VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 359: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Từ tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng 9 cùng năm.
[1] Tháng 8, ngày Quý Hợi, ban chiếu: Thái hoàng thái hậu gặp dịp Nam Giao, Khôn Thành, Hưng Long tiết, ban ân cho thân thuộc, số lượng ân điển tùy thời lấy chỉ.
[2] Ngày Ất Sửu, ban chiếu: Các quan ở nơi mà Án sát ty đến, ai có tài năng nổi bật thì bảo đảm rõ ràng để tâu lên.
[3] Ngày Bính Dần, Hình bộ tâu: “Sắc lệnh, cách thức có sửa đổi, mỗi mùa xuân và thu, Đô tỉnh giao xuống, đều phải ban hành điều lệ trước, và theo quy định khắc in, hạn chế ban hành xong vào tháng 4 và tháng 10. Những điều đã ban hành, hàng năm vào tháng 2 và tháng 8 phải ghi mục lục để ban hành.” Được chấp thuận.
[4] Ngày Đinh Mão, Hàn lâm học sĩ kiêm Thị độc Đặng Ôn Bá được phong làm Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ. Triều phụng lang, Lại bộ lang trung Tăng Triệu, Triều thỉnh lang, Lễ bộ lang trung Lâm Hi, kiêm chức Trứ tác. Quan chức sự kiêm chức bắt đầu từ đây.
(Việc kiêm chức bắt đầu từ đây theo truyện Lâm Hi, cần xem xét thêm.)
[5] Thừa nghị lang Tô Triệt được làm Hiệu thư lang. Triều phụng lang, Trực Tập hiền viện, Quyền phát khiển Phượng Tường phủ Phạm Dục được làm Trực Long đồ các, Tri Tần châu. Thông nghị đại phu, Tri Đặng châu Giả Xương Hoành được đề cử làm Đề cử Hồng Khánh cung.
[6] Ban chiếu: Vào ngày Sóc, Vọng, hoàng đế ngự ở tiền điện, các quan phải đến chầu, ngày hôm sau đến Diên Hòa điện chầu dưới rèm. Theo lời thỉnh cầu của Ngự sử trung thừa Hoàng Lý.
[7] Ngày Kỷ Tỵ, Trấn Giang quân Tiết độ sứ, Tri Hà Nam phủ Hàn Giáng được gia phong Khai phủ nghi đồng tam ty, Phán Đại Danh phủ, kiêm Bắc Kinh lưu thủ. Giáng vào chầu, được mặt dụ rằng: “Hà Bắc bị lũ lụt, nếu không có đại thần lão thành thì không thể yên ổn được.” Sai sứ đến nhà ban cáo. Lúc đó, sông Hoàng Hà vỡ đê Tiểu Ngô chưa khắc phục, có người bàn đào nhánh sông chảy về phía bắc đổ vào dòng cũ. Người Ngụy lo sợ. Giáng dâng năm tờ sớ, xin khôi phục dòng cũ ở Thiền Uyên, triều đình vì thế tạm dừng việc đắp đê.
(Việc này theo truyện Giáng, cần xem xét thêm. Ngày Kỷ Sửu tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ 3, Phùng Kinh nói cần tham khảo thêm.)
[8] Hộ bộ tâu: “Xét các lộ từ năm ngoái thi hành chính sách thị dịch và để đương, đến nay đã hơn một năm, lần lượt ban hành các điều khoản rõ ràng. Nghe nói các nơi thương nhân ít người muốn bán hàng hóa vào quan, quan lại địa phương có người không hiểu ý pháp luật, nên không tránh khỏi việc ngăn cản, bộ này tuy nhiều lần ra lệnh kiềm chế, nhưng vẫn lo chưa thể dứt hẳn. Thuế năm chưa thu đủ, đã có nỗi lo bị xâm phạm. Xét thêm việc thị dịch và để đương ở các trấn trại, đã theo chiếu chỉ không được thiết lập nữa, nay xem xét, ngoại trừ các lộ châu quân để đương thu lãi rất thấp, nhằm giúp dân chúng trong lúc khẩn cấp, có thể giữ lại, còn các châu huyện thị dịch và các nơi để đương khác, đều có thể bãi bỏ hết.” Được chấp thuận. Lại ra chiếu rằng nếu để đương dám ép buộc, sẽ xử theo pháp luật về việc cấp nạp tiền vật thường bình.
(Ngày mùng 8 tháng 5[1] có thể khảo cứu. Đây căn cứ vào sách pháp. Cựu lục ghi: Hộ bộ nói: “Các lộ châu quân để đương có thể bãi bỏ.” Được chấp thuận. Việc ép buộc vẫn xử theo pháp luật về việc cấp nạp tiền vật thường bình. Tân lục ghi: Chiếu rằng: “Các lộ châu quân để đương thu lãi rất thấp, dân chúng nhờ đó trong lúc khẩn cấp, có thể giữ lại. Còn thị dịch trong đó đều bãi bỏ. Nếu ép buộc, xử theo pháp luật về việc cấp nạp tiền vật thường bình.” Theo lời thỉnh của Hộ bộ. Hai bản lục đều thiếu sót, không rõ. Nay thêm toàn văn từ sách pháp vào. Chính mục ghi: “Chiếu bãi bỏ thị dịch ở các châu huyện, để đương ở các huyện trấn.” Ngọc điệp ghi: “Chiếu bãi bỏ thị dịch và để đương ở các lộ châu quân.” Ngọc điệp lại sai. Để đương vốn không bãi bỏ, chỉ bãi bỏ thị dịch mà thôi.)
[9] Lại ra chiếu cấp phát tiền thanh miêu, không được ép buộc. Vẫn không định mức.
(Đây căn cứ vào sớ của Vương Nham Tẩu tháng 9[2], và sớ của Tư Mã Quang tháng 2 năm sau nhuận bổ sung. Tuy nhiên, chính mục cũng không ghi chép việc này, cần xem xét thêm, e rằng nên bỏ.)
[10] Lễ bộ tâu: Vật phẩm và nghi thức trong ngày sinh thần của Hoàng thái phi, bao gồm cả mũ áo, giảm một phần năm so với Hoàng hậu. Chiếu cho Hàn lâm học sĩ, Cấp sự trung, Xá nhân, Lễ bộ, Thái thường tự cùng bàn định rồi tâu lên.
(Cựu lục chép: Trước đây, chiếu theo nghi lễ của Hoàng hậu, vì là mẹ của Hoàng đế, nên lễ nghi phải cao hơn Hoàng hậu, nhưng sau đó cho là quá trọng hậu, các quan do dự, nên giảm bớt. Tân lục biện giải: Chế độ của Hoàng hậu và Hoàng phi vốn khác nhau, huống chi Tuyên Nhân đang nhiếp chính, Khâm Thánh đang tại vị, nên nghi vật của Hoàng thái phi không thể không giảm bớt để tránh lấn át hai cung. Nói là do dự là không đúng. Từ “Trước đây chiếu theo” đến “nên giảm bớt” ba mươi hai chữ[3], nay đều xóa bỏ.)
[11] Ngày lễ Thánh tiết của Thái hoàng thái hậu, cấp phát áo tía, hiệu sư và độ điệp theo lệ năm Nguyên Phong thứ 5, tổng cộng 200 đạo. Hoàng thái hậu được cấp 50 đạo áo tía và hiệu sư, 50 đạo độ điệp. Hoàng thái phi được cấp 20 đạo áo tía và hiệu sư, 20 đạo độ điệp.
(Theo Chính mục, việc này xảy ra vào ngày mồng 8.)
[12] Chiếu cho Tri châu Lô Châu là Vương Quang Tổ bị cách chức, giao cho Ty chuyển vận Lộ Tử Châu điều tra trị tội. Vì có người tâu rằng Quang Tổ hà khắc, bất công, sau khi Ty giám sát điều tra xác minh sự việc.
(Có thể tham khảo tấu nghị của Lã Đào.)
[13] Chiếu định chức Đại quan lệnh là chính cửu phẩm.
[14] Ngày Canh Ngọ, Hữu đồn vệ tướng quân Cao Tuân Dụ mất, được truy tặng chức Vĩnh Châu phòng ngự sứ.
(Truyện của Tuân Dụ đã biện bạch việc vu cáo vào tháng 3.)
[15] Ngày Nhâm Thân, chiếu rằng: Các chức tướng phó, áp đội, huấn luyện quan, nếu có vi phạm pháp luật ngoài việc huấn luyện, cho phép quan chức địa phương giám sát, Ty giám sát kiểm tra.
[16] Ngày Quý Dậu, chiếu cho Triều phụng đại phu Tiền Diệu, Tuyên đức lang, Chủ bạ Ngự sử đài là Dũ Cần, cùng giữ chức Đô thủy giám thừa, từ nay do Trung thư tỉnh bổ nhiệm.
[17] Triều thỉnh đại phu, Đề cử Ngọc Long Quan là Trương Giáp được bổ nhiệm chức Trực long đồ các, Tri phủ Phượng Tường.
[18] Chiếu rằng: “Các việc của quan ty nếu có điều nghi hoặc cần phải thỉnh cầu, thì trình lên Thượng thư bản bộ. Nếu đã trình mà không được phúc đáp, thì trình lên Thượng thư tỉnh hoặc Xu mật viện. Nếu vẫn không được phúc đáp, thì tâu lên triều đình. Nếu là việc khẩn cấp, cho phép tâu trước rồi trình sau.”
[19] Thị lang Hình bộ Dương Cấp làm sứ đi chúc mừng sinh thần Liêu chủ thay mặt Thái hoàng thái hậu, Hoàng thành sứ, Thứ sử Cao Châu Vương Trạch làm phó sứ. Triều thỉnh đại phu, Lang trung Hộ bộ Hàn Tông Đạo làm sứ đi chúc mừng sinh thần Liêu chủ thay mặt Hoàng đế, Sùng nghi sứ, Thứ sử Gia Châu, Đái ngự khí giới Lưu Thừa Tự làm phó sứ. Quang lộc khanh Lữ Gia Vấn làm sứ đi chúc mừng Tết Nguyên đán Liêu chủ thay mặt Thái hoàng thái hậu, Tả tàng khố sứ Lưu Vĩnh Uyên làm phó sứ. Triều thỉnh lang, Thiếu khanh Vệ úy Trần Đồng làm sứ đi chúc mừng Tết Nguyên đán Liêu chủ thay mặt Hoàng đế, Tả tàng khố sứ Tây Kinh Cao Tuân Trị làm phó sứ.
[20] Môn hạ thị lang Tư Mã Quang tâu rằng:
[21] “Thần trộm nghĩ rằng, Vua trị thiên hạ, điều cốt yếu là ở pháp lệnh. Phàm kẻ giết người phải chết, từ khi có hình pháp đến nay, trăm đời không thay đổi. Nếu kẻ giết người không phải chết, kẻ làm hại người không bị trừng phạt, thì dù là Vua Nghiêu, Vua Thuấn cũng không thể trị yên thiên hạ được.”
