VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 358: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Từ tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Giáp Ngọ, Môn hạ tỉnh tâu: “Các văn bản của bản tỉnh đều có thời hạn nhất định. Khi nhận được văn bản chỉ dụ từ Trung thư tỉnh và Xu mật viện, lại viên không phân biệt mức độ khẩn cấp mà trình ký và đưa vào[1], sau khi đã được phê duyệt, cấp trên mới kiểm tra và ký tên, e rằng có sai sót. Xin từ nay các văn bản nhận được[2], trước hết do lại viên xử lý, sau đó cấp trên ký tên ở mặt sau, rồi đến Cấp sự trung ký. Văn bản thông thường thì giao cho phòng ban trình ký và đưa vào. Nếu là văn bản cần bàn bạc, cấp trên trình trước, sau đó mới viết tờ trình và ký tên. Văn bản khẩn cấp cần gửi ngay hoặc trong ngày hoặc ngày hôm sau gặp ngày nghỉ, lại viên phải trình ký trước để đưa vào, sau khi đến tỉnh, sẽ ký tên theo thứ tự.” Được chấp thuận.
[2] Chiếu cho Lại bộ lang trung Trương Nhữ Hiền đi xem xét và cử người thực hiện pháp luật về muối do Kiển Chu Phụ ở Phúc Kiến lộ đề ra. Trước đó, sai Ngự sử Vũ Văn Xương Linh đi xem xét việc này và tâu lên, Hữu ty gián Kiển Tự Thần nói: “Cha tôi là Chu Phụ và Xương Linh là người cùng quê, xin sai người không liên quan.” Vì vậy đổi thành Nhữ Hiền.
(Ngày 16 tháng 5 sai Xương Linh, ngày 24 tháng 6 Tự Thần bị bãi chức gián. Trong mật sớ có tấu của Tự Thần, nên thêm vào. Nay ghi chú ở đây: “Hữu ty gián Kiển Tự Thần tấu: ‘Pháp luật về muối ở Phúc Kiến, Giang Tây, Hồ Nam, nghe nói gần đây triều đình sai quan đi xem xét, hôm qua lại bàn việc lập pháp, nhân đó sai thần làm đề cử quan kiêm giám sự. Thần trước đây làm Giám sát ngự sử và Điện trung thị ngự sử, không thể làm vừa lòng đồng liêu, thường xúc phạm nhiều người, vì vậy thần cùng Hoàng Lí, Hoàng Giáng có sự hiểu lầm không hợp, muốn vội vàng đem việc cha thần khi làm Tri Khai Phong phủ nói ra để tấu đàn[3], thì thần khó cùng làm việc, tự phải xin từ chức, đổi cha thần làm Trung thư xá nhân còn thần đợi tội làm gián quan. Phúc Kiến lộ sai Vũ Văn Xương Linh, Xương Linh cùng cha thần là người cùng quê, là bạn cũ, lại Giang Tây, Hồ Nam lộ sai Trần Thăng Chi, vốn quen biết Hoàng Giáng, lại do Hoàng Lí tiến cử, e rằng sẽ xu nịnh. Kính mong đổi người không liên quan đi làm việc.’ Vâng thánh chỉ, Phúc Kiến lộ đổi sai Lại bộ lang trung Trương Nhữ Hiền.”)
[3] Điện trung thị ngự sử Hoàng Giáng tâu: “Quan phụ trách công việc ở Bảo mã ty Kinh Đông, Tây lộ, xin tạm thời bãi bỏ, đợi đến năm mua ngựa lại như cũ.” Chiếu cho Bảo mã ty các nơi báo cáo số lượng nhân viên cần giữ lại.
[4] Triều nghị đại phu, Trực tập hiền viện Trần Sai, đổi chức làm Trung tán đại phu, giữ chức Tư nông khanh.
(Đổi chức làm một quan, theo chính mục thêm vào, cần xem xét việc đổi chức làm một quan theo lệ cũ.)
[5] Triều phụng đại phu Phạm Thuần Lễ làm Hộ bộ lang trung.
(Cuối tháng 6, Tư Mã Quang tiến cử.)
[6] Thái thường tự và Cáp môn tâu: “Nghi thức tiếp kiến và từ biệt của sứ phương Tây, xin theo như năm Gia Hựu thứ tám, tiếp kiến ở ngoài cửa điện Hoàng Nghi. Việc từ biệt triều đình, vì Thái hoàng thái hậu tạm thời cùng xử lý việc quân quốc, xin cho phép từ biệt vào ngày có rèm che, hoặc chỉ cho phép từ biệt ở cửa.” Chiếu rằng việc tiếp kiến theo như năm Gia Hựu thứ tám, còn việc từ biệt thì đến điện Thùy Củng. Lại có chiếu: “Sứ và phó sứ của nước Hạ đến kinh đô, nếu gặp ngày lễ Khôn Thành đã được tiếp kiến, thì không được dự yến tiệc.”
[7] Chiếu rằng các chợ và việc thế chấp ở các trấn trại đều bãi bỏ, vẫn theo điều luật mà lập pháp.
(Sách 《Cựu lục》 chép: “Tiên đế chiếu cho các cơ quan mua rẻ bán đắt để điều hòa giá cả, nhưng kẻ gian chưa dám bỏ hết, nên trước hết bãi bỏ ở các trấn trại.” 《Tân lục》 biện luận: “Mua rẻ bán đắt, là lời lẽ gì? Mà nói rằng tiên đế có chiếu, có được không? Nay xóa bỏ.” Vương Nham Tẩu có chương sớ bàn về việc chợ búa, có thể thấy trước điều này. Căn cứ vào lời bàn triều đình của Vương Nham Tẩu, thì ngày 16 tháng 10 mới bàn việc, chiếu này không phải do Vương Nham Tẩu. 《Chính mục》 lại không chép việc này.)
[8] Ngày Đinh Dậu, các tể thần, chấp chính, Trung tán đại phu, khanh giám, tông thất chính nhiệm từ chức Đoàn luyện sứ trở lên, đến đàn Nam Giao đứng hàng, xin tôn hiệu cho Đại Hành hoàng đế với trời. Hàn lâm học sĩ Đặng Ôn Bá tâu: “Vâng chiếu cáo trời xin tôn hiệu, trời ban cho là Anh Văn Liệt Vũ Thánh Hiếu hoàng đế, miếu hiệu là Thần Tông[4].” Chiếu rằng kính theo.
[9] Ngày Mậu Tuất, Lữ Công Trước, giữ chức Tư chính điện Đại học sĩ, Ngân thanh Quang lộc Đại phu, kiêm Thị độc, được bổ nhiệm làm Thượng thư Tả thừa. Công Trước tâu rằng: “Thần trộm thấy trong 《Chu quan》, Tam công, Tam thiếu chuyên trách bàn luận đạo lý và kinh bang tế thế, làm sáng tỏ trời đất, nhưng họ đều phân công phụ trách các chức vụ khanh, tiến thì ngồi bàn luận đạo lý, lui thì thực hiện công việc, đó là phép tắc sáng suốt của ba đời Vua trước. Đường Thái Tông dùng chế độ nhà Tùy, lấy các quan đứng đầu Tam tỉnh cùng bàn việc quốc chính, không việc gì không quản, không chuyên trách việc của bản tỉnh. Chế độ triều ta, mỗi khi tấu việc ở điện tiện, chỉ có hai ban Trung thư và Xu mật viện. Trước đây, Tiên đế tu định quan chế, phàm việc bổ nhiệm quan lại cùng việc hưng thịnh, cải cách, bãi bỏ, trước hết do Trung thư tỉnh xin chỉ dụ, sau đó Môn hạ tỉnh xét duyệt, rồi Thượng thư tỉnh thi hành, mỗi tỉnh làm thành một ban. Tuy có việc Tam tỉnh cùng tâu lên, nhưng cũng rất ít. Đó là do Tiên đế trị vì lâu năm, nhiều việc tự quyết, các quan chấp chính phần lớn chỉ tuân theo mệnh lệnh, nên chế độ đó thời đó có thể thực hiện được. Nay Bệ hạ mới bắt đầu nghe chính sự, cần phải giao trách nhiệm cho các phụ thần. Huống chi các quan chấp chính đều do triều đình tuyển chọn, an nguy trị loạn đều cùng gánh vác trách nhiệm, đúng nên một lòng cùng sức, tập hợp trí tuệ của mọi người để phụ tá chính sự mới. Ví như cùng ngồi xe mà đi, cùng thuyền mà qua sông, mọi người không có lòng khác, thì còn gì không đạt được? Việc gì không thành? Kính mong Thánh từ lưu tâm xem xét, ban chỉ rõ ràng, những việc thuộc Tam tỉnh cần tâu xin chỉ dụ, đều lệnh cho các quan chấp chính Tam tỉnh cùng tâu trình, lui về bản tỉnh, mỗi tỉnh cử quan thi hành theo chế độ.”
