VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 360: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Từ tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 10 mùa đông, ngày Giáp Tý, nước Hạ cử Khỉ Lương Ngôi Danh Tế và Ngang Niếp Trương Duật Chính đến dâng 100 con ngựa để giúp việc xây lăng mộ.
[2] Ngày Kỷ Tỵ, Thái hoàng thái hậu dụ bảo các quan phụ chính rằng: “Phép nuôi ngựa dân gian nên bãi bỏ sớm, những phép đang thi hành có điều gì bất tiện cho dân thì sửa đổi.”
(Việc này căn cứ vào sách 《Chính Mục》 ngày mùng 8[1], nay đặc biệt ghi lại.)
[3] Ra chiếu cấm âm nhạc ở vùng biên giới, trừ dân chúng và quân doanh đã có chỉ dụ trước, còn lại đều đợi ba năm sau. Ban đầu, Thái thường tự căn cứ vào việc cấm âm nhạc năm Trị Bình thứ 4, các quan ở biên giới chỉ cấm trong 100 ngày, chiếu đợi đến khi lễ phụ miếu xong thì không cấm nữa. Đến lúc này, châu Hùng tâu rằng: Theo lệ cũ, khi đón tiếp sứ giả phương Bắc và khao thưởng người lấy bạc lụa ở biên giới phía Bắc, đều không được cử hành âm nhạc. Vì thế lại có chiếu này.
[4] Lệnh cho các quan phụ chính đến chùa miếu tạ ơn vì trời tạnh.
[5] Ra chiếu sửa đổi phép phối ngũ mới.
(Sách 《Cựu Lục》 chép: Ra chiếu sửa đổi phép phối ngũ mới. Ban đầu, Thần Tông thấy người bị lưu đày xa quê hương, có người chết dọc đường, mà lính hộ tống mất đi sự huấn luyện, lại tốn kém công sức đi lại, nên bắt chước theo cổ chế, người phạm tội đáng lưu đày thì thêm hình phạt đánh và xăm, tùy nơi đến mà phối ngũ vào các quân làm việc nặng. Đến lúc này, Trung thừa Hoàng Lý có lời tâu, nên lệnh cho những người đáng phối ngũ đều phối ngũ theo phép cũ. Sách 《Tân Lục》 theo đó. Xét việc chép ngày 4 tháng 9 năm Ất Mùi, tức là chiếu này. Đã chép vào ngày Ất Mùi tháng 9, đoạn này có thể bỏ.)
[6] Ngày Canh Ngọ, các quan tâu rằng: “Sổ sách việc mua bán ở kinh thành, trước đây gửi về Tam ty để khảo xét, khi thi hành quan chế, chia về Tả tào thuộc Hộ bộ. Năm Nguyên Phong thứ 7, việc mua bán trong ngoài đều do Hữu tào quản lý. Nay đổi về Thái phủ, sổ sách nên giao về Hữu tào.” Theo đó.
[7] Ngày Tân Mùi, Hãn quốc trưởng công chúa mất. Năm đó bà 4 tuổi, là con gái thứ 8 của Thần Tông, cùng mẹ với Vua. Đổi tặng là Đặng quốc, đặc cách nghỉ triều ba ngày.
[8] Ngày Quý Dậu, ban chiếu bắt chước theo 《Đường Lục Điển》 đặt chức Gián quan, và yêu cầu trình bày cụ thể số lượng nhân viên cần thiết để báo cáo. Việc này theo lời tâu của Lưu Chí.
(Lời tâu của Chí vào ngày 18 tháng 9.)
[9] Ngày Giáp Tuất, ban chiếu đã bãi bỏ Giám Bảo Phong ở Từ Châu, lệnh cho Hộ bộ nhanh chóng trình bày các giám có thể cắt giảm để báo cáo.
(《Thực lục》 chép: Chiếu bãi bỏ việc đúc tiền ở Giám Bảo Phong thuộc Từ Châu, do Ty Chuyển vận của bản lộ tâu rằng thiếu đồng mà quan lại lại lãng phí lương thực. Việc này căn cứ theo tấu nghị của Phạm Thuần Túy. Cuối tháng 5, đã bãi bỏ việc đúc tiền. 《Thực lục》 lại chép vào ngày 19 tháng 9 về việc bãi bỏ Giám Bảo Phong hạ, không hợp lý là đến ngày 12 tháng 10 mới bãi bỏ việc đúc tiền, 《Thực lục》 có lẽ nhầm. Nay sửa lại. Ngày 14 tháng 12 thu hồi bãi bỏ, tăng thêm 14 giám.)
[10] Ngày Bính Tý, Tả Tàng khố Phó sứ Triệu Hoài Nghĩa, Tây đầu Cung phụng quan Lưu Vĩnh Uyên, Tây Kinh Tả Tàng khố Cao Tuân Trị đều được gia ân thăng hai cấp. Đây là phần thưởng cho công lao vượt sông tiến đánh ở Lan Châu.