[22] Gần đây thấy bản tấu sao của Hình bộ, quân Thái Ninh tra xét đến người nhà của bảo chính là Khương Tề, thấy bộ này thay tên đại bảo trưởng là Trương Tồn túm lấy dân thường là Tôn Ngộ, còn Tôn Ngộ túm lấy tóc của Viên Quý. Trương Tồn nói: “Người này tự xưng là ‘Đông Nhạc cấp cước tử’, đánh người bừa bãi, không chịu thu nhận.” Tề túm Tôn Ngộ, lột áo đánh hai ba chục quyền[4], giải thoát cho Viên Quý. Tề cùng Trương Tồn túm đánh Tôn Ngộ, Tề dùng quyền đá đánh Tôn Ngộ đến chết. Tề nảy ý cùng Trương Tồn bắt trói Viên Quý, giả làm người đánh chết kẻ tranh chấp ban đầu, giải lên huyện, thay thế để đền mạng[5]. Viên Quý đến huyện, không chịu nhận tội giả. Tề bị gông cổ tra hỏi riêng, mới khai thật. Lại có châu Hoài tra xét dân thường là Ngụy Giản tranh cãi đánh bạc với Quách Hưng, kéo đổ Quách Hưng[6]. Cha Quách Hưng là Quách Thăng túm lấy Giản, dùng đầu đập Giản. Giản thấy người này già, liền nói: “Ông với tôi không phải đối thủ, đừng túm tôi.” Đợi đẩy ra, Quách Thăng định buông, Giản dùng sức bóp cổ Quách Thăng một cái, người này lập tức ngã xuống chết. Lại có châu Diệu tra xét dân thường là Trương Chí Tùng, vì em họ xa là Trương Tiểu Lục vu cáo chửi mắng anh em trai gái[7], gặp lúc Chí Tùng say rượu, tức giận Trương Tiểu Lục, nên dùng quyền đánh Trương Tiểu Lục chết ngay tại chỗ.
[23] Ba người trên, theo điều luật đều đáng xử tử. Bản châu đều cho là “tình tiết đáng thương” và tâu xin xét xử. Châu Diệu vẫn nói rằng Trương Chí Tùng vốn không có ý giết người, Hình bộ căn cứ theo các tiền lệ, định tha mạng, xử đánh 20 trượng vào lưng, thích chữ và đày đến lao thành tại nơi đó. Xét kỹ, Tôn Ngộ không đáng bị tội giả mạo “Cấp cước tử Đông Nhạc”, đánh người bừa bãi. Tuy là tội nhân, nhưng tội không đến mức chết. Còn Khương Tề và những người khác, đã giải cứu Viên Quý, thì nên đưa đến quan, xử lý theo pháp luật. Tôn Ngộ cũng không từng chống cự hay bỏ trốn, lại đã bị bắt giữ, sao có thể tiếp tục đánh đập đến chết? Lại còn vu cáo người bị hại Viên Quý là giặc giết người, muốn bắt người đó thay mình đền mạng, tình tiết như vậy, có gì đáng thương? Còn Ngụy Giản, vì Quách Thăng già yếu, không muốn đánh nhau, lại dùng sức bóp cổ người đó đến chết, chẳng phải còn tàn nhẫn hơn đánh đập sao? Trương Chí Tùng chỉ vì Trương Tiểu Lục vu cáo và chửi mắng, việc rất nhỏ, liền đánh người đó đến chết, đều là đánh nhau dẫn đến chết, tình tiết không có gì đáng thương. Phàm người ta oán giận đánh nhau, ý đâu phải đều là muốn giết người? Nhưng một người chết trong thời hạn quy định, thì người kia phải đền mạng. Huống chi ba người này đều đánh chết người ngay lập tức, đáng chết không nghi ngờ.
Chỉ là các châu tránh tội xử oan, bịa ra “tình tiết đáng thương”, hoặc “nghi ngờ về hình phạt” để tâu xin xét xử. Hình bộ liền dẫn theo tiền lệ cũ, đều tha mạng. Nếu cứ tiếp tục như vậy không thay đổi, tệ nạn sẽ rất lớn. Lý do là vì, từ trước đến nay, luật lệnh và sắc lệnh có những điều không quy định hết, các cơ quan không có căn cứ xử lý, nên dẫn theo tiền lệ. Nay đánh nhau dẫn đến chết, đã có điều luật rõ ràng, nhưng Hình bộ không hỏi có thể tha hay không, cứ theo tiền lệ miễn tội chết và xử đày, làm thành tấu chương thi hành. Như vậy kẻ giết người không phải chết, điều luật về đánh nhau dẫn đến chết cũng không còn tác dụng. Đối với kẻ giết người tuy được hưởng ân xá, nhưng người bị giết biết kêu ai? Điều đó không thể ngăn chặn hung bạo, bảo vệ người lương thiện.
[24] Xin từ nay về sau, các châu tâu lên những tội nhân bị xử tử hình, đều giao cho Đại Lý tự xét xử theo pháp luật. Nếu tình tiết không đáng thương, hình phạt không có gì nghi ngờ, thì Hình bộ trả lại bản châu, lệnh thi hành theo pháp luật. Nếu thực sự có tình tiết đáng thương và nghi ngờ, thì Hình bộ sau khi tâu lên, dùng thiếp hoàng trình bày rõ tình tiết đáng thương như thế nào, hình phạt nghi ngờ ra sao, nay dự định thi hành thế nào, lệnh Môn hạ tỉnh xem xét[8]. Nếu dự định đó thực sự hợp lý, thì dùng tờ tâu trình lên để thi hành. Nếu có điều không hợp lý và dùng lệ phá điều, thì Môn hạ tỉnh bác bỏ tâu lên, xin xem xét lại. Như vậy pháp luật thống nhất sẽ không bị hủy hoại; kẻ hung bạo sẽ có chỗ sợ hãi. Còn những người như Khương Tề, vì là trước khi chưa lập pháp, nay muốn tâu lên trước. Chiếu theo lời xin của Tư Mã Quang.
(Sách 《Thực lục》 chép việc này rằng: Môn hạ tỉnh tâu: “Các châu tâu lên tội nhân tử hình ‘tình tiết đáng thương’ và ‘nghi ngờ’, giao cho Hình bộ sau khi tâu lên trình bày rõ, Môn hạ tỉnh xem xét, nếu không thì Đại Lý tự trả lại lệnh xét xử theo pháp luật. Nếu có điều không hợp lý và dùng lệ phá điều, Môn hạ tỉnh bác bỏ tâu lên.” Vì Hình bộ tâu lên việc Khương Tề ở Thái Ninh quân, không nên tâu lên xin xét xử. Nay lấy tờ tâu của Tư Mã Quang chép đầy đủ, để rõ đầu đuôi sự việc. Ngày Giáp Dần tháng 7, cùng ngày Nhâm Thìn, Bính Ngọ tháng 2 nhuận năm sau, có thể tham khảo.)
[25] Ngày Ất Hợi, Cung phụng quan Vương Anh có con là Vương Thuấn Thần, Vương Tắc Thần, đều được làm Tam ban tá chức, lại cấp tiền tuất cho gia đình. Vì Kinh lược ty Hà Đông tâu rằng, giặc Tây xâm phạm trại Gia Lô, Vương Anh tử trận.
(Cuối tháng 5, Vương Anh tử trận.)
[26] Ngày Bính Tý, nguyệt thực toàn phần.
[27] Ngày Đinh Sửu, Hộ bộ lang trung Hàn Tông Đạo làm Thái thường thiếu khanh, Ty môn lang trung Hàn Tông Cổ làm Quang lộc thiếu khanh, Lại bộ viên ngoại lang Lữ Hi Tích làm Thiếu giám, đều là để tránh thân.
(Ngày 14 tháng 9.)
[28] Hộ bộ tâu: “Theo chỉ dụ của triều đình, tu sửa xong sách dịch các lộ. Số lượng người làm các loại dịch vụ nhiều ít, cần phải thêm bớt, cùng với mức chi trả tiền công, nặng nhẹ chưa đều, đều căn cứ vào tình hình các lộ xem xét rồi tu sửa vào sách. Số tiền miễn dịch định mức ở các nơi chi dùng ngoài, từ trước vẫn ước lệ để lại khoản dư, mỗi nơi không quá hai phần, là để chuẩn bị cho việc miễn giảm bất thường và tăng thêm tiền công cho người làm dịch vụ. Nay xem xét các bản kê khai, đã định rõ các khoản chi dùng, trong số tiền dư để lại, có nơi đến ba bốn phần trở lên, cần phải cắt giảm, định rõ mức phần. Nay xem xét, xin các lộ thu tiền dịch theo định mức cũ, trong sách dịch định rõ số tiền cần dùng ngoài, số tiền dư để lại không được quá hai phần, còn lại thì giảm bớt. Những nơi trước đây chưa đến hai phần thì vẫn giữ nguyên. Mong nhờ đó phần nào giảm bớt sức dân.” Triều đình nghe theo.
(Sách 《Thực lục》 chép rút gọn: Hộ bộ tâu: “Chiếu tu sửa sách dịch các lộ, xin thu tiền dịch ngoài số định mức cũ, số tiền dư để lại không được quá hai phần, còn lại thì giảm bớt. Những nơi trước đây chưa đến hai phần thì vẫn giữ nguyên.” Triều đình nghe theo. Nay vẫn dùng nguyên văn.)
[29] Ty Chuyển vận Thiểm Tây tâu: Lộ Phu Diên hội định mỗi năm tám mươi ba vạn quan, nếu gặp năm mất mùa, tăng thêm đóng quân bất thường thì không tính vào số này. (Theo 《Chính mục》.) Chiếu cấp cho Hữu ty Hộ bộ sáu mươi vạn quan, để sung vào việc mua lương thực ở biên giới lộ Phu Diên.
[30] Chiếu: “Các quan ở Viện Cống là Trạch Man, Trần Chi Phương, Mã Hi Mạnh chết trong vụ cháy, mỗi người cho một con làm quan, lại ban mười vạn tiền.”
[31] Ngày Mậu Dần, chiếu rằng từ nay các chức Dực thiện, Thị độc, Thị giảng, Ký thất Tham quân ở phủ Thân vương, nhiệm kỳ thứ hai làm Tri châu, tính theo thứ tự Đề hình; nhiệm kỳ thứ tư làm Tri châu, tính theo thứ tự Chuyển vận sứ các lộ. Do Thị giảng phủ Thân vương là Ngu Thái Hi ra ngoài bổ nhiệm, Dương vương Hạo, Kinh vương Quần dâng sớ xin lưu lại, xin tính theo thứ tự Đề hình, nên có chiếu này.
[32] Chiếu cho các lộ Thiểm Tây, Hà Đông, Kinh lược ty phải nghiêm ngặt răn dạy các tướng tá chiêu mộ người dò xét tình hình thực tế trong giặc, đặt quân do thám xa, nghiêm ngặt phòng bị, không được khinh chiến. Thường phải thận trọng và không được làm náo động gây phiền nhiễu. Vì các lộ Kinh lược ty báo rằng, theo dò xét, giặc phương Tây đang điểm binh, lo rằng các lộ có thể lơ là phòng bị biên giới.