Từ năm Nguyên Phong thứ 5 cải cách quan chế, quyền chính đều về tay Trung thư tỉnh, Vương Khuê giữ chức Tả tướng ở Môn hạ tỉnh, khoanh tay không còn xét lại. Vương An Lễ thường bất bình, muốn sửa lại việc đó nhưng không đủ sức. Công Trước vừa nhận mệnh chưa nhận chức, liền tâu lên việc này. Sau đó ban chiếu rằng: “Những việc thuộc Tam tỉnh cần xin chỉ dụ cùng các chương tấu của Đài gián, đều cùng tâu trình thi hành.”
(Công Trước nhận chức Tả thừa ngày 6 tháng 7, ngày 11 dâng tấu này, nay phụ chép. Không rõ được chấp thuận vào ngày tháng nào. Hoàng Lý bàn về Hàn Chẩn, xem ngày 14 tháng 9 Ất Tỵ. Cần xem xét kỹ hơn. Gia truyền của Công Trước liền tiếp tục chép việc Thái hoàng thái hậu dụ các quan chấp chính về phép mẹ sửa đổi con cùng việc Tư Mã Quang vội vàng muốn có thành tích, xét thời điểm thì có nhiều chỗ không khớp. Lời Tư Mã Quang nói về việc mẹ sửa đổi con, xem ngày 27 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8 Canh Dần.)
[10] Triều phụng đại phu, thủ Bí thư tỉnh thiếu giám, kiêm Thị giảng Tôn Giác được bổ làm Hữu gián nghị đại phu, kiêm Thị giảng, vẫn ban cho áo mặc tam phẩm.
[11] Trung thư xá nhân Dương Cảnh Lược được bổ làm Long đồ các đãi chế, tri Thái châu.
(Tránh việc thân thuộc. Theo truyện của Cảnh Lược, vợ Cảnh Lược là con gái Hàn Duy. Lúc đó Hàn Duy chưa nắm quyền, có lẽ vì Hàn Chẩn làm Tể tướng Trung thư vào ngày 26 tháng 5.)
[12] Triều tán lang Hoàng Hảo Khiêm được bổ làm Giá bộ lang trung.
(Ngày 18 tháng 10.)
[13] Chiếu rằng: “Từ tháng giêng năm sau, bãi bỏ việc tập hợp huấn luyện dân binh ở phủ giới và ba lộ, vẫn theo phép cũ của nghĩa dũng, mỗi năm vào lúc nông nhàn đến huyện tập luyện trong một tháng. Việc cử quan, chuẩn bị bãi tập, sắp xếp vũ khí, quy cách huấn luyện, thứ tự phiên, chi phí thưởng phạt, giao cho Xu mật viện và Tam tỉnh cùng định ra phép tắc.”
(Cựu lục chép: “Chia dân thành từng nhóm mười người, dạy võ nghệ, binh lính xuất thân từ nông dân, bắt đầu từ năm Hi Ninh, hoàn thiện vào năm Nguyên Phong. Lộ Hà Bắc có được ba mươi vạn quân tinh nhuệ, khiến phương Bắc kinh sợ. Lúc đó chưa vội bãi bỏ, dần dần giảm bớt rồi bỏ hẳn.” Tân lục biện luận: “Việc có ba mươi vạn quân tinh nhuệ khiến phương Bắc kinh sợ là không có căn cứ. Nay xóa bỏ.” Tư Mã Quang nói: “Xu mật viện nghe tin Quang muốn dâng tấu, liền dâng tờ tâu lên trước, vẽ ra chỉ thị này.” Tấu của Quang vào ngày 12 tháng này, tức ngày Giáp Thìn, sau sáu ngày. Lại vào ngày 22 tháng này, tức ngày Giáp Dần, ngày 26 tháng 8 tức ngày Đinh Hợi, ngày 28 tháng 10 tức ngày Kỷ Sửu, ngày 16 tháng 11 tức ngày Bính Ngọ, ngày 6 tháng 12 tức ngày Bính Dần, đều có việc sắp xếp dân binh. Cựu lục ở phần “Lập pháp” lại chép: “Sau đó chiếu rằng từ năm đô bảo trở lên, chia làm bốn phiên, từ tháng 10 bắt đầu huấn luyện đến tháng giêng, lệnh cho các bảo trước hết huấn luyện nhiều, xoay vòng. Các ty đề cử tiền lương đều bãi bỏ, giao cho ty giáo duyệt kiêm quản.” Tân lục theo đó. Xét việc này xảy ra vào ngày 26 tháng 8 tức ngày Đinh Hợi, nên chép vào ngày đó, không hợp chép vào đây. Nay xóa bỏ. Ngọc điệp chép ngày 5 tháng 7 tức ngày Đinh Dậu, ghi chiếu bãi bỏ dân binh ba huyện, có lẽ là khảo cứu không kỹ.)
[14] Ngày Giáp Thìn, Tư chính điện học sĩ Hàn Duy kiêm chức Thị độc, vẫn đề cử Trung Thái nhất cung và Tập Hi quán sự.
(Ngày 14 tháng 6 nhận chức Tri Trần Châu.)
[15] Chiếu rằng từ nay các quan chức Đãi chế trở lên khi xét duyệt, chỉ do Trung thư tỉnh đề cử.
[16] Chiếu rằng ngày sứ phó nước Hạ vào chầu từ biệt, ban cho khí dụng bằng bạc và quần áo.
[17] Chiếu rằng từ nay các Tri châu tuổi đã bảy mươi, không được tâu cử lại giữ chức.
[18] Lễ bộ Thượng thư Hàn Trung Ngạn tâu: “Hoàng thái phi đang trong thời gian ba năm để tang, y phục, đồ dùng đều nhạt màu, đồ dùng trong ngày sinh thần và các dịp lễ tết, theo lệ của hoàng hậu. Gọi là từ chỉ. Khi chúc mừng dùng thư, Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu đối với Hoàng thái phi gọi là ban, hoàng đế gọi là phụng, bá quan không xưng thần.” Được chấp thuận.
[19] Môn hạ thị lang Tư Mã Quang tâu rằng: Tiên đế thấy giặc kiêu ngạo, chiếm cứ đất cũ của Hán, Đường, nên có chí chinh phạt mở mang bờ cõi, bèn đặt ra chế độ bảo giáp, lệnh cho phủ Khai Phong và ba lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông cứ năm ngày tập luyện một lần, hai lộ Kinh Đông, Kinh Tây thì bảo giáp nuôi ngựa. Lại đặt các chức đề cử quan, quyền hạn ngang với giám ty. Sau đó, các cơ quan đua nhau khoe khoang để mong được công thưởng, các đề cử quan chỉ lo bảo vệ bản cục, không quan tâm đến cơ quan khác. Việc liên quan đến bảo giáp, châu, huyện đều không được can dự, dân trong vùng cũng không được xử lý. Các tuần kiểm, chỉ sử, bảo chính, bảo trưởng tranh nhau quấy nhiễu, bóc lột không ngừng, chỉ cần không vừa ý là tự tiện đánh đập. Bảo đinh quen thói lười biếng, không lo việc nông, có kẻ tự đi cướp bóc, có kẻ ức hiếp làng xóm. Việc cày cấy, gặt hái của nhà họ đều bị bỏ bê, việc cung ứng không xong, thuế má vô cùng, tài sản hao hết, không còn cách sinh nhai. Kẻ yếu bỏ trốn khắp nơi, kẻ mạnh trở thành giặc cướp.
Thực hiện được mấy năm, Tiên đế dần biết được tệ hại, bèn ra lệnh cho châu, huyện, phàm việc vi phạm của bảo giáp và các quan tuần giáo, chỉ sử phạm pháp, đều cho phép châu, huyện xem xét xử lý. Đến khi Bệ hạ lên ngôi nghe chính sự, trước hết ra lệnh cho hai lộ Kinh Đông, Kinh Tây nuôi ngựa theo thời hạn quy định trước, số vượt quá thì tính vào năm sau. Lại ra lệnh cho phủ Khai Phong và ba lộ, nếu đã tập luyện được nửa năm và đã được triều đình kiểm tra, thì mỗi tháng tập hai ngày; chưa được kiểm tra thì tập ba ngày. Lại ra lệnh, nếu người tập luyện thân thể yếu ớt, hoặc lâu nay có bệnh, hoặc nhà chỉ có một đinh[5], bệnh tật không thể làm việc, hoặc thuộc hạng năm trở xuống, ruộng đất không quá hai mươi mẫu, đều cho phép châu, huyện xác minh, đề cử ty xét duyệt miễn trừ. Lại ra lệnh, mỗi huyện không được quá hai phần. Đó đều là ơn Vua thương xót sức dân, tuy chi phí cho bảo giáp giảm được năm sáu phần, nhưng việc tuyển chọn, mua nuôi, bổ sung bảo giáp, bảo mã vẫn như cũ. Danh mục tuần giáo chỉ sử, bảo chính, bảo trưởng vẫn còn, đối với bảo giáp trong vùng quản hạt, e rằng không tránh khỏi việc ức hiếp, bóc lột. Việc tập luyện bốn mùa tuy giảm ngày, nhưng vẫn cản trở việc nông.
