ hãi tránh né, không dám tố cáo, giám ty thì đứng ngoài quan sát, không tiến hành điều tra, dung túng kẻ gian ác, điều này rất bất tiện. Xin hạ lệnh cho phủ giới, ba lộ an phủ, giám ty, cao cử bảo giáp ty cùng châu, huyện thường xuyên kiểm tra[15], tiến hành điều tra xử lý, nếu vi phạm sẽ bị trừng phạt nặng.” Được chấp thuận.

(Ghi chép mật ngày 24 tháng 6.)

[60] Tri phủ Hà Nam Hàn Giáng tâu: “Binh lính làm việc ở sơn lăng bị bệnh chết, đang lúc nắng nóng gay gắt, thần tạm thời cho miễn kiểm tra. Nhưng như vậy là trái với chiếu chỉ, thần tự hặc tâu lên.” Công bộ cho rằng việc liên quan đến tính mạng con người, e rằng sẽ có sự lừa dối. Chiếu chỉ đặc biệt theo lời tâu của Hàn Giáng, và tha tội cho ông.

[61] Ngày Đinh Hợi, Vua ban chiếu rằng: “Trẫm kế thừa mưu lớn, được phụng thờ tông miếu, mới nắm quyền chính sự, lo lắng về đạo lớn, ngày đêm kính sợ, không dám yên lòng, sợ không thể làm rạng rỡ công lao của tiên đế và an định dân chúng trong thiên hạ. Trẫm luôn nghĩ rằng các bậc vương giả thời xưa, khi mới lên ngôi, đều phải mở rộng tai mắt để ngăn ngừa sự bưng bít, tìm kiếm lời nói thẳng để bổ sung những điều chưa đạt, từ đó tình hình khắp nơi được báo lên, ân huệ được ban xuống. Kinh Thi chẳng nói rằng: ‘Hỏi ý ta khi mới lên ngôi.’ Đó là điều mà Thành Vương nhờ cậy để cầu giúp đỡ, quần thần dâng lời răn dạy, trên dưới cùng cảnh tỉnh, để hoàn thành công nghiệp của Văn Vương và Vũ Vương. Trẫm rất ngưỡng mộ điều đó! Các quan lại trong ngoài và dân chúng đều được phép dâng sớ kín, thẳng thắn nói về những thiếu sót trong triều chính và nỗi khổ của dân gian[16]. Ở kinh thành, có thể nộp tại Đăng Văn cổ hoặc Viện Kiểm, ở ngoài thì nộp tại các châu, quân, dịch trạm thuộc quyền quản lý để trình lên. Trẫm sẽ tự xem xét, tìm ra những điều hợp lý để thi hành.” Tư Mã Quang đã ba lần dâng sớ xin sửa đổi chiếu trước, đến lúc này mới được chấp nhận.

(Cựu lục chép: “Vì Tư Mã Quang, học sĩ điện Tư Chính[17], thông nghị đại phu, có lời thỉnh cầu. Lúc đó Quang muốn chiêu tập đảng người[18], hợp sức bàn luận pháp luật để lừa dối triều đình, nên ban chiếu này. Từ đó, tiểu nhân nhân cơ hội, vu cáo và phỉ báng dồn dập.” Tân lục bàn rằng: “Khi Vua mới lên ngôi, ban chiếu mở rộng đường ngôn luận, đó là việc đức lớn. Nay thêm vào sớ của Tư Mã Quang để thấy rõ sự thật. Từ chữ ‘có lời thỉnh cầu’ đến ‘dồn dập’ 34 chữ nên bỏ[19].” Xét sớ xin mở rộng đường ngôn luận của Tư Mã Quang có ba lần, Tân lục chỉ chép lần thứ hai. Lần thứ ba dâng vào ngày 12, đến lúc này mới được chấp nhận. Nay theo đúng tập của Quang, phụ lục sớ vào ngày này. Ở đây chỉ nói bắt đầu nghe theo lời Quang, việc nghe lời khuyên không dễ dàng như vậy, nên phải ghi chép đầy đủ.)

[62] Ngày Mậu Tý, ban chiếu cho Thạch Đắc Nhất làm sứ giả ở Vĩnh Dụ lăng, Tống Dụng Thần làm phó.