[33] Ngày Quý Mùi, Gián nghị đại phu Tôn Giác tâu: “Xin theo chiếu chỉ năm Thiên Hi thứ nhất, xét lại các điều mục về chế độ quan chức, các chức Tả Hữu Gián nghị đại phu, Tả Hữu Bổ khuyết, Thập di, phàm có việc ban lệnh cử sự, nếu có điều gì bất tiện với thời cuộc, không hợp với đạo lý, việc lớn thì đưa ra bàn ở triều đình, việc nhỏ thì dâng sớ lên. Nếu có người hiền lương bị bỏ sót ở dưới, việc trung hiếu không được báo lên trên, thì ghi rõ sự việc mà tiến cử[9].” Chiếu theo đó mà thi hành. (Theo tân lục và cựu lục, lại dựa vào mật sớ mà sửa chữa. Xét Tôn Giác có tờ tấu, nói “Tháng chín mới nhận chức Gián nghị”, e rằng lúc này chưa có gì để dâng nạp. Hoặc chuyển phụ vào tháng chín, xem xét kỹ hơn.) Giác lại tâu: Việc đặt thụy hiệu nên giao cho các cơ quan hữu trách, nhà Vua không nên tự mình soạn văn, những người xin ban thụy hiệu, nên đều không cho phép. Theo lời tâu.
(Điều này cũng được thêm vào từ mật sớ.)
[34] Chiếu: Thưởng cho quan người Phiên, truy tặng chức Hoàng thành sứ, Cao Châu đoàn luyện sứ. Ghi chép cho con trai và con rể làm quan, lại ban tặng vật phẩm khác nhau. Vì Kinh lược ty Hà Đông báo rằng, khi vào địa giới gặp giặc mà tử trận.
[35] Ngày Ất Dậu, chiếu: “Thái hoàng thái hặc đặc biệt gửi lễ vật sinh thần cho nước Liêu, lệnh cho Ngự dược viện theo số lượng lễ vật của Chương Hiến thái hậu và Hoàng thái hậu Bắc triều mà sắp xếp. Trong đó: mũ hoa, quấn bằng vàng ngọc; đai lưng, bằng thủy tinh; yên cương, bằng ngọc; giày vớ, thay bằng hài.”
[36] Môn hạ, Trung thư hậu tỉnh tâu: “Chiếu định rõ về lương bổng của lại viên ba tỉnh và tăng thêm cấp phát, xin quy định thành một phép. Trừ những khoản đã định hiện nay và lương thưởng cũ theo thời gian tăng thêm tiền lương, từ phần thân phận riêng và áo quần theo mùa, ngựa quan vẫn giữ như cũ, còn những người được điều động từ ngoài vào và người trong biên chế, đều theo quy định mới hiện nay. Những khoản cấp riêng do kiêm nhiệm hoặc việc khác và những khoản thụ hưởng cũ đều bãi bỏ. Nếu kiêm nhiệm hoặc tạm quyền hai chức danh cùng lúc, chỉ được hưởng theo một chức nhiều hơn.” Được chấp thuận.
[37] Lễ bộ Lang trung Lâm Hi làm Bí thư Thiếu giám, Triều tán đại phu Chu Doãn làm Chủ khách Lang trung, Lại bộ Lang trung Tăng Triệu, Trương Nhữ Hiền đều làm Hữu ty Lang trung.
(Sách 《Chính mục》 ngày 24 lại chép Thịnh Thứ Trọng làm Thông phán Hùng Châu, hai bộ lục không chép. Cần xem xét.)
[38] Ngày Đinh Hợi, chiếu rằng: “Nhập nội đô tri Trương Mậu Tắc, túc vệ cung tỉnh, trải qua bốn triều, thanh liêm cẩn trọng, trung thành siêng năng, nên được khen thưởng. Cho con trai ông là Tả tàng khố Phó sứ Tốn làm Tây thượng các môn Phó sứ.”
[39] Hội hiệu việc chăn nuôi ngựa có lợi hại như sau: “Hội hiệu đến việc đề cử chế trí mục mã ty nguyên tấu đặt trại nuôi ngựa, mỗi năm ước tính sinh được năm phần ngựa con, từ khi đặt trại đến nay, thu được ngựa con chưa đầy một phần bốn ly. Trong hai năm, số ngựa chết và tổn thất đã quá năm phần, cùng với việc chuyển giao lại thêm một phần. So sánh trên, số thu được tự nhiên không đủ để bù đắp số chết và tổn thất. Hội hiệu thấy rõ hại nhiều lợi ít.” Chiếu chỉ: “Các trại nuôi ngựa mới đặt ở phủ giới và đề cử kinh độ chế trí mục mã ty đều bãi bỏ. Các việc cần phân bổ, sắp xếp, lệnh cho Binh bộ điều hoạ trình lên. Số ngựa hiện có đã được phân phối và chưa tách khỏi ngựa mẹ, giao cho trại Sa Uyển ở Đồng Châu. Số ngựa chưa được phân phối đã tách khỏi ngựa mẹ, giao cho Thái bộc tự. Lệnh cho các lộ bảo giáp ty, chỉ huy bảo giáp không dạy cưỡi ngựa nữa; số ngựa mượn của dân và ngựa tư, đều trả lại cho chủ; số ngựa quan, phân đều cho các quân để bổ sung chỗ thiếu. Đề cử kinh độ chế trí mục mã ty, Xu mật đô thừa chỉ Trương Thành Nhất phạt hai mươi cân đồng, sai làm tri châu Lộ Châu. Sùng nghi phó sứ Ôn Tòng Cát giáng một chức.” Tòng Cát là người đầu tiên đề nghị lập trại nuôi ngựa.
(Tào Tụng ngày 12 tháng 6 đề nghị, xin hội hiệu. Ngày 15 tháng 2, sai quan đi kiểm tra các lộ Thiểm Tây, Hà Đông.)
[40] Chiếu rằng: “Từ ngày mùng một tháng giêng năm sau, các đội bảo giáp thuộc phủ giới và ba lộ sẽ theo pháp nghĩa dũng, tập luyện vào mùa đông trong hai tháng. Mỗi tháng đến huyện để tập luyện và kiểm tra, các đô bảo từ năm trở lên chia làm bốn phiên, bắt đầu tập luyện từ tháng mười đến tháng giêng thì dừng. Lệnh cho các bảo ưu tiên tập luyện nhiều hơn, xoay vòng và lặp lại, đồng thời ban hành quy định thống nhất. Các đoàn tập luyện ở phủ giới và ba lộ đã bãi bỏ, các cơ quan đề cử tiền lương cũng bãi bỏ, giao cho ty giáo duyệt kiêm quản. Tất cả sẽ thi hành từ ngày mùng một tháng giêng năm sau.”
(Theo 《Thời chính ký》 của Xu mật viện, mệnh lệnh này thực sự được ban hành vào ngày 26 tháng tám, ngày Đinh Hợi, nhưng 《Cựu lục》 lại ghi vào ngày mồng 6 tháng bảy, ngày Mậu Tuất, 《Tân lục》 dựa theo 《Cựu lục》, có lẽ do tra cứu không kỹ. Nay căn cứ vào 《Thời chính ký》, ghi chép riêng vào ngày này. Lại theo 《Ngự tập》, ngày 24 tháng tám có mệnh lệnh: “Từ năm sau, bảo giáp chỉ tập luyện vào mùa đông, lệnh cho Tam tỉnh và Xu mật viện sớm thi hành.” Có lẽ mệnh lệnh ngày 24 được ban hành vào ngày 26. 《Tân lục》 dựa theo 《Cựu lục》, ghi vào ngày Đinh Hợi rằng: “Bãi bỏ các giám mục mã mới đặt ở phủ giới và ty đề cử kinh độ chế trí mục mã; Sùng nghi phó sứ Ôn Tòng Cát giáng một chức. Đề cử mục mã ty, Xu mật đô thừa chỉ Trương Thành Nhất phạt 20 cân đồng. Ban đầu, Xu mật phó đô thừa chỉ Tào Tụng tâu: ‘Triều đình dùng pháp của Tòng Cát, đặt giám mục mã sinh sản, ngựa con ít mà chết nhiều, xin cử quan so sánh.’ Đến nay, kiểm tra như lời Tụng, nên bãi bỏ, do đó có hình phạt này.” Thành Nhất bị bãi chức Xu mật đô thừa chỉ, nhậm chức Tri Lộ châu; Chiếu bãi bỏ việc tập luyện cưỡi ngựa của các lộ bảo giáp, các ngựa mượn từ dân và ngựa tư đều trả lại chủ, ngựa quan chia cho các quân; 《Tân lục》 đã lược bỏ không rõ ràng, lại đưa việc tập luyện bốn phiên và bãi bỏ quan tiền lương vào ngày Mậu Tuất tháng bảy. Đại để 《Cựu lục》 đối với các việc cải cách thời Nguyên Hựu đều xóa bỏ, không chịu ghi chép rõ ràng. 《Tân lục》 không nên dựa theo. Nay đã sửa lại như trên, kèm theo chú thích này.)
[41] Điện trung thị ngự sử Hoàng Giáng tấu: “Thần thấy Chiêu tuyên sứ Tống Dụng Thần xây dựng tư dinh và sửa sang vườn ao đình quán, còn thần phụ trách điểm kiểm Thủy Ma Sở, thấy Dụng Thần ăn cắp sen ngó trong vườn quan và mua bán thiếu hụt, tích lũy của cải bất chính không ít. Lại nghe nói lấy rượu pháp của Kim Tuyền ở Lạc Khẩu bán kiếm lời cho mình. Xin tra xét các cục do Dụng Thần quản lý, nếu còn nơi nào chưa bị bãi bỏ mà chưa được kiểm tra, xin triều đình xem xét kỹ, cử quan lại đến lấy sổ sách kiểm tra xem có gian lận hay không[10]. Và kiểm tra lại các tấu chương trước sau, giao cho hữu ty kiểm tra xem xét và thi hành.” Chiếu rằng: “Đô đại đề cử Biện Hà Đê Ngạn Ty và chuyên trách đề cử Kinh Thành Sở, những nơi chưa bị bãi bỏ, đều giao cho Hoàng Giáng theo chỉ đạo đã có về việc kiểm tra các kho hàng bị bãi bỏ, lấy sổ sách kiểm tra và tâu lên. Phần còn lại đợi khi việc sơn lăng và phụ miếu xong sẽ xin chỉ.”
(Việc mật sớ tháng 8, nay phụ vào đây.)
[42] Ngày Kỷ Sửu, Môn hạ tỉnh tâu: “Trung thư tỉnh xin làm rõ, chức Gián nghị, Ty gián, Chánh ngôn hợp thành một quy định, hễ có ý kiến gì đều được phép tấu trình. Xin giao Trung thư tỉnh làm rõ và ban hành.” Được chấp thuận.
[43] Quý phi họ Miệu xin bãi bỏ lễ sách phong, được chấp thuận.
[44] Long Đồ các trực học sĩ, Tri Vĩnh Hưng quân Lưu Tường được gia phong Xu mật trực học sĩ.
(Chính mục ghi là đặc cách bổ nhiệm.)