Thần ngu nghĩ rằng, bảo giáp này nếu dùng để bắt giặc cướp, thì gần đây đã có chỉ dụ, tuần kiểm, huyện úy cùng số lượng cung thủ, binh cấp đều lệnh theo số lượng trước khi bảo giáp lên phiên mà khôi phục, còn bảo giáp thì không cho quản việc bắt giặc[6]. Nếu dùng để đánh dẹp bốn phương, thì họ đều là dân quê mùa, dù tập luyện thuần thục, chưa từng gặp địch, khi đánh nhau với giặc, ắt sẽ tan vỡ chạy dài. Chiếu thư lên ngôi đã răn bảo quan biên giới, không được xâm phạm ngoại giới, phải giữ yên bờ cõi[7]. Như vậy thì bảo giáp, bảo mã này thật sự có ích gì! Chỉ khiến dân nông phủ Khai Phong và năm lộ khổ sở không chịu nổi. May nhờ linh thiêng của xã tắc, gặp được mấy năm được mùa, mà dân lưu vong vẫn rất nhiều, giặc cướp đầy rẫy, nếu gặp phải nạn châu chấu như năm Minh Đạo, hạn hán như năm Khang Định, lụt lội như năm Chí Hòa, thì sẽ thành đại họa cho quốc gia, sao có thể kể xiết!
Gần đây, bọn giặc Vương Xung nhân việc bảo mã ở các nơi mà cướp bóc. Việc đặt ra bảo mã vốn là để đuổi giặc, nay lại trở thành công cụ cho giặc. Lại có việc ở huyện Hoạch Lộc, bảo giáp chém bắn, đánh đập làm bị thương đề câu Tôn Văn, tuần kiểm Trương Tông Sư, kẻ dưới lấn lướt kẻ trên, đó là nguồn gốc của đại loạn, không thể để tiếp tục. Phàm là bảo giáp, bảo mã đều có hại mà không có lợi, người trong thiên hạ ai cũng biết, thần không hiểu triều đình còn ngại gì mà lâu nay không bãi bỏ! Xin bệ hạ quyết đoán, bãi bỏ hết bảo giáp, bảo chính ở các nơi, cho họ về làm ruộng, vẫn đặt lại kỳ trưởng, tráng đinh để tuần tra bắt giặc, hộ trưởng để thúc đẩy thuế má. Những ngựa bảo mã đang nuôi, hãy chọn lọc thu lại, Thái bộc tự ước lượng cấp tiền, phân phối cho hai viện Kỳ Kỵ, các phường, giám và các quân. Triệu hồi các quan đề cử về triều, những người đang làm công việc, tuần kiểm, chỉ sử đều đưa về Lại bộ, để bổ nhiệm vào chức vụ thích hợp. Như vậy, dân trong phủ Khai Phong và năm lộ, ai mà không vui mừng, cảm tạ ơn đức của bệ hạ?
Nếu cho rằng những người trong bảo giáp đã thành thạo võ nghệ, tiếc mà cho về làm ruộng, thì xin lệnh cho các huyện căn cứ vào số ngựa của các hộ, cứ năm mươi hộ đặt một người cung thủ, đại thể theo phép cung tiễn thủ ở vùng biên, cho hưởng ân điền hai khoảnh của hộ mình, và miễn thuế hai lần[8]. Hoặc nếu thuế nhẹ, thì miễn một số thạch đấu thuế và các khoản phụ thu, phụ dịch của hộ[9]. Nếu ruộng của hộ không đủ, thì cho hưởng ân điền của họ hàng. Cốt sao ưu đãi, để khuyến khích người ta. Sau đó, chiêu mộ những người trong hương thôn của huyện có sức mạnh và võ nghệ để sung vào cung thủ. Tính ra hiện nay trong bảo giáp, những người có sức mạnh và võ nghệ, ắt nhiều người muốn ứng mộ. Nếu một người khuyết ngạch, có hai người trở lên tranh nhau ứng mộ, thì giao cho lệnh, tá của huyện đó, chọn thử người võ nghệ cao cường để sung vào. Nếu người đang làm cung thủ có sức mạnh và võ nghệ suy thoái, thì cho người khác chỉ tên so sánh, nếu thắng được người cũ, thì cho thay thế. Như vậy, thì không cần phải dạy tập, võ nghệ tự nhiên thường xuyên tinh thục.
Trong một huyện, những người khỏe mạnh đã được tuyển làm cung thủ, còn những người yếu đuối, dù có bắt họ làm giặc cũng không thể gây hại. Vẫn giao cho châu và đề điểm hình ngục thường xuyên kiểm tra, nếu lệnh, tá có sự thiên vị bất công thì sẽ bị trừng phạt nặng. Nếu không có người tự nguyện đăng ký, xin bàn thêm biện pháp ưu đãi. Nếu vẫn không đủ người tuyển mộ, thì tạm thời thuê người từ các hộ dân trong làng như trước, đợi khi có người tự nguyện đăng ký thì thay thế. Nếu số lượng cung thủ nhiều, thì cho họ luân phiên thay nhau phục vụ tại huyện, mỗi năm thay một lần. Những người còn lại chia khu vực tuần tra bắt giặc, mỗi khi bắt được giặc, xác định nơi ở và nơi ẩn náu sau khi được ân xá, thì khu vực đó sẽ bị xử phạt nghiêm khắc và thưởng tiền cho người bắt được giặc. Khu vực xảy ra vụ trộm cướp sẽ không bị xử phạt ba lần, mà lập tức thưởng cho người bắt giặc. Như vậy, nơi xảy ra vụ trộm cướp, người bắt giặc sẽ không còn che giấu nơi ở và nơi ẩn náu. Người bắt giặc sẽ không bao che, giặc cướp không còn chỗ dung thân, tự nhiên sẽ giảm bớt. Tấu chương dâng lên, Thái Xác và các quan khác giữ lại không thi hành. Chiếu rằng: “Bảo giáp theo chỉ huy của Xu mật viện ngày mùng 6 tháng này, còn bảo mã thì bàn riêng để lập pháp.”
ầy đủ tấu chương của Tư Mã Quang, đến đoạn “tự nhiên giảm bớt” thì viết: “Cùng tam tỉnh phụng chỉ, bảo giáp theo chỉ huy của Xu mật viện ngày mùng 6 tháng này, còn bảo mã thì giao Trung thư tỉnh bàn riêng để lập pháp trình lên.” Trước đó, Tư Mã Quang xin bãi bỏ bảo giáp vào cuối tháng 4, từ đoạn “xin đặt cung thủ” trở xuống, nội dung giống với đoạn này. Nay ghi chép cả hai. 《Cựu lục》 viết: “Tư Mã Quang thời tiên triều, luận bàn không hợp, tiên đế không dùng, nhưng cũng không trị tội, cho làm Tư chính điện học sĩ về Lạc Dương. Đến khi làm quan, đề xuất ý kiến thay đổi pháp luật để trả thù, Thái Xác và các quan giữ lại tấu chương, được tiếp tục thi hành chiếu cũ.” 《Tân lục》 biện rằng: “Vương An Thạch từng nói: ‘Người luôn nói tân pháp không thể thi hành là Tư Mã Quang.’ Luận nghị của Tư Mã Quang, đầu đuôi đều rõ ràng. Triết Tông lên ngôi, Tuyên Nhân thái hậu nhiếp chính, đầu tiên khởi dụng người đang nhàn rỗi lên làm quan trong triều, để hoàn thành chí nguyện của tiên đế, nói là để trả thù thì không thể lưu truyền cho đời sau. Từ đoạn ‘Tư Mã Quang thời tiên triều’ đến ‘tiếp tục thi hành chiếu cũ’ gồm 44 chữ, đều xóa bỏ. Phần còn lại thêm toàn văn trát tử của Tư Mã Quang để tu sửa.”
Sau tấu chương xin bãi bỏ bảo giáp của Tư Mã Quang có ghi trát tử của Xu mật viện: “Muốn từ tháng giêng năm sau, bãi bỏ việc tập hợp huấn luyện bảo giáp ở phủ giới và ba lộ, chỉ cho họ mỗi năm vào tháng nông nhàn, theo quy chế cũ của nghĩa dũng, đến huyện tập luyện một tháng. Tất cả việc cử quan, chuẩn bị vũ khí, quy chế huấn luyện, thứ tự luân phiên, chi phí thưởng phạt, giao Xu mật viện thu thập tài liệu để so sánh[10], sắp xếp điều lệ, cùng tam tỉnh cùng lập pháp, xin chỉ thi hành.” Ngày mùng 6 tháng 7 trình lên, phụng thánh chỉ: “Theo như vậy.” Tư Mã Quang tự chú rằng: “Lúc đó Xu mật viện nghe tin tôi muốn dâng tấu chương lên trước, liền đem trát tử trắng trình lên, vạch ra chỉ huy này”, tấu chương của Tư Mã Quang liền dâng lên[11], ngày 12 tam tỉnh và Xu mật viện cùng trình lên, phụng thánh chỉ: “Bảo giáp theo chỉ huy ngày mùng 6 tháng này, còn bảo mã thì bàn riêng để lập pháp trình lên.” 《Nguyên Hựu nguyên niên thực lục》 ngày 14 tháng giêng ghi: “Chiếu rằng bảo mã lập pháp riêng để tâu lên.”)