[63] Ban chiếu cho các quan lên điện, chờ đổi niên hiệu để nhận chỉ dụ.

(Sách 《Chính mục》 ghi việc ngày 26.)

[64] Ban chiếu bãi bỏ việc đặt trường tập luyện cho các cung thủ ở Tần Phượng lộ, lệnh cho Kinh lược ty nghiên cứu và đề xuất pháp luật phù hợp với tập quán của người địa phương. Do quyền Quản câu Kinh lược An phủ ty công sự Tần Phượng lộ, Thông trực lang Lữ Ôn Khanh xin nới lỏng việc tập luyện cho các cung thủ người Hán và người Phiên, nên có mệnh lệnh này.

(Xu mật viện khám xét và báo cáo: “Các cung thủ ở Tần Phượng lộ từ trước đến nay tập luyện kỹ năng không theo pháp luật[20], triều đình đã cử Triều thỉnh lang, quyền Đồng đề cử Vĩnh Hưng, Tần Phượng đẳng lộ Bảo giáp Hồ Tông Hồi kiêm Đề cử điểm trạch, theo pháp luật Bảo giáp đặt trường tập luyện. Nay nghe nói các cung thủ từ trước đến nay tập bắn, chỉ chú trọng bắn xa, không tuân theo quy cách. Việc tập trung tập luyện hiện nay gây trở ngại cho công việc nông nghiệp, cũng không phải là tập quán của người địa phương. Tất cả các chỉ dụ về việc đặt trường tập luyện trước đây, muốn lệnh cho Hồ Tông Hồi không thi hành nữa, các cung thủ đều giải tán về nơi cũ. Kinh lược ty cần nghiên cứu kỹ lưỡng và đề xuất pháp luật phù hợp với tập quán của người địa phương, tấu trình lên triều đình. Từ nay về sau không được vi phạm pháp luật, chiêu mộ những người yếu kém không thể tập luyện chiến đấu[21], nếu có những người chưa được tập hợp, thì tùy nghi tập hợp và huấn luyện. Những sứ thần và các giáo đầu quân đội hiện đang lưu lại, đều cho về ty.” Triều đình đồng ý. Trước đó, quyền Quản câu Kinh lược An phủ ty công sự Tần Phượng lộ, Thông trực lang Lữ Ôn Khanh tấu trình, xin nới lỏng việc tập luyện cho các cung thủ người Hán và người Phiên để thuận tiện cho dân tình, nên có mệnh lệnh này. Sách 《Mật ký》 ghi việc ngày 26 có điều này.)

[65] Xu mật viện tâu: Theo lệ cũ, nên cử quan đi ban tặng vật phẩm lưu lại cho Hạ quốc chủ, gồm 1.500 lạng khí cụ bằng bạc và 1.500 tấm lụa. Chiếu theo lệ cũ, lại lệnh Học sĩ viện ban chiếu lưu lại[22].

[66] Lữ Công Trước dâng lên mười việc, Thái hoàng thái hậu sai trung sứ Lương Duy Giản truyền dụ cho Lữ Công Trước rằng: “Xem tờ tấu của khanh, thấy rất có ích lợi, đủ thấy lòng trung thành sáng suốt, thật đáng khen ngợi. Lúc này cứu dân khỏi khổ cực, nên thay đổi việc gì trước, không được làm cẩu thả, hãy trình bày đầy đủ cho ta biết.” Ngày Canh Dần, Lữ Công Trước lại dâng tấu rằng: “Thần thấy từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, chú ý đến chính sự, lấy việc cho dân nghỉ ngơi làm ý niệm, mọi việc làm đều hợp với đạo lý. Như việc bãi bỏ các cục Đạo Lạc, Đôi Đóa, giảm bớt tiền lãi còn thiếu của Thị dịch, bãi bỏ việc dân nuôi ngựa, tha nợ thuế còn thiếu, sai quan xem xét lại pháp trà, pháp muối. Những sứ giả bóc lột hại dân như Ngô Cư Hậu, Hoắc Tường, Vương Tử Kinh, những nội thần gây việc thu oán như Lý Hiến, Tống Dụng Thần đều bị cách chức. Trong ngoài nghe tin ấy, không ai là không vui mừng hớn hở. Nay lại được bệ hạ không bỏ sót kẻ hèn mọn, đặc biệt hỏi han, thần tuy không có tài cán, nhưng dám không hết lòng trình bày ý kiến ngu muội. Thần nhớ lại khi tiên đế mới lên ngôi, triệu thần làm Hàn lâm học sĩ, lúc ấy thần tận mắt thấy tiên đế hết lòng cầu trị, thường sai thần soạn chiếu thư, lấy việc giảm nhẹ sức dân làm ý.”