[45] Tư Mã Quang tâu: Thần nghe rằng Vua Thuấn sáng suốt bốn phương, thông suốt bốn hướng, bậc vương giả xem xét bốn biển trong thiên hạ đều như trong sân nhà, những việc nhỏ nhặt trong dân gian đều như trong lòng bàn tay, sau đó mới có thể trị vì thiên hạ. Kính nghĩ rằng Thái hoàng thái hậu bệ hạ sống sâu trong cung cấm, Hoàng đế bệ hạ còn trẻ tuổi, sự rộng lớn của bốn biển, những việc nhỏ nhặt trong dân gian, chưa từng thân chứng mắt thấy. Nếu không nghe lời tâu của bề tôi và dân chúng, dù có trí tuệ thiên phú, làm sao biết được? Gần đây, bệ hạ ban chiếu cho phép bề tôi và dân chúng trong thiên hạ được dâng sớ tâu bày những thiếu sót trong triều chính và nỗi khổ của dân gian, lại xuống chiếu cho thần cùng các quan chấp chính xem xét kỹ lưỡng. Trong số ba mươi quyển sớ được dâng lên lần đầu, thần đã cùng các quan chấp chính lựa chọn cẩn thận, loại bỏ những lời vô ích và dài dòng, những điều đáng lấy đã dùng giấy vàng đánh dấu, dâng lên xong. Kính mong bệ hạ xem xét lại những phần đã đánh dấu, hoặc để bên cạnh để làm lời răn dạy; hoặc giao xuống cho các cơ quan hữu trách bàn bạc thi hành. Như vậy, lời trung ngôn sẽ ngày càng nhiều, sự sáng suốt sẽ ngày càng rộng, thực là phúc lớn cho dân chúng và xã tắc.
Trước đây, các quan chấp chính xin cho bề tôi được lên điện tâu bày, bệ hạ khiêm tốn từ chối, cho rằng việc triều chính còn nhiều điều chưa quen biết, bề tôi muốn tâu việc đã có chương sớ, cần gì phải lên điện? Nay chương sớ của bề tôi và dân chúng đều tập trung trước mặt, nếu bệ hạ không chăm chỉ xem xét, thì những thiếu sót trong triều chính và nỗi khổ của dân gian làm sao thấu đến tai bệ hạ? Việc triều chính không có lúc nào là không cần học hỏi! Trong đó cũng có những việc mà nhiều người cùng tâu, thần cũng đánh dấu lại, mong bệ hạ biết được những điều mà thiên hạ cùng lo lắng, tâm tư chung của mọi người. Việc trị nước là ở chỗ thuận theo lòng dân, làm những gì dân muốn, bỏ những gì dân ghét, thì lo gì hiệu lệnh không thi hành, lòng dân không theo, quốc gia không yên ổn, danh tiếng không vẻ vang? Chỉ cần bệ hạ quyết tâm và ra sức thực hiện mà thôi! Quang lại tâu:
[46] Thần trộm thấy gần đây có ban xuống các bản tấu trình thực tế của nông dân kêu than về nỗi khổ, gồm 150 đạo của Vương Sắc và những người khác[11], trừ những điều kêu than trùng lặp, đều đã được ký tên và dán vào để trình lên. Thần nghĩ rằng trong bốn dân, chỉ có nông dân là khổ nhất. Người nông dân cày cấy trong giá lạnh, làm ruộng dưới nắng nóng, mồ hôi thấm ướt thân thể, chân lấm bùn, làm việc từ sáng sớm đến tối mịt; người phụ nữ nuôi tằm, ươm kén[12], kéo sợi, dệt vải, từng sợi từng sợi tích góp, từng tấc từng tấc dệt thành, sự vất vả đã đến cực điểm! Lại thêm thiên tai như lũ lụt, hạn hán, sương giá, mưa đá, châu chấu, sâu bọ thỉnh thoảng gây họa, may mà được mùa thì nợ nần công tư đua nhau tranh giành, lúa chưa kịp rời sân, vải chưa kịp xuống khung cửi, đã không còn thuộc về mình nữa. Người nông dân, phụ nữ nuôi tằm, ăn thì chỉ có cám gạo mà không đủ no, mặc thì chỉ có vải thô mà không lành lặn, chỉ vì đời đời làm ruộng, không biết ngoài việc này ra còn có con đường nào để sinh sống! Vì thế, con cháu họ ra chợ búa, được ăn ngon mặc đẹp, mắt thấy cảnh giàu sang, thì không còn muốn trở về ruộng đồng nữa. Đến nỗi thói đời chế giễu, đều coi nông dân là thấp hèn, thật đáng thương thay!
Huống chi những kẻ tham lam thu thuế, ngoài việc thu thuế ra, còn trăm phương ngàn kế để vơ vét, mong được khen thưởng. Thanh Miêu thì ép buộc phát tiền, thu nặng, cho vay cũ cướp mới; Miễn Dịch thì bóc lột dân nghèo, nuôi bọn ăn không ngồi rồi; Bảo Giáp thì bắt làm việc không đúng nghề; Bảo Mã thì gây khốn khổ vì những khoản chi phí vô ích, há chẳng đáng suy nghĩ sao!
[47] Việc nông tang là nguồn gốc của y phục và lương thực trong thiên hạ, là thứ mà con người nương tựa để sinh tồn, vì thế các bậc thánh vương đều coi trọng. Thần không dám viện dẫn xa xôi từ thời cổ đại, chỉ nghe nói rằng Thái Tông từng du ngoạn Kim Minh Trì, triệu tập mấy chục người phụ nữ làm ruộng lên điện, ban cho chỗ ngồi, hỏi han về những nỗi khổ của dân gian. Những người phụ nữ làm ruộng chất phác, không giấu giếm gì, được ban lụa rồi cho về. Thái Tông xuất thân từ tầng lớp thấp kém, nên việc dân gian vốn không gì là không biết, lý do làm như vậy là sợ rằng khi giàu sang sẽ quên mất. Mỗi khi lâm triều, không ngày nào là không nhắc đến việc cày cấy. Nhũ mẫu của Chân Tông là Tần Quốc phu nhân Lưu thị, vốn là người nhà nông, thích nói về việc nhà nông, nên Chân Tông từ nhỏ đã nghe nhiều. Vì thế, khi làm Khai Phong doãn, ngài đã nổi tiếng với chính sự tốt đẹp. Đến khi lên ngôi, thời kỳ trị vì Hàm Bình và Cảnh Đức được coi là đỉnh cao thịnh trị của nhà Tống. Chiếu chỉ về ruộng đất thời Cảnh Đức, đến nay vẫn được khen ngợi là tinh tế và đúng đắn. Xưa kia, Chu Công làm tể tướng cho Thành Vương, viết sách 《Vô Dật》 rằng: “Biết trước được sự khó nhọc của việc cày cấy, rồi mới nghỉ ngơi, thì mới hiểu được nỗi khổ của kẻ tiểu nhân.” Bởi vì một bát cơm, một thước lụa, không gì là không xuất phát từ sự vất vả. Bậc quân chủ đã biết điều đó, thì sẽ không dùng vào việc vô ích, phân phát cho kẻ vô công, lòng kiêu xa sẽ không tự sinh ra.
Kính nghĩ rằng Thái hoàng thái hậu bệ hạ sống sâu trong cung cấm, hoàng đế bệ hạ còn trẻ tuổi, nếu không phải nhờ vào việc mở rộng lời nói đức độ, mở rộng đường ngôn luận, để dân chúng nơi thôn dã đều có thể dâng sớ lên, thì làm sao có được một phần vạn nỗi khổ của họ được truyền đến tai thiên tử? Dù văn từ thô lỗ, lời lẽ lộn xộn, nhưng đều là những nỗi khổ thực sự, thẳng thắn bày tỏ lòng thành, không thể xem thường. Kính mong Thái hoàng thái hậu bệ hạ và hoàng đế bệ hạ cùng xem xét, để mở rộng trí tuệ, bồi đắp đức độ thánh nhân, hiểu rõ mọi tình hình thực tế trong dân gian[13], từ đó bắt đầu sự nghiệp thái bình trong tương lai.
(Tập 《Quang》, ghi chép tờ tấu này sau ngày 12 tháng 8, nay phụ lục vào cuối tháng.)
[48] Tháng này, con thứ mười của Thần Tông là Việt Vương Tư sinh ra.
(Theo 《Hội yếu》.)
[49] Chiếu rằng: Những nơi phức tạp, khu vực áp dụng luật nghiêm khắc, các chức tri châu, thông phán, tri huyện do Lại bộ bổ nhiệm, cùng các chức thừa tại các kho, tự, giám trong kinh thành, tổng cộng hơn 60 chỗ khuyết, đều giao về Trung thư xin chỉ để tuyển chọn bổ nhiệm.
(Theo sớ của Lã Đào vào cuối tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất: Tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 8, các quan chấp chính lấy cớ này để thu hồi các chức khuyết của Lại bộ. Nay ghi chép vào cuối tháng, cần xem xét kỹ và bổ sung thêm.)
[50] Ngày Ất Mùi tháng 9, Tam tỉnh và Xu mật viện tâu: “Những người bị xử phạt, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Khai Phong phủ và quân mã ty, đều phải thi hành theo luật. Những người không thuộc quân ngũ, nếu bị phạt đi xa hơn 500 dặm, đều phải đến lao thành ở châu lân cận, hoặc tại châu mình thì phải đến bản thành. Những tội như cướp, hoặc ba lần trộm cắp, sau khi bị phạt quân dịch vì tội trộm cắp mà lại phạm tội, hoặc mưu sát và dùng vũ khí gây thương tích, phóng hỏa, cưỡng hiếp, hoặc người làm công thông dâm với chủ đã thành, chế tạo và tàng trữ thuốc độc, dạy người khác làm, cùng truyền bá tà giáo, cố ý đánh chìm thuyền có người ở, chống lại việc bắt giữ, những tội trên đều phải bị phạt theo luật. Những người trong quân ngũ phạm tội liên quan đến cấp bậc và đào ngũ phải bị phạt đi xa hơn 1000 dặm, đều phải thi hành theo luật. Những người không thuộc quân ngũ, nếu bị phạt đi xa hơn 500 dặm, phải đến lao thành ở châu lân cận, hoặc tại châu mình thì phải đến bản thành. Nếu đã ở bản thành, thì phải đến lao thành; nếu đã ở lao thành, thì phải đến nơi làm việc nặng nhọc.” Được chấp thuận.
(Đây là chiếu thư cải cách luật phạt mới được ghi vào ngày Kỷ Tỵ mùng 8 tháng 10. 《Cựu lục》 đã ghi chi tiết vào ngày Ất Mùi mùng 4 tháng 9, lại còn ghi riêng vào ngày Kỷ Tỵ mùng 8 tháng 10, và có nhắc đến lời của Hoàng Lý. 《Tân lục》 theo đó, nhưng xem xét chưa kỹ! Nay gộp vào đây, và lấy lời của Vương Nham Tẩu, ghi chép thêm vào ngày 26 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 6 để tham khảo.)