(Sách 《Mật ký》 ghi đầy đủ tấu chương của Tư Mã Quang, đến đoạn “tự nhiên giảm bớt” thì viết: “Cùng tam tỉnh phụng chỉ, bảo giáp theo chỉ huy của Xu mật viện ngày mùng 6 tháng này, còn bảo mã thì giao Trung thư tỉnh bàn riêng để lập pháp trình lên.” Trước đó, Tư Mã Quang xin bãi bỏ bảo giáp vào cuối tháng 4, từ đoạn “xin đặt cung thủ” trở xuống, nội dung giống với đoạn này. Nay ghi chép cả hai. 《Cựu lục》 viết: “Tư Mã Quang thời tiên triều, luận bàn không hợp, tiên đế không dùng, nhưng cũng không trị tội, cho làm Tư chính điện học sĩ về Lạc Dương. Đến khi làm quan, đề xuất ý kiến thay đổi pháp luật để trả thù, Thái Xác và các quan giữ lại tấu chương, được tiếp tục thi hành chiếu cũ.” 《Tân lục》 biện rằng: “Vương An Thạch từng nói: ‘Người luôn nói tân pháp không thể thi hành là Tư Mã Quang.’ Luận nghị của Tư Mã Quang, đầu đuôi đều rõ ràng. Triết Tông lên ngôi, Tuyên Nhân thái hậu nhiếp chính, đầu tiên khởi dụng người đang nhàn rỗi lên làm quan trong triều, để hoàn thành chí nguyện của tiên đế, nói là để trả thù thì không thể lưu truyền cho đời sau. Từ đoạn ‘Tư Mã Quang thời tiên triều’ đến ‘tiếp tục thi hành chiếu cũ’ gồm 44 chữ, đều xóa bỏ. Phần còn lại thêm toàn văn trát tử của Tư Mã Quang để tu sửa.”
Sau tấu chương xin bãi bỏ bảo giáp của Tư Mã Quang có ghi trát tử của Xu mật viện: “Muốn từ tháng giêng năm sau, bãi bỏ việc tập hợp huấn luyện bảo giáp ở phủ giới và ba lộ, chỉ cho họ mỗi năm vào tháng nông nhàn, theo quy chế cũ của nghĩa dũng, đến huyện tập luyện một tháng. Tất cả việc cử quan, chuẩn bị vũ khí, quy chế huấn luyện, thứ tự luân phiên, chi phí thưởng phạt, giao Xu mật viện thu thập tài liệu để so sánh[12], sắp xếp điều lệ, cùng tam tỉnh cùng lập pháp, xin chỉ thi hành.” Ngày mùng 6 tháng 7 trình lên, phụng thánh chỉ: “Theo như vậy.” Tư Mã Quang tự chú rằng: “Lúc đó Xu mật viện nghe tin tôi muốn dâng tấu chương lên trước, liền đem trát tử trắng trình lên, vạch ra chỉ huy này”, tấu chương của Tư Mã Quang liền dâng lên[13], ngày 12 tam tỉnh và Xu mật viện cùng trình lên, phụng thánh chỉ: “Bảo giáp theo chỉ huy ngày mùng 6 tháng này, còn bảo mã thì bàn riêng để lập pháp trình lên.” 《Nguyên Hựu nguyên niên thực lục》 ngày 14 tháng giêng ghi: “Chiếu rằng bảo mã lập pháp riêng để tâu lên.”)
[20] Ngày Ất Tỵ, sứ giả Hạ quốc là Đinh Nỗ Ngôi Danh Mô Đạc, phó sứ Lã Tắc Trần Duật Tinh dâng biểu văn chia buồn trước cửa Hoàng Nghi, sau đó lui đến cửa điện Tử Thần, được ban tặng lụa theo thứ bậc.
[21] Ngày Bính Ngọ, nước Liêu cử Phụng Quốc quân Tiết độ sứ Gia Luật Cư, Khởi cư lang, Tri chế cáo, sung Sử quán Tu soạn Vương Sư Nho đến tế điện. Lại cử Ninh châu Quan sát sứ Tiêu Kiệt, Khách tỉnh sứ, Hải châu Phòng ngự sứ Hàn Chiêu Nguyện đến viếng chia buồn. Họ vào điện Hoàng Nghi trước linh vị của Đại Hành Hoàng đế, làm lễ tế điện. Sau đó dời ban đến điện Đông Ác yết kiến Hoàng đế, dâng danh thiếp, bày tỏ lời chia buồn.
[22] Ngày Canh Tuất, Triều tán lang, Quyền phát khiển Hà Bắc Đông lộ Đề điểm hình ngục Vương Đoan Thần, vì xét xử quan lại không đúng[14], bị giáng làm Triều phụng lang.
[23] Tri Vĩnh Hưng quân, Long đồ các Trực học sĩ Lưu Tường được tái nhiệm.
(Tháng 5, ngày Mậu Ngọ đổi sang Thanh châu, tháng 6, ngày Mậu Dần lại về Vĩnh Hưng.)
[24] Tam tỉnh Xu mật viện tâu: “Những việc cùng bổ nhiệm và trình bày văn bản, cần phải hội nghị, trước hết họp bàn ở Đô đường. Nếu gặp ngày nghỉ hoặc đã về Đông Tây phủ, cho phép qua cửa tiện đến họp bàn.” Được chấp thuận.
[25] Xu mật viện tâu: “Ở phủ giới và ba lộ, việc tập hợp dạy bảo giáp, tuy không phải ngày đi tập, nhưng họ vẫn đi lại nơi chợ búa, thôn xóm, lấy cớ học tập kỹ nghệ, tụ tập uống rượu, không lo làm ăn.” Chiếu rằng: “Ty đề cử bảo giáp gửi văn thư đến các nơi thuộc quyền, những ngày không đi tập, bắt phải lo làm ruộng. Khi rảnh rỗi, cho phép ở nhà xem xét học tập kỹ nghệ. Ai vi phạm sẽ bị trị tội nặng.” Phạm Thuần Nhân tấu: “Thần trộm thấy văn thư của Ty đề cử bảo giáp, theo lệnh của Xu mật viện, kiềm chế con em trong bảo giáp, không cho tụ tập uống rượu, khi rảnh rỗi thì ở nhà xem xét học tập kỹ nghệ. Thần nghĩ rằng bảo giáp mỗi tháng tuy được lệnh tập hợp dạy hai hoặc ba ngày, so với trước đây số ngày đã giảm nhiều, nhưng vẫn phải đi lại tụ tập, gây trở ngại cho việc nông. Vì con em quen vào chợ búa, dần thích ăn chơi, lấy cớ sửa chữa cung nỏ, hoặc hẹn nhau trong bảo giáp để tự xem xét, không chịu chuyên tâm làm ăn, quan ty và cha anh khó mà kiềm chế, giám sát được. Từ xưa, ba mùa lo làm ruộng, một mùa giảng võ, lại nói ‘đều làm vào lúc nông nhàn’, đó là phép không thay đổi của người xưa, để việc đông tác tây thành được hết sức, lương thực ba năm đủ dùng, việc võ không bỏ, sức dân không kiệt. Ba đời hưng vương đều theo đạo ấy. Việc nông từ gieo trồng đến thu hoạch, không thể lỡ thời vụ, phải luôn cảnh giác như giặc cướp đến, nếu một ngày lỡ hẹn, có thể dẫn đến thiếu hụt cả năm, đó là điều mà người chức trách khuyến nông phải tâu bày. Thần nay muốn xin rằng việc dạy bảo giáp ở ba lộ, tính số ngày phải dạy trong một năm, đều dồn vào tháng nông nhàn. Các tháng khác, đều để lo việc nông, như vậy quan ty và các bậc phụ lão dễ quản lý hơn.”
(Tấu của Thuần Nhân, không rõ ngày, nay phụ vào đây.)
[26] Điện trung thị ngự sử Hoàng Giáng tấu: “Thần thấy dọc sông Biện, bờ đê hẹp có đất trống, trước đã có chỉ dụ của triều đình cho phép người dân thuê mướn. Nhưng Tống Dụng Thần cậy thế lộng quyền, sai các quan dọc sông Biện ngăn cản các hàng buôn bán trâu, ngựa, trái cây, bắt họ phải đến đất quan để giao dịch. Các hàng buôn khác dù không chiếm đất cũng phải nộp thuế, thậm chí cầu chợ cũng phải nộp thuế đất[15]. Hại dân tổn nước, không gì bằng việc này! Dù nay đã bãi bỏ, sửa đổi thi hành, nhưng do chỉ dụ gần đây không đề cập, nên dân chúng đến nay vẫn chưa được tự do. Thần xin triều đình xem xét kỹ lưỡng và ra chỉ thị.” Chiếu rằng: “Các quan dọc sông Biện ngăn cản các hàng buôn trâu, ngựa, trái cây cùng các hộ xay bột, đong đậu, rau, giấy và các hàng buôn khác, cùng thuế đất ở cầu chợ, đều bãi bỏ. Lại sai kiểm tra và xử lý dứt điểm các trường hợp buôn bán hàng hóa ở kinh thành, theo chỉ thị đã ban về việc bãi bỏ các trường buôn bán hàng hóa.” (Cựu lục ngày 18 tháng 7 ghi: “Chiếu bãi bỏ thuế đất ở các hàng buôn dọc sông Biện và cầu chợ.” Tân lục bỏ sót đoạn này. Xét sách 《Nguyên Hựu Mật Sớ》 chép rõ lời tấu của Hoàng Giáng và chỉ dụ, nay dùng theo đó. Chính mục ngày 18 ghi việc bãi bỏ các hàng buôn trâu, ngựa, trái cây, xay bột, đong đậu, rau, giấy và thuế đất dọc sông Biện. Việc Hoàng Giáng nói về lệnh bãi bỏ gần đây là ngày 3 tháng 5. Việc kiểm tra và xử lý dứt điểm là ngày 8 tháng 4.)