Từ khi Vương An Thách nắm quyền, thay đổi pháp luật cũ, các quan có người bàn luận về những điều sai trái của ông, liền bị chỉ trích là cản trở phá hoại pháp luật, ắt bị bãi chức. Từ đó, phép thanh miêu, miễn dịch được thi hành mà tài sản của dân bị cướp sạch, phép bảo giáp, bảo mã được thi hành mà sức dân bị kiệt quệ, phép thị dịch, trà diêm được thi hành mà lợi ích của dân bị chiếm đoạt hết, những việc như thế rất nhiều.

Nay bệ hạ đã thấu hiểu những tệ hại đó, công bằng quyết đoán, không bị các luận điệu lung lạc, thì khi thay đổi, cần phải có phương pháp, không thể vội vàng. Ví như phép thanh miêu, chỉ cần bỏ việc so sánh hàng năm, quan lại không còn tranh công, dân chúng tự nhiên tránh được nạn bị ép buộc. Phép miễn dịch, nên giảm bớt số tiền thừa, xem xét việc sai dịch và thuê mướn sao cho hợp lý, không để hộ nghèo phải nộp thuế vô ích, hộ giàu lấy tiền, hộ trung lấy sức, thì công tư tự nhiên cân bằng. Phép bảo giáp, chỉ nên lệnh tập luyện vào tháng đông lúc nông nhàn, vẫn giao cho giám ty bản lộ kiểm tra, không đến mức cản trở nông nghiệp hại dân, thì dân chúng dần được yên ổn làm ăn, không còn nạn trộm cướp. Ba việc này đều cần định ra phép tắc tốt, để làm lợi lâu dài.

Còn phép bảo mã, triều trước đã biết quan lại thi hành sai lầm, phép thị dịch, tiên đế cũng thấy có hại mà không có lợi, cùng với việc bán trà, muối quá nhiều ở Phúc Kiến, Giang Nam, dân chúng nơi đó khổ sở không sống nổi, đều không phải ý của triều đình, nên bãi bỏ hết. Phép muối phương Nam, bảo giáp ba lộ, cần phải cải cách trước. Những việc trên chỉ nói sơ lược, còn chi tiết thì không thể kể hết. Nhưng điều thần lo lắng là bệ hạ muốn sửa đổi chính sự, để không kinh động dân chúng mà thực sự có lợi cho dân, thì không gì bằng việc dùng người là cấp bách. Vì thế thần trước đã dâng lời, xin bệ hạ mở rộng đường ngôn luận, chọn bổ quan đài gián, thực sự có được người trung chính, bố trí vào chức vụ quan trọng, để tìm hiểu lợi hại trong thiên hạ, bàn luận phương pháp cải cách, triều đình trên dưới đồng lòng, cân nhắc mà quyết định, thì thiên hạ không khó trị. Nếu không có người tài, thì dù có ý muốn trị nước, cuối cùng cũng không thể thành công.