[51] Ban đầu, Thần Tông thấy những người bị lưu đày rời bỏ quê hương, có người bị bệnh chết dọc đường, mà lính hộ tống lại thiếu huấn luyện[14], lại tốn kém công sức đi lại, nên miễn cho những người phạm tội đáng bị lưu đày, thêm vào việc xăm trán, rồi tùy nơi ở mà phân phối vào các quân làm việc nặng. Khi ấy, Trung thừa Hoàng Lý tâu: “Vậy nên ra lệnh những người đáng bị phân phối, đều phân phối theo luật cũ. Vẫn giao cho các quan trưởng, không cần ban chiếu xuống.”
(Lời tâu của Hoàng Lý nên tra cứu toàn văn để biên vào. 《Tân lục》 bỏ đi câu “Vẫn giao cho các quan trưởng, không cần ban chiếu xuống.” 《Chính mục》 chép: “Ngày 22 tháng 7, chiếu rằng những kẻ trộm cướp ở Khai Phong đáng bị phân phối, vẫn theo luật cũ. Còn lại thì ra lệnh lập pháp.” Điều này nên tham khảo.)
[52] Giám sát ngự sử Vương Nham Tẩu cũng tâu: “Thần thấy rằng từ khi các châu thi hành pháp tựu phối, dân chúng thường khổ sở vì bọn hung ác quấy nhiễu. Bởi những kẻ này đều quen thói làm ác, không còn biết sợ hãi, không chịu tự cải tạo, trước kia bị lưu đày đến nơi xa, còn có thể trốn về để tiếp tục gây tội ác, nay lại không rời khỏi quê hương, không có giới hạn nào, đủ để thỏa mãn ý đồ làm ác, thỏa sức báo thù. Khiến những gia đình bị hại và tố cáo bắt giữ thường lo sợ bị trả thù, cả làng trên dưới không được yên ổn. Nếu để lâu ngày, bọn chúng càng thêm đông, càng dễ kết bè kết đảng, gây họa càng lớn. Thần mong triều đình xem xét, bãi bỏ pháp tựu phối, để làm gương cho bọn hung ác, mang lại phúc lành cho dân lành.”
[53] Thượng thư tỉnh tâu: “Ty đê ngạn sông Biện quản lý các phòng lang, cối xay nước, trường trà cùng các phòng lang do sở kinh thành quản lý, số tiền thu nhập hàng năm, trừ số tiền miễn hành được dùng để hoàn trả, chỉ định số chi hợp lệ ngoài ra, đều sung vào khoản chi hàng năm của tả tào Hộ bộ. Xét các hộ hàng hóa tại kinh thành, tổng cộng hơn 6.400 hộ được miễn luân phiên ứng dịch cho quan phủ, một năm tổng xuất hơn 43.300 quan tiền. Trong số đó, ước tính chi hơn 26.900 quan để thuê người ứng dịch các loại, ngoài ra còn hơn 16.400 quan, giao nộp cho sở Hóa vụ, chuẩn bị để Hộ bộ lấy dùng, sung vào việc hoàn trả số tiền lương lại đã chi. Số tiền miễn hành tại kinh thành, đều được miễn bỏ. Từ trước đến nay, tiền miễn hành dùng để chi lương lại và tiền lương, đều lấy từ số tiền phòng lang do ty đê ngạn sông Biện và sở kinh thành cấp, số người ứng dịch các loại từ trước đến nay do quan phủ sai phái, giao cho phủ Khai Phong, đều theo điều lệ cũ.” Được chấp thuận.
(Chính mục ngày 14 tháng 9 chép: Các hàng hóa tại kinh thành tổng cộng hơn 6.400 hộ được miễn luân phiên ứng dịch, một năm tổng xuất hơn 43.000 quan tiền. Trong đó, hơn 26.000 quan dùng để thuê người ứng dịch, ngoài ra hơn 16.000 quan nộp quan. Đều bãi bỏ. Tức là việc thực hiện vào ngày mùng 4 tháng này.)
[54] Trung thư tỉnh tâu: “Tiền miễn hành tại kinh thành đã được miễn bỏ, cùng với các phòng lang do ty đê ngạn sông Biện và sở kinh thành quản lý, đều giao về tả tào Hộ bộ, cùng với số lợi tức thu hàng năm, trừ số tiền miễn hành dùng để hoàn trả và lương lại, còn lại đều sung vào khoản chi hàng năm của bản tào. Các cối xay nước và trường trà, xin giao cho tả tào nhanh chóng xử lý lợi hại lâu dài rồi tâu lên.” Được chấp thuận.
(Ngày 28 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, bãi bỏ cối xay nước và trường trà. Ngày 3 tháng 6 và ngày 4 tháng 9, có thể tra cứu.)
[55] Bí thư tỉnh Chính tự Phạm Tổ Vũ tâu rằng: “Tiên vương chế định lễ nghi, quy định quân phục giống như phục tang cha, đều là tang phục trảm thôi ba năm. Đó là vì sợ rằng bề tôi không lấy đạo thờ cha mà thờ Vua, nên mới quy định như vậy để quản lý tình cảm con người. Từ đời Hán trở đi, không chỉ bề tôi không mặc tang phục, mà Vua cũng không để tang ba năm. Duy chỉ có triều đình ta từ thời tổ tông, tuy bên ngoài dùng chế độ đổi tháng, nhưng trong cung vẫn thực hành tang chế ba năm. Hơn nữa, chế độ đổi tháng khó thay đổi từ trước đến nay là vì Vua không tự mình mặc tang phục. Nay tang phục của Vua đã theo cổ điển, nhưng lễ nghi của bề tôi vẫn theo chế độ nhà Hán, khiến cho trăm quan đều đã trở lại như cũ, dung mạo y phục không khác gì người đi đường. Há phải bản tính con người bạc bẽo đến thế sao? Đó là do Vua không chế định lễ nghi vậy. Nay quần thần đổi tháng mà Vua thực hành tang chế, nên mười hai ngày thì tiểu tường, một năm lại tiểu tường, hai mươi bốn ngày thì đại tường, hai năm lại đại tường. Luyện và tường không thể có hai, đã tính theo ngày lại tính theo tháng, đó là điều không có căn cứ trong lễ nghi. Xưa kia, hai năm thì đại tường, giữa tháng thì đạm. Đạm là tên gọi của tế lễ[15], không phải màu sắc của tang phục. Nay lại mặc tang phục thảm ba ngày, rồi mới đạm, đó là điều không hợp lễ nghi. Đã cởi tang phục, đến khi chôn lại mặc, vì không thể không có tang phục. Sau khi phụ táng vào miếu thì mới được coi là cát, mới tám tháng mà đã vội vàng hoàn toàn cát, không còn gì không đeo, đó lại là điều không có sự tiệm tiến trong lễ nghi. Chế độ đổi tháng, theo lệ cũ, lễ đã hành, không thể đổi được.
Thần ngu nghĩ rằng, nên lệnh cho quần thần mặc triều phục, chỉ như hiện nay mà chưa cởi tang phục, đến kỳ thì mặc, dần dần cởi bỏ những thứ nặng nề. Hai năm lại mặc, rồi mới cởi tang phục, còn lại thì Vua mặc thế nào thì bề tôi mặc thế ấy là được. Còn đạm, không cần mặc tang phục, chỉ chưa hoàn toàn cát cho đến tường, sau đó mới không còn gì không đeo. Như vậy thì chế độ ba năm, cũng gần giống cổ lễ vậy.” Vua xuống chiếu cho quan Lễ bàn bạc kỹ rồi tâu lên.
[56] Sau đó, Thượng thư Lễ bộ Hàn Trung Ngạn và các quan tâu rằng: “Điển lễ của triều đình cần phù hợp với thời thế, không nhất thiết phải tuân theo cổ lễ. Nếu chế độ của tiên vương không thể áp dụng hoàn toàn, thì nên lấy cố sự của tổ tông làm phép tắc. Nay có người đề nghị bắt các quan phải để tang ba năm, dân gian cấm nhạc tương tự, dù đã qua lăng tẩm vẫn không bỏ tang phục, để hợp với cổ chế. Nhưng điển lễ của tiên vương có nhiều tiết văn, nếu muốn tuân theo cổ lễ, thì không chỉ như lời các quan đề nghị. Nay đã không thể áp dụng hoàn toàn, thì nên tuân theo cố sự của tổ tông và di chế của tiên đế.” Triều đình nghe theo.
(Cựu lục chép: Lúc đó Phạm Tổ Vũ đầu tiên đề xuất ý kiến này, nhưng có người trong chính quyền ủng hộ, người ta cho là trái lệ, nên Lễ bộ mới có lời tâu. Tân lục biện rằng: Phạm Tổ Vũ nói, tiên vương chế lễ, coi việc để tang Vua như tang cha, nên xin các quan để tang ba năm. Sách Lễ ký viết: “Thờ Vua, có lỗi thì không giấu, chăm chỉ đến chết, để tang ba năm.” Đó là lễ kinh. Hàn Trung Ngạn nói “nên tuân theo cố sự của tổ tông và di chế của tiên đế”. Nên việc không thành. Người trong chính quyền là Tư Mã Quang. Từ “Lúc đó” đến “có lời tâu” hai mươi lăm chữ, đều bị xóa. Xem tập của Tổ Vũ tự chú bản tấu này, nói “ngày 7 tháng 6 dâng lên”, và bản tấu thứ hai: “ngày 9 tháng 7 dâng lên”.)
[57] Ngày Đinh Dậu, Môn hạ Thị lang Tư Mã Quang tấu: “Thần lo rằng việc sai thần đến đô đình dịch tiếp đãi yến tiệc cho sứ Bắc triều, tên này phạm húy Bắc triều. Xin được miễn sai.” Triều đình nghe theo.
(Ghi chép mật ngày 6.)
[58] Ngày Mậu Tuất, Hộ bộ tâu: “Hiện đang soạn sách dịch các lộ, sẽ định mức tiền dịch phải nộp, trong sách dịch đã định rõ số tiền cần dùng, ngoài ra phần dư để dự phòng không được quá hai phần, phần còn lại xin giảm bớt. Vì pháp lệnh dịch của hai lộ Lưỡng Chiết và Hoài Nam Đông đã được sửa đổi và ban hành trước, ngoài số tiền hiện cần dùng, nếu có phần dư tiền dịch quá hai phần, cũng nên giảm bớt. Xin được ban hành rõ ràng. Nếu đợi các lộ xong việc mới giảm bớt, e rằng sẽ chậm trễ. Nay xin giao cho các lộ, cử quan chức phụ trách xem xét kỹ sổ sách dịch đã cung cấp, trên cơ sở số tiền cần dùng lâu dài, giữ lại một phần tiền dịch dự phòng, không quá hai phần. Số tiền cần giảm bớt theo chỉ dụ hiện nay, tức là từ số tiền đóng góp của các làng xã và phường phố, định rõ loại nào cần giảm, xem xét mức đóng góp nặng nhẹ của dân từ trước, giảm bớt từ hạng dưới, trước tiên phải trình số tiền cần giảm bớt lên bộ để kiểm tra. Không cần đợi lập sổ, đều được nghe theo chỉ thị giảm bớt trước. Hai lộ Lưỡng Chiết và Hoài Nam Đông cũng theo như vậy.” Được chấp thuận.