Giáng lại tấu: “Thần thấy ở Phúc Kiến lộ, bốn châu, quân dưới quyền thu thuế sản vật, Phúc Châu 12 huyện, tổng cộng hơn 8.000 quan; Tuyền Châu, Chương Châu, Hưng Hóa quân 14 huyện, tổng cộng hơn 60.000 quan. Nhưng Phúc Châu theo lệ cũ của họ Vương, mỗi quan tiền sản vật bằng 10 quan của các châu khác, thuế khóa cũng theo tỷ lệ này, các khoản khác đều tăng gấp năm lần, nhưng thực tế chỉ bằng một nửa. Trước đây, Vương Tử Kinh tấu xin lập pháp thuế muối, không xem xét các quy định trước, nên tăng thêm so với mức cũ, chênh lệch rất lớn. Do lỗi của Tử Kinh mà thành mức thuế cố định, dân chúng phải chịu đựng đã bảy năm, oan ức của dân xa xôi khó mà kêu oan. Nay may gặp triều đình sai sứ đi thanh tra, xin đặc biệt xem xét, sai quan địa phương điều tra rõ ràng, sửa đổi thi hành.” Chiếu rằng: “Giao cho Trương Nhữ Hiền.” Lại tấu: “Thần thấy chỉ dụ triều đình, theo lời tấu của thần về việc Thẩm Hi Nhan, sai Hi Nhan giải trình tâu lên. Thần xem lại bản tấu trước, có nói về việc pháp thuế muối của Hi Nhan chưa tiện, xin giao quan địa phương điều tra, mong triều đình xem xét kỹ, theo đúng lời tấu trước của thần mà thi hành.” Chiếu sai Kinh Tây Bắc lộ đề hình ty điều tra, tâu lên rõ ràng. (Ngày 15 tháng 6 đã điều tra Hi Nhan. Hai bản tấu của Giáng đều theo 《Mật Sớ》, là việc tháng 7. Nay nhân việc bãi bỏ thuế đất dọc sông Biện ngày 18 tháng 7, nên phụ chép hai bản tấu này.)
[27] Ngày Quý Sửu, Tăng thống Hữu Thế của nước Cao Ly, Sa môn cầu pháp Thích Nghĩa Thiên cùng đoàn vào yết kiến tại điện Thùy Củng, dâng tượng Phật và kinh văn. Ban thưởng vật phẩm có phân biệt.
(Thực lục ngày 8 tháng 5 chép Tô Chú dẫn đoàn, ngày 22 tháng 6 chép Phạm Bách Lộc tiếp đãi. Nay đều bỏ đi, chỉ giữ lại đoạn này.)
[28] Ngày Giáp Dần, sai quan đi các lộ để kiểm tra việc huấn luyện bảo giáp: Lộ Hà Bắc Đông, Tả Tàng Khố Sứ Lý Sân, Tây Kinh Tả Tàng Khố Sứ Lưu Duy Giản; Lộ Tây, Dẫn Tiến Sứ, Thứ sử Khang Châu, Xu Mật Phó Đô Thừa Chỉ Tào Tụng, Văn Tư Sứ, Thứ sử Cao Châu Đậu Sĩ Xương; Lộ Hà Đông, Đông Thượng Các Môn Phó Sứ Vương Thuấn Phong, Cung Bị Khố Phó Sứ Bằng Cảnh; Lộ Vĩnh Hưng Quân, Quang Châu Đoàn Luyện Sứ Cao Công Hội, Thứ sử Thiệu Châu Trương Tiết Ái. Sau đó sai Tả Tàng Khố Phó Sứ Mạch Văn Bính thay thế Bằng Cảnh.
(Văn Bính thay thế Cảnh vào ngày Quý Hợi tháng 8. Đều ghi chép.)
[29] Chiếu sai 15 chỉ huy Mã Bộ Quân Kiêu Kỵ tại kinh đô đến Lộ Phu Diên tạm đóng quân, thay thế ba tướng quân Đông Binh trở về doanh trại. Xu Mật Viện tâu: “15 chỉ huy Mã Bộ Quân tại kinh đô tạm đóng quân ở Lộ Phu Diên, trước đây tạm chia thành ba tướng, sai quan huấn luyện, nay đã hết hạn, xin sai quân thay thế để trở về.” Chiếu lệnh cho Đô Tổng Quản Ty Lộ Phu Diên giải tán các tướng quân, đợi khi người Tây qua biên giới, lần lượt cho quân trở về doanh trại.
(Mật ký ngày 22 tháng 7.)
[30] Lễ bộ tâu: “Linh vị của Đại Hành hoàng đế trở về kinh, đến vườn Quỳnh Lâm tạm thời an vị, theo lệ cũ, Hoàng thái hậu sẽ làm lễ nghênh đón. Nay Hoàng thái hậu đã theo linh giá trở về, không nên làm lễ nghênh đón nữa.” Chiếu rằng: “Khi linh giá của Đại Hành hoàng đế xuất phát, Hoàng thái hậu không đi theo. Đợi khi linh vị trở về kinh, sẽ theo lệ cũ làm lễ nghênh đón tại vườn Quỳnh Lâm.”
(Cựu lục chép: “Vua mới lên ngôi, những người bị tiên đế bãi chức dần chiếm giữ các chức vụ cao, không còn kiêng dè, người trung nghĩa lo sợ. Thái Xác sợ hãi, xin Thái hậu đừng đi theo. Thái hậu lấy cớ bệnh từ chối, nên không đi.” Tân lục biện rằng: “Theo sách chép, là do Lễ bộ thỉnh cầu, chiếu theo lệ cũ Thái hậu không đi theo. Nhưng lại lừa dối, làm tổn hại đức của Thánh. Từ ‘Vua mới lên ngôi’ đến ‘từ chối không đi’ gồm 38 chữ, đều xóa bỏ.”)
[31] Môn hạ tỉnh tâu rằng: “Từ nay, các châu, quân trong thiên hạ nếu tra xét được bọn cướp, tình tiết không đáng thương, hình phạt không có gì nghi ngờ, mà dám tâu lên, đều cho Hình bộ xét bác bỏ, thi hành nghiêm phép nước, không được dùng lệ để phá luật.” Triều đình nghe theo. (Xem tráp tử của Tư Mã Quang, truyện của Phạm Bách Lộc, ngày Quý Dậu tháng 8, ngày Nhâm Thìn và Bính Ngọ tháng 2 nhuận năm sau, nên xét kỹ. Cựu lục chép: “Từ thời tổ tông, tội tử hình nếu có tình tiết đáng thương hoặc nghi ngờ thì được tâu xin xét lại, phần nhiều được khoan hồng. Tư Mã Quang nhiều lần tâu, cho rằng như vậy là phế bỏ pháp luật, nên ban chiếu này. Từ đó, ngoài lệ không dám tâu xin xét lại, Thị lang Hình bộ Phạm Bách Lộc cùng thuộc hạ là Lưu Canh nhiều lần biện luận, nhưng không được nghe theo, người chết rất nhiều: năm Hi Ninh có hai ba nghìn hoặc hơn một nghìn, năm Nguyên Phong có một hai nghìn hoặc hơn, hoặc dưới một nghìn, năm Nguyên Hựu có bốn năm nghìn hoặc hơn hai nghìn.” Tân lục biện rằng: “Xét văn cũ chép ‘Từ thời tổ tông, tội tử hình nếu có tình tiết đáng thương hoặc nghi ngờ thì được tâu xin xét lại’, thì những trường hợp tình tiết không đáng thương, hình phạt không nghi ngờ, mà quan lại dám tâu xin để mong khoan hồng, không phải là ý dùng hình phạt để ngăn tội ác. Nay cho Hình bộ xét bác bỏ, không được dùng lệ để phá luật, chính là hợp với ý lập pháp của tổ tông. Trừng trị kẻ gian ác, yên ổn người lương thiện, thì dù xử nhiều án, cũng là bước đầu để đạt đến hình phạt nghiêm minh. Từ ‘Từ thời tổ tông’ đến ‘hơn hai nghìn’ chín mươi bốn chữ, đều xóa bỏ.”)