Thần còn lo người bàn luận cho rằng nếu thay đổi phép thanh miêu, trợ dịch, thì quốc dụng sau này ắt sẽ không đủ[23]. Nhưng từ trước đến nay, tiền vật của các ty thường bình đều được phong chặt, không được dùng vào chi phí thường ngày của quân quốc, huống chi nay là lúc cần nghỉ ngơi dân chúng, giảm bớt việc, bên ngoài không dùng binh đao, bên trong không có xây dựng lãng phí, tự nhiên quốc kế dễ xoay xở. Thêm vào đó, bãi bỏ những khoản thuế khóa nặng nề, thì sức dân dần được thư thái. Ví như gần đây bãi bỏ ty đạo lạc, trường đôi đóa, thuế dọc sông Biện đã tăng lên, đó là điều cổ nhân nói “Dân đủ, Vua sao không đủ”. Hôm đó, lại cùng tấu rằng: Thần vừa dâng tấu, xin bệ hạ mở rộng đường ngôn luận[24], dùng người chính trực, đó là việc cấp bách nhất hiện nay. Thần còn lo bệ hạ ở sâu trong cung, chưa biết hết nhân tài, dám mạo muội trình bày ý kiến, để giúp thu thập. Thần thấy thiếu giám bí thư Tôn Giác, ngay thẳng có học thức, có thể làm gián nghị đại phu hoặc cấp sự trung. Trực long đồ các Phạm Thuần Nhân, cứng cỏi có phong thái, có thể làm gián nghị đại phu hoặc thị lang hữu tào hộ bộ, để bàn luận phép thanh miêu, miễn dịch, thị dịch. Thị lang lễ bộ Lý Thường, thanh liêm giữ mình, có thể làm ngự sử trung thừa. Lang trung lại bộ Lưu Chí, tính tình đoan chính, có thể làm thị ngự sử. Thừa nghị lang Tô Triệt, quan sát vừa được bổ nhiệm Vương Nham Tẩu, đều có tài năng, có thể làm gián quan hoặc ngự sử ngôn sự. Thần thấy bệ hạ có ý cải cách, mà thiếu người giúp đỡ, nên không ngại liều lĩnh, dám tiến cử, xin thánh thượng xem xét kỹ. Thái hoàng thái hậu phong công trước tráp tử giao cho Tư Mã Quang, xem xét kỹ những điều trình bày về lợi hại của cải cách, có tài năng kiêm toàn hay không, viết rõ nên hay không nên để tâu lên. Quang tấu:

[67] Thần từ khi Lã Công Trước đến kinh, chỉ gặp một lần ở giữa đám đông tại đô đường, từ đó về sau chưa từng gặp riêng hay có thư từ qua lại. Những điều Công Trước trình bày, hoàn toàn phù hợp với những gì thần muốn nói. Đó là vì người trong thiên hạ đều mong muốn như vậy, thần và Công Trước chỉ là đại diện cho ý nguyện của mọi người mà tâu lên mà thôi.

Thần nghe sách viết: “Có bỏ có làm, ra vào tự nhiên, mọi người cùng bàn bạc, ý kiến giống nhau thì suy xét kỹ.” Ý nói việc chính sự của quốc gia muốn thay đổi, trước hết phải bàn bạc với mọi người, ý kiến đều thống nhất, rồi mới thi hành, như vậy sẽ không sai lầm. Truyện viết: “Trên xét lời dân, thì dưới coi ân trên như trời.” Ý nói người trên nên xem xét lời dân; theo ý dân, thì người dưới sẽ coi người trên như trời, nhận ân huệ của họ.

Kính mong bệ hạ xem xét điều Công Trước trình bày, tham khảo thêm tờ tấu kín của thần, nếu thấy phù hợp, xin quyết tâm thi hành, đừng nghi ngờ nữa, thần thấy công cuộc thái bình sẽ sớm thành hiện thực. Công Trước một lời mà thiên hạ được lợi, có thể nói là có tài kiêm tế, lời nói không gì là không đúng. Chỉ có việc bảo giáp, muốn dạy dân lúc nông nhàn, thần nghĩ triều đình đã biết nó hại dân, vô ích cho nước, nên bãi bỏ, cần gì phải dạy dân? Xin cho thần tiếp tục dâng tờ tấu trình bày. (Tờ tấu của Tư Mã Quang là ngày mùng một tháng 7, nay ghi chung vào đây.)