[59] Ngày Canh Tý, Lương Đào, Công bộ Lang trung, được bổ làm Lại bộ Lang trung; Lý Chu, Hộ bộ Lang trung, được bổ làm Chức phương Lang trung; Lâm Đán, Thái thường Bác sĩ, được bổ làm Công bộ Viên ngoại lang.
[60] Ngày Tân Sửu, chiếu cho Lã Đại Phòng rằng: “Khanh trấn nhậm ở Thục đã lâu, những nỗi khổ và lợi hại của dân chúng vùng Tây Nam, hoặc những điều trong pháp lệnh mới chưa thuận tiện với dân, chắc hẳn khanh đã nghe thấy nhiều. Trước khi khanh về kinh, nên đem những điều đã thấy phân tích rõ, gửi gấp tấu lên, nộp tại Nội thị tỉnh, không được giấu giếm.”
[61] Ngày Nhâm Dần, sứ giả nước Liêu là Gia Luật Trọng, Trưởng Ninh quân Tiết độ sứ, và Phó sứ Lữ Di Hạo, Thái thường Thiếu khanh sung Càn Văn các Trực học sĩ, đến trước linh tọa của Đại Hành hoàng đế làm lễ tế điện. Sau khi lễ xong, hoàng đế ngự tại điện Tử Thần, tiếp kiến Gia Luật Trọng và các vị.
[62] Ngày Ất Tỵ, Hàn Tông Đạo, Triều thỉnh Đại phu, Thái thường Thiếu khanh, được bổ làm Thái bộc Thiếu khanh; Hàn Tông Cổ, Quang lộc Thiếu khanh, được bổ làm Thiếu phủ Thiếu giám.
[63] Trước đó, Ngự sử trung thừa Hoàng Lí tâu: “Thần nghe triều chỉ, vì Hàn Tông Đạo và Hàn Tông Cổ là cháu của Hữu bộc xạ Hàn Chẩn, nên Tông Đạo từ Hộ bộ lang trung được thăng làm Thái thường thiếu khanh, Tông Cổ từ Tư mã lang trung được thăng làm Quang lộc thiếu khanh. Lại vì Lữ Hi Tích là con của Tả thừa Lữ Công Trước, nên từ Lại bộ viên ngoại lang được thăng làm Thiếu phủ thiếu giám. Thần nghĩ chức Thái thường phụ trách việc lễ nhạc, tế tự, xã tắc của quốc gia, từ xưa đến nay vốn là chức thanh cao. Tông Đạo tuy có tài năng về hành chính, nhưng không có tiếng tăm về văn học, được thăng vượt cấp như vậy là không xứng đáng. Hơn nữa, theo lệ cũ của triều đình, những người vì tị hiềm thân thích với tể tướng thường được giáng một bậc, như Trung thư xá nhân tị hiềm thì được làm Đãi chế, chưa từng nghe việc được thăng chức ưu đãi để hưởng lợi. Lại nữa, Hi Tích cùng Tông Đạo, Tông Cổ đều là tị hiềm thân thích, nhưng Hi Tích bị giáng xuống cuối bậc, Tông Đạo được thăng hai bậc, Tông Cổ được thăng một bậc, điều này càng không hợp lý.”
Lại tâu: “Thần thấy Hàn Chẩn từ khi nhận chức Trung thư đến nay chưa đầy vài tháng, nhưng triều đình đã nhiều lần bổ nhiệm người thân thích của ông. Nếu các chấp chính sau này đều noi theo lệ của Chẩn để ưu đãi con cháu, thì chức thanh cao của triều đình chỉ còn là nơi để con cháu đại thần tị hiềm thân thích mà được thăng chức. Lại nghe Tông Đạo, Tông Cổ ngay sau ngày thần tấu chương, đã vội vã đến nhậm chức. Dư luận xôn xao, cho rằng Chẩn nên để họ đợi mệnh, không nên vội vàng cho họ nhậm chức. Việc làm của Chẩn đến mức này, thật đáng khinh bỉ.” Do đó, Thái hoàng thái hậu đích thân dụ bảo các chấp chính, và có lệnh này. Hi Tích cũng được điều ra làm Tri Dĩnh châu. Từ đó, triều đình ra chiếu rằng các việc cần lấy chỉ của Tam tỉnh và các chương tấu của đài gián đều phải cùng tiến trình, không chỉ thuộc về Trung thư.
(Lữ Công Trước từ tháng 7 năm Mậu Tuất đã tâu việc này, đến nay mới có chiếu này. Nhưng không rõ là ngày tháng nào. Việc Tam tỉnh cùng tiến trình là do Hàn Chẩn bổ nhiệm Tông Đạo, Tông Cổ làm Thái thường, Quang lộc thiếu khanh, Ngự sử có lời tâu, nên đổi pháp. Điều này căn cứ theo sớ hặc Hàn Chẩn của Tô Triệt ngày 6 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất. Cuối tháng giêng năm đó, Lưu Chí hặc Thái Xác rằng: Trung thư hai năm không đem việc bổ nhiệm cùng Tam tỉnh hợp tấu, đến khi thân chuyển sang Môn hạ, lại ngầm sai người tâu xin, lộng quyền mưu tư, đó là lý do thứ tư để phải bãi chức. Xét Lữ Công Trước vào triều tháng 7 năm thứ 8 đã tâu xin việc này, không phải do ý của Xác, không rõ Xác lại sai ai tâu xin? Lại căn cứ theo sớ hặc Hàn Chẩn của Tô Triệt, thì việc này là do trách nhiệm bổ nhiệm Tông Đạo, Tông Cổ, Hoàng Lí có lời tâu, nên đổi pháp. Hoặc Lưu Chí cũng dùng việc này để công kích Lí. 《Huy Tông thực lục》 truyện Hoàng Lí[16], lại cho rằng việc Tam tỉnh cùng tiến trình là trước khi Triết Tông lên ngôi[17], là sai. Tông Cổ, ngày 14 tháng 4 năm sau, được đổi làm Chức phương lang trung.)
[64] Thái thường thiếu khanh Hàn Tông Đạo và các quan tâu rằng: “Vâng mệnh được cử làm sứ giả chúc mừng sinh thần hoàng đế nước Bắc triều, nhưng trên đường đi qua biên giới, chưa kịp làm lễ phụng an lăng tẩm và tế miếu, nên các nghi lễ và phục sức cần được các cơ quan hữu trách quyết định.” Chiếu chỉ: “Khi đến biên giới, nếu Bắc triều yêu cầu mặc lễ phục và nghe nhạc, hãy từ chối nhiều lần. Nếu họ vẫn không nghe, thì cho phép theo thể lệ năm Gia Hựu thứ 8, khi sứ giả chúc mừng sinh thần Bắc triều là Lý Thụ đi qua biên giới trong thời kỳ tang chế của Nhân Tông, tạm thời mặc lễ phục và nghe nhạc.”
(Ghi chép mật ngày 14.)
[65] Tư chính điện học sĩ Hàn Duy tấu: “Tiền tệ lọt ra ngoài biên giới sẽ giúp ích cho nước địch. Luật cũ cấm rất nghiêm ngặt, nay mỗi quan tiền thuế 50 đồng, lại cho phép tuỳ ý đưa ra khỏi Trung Quốc. Thần xin khôi phục lệnh cấm như luật cũ.” Chiếu chỉ: “Thực hiện theo biên sắc năm Gia Hựu. Các chiếu chỉ thời Hi Ninh không áp dụng nữa. Lệnh cho An phủ ty dọc biên giới Hà Bắc xem xét, từ khi biên sắc Gia Hựu được sửa đổi, việc thực hiện dọc biên giới như thế nào, nay lại cấm tuyệt, có việc gì cần tuỳ nghi xử lý, hãy tâu rõ sự việc.”
(Trong mật sớ có việc này, cần tìm bản tấu gốc của Hàn Duy để thêm vào. Chính mục ghi: “Ngày 14, bãi bỏ việc cho phép tiền xuất ra khỏi Trung Quốc.” Tức là việc này.)
[66] Ngày Kỷ Dậu, nước Vu Điền sai sứ sang cống.
[67] Triều phụng lang, Bí thư thiếu giám Lưu Chí được bổ nhiệm làm Thị ngự sử. Lưu Chí tâu rằng: “Thần nghĩ rằng khi bệ hạ mới lên ngôi và bắt đầu trị vì, việc đầu tiên nên làm là mở rộng đường lối ngôn luận. Vì vậy, hôm nay thần nhậm chức, xin dâng lên lời khuyên này. Thánh nhân dùng một tâm trí để quản lý vạn sự mà không bỏ sót điều gì, dùng một cái nhìn để bao quát bốn biển mà không bỏ sót nơi nào, không phải vì thân cận hay mắt thấy, mà là nhờ biết hỏi han, thăm dò, thu nhận lời nói của người khác, mở rộng con đường để không bị che lấp. Trên thì có công khanh, đại phu và trăm quan chấp sự, dưới thì dù là thợ thuyền, người mù, kẻ hèn hạ, người kiếm củi, đều có thể bày tỏ ý kiến, dốc lòng hết sức, đưa ra nhiều ý kiến để bệ hạ lựa chọn, chỉ sợ rằng người nói không đủ nhiều. Từ thời tổ tông đến nay, chức vụ gián quan và ngự sử đều được thiết lập đầy đủ, những người tại chức đều có trách nhiệm nói lên ý kiến. Hiện nay, thần thấy gián quan chỉ có một viên đại phu, Ngự sử đài từ Trung thừa trở xuống tuy có mười viên, nhưng chỉ có Trung thừa, Thị ngự sử, và hai viên Điện trung được phép tâu việc, còn sáu viên Giám sát ngự sử chỉ chuyên xem xét việc công văn của các cơ quan, không được tham gia vào việc tâu bày. Như vậy, trong triều đình, những người có trách nhiệm nói lên ý kiến chỉ có năm người mà thôi.
Thiên hạ rộng lớn, quan lại đông đảo, quyền lực ngày càng mạnh, tình trạng kết bè kết phái nảy sinh, dân chúng vui buồn, chính sự lợi hại, nếu chỉ dựa vào năm người này để thu nhận và xem xét, e rằng tai mắt chưa đủ rộng, có việc có thể không đến được tai bệ hạ, không phải là minh tứ mục, đạt tứ thông, mở rộng chính đạo, tập hợp mưu kế của mọi người. Thần mong bệ hạ từ bi, tăng thêm số lượng gián quan trong Gián viện, và cho phép sáu viên Giám sát ngự sử trong Ngự sử đài được tâu việc, những việc họ phụ trách vẫn giữ nguyên như cũ. Như vậy mới có thể cùng nhau hết lòng trung thành, phụ tá cho thánh chính.”