Trước đó, dân châu Tào là Triệu Sai cùng hai người khác cướp tài sản nhà Đốn Vinh ở huyện Nam Hoa, dùng giáo đâm Đốn Vinh bị thương. Sau khi bắt được, ước tính tang vật trị giá sáu nghìn chín mươi chín đồng. Châu Tào tra xét việc Đốn Vinh bị đâm, không qua quan lại kiểm nghiệm, liền làm án tâu lên. Đại Lý tự định tội Triệu Sai, gặp đại xá, theo luật nên xử trượng nặng đến chết, Hình bộ dùng lệ, định đặc cách tha chết, đánh hai mươi trượng vào lưng, thích chữ lên mặt và đày đến châu quân xa xôi ác nghiệt ở Quảng Nam[16].
Tư Mã Quang cho rằng: “Những năm gần đây, các châu tra xét được bọn cướp, chỉ cần không giết người đốt nhà, đều cho là tình tiết đáng thương, hoặc hình phạt có nghi ngờ mà tâu lên, triều đình phần nhiều khoan hồng. Thầm nghĩ những người này đã là cướp, tình tiết có gì đáng thương? Sau đại xá, tang vật đủ, làm người bị thương, hình phạt có gì nghi ngờ? Đây đều là do quan lại các châu tránh tội xử oan, chỉ lo làm văn bản để bảo vệ mình, không có lòng trừ hại diệt ác. Huống chi châu Tào vốn nhiều trộm cướp, thuộc địa phương áp dụng luật nghiêm, như Triệu Sai phạm tội như vậy mà được tha chết, thì những kẻ cướp không đốt nhà giết người đều được tha chết. Thầm sợ bọn cướp càng thêm hung hãn[17], dân lành không thể tự tồn, đâu phải là đạo lý trừng ác khuyến thiện.” Vì thế mới có lời tâu này.
Phạm Bách Lộc truyện mới chép: “Thăng làm Hình bộ thị lang, có kẻ phạm tội cướp bóc và giết người cố ý, giết người trong đánh nhau, tình tiết đáng thương được trình lên triều đình xét xử, quan tòa viện dẫn tiền lệ để tha tội chết. Tư Mã Quang nói: ‘Giết người mà không chết, thì pháp luật bị hủy bỏ rồi.’ Bách Lộc nói: ‘Nói là giết người thì được, nhưng định tội mà cho là không nghi ngờ, xét tình mà cho là không đáng thương thì không được. Nay nhất định xử tử, thì hai tội giết người này, từ nay sẽ không còn nghi ngờ và đáng thương nữa.’ Cuối cùng không dùng lời ấy.
Trước đó, từng có chiếu chỉ rằng những vụ án tâu lên không đúng đều bị xét tội. Các cơ quan lại xin xét lại, đến nỗi có kẻ bị oan mà hợp pháp. Bách Lộc nói: ‘Lệnh thời Hi Ninh, không phải nghi ngờ và đáng thương mà tâu lên thì được miễn xét lại. Đến thời Nguyên Phong bỏ đi. Năm ngoái có chiếu thư không được dùng tiền lệ[18], tha tội lưu đày không đúng, liền tâu hặc, từ đó quan lại sợ tội, không ngại luận tội chết.’ Nhân đó trình bày số người chết và được tha từ năm Nguyên Phong thứ 6 đến năm Nguyên Hựu thứ 2 lên triều đình.
Năm sau, tâu án, Môn hạ tỉnh nhiều lần bác bỏ, những người đáng tha đều muốn giết. Bách Lộc nhiều lần báo với chấp chính, chấp chính tâu lên Vua, có chiếu: ‘Tiền lệ ở các cơ quan, đều thu về Trung thư. Đặt hai quan kiểm lệ, để bàn bạc bỏ hay giữ, xét các vụ án nghi ngờ hoặc đáng thương do bộ Hình và Đại Lý tâu lên, tình tiết nặng nhẹ khác nhau, đều tâu lên.’ Bách Lộc xin từ chức, và dâng sớ bàn việc này, đều được chấp thuận. Từ đó tiền lệ lại thuộc về bộ Hình.”
(Truyện cũ của Bách Lộc cũng giống như vậy, nên phụ vào tháng 3 năm thứ 2, hoặc tháng 9 năm thứ nhất, và cần phân biệt chỗ sai.
Truyện cũ của Vương Chấn chép: “Thăng làm Cấp sự trung, lúc đó Tư Mã Quang thay đổi pháp luật, Chấn thấy không thể tranh cãi, nhiều lần muốn từ chức. Gặp lúc Quang xét án các châu quận, tình tiết đáng thương, tội danh nghi ngờ được tha, mọi người tuy sống, nhưng không thể dùng[19]. Chấn gặp Quang ở tỉnh nói: ‘Các vụ án tâu lên trong thiên hạ đều giống nhau, trước đây theo tiền lệ tha tội chết, nay đều giết hết!’ Quang nói: ‘Hình phạt nhẹ hơn xưa, dân dễ phạm tội, huống chi tội danh nghi ngờ, viện dẫn tiền lệ xin tha, đều là điều xưa không có.’ Chấn nói: ‘Hán ước pháp ba chương: “Làm người bị thương và trộm cắp đều phải chịu tội.” Nay trộm cắp vốn có kẻ đáng chết, tội nghi ngờ thì xử nhẹ, thà giết oan còn hơn bỏ sót, đều là ý của thánh nhân thương dân. Huống chi Hán có quyết án, sao lại nói là không có?’ Hôm sau, đem những người Quang xử đáng sống mà giết, liệt kê tên tuổi, tâu lên triều đình. Nhân đó xin ra ngoài, bèn được làm Long đồ các đãi chế, tri châu Thái.”
Truyện mới của Vương Chấn chép: “Thăng làm Cấp sự trung, lúc đó Tư Mã Quang làm tướng, Chấn trong lòng không yên, muốn từ chức. Gặp lúc Quang thay đổi pháp luật về tội danh nghi ngờ, Chấn gặp Quang ở tỉnh nói như trên, nhân đó xin ra ngoài, bèn được làm Long đồ các đãi chế, tri châu Thái.” Ngày mùng 4 tháng 2 nhuận năm thứ nhất, Chấn ra làm tri châu Thái. Việc Chấn tranh luận với Quang, nên phụ vào lúc ra làm tri châu Thái. Truyện cũ của Đỗ Hoành chép: “Hoành làm người bề ngoài khoan dung mà trong lòng thâm hiểm, ban đầu được Văn Ngạn Bác, Ngô Sung tiến cử. Đầu năm Nguyên Hựu, Tư Mã Quang bàn ‘Các vụ án tâu lên trong thiên hạ, tình tiết đáng thương, tội danh nghi ngờ, nhiều vụ không đúng, đều tha tội chết. Xin đừng tha’, từ Hoành mà ra, lúc đó người chết rất nhiều. Hoành giỏi luật pháp, tính tàn nhẫn như vậy. Giữa năm Nguyên Hựu, dựa vào thế lực mà tiến thân.”
Truyện mới bàn rằng: “Sử gia có câu: ‘Người nhân từ thì ngăn chặn loạn lạc, kẻ yếu đuối thì buông thả.’ Bởi cứng rắn không phải là không nhân từ, mà nhu nhược là kẻ thù của nhân từ. Triều ta nhiều đời thánh nhân đều chủ trương hiếu sinh, nhưng cũng chưa từng buông tha kẻ có tội. Tệ đoan cuối cùng, quan lại lấy việc dễ dãi tự thân làm thói quen, dù là vụ án không nghi ngờ, đều tâu lên xét lại, liền bị giảm tội. Vì thế kẻ gian lấy làm may, mà dân nhiều oan. Tư Mã Quang cứu chữa lỗi của quan lại, để giúp Vua ngăn chặn loạn lạc, đó là chính nghĩa của thiên hạ. Từng nghe các bậc lão thành nói, đầu năm Nguyên Hựu, thừa tướng Quang nắm quyền, số người chết trong thiên hạ giảm đi một nửa so với trước, không phải người có đức lớn thì ai làm được? Mà sử quan lại nói bậy rằng lúc đó người chết rất nhiều. Từ ‘Hoành làm người’ trở xuống xóa bỏ.”)
[32] Binh bộ tâu: “Kinh lược sứ Hà Đông Lữ Huệ Khanh tấu rằng, các quân Ninh Hóa, Khả Lam, Hỏa Sơn hiện quản lý hơn 5.000 cung tiễn thủ, thuộc quyền thống hạt của tướng thứ 11. Đã chỉ huy các tướng phó, theo phỏng theo phép bảo giáp, chọn người trong cung tiễn thủ làm giáo đầu, chọn đô giáo đầu trong cấm quân, cấp tiền gạo, đến trường tập luyện võ nghệ. Đồng thời loại bỏ những người già yếu, thay bằng trai tráng khỏe mạnh và ngựa. Những người già ốm cũng cho đổi ấn riêng. Đều liên quan đến việc động binh biên phòng và thay đổi phép cũ, lẽ ra phải tâu xin chỉ dụ triều đình.” Chiếu rằng: “Cung tiễn thủ dưới quyền tướng thứ 11 Hà Đông, các điều lệ mới định về đoàn giáo và tăng thêm số người thượng phiên, cùng việc mua ngựa không cần hỏi ý nguyện, đều không thi hành nữa. Lệnh cho tướng đó vẫn theo điều lệ cũ quản hạt và dạy tập.”