Quang lại nói: Trước đây thần liều lĩnh dâng lời về việc dùng người, sau nhận được chỉ dụ, những người chức vị thấp mà có thể đảm đương việc lớn, hãy liệt kê tên tuổi tâu lên. Bệ hạ tin tưởng thần, giao cho chọn người tài, không còn nghi ngờ gì nữa. Thần nhận mệnh lo sợ, chỉ sợ không xứng, sao dám thiên vị? Thần thấy Lại bộ lang trung Lưu Chí, trung thành cương trực, không thay đổi; Long đồ các đãi chế, Tri Bạc châu Triệu Ngạn Nhược, học rộng có phong cách cha, tu dưỡng tốt; Triều thỉnh lang Phó Nghiêu Dũ, thanh liêm an nhàn, bị chìm lâu năm; Trực Long đồ các, Tri Khánh châu Phạm Thuần Nhân, xử lý việc nhanh nhạy, không sợ cường quyền; Triều thỉnh lang Đường Thục Vấn, biết liêm sỉ, khó tiến dễ lui; Bí thư tỉnh chính tự Phạm Tổ Vũ, ôn hòa đoan chính, tu thân không khuyết điểm. Sáu người này, thần đều quen biết, tiết tháo kiên định, tuy không dám nói họ đủ sức đảm đương việc lớn, nhưng nếu cho họ làm ngự sử, hoặc giảng đọc, ắt có ích. Có người là thân thích của thần, hoặc có lỗi lầm, thần ngưỡng mộ người xưa tiến cử không tránh thân, không vì một lỗi nhỏ mà che lấp đức lớn, đã được hỏi ý, không dám tránh hiềm nghi, để quốc gia bỏ sót nhân tài.

Ngoài ra như Tân Hàn lâm học sĩ Lã Đại Phòng, Binh bộ thượng thư Vương Tồn, Lễ bộ thị lang Lý Thường, Bí thư thiếu giám Tôn Giác, Hữu ty lang trung Hồ Tông Dũ, Hộ bộ lang trung Hàn Tông Đạo, Công bộ lang trung Lương Đào, Khai phong phủ suy quan Triệu Quân Tích, Tân Giám sát ngự sử Vương Nham Tẩu, Triều nghị đại phu, Tri Trạch châu Yến Tri Chỉ, (Ngày 24 tháng 12, Tri Chỉ từ Trạch chuyển sang Tấn, ngày 8 tháng 5 năm đầu làm Phó vận sứ Tử lộ.) Triều thỉnh đại phu Phạm Thuần Lễ, Tri Đăng châu Tô Thức, Tri Hấp châu Tích Khê huyện Tô Triệt, Thừa nghị lang Chu Quang Đình, hoặc vì đức hạnh, hoặc vì văn học, đều được mọi người kính phục. Thần tuy không quen biết nhiều, nhưng không dám giấu giếm. Kính mong bệ hạ ghi nhớ tên họ, tùy tài năng mà sử dụng khi cần. Nhưng biết người là khó, từ xưa đã vậy, huống chi thần ngu muội, lại ẩn cư lâu năm, ít tiếp xúc với sĩ đại phu, sao dám nói hết hiền tài trong thiên hạ! Kính mong bệ hạ rộng rãi tìm kiếm. Như Văn Ngạn Bác, Lã Công Trước, Phùng Kinh, Tôn Cố, Hàn Duy, đều là bậc lão thành của quốc gia, có thể tin cậy. Xin cũng cho họ tiến cử người họ biết, để tham khảo ý kiến, không bỏ sót ai.

(Tờ tấu này lấy từ tạp lục, không ghi tên. Đầu tờ tấu viết: “Ngày 25 tháng này liều lĩnh dâng lời về việc dùng người[25].” Xét kỹ đầu đuôi, chắc là của Tư Mã Quang. Nhưng trong tập của Quang không có tờ tấu này, cũng không có việc dâng lời về việc dùng người ngày 25. Cần xem xét thêm.)

[68] Tri Khánh châu Phạm Thuần Nhân tâu rằng:

[69] Thần trộm thấy ngày 25 tháng 6 có chiếu thư, cho phép các quan trong ngoài và dân chúng được dâng sớ thẳng thắn nói về những thiếu sót trong chính sự triều đình và nỗi khổ của dân gian, điều này cho thấy lòng thành của bậc thánh nhân mong cầu trị đạo sâu sắc. Thần tuy rất ngu muội, nhưng không dám im lặng. Thần nghĩ rằng bệ hạ đang mở ra vận hội thịnh trị, ban bố chính sách mới mẻ, người trong thiên hạ đều ngẩng đầu mong đợi sự trị vì tốt đẹp, nên chưa thấy có gì thiếu sót để trình bày. Còn những nỗi khổ của dân gian mà bệ hạ đã sửa chữa ngay khi mới lên ngôi, khiến trăm họ vui mừng reo hò, đó là những việc rõ ràng ở kinh đô, bệ hạ đã nghe nhiều và sửa đổi. Nhưng những việc ở nơi xa xôi, khuất lấp, thì bệ hạ không thể nghe được. Vì vậy, nên ban chiếu rõ ràng khắp nơi, hỏi han rộng rãi. Tuy nhiên, các quan trong ngoài và dân chúng vẫn chưa thực sự hiểu thấu ý chỉ của bệ hạ, nên chưa có gì để trình bày. Bởi dân chúng ngu muội, dù có nỗi khổ cũng không biết tự nói, chỉ có những người làm quan, lại dịch mới có thể nói, nhưng họ lại vì lợi hại không liên quan đến mình nên không nói. Các quan lại cũng có người không thể nói, hoặc vì sợ hãi né tránh mà không nói, có người xa cách mà thận trọng im lặng, có người lười biếng không lo nước thương dân, có người trước đây từng nói mà nay thẹn không dám nói nữa. Những người như vậy đều không nói. Nếu bệ hạ không ra chiếu sâu sắc cho các quan chức và các cơ quan, bắt họ phải trình bày hết những điều họ biết, tự tâu lên, thì e rằng chiếu chỉ của bệ hạ sẽ thành văn suông, mà tình hình thiên hạ cuối cùng vẫn không thể hiểu hết được.

Xưa nay triều đình đặt ra pháp luật, giao cho các cơ quan thi hành trong thiên hạ, vốn là muốn thuận tiện cho dân và có lợi cho nước. Như người cha hiền gửi cơm cho con, lòng đâu có gì không tốt! Nhưng người cho ăn không có lòng thương con, không biết lượng sức đói no, chỉ biết cho ăn mà không quan tâm gì khác, thì đứa con không bệnh mà chết cũng là hiếm. Nay các quan thi hành pháp luật, không quan tâm đến lợi hại, ưa ghét của dân, chỉ biết thi hành pháp luật mà không quan tâm gì khác, thì dân chúng mệt mỏi mà không biết kêu ai là phải. Những tệ nạn ở quận huyện, thủ lĩnh biết; tệ nạn ở một vùng, giám ty biết[26]; tệ nạn về trà, muối, lợi cục, dân binh, hình pháp, sai dịch, những người quản lý và chịu hại biết; tệ nạn về quân chính, tam suý và tướng lĩnh biết; tệ nạn về biên phòng, người giữ biên biết.

Thần mong bệ hạ đặc biệt ban chiếu rõ ràng, trong thì sắc cho Lục bộ, Tứ ty, Cửu tự, Tam giám, Tam suý, Bách ty, ngoài thì sắc cho Giám ty, Đề cử, Đề điểm, biên thần, mục thủ, đến cả lệnh tá, giám đương, tào duyện, đều phải trình bày những lợi hại trong chức trách và những gì họ đã trải qua, không được giấu giếm. Nói rằng: việc gì có lợi cho dân, ích cho nước, có thể thực hiện; việc gì phiền nhiễu hao phí, có thể giảm bớt; việc gì hại công hại tư, có thể sửa đổi. Hạn trong một tháng phải tâu lên. Cũng có thể nhân đó mà biết được tài năng, kiến thức của họ. Sau đó, bệ hạ cùng các cận thần và đại thần thảo luận, chọn lựa rồi thi hành, để ân trạch lan tỏa khắp nơi. Như vậy, thì điềm lành hiện ra, mọi việc đều tốt đẹp, chính trị của Nghiêu, Thuấn, Tam đại, có thể không cần vất vả mà thành tựu. Mong bệ hạ lưu tâm xem xét, đặc biệt cho thi hành, thì thiên hạ may mắn biết bao!

(Ngày 25 tháng 6 cầu lời nói thẳng.)