[68] Triều phụng lang Tô Thức được bổ làm Lễ bộ lang trung. (Theo《Hình Thứ gia truyền》: Trước đây, Lữ Công Trước muốn lại đề cử Hình Thứ làm Trung thư xá nhân, nhưng vì ông vốn thân thiết với Thứ, điều này ai cũng biết, nên không muốn tự mình đề xuất. Tôn Cố lúc đó đang ở chức Môn hạ, là người được Công Trước tiến cử, nên Công Trước gọi Cố đến phòng riêng, nhờ Cố mở lời trước, rồi Công Trước sẽ ủng hộ. Các quan không có ý kiến gì khác, chỉ có Lưu Chí nói: “Hình Thứ đến Hà Dương chưa được bao lâu, nay lại bổ làm Tập soạn tác suý, thế nào?” Các quan đều không trả lời, việc này bèn thôi. Lúc đó, Tuyên Nhân Thái hậu đã có ý triệu Thứ về triều, dư luận cũng cho rằng Thứ nên trở lại, Chí không thể cản được ý chung, nên tạm muốn dùng chức Tập soạn để ngăn Thứ. Nhân con trai Thứ là Cám đi qua Hà Dương, liền bảo Cám kể lại đầu đuôi sự việc cho Thứ. Lưu Chí với Thứ ban đầu cũng thân thiết, nhưng vì Thái Xác mà trở nên xa cách. Khi Thứ mới làm Khởi cư xá nhân, gặp các quan, xin dùng Chí trước, có người nghe được nói: “Hòa Thúc làm việc này, quỷ thần cũng phải phục.” Khi Tam tỉnh vừa hợp nhất, Thái Xác bút đầu tiên bổ Lưu Chí làm Thị ngự sử, Tô Thức làm Lễ bộ lang trung, hỏi Thứ rằng: “Dùng hai người này mở đầu thế nào?” Thứ đùa đáp Xác: “Đó là câu ‘Đức động thiên giám, tường khai nhật hoa’.” Thứ lấy ý từ bài phú《Nhật ngũ sắc》của Lý Trình đời Đường, từng đỗ đầu khoa thi, được người đời truyền tụng. Lưu Chí đầu niên hiệu Nguyên Hựu giữ chức Ngôn trách, Thái Xác vẫn làm Tể tướng, cùng Vương Nham Tẩu không ngừng công kích, Tư Mã Quang rất không tán thành. Lúc đó, Phó Nghiêu Dũ làm Bí thư giám, Ôn công
(Tư Mã Quang) liền nhờ Nghiêu Dũ khuyên Chí dừng lại, nói: “Thái Xác không lâu nữa sẽ tự đi, cần gì phải làm thế?” Chí đã dâng sớ, liền đáp Nghiêu Dũ: “Đã làm đến đây, sao dừng được?” Phó cũng kể lại với Thứ. Khi Thái Xác làm Sơn lăng sứ, Công Trước và Quang đã từng nói với Thứ, muốn mượn Thái Xác để trao tiết mao, đưa ông ta ra Bắc Môn hoặc Dĩnh Xương. Thái Xác ban đầu hết lòng tiến cử Quang, sau cùng làm việc ở Môn hạ, rất hòa hợp. Chương Đôn thì tự cho mình ăn nói nhanh nhạy, thường cho Quang là chậm chạp, không phải người giữ chính kiến, sao có thể ở lại? Lúc đó, người biết việc ở kinh đô đều nghe câu này.《Hình Thứ gia truyền》quả là sai lầm. Tạm ghi lại để đời sau tham khảo.)
[69] Thừa nghị lang, Long đồ các trực học sĩ Thái Biện làm sứ hồi tạ Thái hoàng thái hậu sang nước Liêu, Khách tỉnh sứ, Nghi Châu phòng ngự sứ Tào Bình làm phó. Trung thư xá nhân Phạm Bách Lộc làm sứ hồi tạ hoàng đế sang nước Liêu, Tả tàng khố phó sứ, kiêm Cáp môn thông sự xá nhân Cao Sĩ Đôn làm phó. Sau đó, Sĩ Đôn vì bệnh xin từ chối, Tả tàng khố phó sứ, Tri Ký Châu Lưu Duy Thanh thay thế.
(Duy Thanh thay Sĩ Đôn vào tháng 10 ngày Quý Mùi. Nay ghi chung.)
[70] Chiếu rằng từ nay các văn bản cần lấy ý kiến của Môn hạ Trung thư tỉnh và Xu mật viện, vẫn theo lệ cũ, gửi thẳng đến các cơ quan liên quan để lấy. Chiếu rằng Trung thư tỉnh tăng thêm hai người làm lục sự.
(Chiếu ngày 6 tháng 2 năm Nguyên Phong cần xem xét lại[18].)
[71] Lễ bộ tâu: Sau khi thần chủ của Đại hành hoàng đế được rước vào thờ ở tông miếu, việc tế lễ thường kỳ và tế trời ở Minh đường có đặt vị trí phối hưởng, xin theo lệ cũ, giao cho các quan chức từ chế trở lên, cùng các quan trưởng và phó của Bí thư tỉnh, cùng các quan Lễ bộ bàn định rồi tâu lên. Được chấp thuận.
[72] Xu mật viện tâu: Sở đề cử xuất bán thóc gạo phong trang tại kinh, từ tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 3 mở trường bán đến nay, hiện còn thóc 1.077.743 thạch, cỏ 345.400 bó. Chiếu rằng: “Lương thảo phong trang của các quân cấm khuyết ngạch và đã giải tán, gồm sáu chỉ huy như Phụng Nhật, tạm ngừng bán, và lệnh cho Ty Nông tự tại các kho thông dụng nhận số lượng quản lý, không được chỉ định giới hạn. Vẫn theo lệ cũ, cung cấp đầy đủ sổ sách để triều đình sử dụng khi cần thay đổi.”
(Tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 3, không thấy ghi việc mở trường bán.)
[73] Xu mật viện tâu: “Trước đây đã lệnh cho quốc tín sứ Mãn Trung Hành cùng bàn bạc với Bắc triều, theo lệ năm Gia Hựu, khi Hoàng thái hậu Bắc triển chúc mừng sinh thần và ngày chính đán của Hoàng đế Nhân Tông, sứ giả truyền đạt lễ ý đều do Hoàng đế Bắc triều chuyển đạt. Nay Bắc triều cử người đến điếu viếng Thái hoàng thái hậu, sứ giả truyền đạt lại là do Hoàng đế Bắc triều đích thân truyền lời. Khi sứ giả đến gặp, nếu hỏi lại thì cũng nên đích thân truyền tuyên, hỏi thăm sức khỏe Hoàng đế Bắc triều. Điều này không theo lệ cũ, nên sửa đổi. Xin lệnh cho người hộ tống sứ giả điếu viếng Bắc triều khéo léo thuyết phục sứ giả, đều theo lệ năm Gia Hựu.” Được chấp thuận.
[74] Chiếu rằng: “Ty đề cử mua ngựa và giám mục ở Thiểm Tây cùng ty mua ngựa ở phủ Thành Đô, châu Lợi, đều giao cho Lục Sư Mẫn, người phụ trách việc trà ở phủ Thành Đô, quân Vĩnh Hưng kiêm nhiệm. Tùy tình hình mà tăng giảm giá cả, chọn nơi thuận tiện để lập trường, tính toán mua bán. Sau một năm, báo cáo số ngựa thực tế[19]. Những việc cần mua sắm, phải báo cáo chi tiết. Tất cả các việc giám mục ở Thiểm Tây trước đây, giao cho ty chuyển vận Thiểm Tây quản lý, cùng việc mua ngựa ở Thiểm Tây, giao cho ty kinh chế tài chính biên phòng Hi Hà, Lan Hội quản lý, cùng các chỉ huy mua ngựa ở phủ Thành Đô, châu Lợi, đều không thi hành nữa.”
(Theo sách pháp thêm vào.)
[75] Ngày Canh Tuất, bãi bỏ giám hạ Bảo Phong ở Từ Châu.
(Cuối tháng 5, đã bãi bỏ việc đúc tiền, đến ngày 19 tháng 9 thì bãi bỏ giám. Sách 《Thực lục》 vừa ghi “bãi giám hạ Bảo Phong” ở đây, lại ghi vào ngày Giáp Tuất 12 tháng 10 rằng: bãi bỏ việc đúc tiền, vì Ty Chuyển vận tâu rằng thiếu đồng mà quan lại phung phí lương thực. Đây là do sai lệch thứ tự trước sau. Nay sửa lại, đồng thời bỏ đi đoạn ghi “bãi bỏ việc đúc tiền” vào ngày Giáp Tuất tháng 10. Theo tờ mật sớ, việc này xảy ra vào tháng 9. Xem lại tấu của Kinh Đông Chuyển vận sứ Phạm Thuần Túy: Chiếu cho giám hạ Bảo Phong đúc tiền lớn loại Chiết Nhị, lệnh xem xét lợi hại, nghe nói trong lộ thiếu sắt và than, tốn kém công sức, xin tạm dừng việc này. Ngoại trừ các vật liệu hiện có vẫn giữ nguyên, còn các vật liệu khác mua từ dân[20], chưa được thu gom, đợi Thuần Túy xem xét xong, sẽ nghe chỉ dụ triều đình. Các việc cần làm khi bãi bỏ giám hạ Bảo Phong, giao Ty Chuyển vận thi hành rồi tâu lên. Đây là chỉ dụ trước khi Thuần Túy đến Kinh Đông, sau khi Thuần Túy đến thì bãi bỏ giám.)
[76] Ngày Giáp Dần, Thượng thư tỉnh tâu: “Ngự sử trung thừa Hoàng Lí tấu rằng, các án kiểm tra của Ngự sử đài xem xét việc quan lại chậm trễ, những việc như ghi chép sai, sắp xếp văn thư không đúng quy cách, thuộc loại nhỏ nhặt, xin chỉ do Ngự sử đài gửi văn thư yêu cầu quan lại sửa đổi, không tính vào công tội của quan lại, đã theo lời xin. Còn các quan lại bị kiểm tra, ngoại trừ quan viên được giảm tội theo luật, các lại viên tùy việc ghi vào sổ, tính là phạm lỗi, cuối năm so sánh đánh giá.” Theo lời tâu.
[77] Ngày Mậu Ngọ, chiếu rằng: Số ngựa bảo ở các lộ Kinh Đông, Kinh Tây chưa đủ, không thu thêm nữa, căn cứ số hiện có, lệnh các hộ vẫn nuôi như cũ, đợi chỉ dụ triều đình.
(Sách 《Chính viết》 ghi: Số ngựa bảo ở Kinh Đông, Kinh Tây chưa đủ, bãi bỏ việc mua.)
[78] Giám sát ngự sử Vương Nham Tẩu dâng sớ nói: (Nham Tẩu dâng sớ, không rõ thời gian, nay căn cứ vào nội dung sớ mà suy đoán, phụ lục vào cuối tháng chín.) Thần nghe rằng, bề tôi trung thành phụng sự Vua cũng như con hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, việc trong nhà, biết mà không nói thì không phải là hiếu, nói mà không hết lòng cũng không phải là hiếu. Có người ở đây, dùng lời lẽ gian trá, âm thầm che giấu mưu kế tốt, để lừa dối cha mẹ mà mong cầu lợi lộc, mà cha mẹ chưa biết, thì nên báo hay không báo? Người con hiếu thảo không nỡ lòng nào dùng tâm ý như vậy để đối xử với cha mẹ, bề tôi trung thành cũng không nỡ lòng nào dùng tâm ý như vậy để phụng sự Vua. Thần tuy ngu muội, nhưng kính ngưỡng tấm lòng của người con hiếu thảo, lấy đó làm phương châm phụng sự Vua.