(Bản mới bỏ tấu chương của Huệ Khanh, nay khôi phục thêm vào.)
[33] Chiếu cho Khai Phong phủ, những kẻ trộm cắp hợp lệ phải phối, vẫn theo điều lệ cũ. Còn lại lệnh lập pháp.
(Việc này căn cứ vào sách Chính mục ngày 25, ngày 4 tháng 9 Ất Mùi có thể tra cứu.)
[34] Điện trung thị ngự sử Lưu Thứ Trang tấu: “Thần thấy bộ Thương xin phép đưa 50 cân trà Kiến mà Giả Thanh mua được[20], đem bán ở Hà Bắc. Nay nếu vận chuyển đến Hà Bắc bán, không chỉ các thương nhân gian xảo sẽ lợi dụng cơ hội, lén lút buôn bán, mà những kẻ gian tế cũng sẽ chuyển vào địch giới. Địch đã biết giá trị của vật phẩm, lại có thể chắc chắn có được, thì sau này ban tặng sẽ không còn quý giá nữa. Thần mong bệ hạ đặc biệt ngăn chặn việc này.” Chiếu chỉ cho ty Địch Tiện Hà Bắc xử lý việc mua bán trà Kiến, chỉ cho phép biến chuyển tại kinh đô. Lại tấu: “Thần thấy phủ giới đề điểm Phạm Tuân ở các huyện Tường Phù cho phép người dân mua bán và giết mổ heo, dê cùng trái cây, ngưu nha, đảm nhiệm việc ở bộ Hộ, hiện đang xem xét. Lại nghe nói phó chuyển vận sứ Kinh Tây lộ Thẩm Hi Nhan cũng ở bộ mình dựng lều, bắt giữ dân chúng, mua bán trâu ngựa, thu lợi nhuận. Gần đây do Trần Hướng nhậm chức mới sửa đổi. Hai viên lại này bóc lột, tự ý đặt ra quy định, không có pháp luật. Thần mong cử quan điều tra rõ ràng, xử phạt nặng.” Chiếu chỉ cho phủ giới lệnh ty Đề Cử, Kinh Tây lộ lệnh ty Đề Hình điều tra rõ ràng rồi tâu lên.
(Theo《Chính Mục》, ngày 22, chiếu bãi việc mua bán trà Kiến ở Hà Bắc. Ngày 28, chiếu điều tra việc phủ giới đề điểm cho phép người dân mua bán và giết mổ heo, dê cùng trái cây, ngưu nha, cùng phó chuyển vận sứ Kinh Tây lộ Thẩm Hi Nhan bắt giữ dân chúng, mua bán trâu ngựa, thu lợi nhuận. Theo mật sớ, đây là lời bàn của Lưu Thứ Trang.)
[35] Ngày Ất Mão, Chương Đức quân tiết độ sứ, Kiểm hiệu Thái sư, Bắc Kinh lưu thủ Vương Củng Thần mất. Trước đó, Củng Thần dâng biểu xin nghỉ hưu, xin được nghỉ phép trước, đưa bệnh về Tây Kinh chữa trị. Không được chấp thuận. Đến khi tin báo tang đến, triều đình nghỉ một ngày, truy tặng Khai phủ nghi đồng tam ty.
[36] Ngày Bính Thìn, Hộ bộ Thị lang Lý Định được bổ nhiệm làm Long Đồ các Trực học sĩ, Tri Thanh châu; Bảo Văn các Đãi chế Ngô Ung làm Hộ bộ Thị lang; Khởi cư lang Phạm Bách Lộc làm Trung thư Xá nhân; Hữu ty Lang trung Hồ Tông Dũ làm Khởi cư lang; Hữu ty Viên ngoại lang Hình Thứ làm Khởi cư Xá nhân; Lại bộ Lang trung Lưu Chí làm Bí thư Thiếu giám; Triều tán đại phu, Giám Hoành châu Diêm thương Lưu Ban làm Tri Tương châu. Xuống chiếu phạt Lại bộ Thị lang Hùng Bản 10 cân đồng, vì trước đây khi còn làm Tri Quế châu, ông đã ba lần tâu việc dời dân các châu Quy Hóa, Thuận An của Nùng Trí Hội là bất tiện, nhưng khi về kinh lại xin đưa họ đến Kinh lược ty, trước sau mâu thuẫn.
[37] Hồ Bắc đô kiềm hạt, chuyển vận ty tâu rằng: “Châu Nguyên xây dựng trại bảo, chiêu nạp người Man Dao, cần có quân lính đồn trú, sứ thần và các việc quân sự cần thiết[21].” Xu mật viện tâu: “Từ khi thiết lập châu Nguyên đã hơn mười năm, chưa từng có người Man ở các châu Nghi, Cửu gây rối loạn. Thêm nữa, tri châu Tạ Lân trước đây đề nghị xây thêm trại bảo ở các nơi như Thác Khẩu, đã khiến dân chúng khốn khổ vì phải vận chuyển từ xa. Nay nếu lại xây dựng trại bảo giữa vùng Hoảng và Nghi, chi phí sẽ càng lớn. Hơn nữa, việc tăng thêm quân lính đồn trú, bổ nhiệm thêm quan lại, cung ứng lương thảo sẽ hao tổn sức dân, gây thêm phiền nhiễu mà không mang lại lợi ích gì.” Triều đình ra chiếu chỉ rằng mệnh lệnh xây dựng trại bảo ban hành ngày 21 tháng 9 năm ngoái sẽ không được thực hiện nữa.
Mệnh lệnh ngày 21 tháng 9 năm ngoái, nay ghi chú thêm ở đây. Theo ghi chép mật ngày 24 tháng 9, ngày Bính Thìn, Hồ Bắc đô kiềm hạt, chuyển vận sứ tâu: “Châu Nguyên đang xem xét việc xây dựng trại bảo trong tương lai, chiêu nạp người Man Dao, cần có quân lính, sứ thần và các việc cần thiết. Kiểm tra lại tấu chương của Tôn Lãm: ‘Châu Nguyên trước đây từng chiêu dụ các thủ lĩnh người Man ở các động Khê như Cửu Lang, Cửu Nha, Thượng Khanh, Đại Tiểu Bình. Tình hình trong châu, từ trên xuống dưới đều thấy việc chiêu nạp ở các nơi, xây dựng thành trại, cũng muốn lập kế hoạch sắp xếp, tiến hành lại việc kiểm tra dân số. Thần ở đó đã hỏi han kỹ càng, không thấy có lợi hại gì. Mong triều đình tạm thời giữ nguyên danh mục cũ để kiềm chế, không cần xây dựng thêm nhiều.’ Triều đình đã ban chỉ dụ, lệnh cho Hồ Bắc lộ đô kiềm hạt, chuyển vận sứ xem xét và tâu lên.
Sau đó, hai ty tâu: ‘Châu Nguyên xem xét thấy các châu Nghi, Cửu đều khống chế thượng du của châu Nguyên, nếu có thủ lĩnh người Man xảo quyệt kết nối với các bộ tộc gây họa, đường thủy có thể đến được thành châu Nguyên trong một hai ngày, không thể không lo lắng. Triều đình nhất định muốn chiêu nạp người Cửu Lang hung ác giữa hai huyện Ma Dương[22], tất phải xây dựng thành trại trấn phủ giữa vùng Hoảng và Nghi. Hai ty xem xét thấy các động Khê như Cửu Nha, Thượng Khanh, Đại Tiểu Bình, Cửu Lang tuy đã quy thuận, nhưng vì ở xa xôi nên xin giữ nguyên cách kiềm chế cũ, không cần bố trí thêm. Nay xem xét việc châu Nguyên xin xây trại ở địa phận châu Nghi, Hợp, xây bảo ở địa phận châu Ba, Hoảng, sẽ ổn định lâu dài. Mong triều đình đồng ý theo đề nghị của châu Nguyên.’ Ngày 21 tháng 9 năm ngoái, triều đình đã ban chỉ dụ đồng ý.
Nay hai ty tâu, vì việc xây dựng trại bảo trong tương lai, cần có quân lính, sứ thần và các việc cần thiết. Xét thấy từ khi thiết lập châu Nguyên đã hơn mười năm, chưa từng có người Man ở các châu Nghi, Cửu gây rối loạn. Tri châu Tạ Lân trước đây đề nghị xây thêm trại bảo ở các nơi như Thác Khẩu, đã khiến dân chúng khốn khổ vì phải vận chuyển từ xa, nay nếu lại xây dựng trại bảo giữa vùng Hoảng và Nghi, chi phí tài lực sẽ rất lớn, hơn nữa việc tăng thêm quân lính đồn trú, bổ nhiệm thêm quan lại, gây thêm phiền nhiễu mà không mang lại lợi ích gì, cùng với việc cung ứng lương thảo trong tương lai sẽ hao tổn sức dân.” Cùng với tam tỉnh phụng chỉ, mệnh lệnh ban hành ngày 21 tháng 9 năm ngoái sẽ không được thực hiện nữa. 《Ngọc điệp》 chép: “Chiếu bãi bỏ việc xây dựng trại bảo ở châu Nguyên.”)