  1. 'Thần tôn' nguyên bản là 'Thần thứ', xét lúc này Tuyên Nhân thái hậu nhiếp chính, 'Thần tôn' là chỉ Triết Tông, nay căn cứ vào các bản và 《Uyển Diễm tập》 quyển 3 mà sửa.
  2. lại dùng việc cách chức để răn đe, chữ 'phạt' nguyên bản là 'tội', theo bản trong các các mà sửa. Xét đoạn dưới có hai chỗ nhắc đến 'truất phạt', tương ứng với câu trên là 'tước thưởng'.
  3. 'Thông' nguyên là 'thính', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại.
  4. Từ khi thi hành chế độ mới, chữ 'phụng' nguyên bản là 'tấu', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại.
  5. 'Truy' nguyên là 'tiến'. Theo quyển 352 sách này chép ngày Giáp Ngọ tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8 'Lý Hiến truy nhập nội phó đô tri', lại xem quyển 467 truyện Lý Hiến trong 《Tống sử》 chép Hiến nguyên là nhập nội phó đô tri, cuối năm Nguyên Phong vì tội dâng tấu công trạng giả bị bãi chức nội tỉnh, nay căn cứ đó mà sửa.
  6. Chữ 'Xung' là sai. Theo sách này trước đó chép ngày Đinh Hợi tháng 4 có chiếu sai Phố chuyên việc bắt tướng giặc Vương Xung ở Thiểm Tây, Kinh Tây lộ, chú rằng ngày 17 tháng 6 bắt được Xung, Xung không phải là quan, càng không thể thăng chức là rõ ràng.
  7. 'quân nhân', bản các bản viết là 'nhân quân'.
  8. 'triệu' nguyên bản viết là 'hậu', theo bản các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 95 sửa lại.
  9. 'điều' nguyên bản viết là 'tu', theo bản các bản sửa lại.
  10. Chỉ có Thượng đế là không thường, chữ 'không' nguyên bản là 'chi', căn cứ theo các bản khác và sách 《Y Huấn》 mà sửa lại.
  11. Thương ta thì là Vua, hại ta thì là thù, đây là lời trong sách 《Thái Thệ》, nguyên bản chữ 'thương' vốn là 'phủ', có lẽ là người đời Tống sửa lại.
  12. Từ xưa, bọn gian thần muốn trừ khử người tốt, 'Cổ' nguyên là 'Cố', theo bản trong các kho sách mà sửa.
  13. Trong câu 'thì không mong xa hoa mà lòng xa hoa tự sinh', chữ 'xa hoa' trước vốn có thêm chữ 'lòng', theo bản khác đã bỏ.
  14. Câu 'say đắm rượu chè' này là lời trong sách 《Vô Dật》, nguyên bản chữ 'say' vốn là 'hung', có lẽ người Tống tránh tên húy của Triết Tông mà đổi.
  15. Cập châu huyện thường thiết giác sát 'thiết' nguyên tác 'Thiết' , cứ các bản, hoạt tự bản cải.
  16. Chữ 'khổ' nguyên bản là 'nhược', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại.
  17. Chữ 'điện' nguyên bản thiếu, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 93 'Cầu trực ngôn' và 《Tống sử》 quyển 336 'Tư Mã Quang truyền' bổ sung.
  18. Các bản khác chữ 'chiêu' có thêm chữ 'kỳ'.
  19. Từ 'có lời thỉnh cầu' đến 'dồn dập' 34 chữ nên bỏ, nhưng đếm ra chỉ 33 chữ, nên bỏ từ 'lúc đó Quang' trở xuống 31 chữ, còn 'có lời thỉnh cầu' thuộc phần trên.
  20. Nguyên văn 'Duyệt' viết là 'Sách', căn cứ vào các bản và 《Tống sử》 quyển 195, 《Binh chí》 9 sửa lại.
  21. Nguyên văn 'Thích' viết là 'Sắc', căn cứ vào các bản, bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 190, 《Binh chí》 4 sửa lại.
  22. Lại lệnh Học sĩ viện ban chiếu lưu lại, chữ 'viện' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản và 《Tống sử》 quyển 162, Chức quan chí 2 bổ sung
  23. 'Hướng khứ' nguyên là 'Độ chi', theo các bản sửa.
  24. 'Khai' nguyên là 'văn', theo các bản, bản hoạt tự sửa.
  25. Ngày 25 tháng này liều lĩnh dâng lời về việc dùng người, chữ 'người' nguyên bản thiếu. Xét tờ tấu này tiến cử nhiều người, trước đó Tư Mã Quang có tờ tấu 'Trước đây liều lĩnh dâng lời về việc dùng người', chú thích dưới lại có 'Cũng không có việc dâng lời về việc dùng người ngày 25', nay bổ sung.
  26. giám ty biết 'giám' nguyên là 'chức', theo 《Tục thông giám》 quyển 78 sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.