Thần trước đây ở ngoài, nghe rằng khi Hoàng đế bệ hạ mới lên ngôi, Thái hoàng thái hậu bệ hạ buông rèm nhiếp chính, đã có chỉ dụ bãi bỏ hơn mười việc gây bất tiện cho dân chúng ở kinh thành, và cách chức Tống Dụng Thần cùng một số người khác, trong ngoài đều reo hò, cùng nhau vui mừng! Lại hợp với lòng mong mỏi của thiên hạ, trọng dụng bậc trung thần hiền tài để phụ tá chính sự, mọi người đều nói rằng những tệ nạn tích tụ nhiều năm có thể sớm được dẹp bỏ. Thế nhưng từ tháng bảy đến nay, vẫn chưa thấy quyết đoán mạnh mẽ, khiến lòng mong đợi của thiên hạ vẫn còn u uất, là vì sao? Ấy là vì bậc trung thần hiền tài thì ít, mà kẻ gian tà thì nhiều, chúng âm thầm kết bè kết đảng, ngăn trở ở giữa vậy!
Thần thực lòng tiếc rằng bệ hạ có lòng thương xót muôn vật, có ý yêu thương nuôi dưỡng chúng sinh, lại thấu hiểu hết nỗi khổ của bốn phương, nhưng vẫn chưa thể mở rộng lòng mà thi thố ra thiên hạ. Bè đảng gian tà đã phụ lòng thánh quân trước đây, nay lại muốn lừa dối mê hoặc bệ hạ, thần thực lòng đau xót! Chúng thấy người bốn phương dâng sớ kín lên, kể nỗi khổ với bệ hạ, thì cũng tự biết rằng những kẻ bàn việc triều đình là không trung thành, lòng chúng hoang mang, chỉ sợ bệ hạ có sự thay đổi. Vì việc của chúng đã cùng đường, thì tội lỗi của chúng tự nhiên lộ ra mà thân chúng khó đứng vững, nên không thể không dùng nhiều cách để tự mưu tính. Có kẻ giả vờ thân thiết với bậc trung thần hiền tài mà trong lòng thực sự ghen ghét, để chờ lúc họ mệt mỏi chán nản; có kẻ ngang ngược ngỗ ngược, xâm phạm lăng nhục bậc trung thần hiền tài để làm họ phải bỏ đi; có kẻ im lặng không nói, không rõ thị phi mà chỉ cầu an thân giữa đám đông. Đại để đều là muốn củng cố quyền lực của mình, che đậy tội lỗi của mình mà thôi. Cho nên có người bàn rằng: “Kẻ gian tà khó trừ, bậc trung thần hiền tài khó giữ.”
Sự trị loạn an nguy, nằm ở chỗ trừ bỏ kẻ gian tà hay giữ lại bậc trung thần hiền tài mà thôi, bệ hạ biết rằng lòng trung thành cô độc khó đứng vững, thì nên dốc sức mà bảo vệ, biết rằng bè đảng gian tà khó đuổi, thì nên hết lòng mà lo liệu. Người xưa có câu: “Nhà dột ở trên, người dưới biết rõ.” Nay người dưới đều biết ai là trung thần hiền tài, ai là gian tà, nhưng không biết rằng trên triều đình, trong cung cấm, có thể biết hết mọi chuyện hay không? Với sự thông minh của bệ hạ, lẽ ra không có gì là không biết. Nhưng thần lo rằng mưu kế gian tà ngấm ngầm thực hiện, bè đảng gian tà ngày càng lớn mạnh, thì lòng nhân của bệ hạ không còn được thi thố, bậc trung thần hiền tài bên cạnh không còn đứng vững, công luận của triều đình không còn được nêu lên, sinh linh bốn phương không còn được hưởng phúc, thế thiên hạ nguy rồi!
Đây là điều khiến thần trằn trọc lo lắng vì bệ hạ. Hiện nay, những tai họa lớn của dân chúng không quá ba năm việc, nếu bệ hạ như lúc mới nghe chính sự, trực tiếp từ trung ương ban chỉ thị, lệnh bãi bỏ việc nào đó, thì lòng gian tà tự nhiên sẽ bị dập tắt, và ân trạch thánh thiện của bệ hạ sẽ được thực hiện. Thần trước đây làm tri huyện ở Hà Bắc, thi hành pháp lệnh Thanh Miêu, Miễn Dịch, Bảo Giáp, tận mắt chứng kiến những tác hại của chúng, rất sâu sắc và toàn diện, không như những người khác chỉ biết một cách mơ hồ. Ví dụ như Thanh Miêu thực sự là gốc rễ làm khổ dân, cần phải bãi bỏ hoàn toàn, thì dân chúng mới được cứu sống. Nhưng gần đây, chỉ thị chỉ yêu cầu thu gom và phân phối, không đặt ra hạn mức (chỉ thị ngày 8 tháng 8), nên gốc rễ làm khổ dân vẫn còn đến tám chín phần mười, điều này chắc chắn bệ hạ không biết. Tiền dịch là nỗi khổ chung của hàng triệu gia đình trong thiên hạ, cần phải khôi phục lại pháp lệnh sai dịch như trước đây, thì dân chúng mới được yên ổn. Nhưng gần đây, chỉ thị chỉ yêu cầu giảm bớt tiền thặng dư (chỉ thị ngày 16 tháng 8), nên nỗi khổ chung của hàng triệu gia đình vẫn còn đến bảy tám phần mười, điều này chắc chắn bệ hạ không biết. Tác hại của Bảo Giáp khiến dân chúng ở ba lộ như sống trong lửa đỏ, không hẳn đều do pháp lệnh có sai sót, mà là do các quan lại trong ty đề cử ép buộc mà thành. Nhưng gần đây, chỉ thị tuy chỉ yêu cầu huấn luyện vào mùa đông, nhưng vẫn còn tồn tại cơ quan (chỉ thị ngày 6 tháng 7), nên tác hại của Bảo Giáp vẫn còn đến sáu bảy phần mười, điều này chắc chắn bệ hạ không biết.
Bọn gian tà che đậy lỗi lầm và dùng lời lẽ khéo léo để biện minh, lừa dối thánh thính, chỉ thay đổi một chút những tệ nạn sâu xa để đáp ứng ý chỉ của bệ hạ, chứ không thực lòng vì quốc gia dẹp bỏ tai họa lớn, khôi phục lợi ích lớn, để thuận tiện cho dân chúng, làm kế sách lâu dài cho thái bình. Đây là lý do khiến lòng trung nghĩa vẫn bị đè nén, và mưu đồ của bọn gian tà vẫn còn tồn tại. Những người hiểu biết trong thiên hạ đều nói, bệ hạ không dứt bỏ nguồn họa, dân chúng không thể vui sống. Không trừ bỏ bọn gian tà, thái bình cuối cùng khó mà đạt được. Thần mong bệ hạ quyết đoán như lúc mới nghe chính sự, thực hiện những việc này, thì đại thể thiên hạ sẽ không còn việc gì, bệ hạ có thể yên giấc ngủ ngon.
Tờ thiếp hoàng viết: “Nếu những người bàn luận cho rằng Thanh Miêu, Miễn Dịch bãi bỏ ngay sẽ khiến quốc dụng không đủ, thì xin bệ hạ hỏi họ rằng trước thời Trị Bình, Gia Hựu, quốc dụng sao không thiếu? Mong bệ hạ ra lệnh cho họ nghiên cứu và trình bày.”
- Chữ 'ngũ' nguyên là 'chính', căn cứ vào bản các và sách này quyển 356 ngày đó ghi chép sửa lại. ↵
- Các bản ghi 'tháng 9' có thêm chữ 'mạt'. ↵
- Ba mươi hai chữ 'hai' nguyên bản là 'ba', căn cứ số chữ bị xóa là 'ba mươi hai', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại. ↵
- Lột áo đánh hai ba chục quyền 'lột áo', trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 48 《Khất Bất Thải Cố Đấu Sát Tráp Tử》 viết là 'đệ hỗ'. ↵
- Thay thế để đền mạng 'hành', bản các và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 viết là 'đắc'. ↵
- Kéo đổ Quách Hưng trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 viết là 'kéo đổ nhà Quách Hưng'. ↵
- Vì em họ xa là Trương Tiểu Lục vu cáo chửi mắng anh em trai gái 'trách', trong sách trên viết là 'đường'. ↵
- lệnh Môn hạ tỉnh xem xét, nguyên bản thiếu một chữ 'tỉnh', căn cứ vào các bản khác và sách trên bổ sung ↵
- Ghi rõ sự việc mà tiến cử, các bản 'ngôn' có thêm chữ 'chi'. ↵
- cử quan lại đến lấy sổ sách kiểm tra xem có gian lận hay không, bản các bản chữ 'sách' có thêm chữ 'khu', dưới cũng vậy ↵
- Thần trộm thấy gần đây có ban xuống các bản tấu trình thực tế của nông dân kêu than về nỗi khổ, gồm 150 đạo của Vương Sắc và những người khác. 'Tố' nguyên văn là 'hứa', căn cứ theo văn dưới và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 48, tờ 'Khất Tỉnh Lãm Nông Dân Phong Sự Trát Tử' sửa lại. ↵
- Người phụ nữ nuôi tằm, ươm kén. Hai chữ 'dục tàm' vốn bị thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung. ↵
- Chỉ có việc hiểu rõ mọi tình hình thực tế trong dân gian, sách trên không có chữ 'Duy', theo văn nghĩa thì hợp lý hơn. ↵
- mà lính hộ tống thiếu huấn luyện, 'cấm tốt' nguyên là 'cấm quân', theo bản các và 《Tống sử》 quyển 201, 《Hình pháp chí》 sửa lại ↵
- tên gọi của tế lễ 'tế' dưới nguyên có chữ 'Tự', theo các bản và 《Tống sử》 quyển 122 《Lễ chí》 mà bỏ. ↵
- 《Huy Tông thực lục》 truyện Hoàng Lí, chữ 'dĩ tiền' dưới 'Huy Tông thực lục' nguyên là thừa, nghĩa văn không thông, theo bản các mà bỏ. ↵
- 'trước khi Triết Tông lên ngôi' nguyên thiếu hai chữ 'dĩ tiền', theo bản các mà bổ. ↵
- Chiếu ngày 6 tháng 2 năm Nguyên Phong cần xem xét lại, bản các các làm 'Nguyên Hựu'. ↵
- Các bản ghi là 'Báo cáo số ngựa mua thực tế', theo văn nghĩa thì các bản này đúng. ↵
- các vật liệu khác mua từ dân, chữ 'nguyên' trong các bản khác ghi là 'chi' ↵