[38] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu truy tôn thụy hiệu và miếu hiệu cho Đại Hành Hoàng đế, quần thần làm lễ phụng uỷ theo nghi thức.
(Theo 《Chính Mục》 ngày 22, Hàn lâm học sĩ Đặng Ôn Bá dâng thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng đế là Anh Văn Liệt Vũ Thánh Hiếu, miếu hiệu là Thần Tông. 《Thực Lục》 đã gộp vào ngày 5 tháng 7.)
[39] Ngày Canh Thân, Trung thư tỉnh tâu: “Quản câu Giảng diên sở tâu: ‘Theo lệnh, giảng diên mùa xuân bắt đầu từ tháng 2, kết thúc vào ngày 3 tháng 5; mùa thu bắt đầu từ thượng tuần tháng 8, kết thúc trước mùa đông 10 ngày. Nay bản sở chưa dám theo lệnh thi hành.'” Chiếu rằng đợi sau khi lễ phụ miếu xong, sẽ xin chỉ dụ.
[40] Ban chiếu bãi bỏ lệnh cấm các tướng quân phụ trách Khai Phong phủ giới, Kinh Đông, Kinh Tây lộ đến yết kiến. Theo lời thỉnh cầu của Lưu Phụng Thế.
[41] Tiền Hi Hà Lan Hội lộ Kinh lược chế trí sứ ty tâu rằng, trước đây triều đình ban xuống các tờ tuyên cáo trống, có chữ viết bằng mực đỏ, xin được thu hồi. Triều đình đồng ý. Lại hạ lệnh cho các lộ Kinh lược ty ở Hà Đông, Thiểm Tây làm theo, từ nay về sau những người lập công sẽ được triều đình ban ân.
[42] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu rằng Tuần kiểm Đồng Gia Bảo là Lý Ngộ đã chiến đấu với giặc và tử trận. Chiếu truyền ghi công cho con trai ông, đồng thời ban thêm tang lễ trọng hậu.
[43] Tư Mã Quang tâu: “Thần trộm thấy bệ hạ ban chiếu mở đường ngôn luận, đến nay đã hơn một tháng, các bề tôi và dân chúng dâng lời về những thiếu sót trong triều chính, nỗi khổ của dân gian, chắc hẳn có nhiều tấu chương, nhưng chưa thấy có việc giao xuống cho ba tỉnh hoặc Xu mật viện bàn bạc thi hành. Như vậy thì chỉ làm phiền việc nghe xét, có ích gì? Xưa vào thời Hán Chiêu Đế, quan lại và dân chúng dâng thư nói về những việc tiện lợi, nếu có điều khác biệt, liền giao cho Đỗ Diên Niên xử lý rồi tâu lại. Tiên đế mới lên ngôi, ban chiếu cho trong ngoài dâng lời về được mất, cũng sai thần cùng Trương Phương Bình cùng xem xét, chọn lấy những điều có thể áp dụng, cùng với nguyên bản tấu chương đưa vào trong cung, hoặc giao xuống ba tỉnh, Xu mật viện thi hành. Thần trộm nghĩ rằng những văn bản mà bề tôi và dân chúng dâng lên lần này, trong đó dù có đúng sai lẫn lộn, nhưng những mưu kế hay, sách lược tốt, không thể nói là không có. Với sự sáng suốt của bệ hạ, chắc chắn không bỏ sót điều gì, sao có thể bỏ qua tất cả mà không dùng? Xin chọn những điều có thể làm theo mà ban ra thi hành. Hoặc nếu vì việc triều chính bận rộn, chưa kịp xem xét hết, xin theo như lời thần trước đây, giao xuống ba tỉnh, ủy cho các quan chấp chính chia nhau xem xét. Chọn những điều có thể dùng, dùng giấy vàng ghi chú, rồi lại đưa vào, hoặc để lại bên cạnh, hoặc giao xuống các cơ quan.” Được chấp thuận.
(Tập của Quang chép tờ tấu này vào sau ngày 12 tháng 7, nay phụ vào cuối tháng.)
[44] Điện trung thị ngự sử Hoàng Giáng tấu: “Lộ Phúc Kiến có lạp trà, gần đây Vương Tử Kinh tấu xin quan phục cấm chuyên quyền. Nay sai sứ đi xét, thấy rằng khi Ngô Cư Hậu ở lộ Kinh Đông bãi nhiệm, các giám tiền sắt và những vật dân gian mua nộp đều tạm ngừng, chưa được chuyên quyền. Đợi Phạm Thuần Túy xem xét, sẽ nghe chỉ triều đình. Nay Tử Kinh tấu xin về pháp trà các lộ Phúc Kiến, thần xin y theo thể lệ này thi hành.” Chiếu lệnh tạm ngừng thu mua. Lại tấu: “Thấy rằng các quan câu đương công sự ty bảo giáp hai lộ Kinh Đông, Kinh Tây, nay mua được ngựa bảo, số lượng nhiều hơn hạn định ban đầu. Đã theo chỉ triều đình, dùng làm số ngựa năm sau. Năm mua ngựa còn xa, số ngựa hiện có có thể giao cho các lệnh, tá huyện đến điểm duyệt. Xin tạm ngừng, đợi đến năm mua ngựa lại thi hành như cũ.” Chiếu lệnh ty bảo mã hai lộ Kinh Đông, Kinh Tây, căn cứ số quan viên thực tế hợp câu đương công sự và chọn định, tâu rõ tên.
(Viện Mật có việc này[23], nói là việc tháng 8. Nay phụ vào cuối tháng.)
- Lại viên không phân biệt mức độ khẩn cấp trình ký và đưa vào, sách 《Tống hội yếu》 chức quan 2-5 chữ 'lại' viết là 'canh'. ↵
- Xin từ nay các văn bản nhận được, sách trên chữ 'từ nay' có thêm hai chữ 'chư phòng', đúng vậy. ↵
- Muốn vội vàng đem việc cha thần khi làm Tri Khai Phong phủ nói ra để tấu đàn 'Muốn', các bản, bản hoạt tự chép là 'sau'. ↵
- Chữ 'hiệu' trong 'miếu hiệu' vốn thiếu, căn cứ vào văn dưới mà bổ sung. ↵
- hoặc lâu nay có bệnh, hoặc nhà chỉ có một đinh, chữ 'đinh' nguyên là 'tử', theo các bản và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 48 《Khất Bãi Bảo Giáp Trát Tử》 sửa lại ↵
- không cho quản việc bắt giặc, chữ 'quản câu' nguyên là 'quan', các bản là 'quản', nay theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa lại ↵
- phải giữ yên bờ cõi, chữ 'dịch' nguyên là 'trường', theo các bản sửa lại ↵
- 'thuế' nguyên là 'tuế', theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 và 《Tống Hội Yếu》 binh 2-33 mà sửa ↵
- 'hộ hạ' nguyên đảo ngược, theo sách trên mà sửa ↵
- chữ 'hiệu' nguyên là 'yếu', theo các bản khác và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 48, trát tử của Xu mật viện sửa lại. ↵
- chữ 'Quang' nguyên là 'tiên', theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- chữ 'hiệu' nguyên là 'yếu', theo các bản khác và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 48, trát tử của Xu mật viện sửa lại. ↵
- chữ 'Quang' nguyên là 'tiên', theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- 'Lại' nguyên là 'Lệ', căn cứ vào các bản, bản hoạt tự và ý nghĩa văn bản mà sửa ↵
- Cầu chợ cũng phải nộp thuế đất, các bản chép là 'đều phải nộp thuế đất', bản hoạt tự chép là 'đều phải nộp tiền đất'. ↵
- 'Châu' nguyên là 'Sung', theo các bản, bản hoạt tự và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 48 《Khất Bất Thải Cường Đạo Bạch Tráp Tử》 sửa lại. ↵
- 'Thêm' nguyên là 'Chuyên', theo các bản, bản hoạt tự và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa lại. ↵
- Năm ngoái có chiếu thư không được dùng tiền lệ 'Năm ngoái' nguyên văn là 'lại nói', theo các bản, bản in chữ hoạt và 《Tống sử》 quyển 337, 《Phạm Bách Lộc truyện》 sửa. ↵
- Không thể dùng 'có thể', các bản, bản in chữ hoạt chép là 'chịu'. ↵
- 50 cân trà Kiến mà Giả Thanh mua được, chữ 'thập' nghi là 'thiên'. ↵
- 'Các việc quân sự cần thiết', trong chú thích của bản ghi chép này viết là 'Các sự kiện cần thiết'. ↵
- Triều đình nhất định muốn chiêu nạp người Cửu Lang hung ác giữa hai huyện Ma Dương: Theo ghi chép, ở đây nói 'giữa hai huyện', nhưng chỉ có tên huyện Ma Dương, trong khi 《Tống sử》 quyển 88, 《Địa lý chí》 phần châu Thần và châu Nguyên đều có huyện Chiêu Dụ và Ma Dương. Nghi ngờ rằng sau chữ 'chiêu nạp' có thể thiếu chữ 'Chiêu Dụ'. ↵
- Viện Mật có việc này, nghi chữ 'viện' có lỗi, hoặc nên là 'sơ'. ↵