[11] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu cho các chức Thượng thư Thị lang, Cấp, Xá, Gián nghị, Trung thừa, Đãi chế trở lên, mỗi người tiến cử hai người có thể đảm nhiệm chức Gián quan để tâu lên. Ban đầu, theo chỉ dụ trong cung, bổ nhiệm Triều nghị đại phu, Trực Long đồ các, Tri Khánh châu Phạm Thuần Nhân làm Tả Gián nghị đại phu; Triều thỉnh lang, Tri Kiền châu Đường Thục Vấn làm Tả Ty gián; Triều phụng lang Chu Quang Đình làm Tả Chánh ngôn; Hiệu thư lang Tô Triệt làm Hữu Ty gián; Chính tự Phạm Tổ Vũ làm Hữu Chánh ngôn, lệnh cho Tam tỉnh và Xu mật viện cùng tiến trình.
Thái hoàng thái hậu hỏi: “Năm người này thế nào?” Các quan chấp chính đáp: “Hợp với lòng mong đợi bên ngoài.” Chương Đôn nói: “Theo lệ cũ, các chức Gián quan đều do hai chế trở lên tiến cử, sau đó chấp chính mới tiến cử. Nay việc bổ nhiệm từ trong cung ra[2], thần không biết Bệ hạ từ đâu biết được, hay là do tả hữu tiến cử[3], cửa này không thể mở rộng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Đây đều là do đại thần tiến cử, không phải tả hữu.” Chương Đôn nói: “Đại thần nên công khai tiến cử, sao lại tiến cử kín?” Do đó, Lữ Công Trước nói về việc Phạm Tổ Vũ, Hàn Chẩn và Tư Mã Quang nói về việc Phạm Thuần Nhân có quan hệ thân thích. Chương Đôn nói: “Đài gián là để sửa sai cho chấp chính khi họ phạm pháp. Theo lệ cũ, khi chấp chính mới nhậm chức, người thân thích và người được tiến cử đang làm Đài gián quan đều phải chuyển sang chức khác. Nay hoàng đế còn nhỏ, Thái hoàng thái hậu cùng nghe chính sự, nên tuân theo lệ cũ, không thể trái phép tổ tông.” Tư Mã Quang nói: “Thuần Nhân, Tổ Vũ làm Gián quan, thực sự hợp lòng người, không thể vì thần mà cản trở người hiền tiến thân, thần xin nhường chỗ.” Chương Đôn nói: “Chẩn, Quang, Công Trước chắc chắn không có tư tình, nhưng ngày sau nếu có gian thần chấp chính, lấy đây làm tiền lệ, dẫn người thân và người được tiến cử làm Đài gián, che lấp thông minh, không phải là phúc của nước. Xin bãi chức của Thuần Nhân, Tổ Vũ, vẫn lệnh cho hai chế trở lên được tiến cử.”
Do đó có chiếu này. Thục Vấn, Quang Đình, Triệt vẫn giữ chức như cũ, Thuần Nhân đổi làm Thiên chương các Đãi chế, Tổ Vũ làm Trứ tác tá lang, sau lại cho Thuần Nhân kiêm Thị giảng.
(Thuần Nhân làm Đãi chế, tức ngày 16 Đinh Sửu. Tổ Vũ làm Trứ tác, ngày 17. Thuần Nhân kiêm Thị giảng, ngày 25. Nay ghi chung lại.)
[12] Phạm Thuần Nhân ở Khánh Châu nhiều lần nói về việc biên giới, lúc đầu ông nói: “Thần thấy nước Hạ sai người đến cửa khuyết, đã nhiều ngày mà chưa thấy cho về. Gần đây thăm dò được việc trong giặc, dần dần lại thêm quân mã, ắt là nảy sinh nghi ngờ, muốn gây ra loạn lạc nơi biên giới. Thần mong bệ hạ vì sinh linh Thiểm Tây, hãy tạm theo ý chúng, để chúng lại cống nạp như thường. Như vậy có thể ngừng binh đao, khiến Hoa Hạ lại được thái bình, thì đức hiếu sinh của bệ hạ sẽ thấm nhuần sinh linh, tổ tông xã tắc được hưởng yên ổn muôn đời, đều nhờ một lời ban của bệ hạ. Thần từng đọc chiếu thư của Hán Quang Vũ trả lời Tang Cung, Mã Vũ, thật có lời răn sâu sắc. Thần sợ bệ hạ muốn nghe, cẩn thận chép lại dâng lên, mong bệ hạ suy xét lựa chọn.”
[13] Lại nói: “Xưa Mạnh Tử nói lấy lớn thờ nhỏ, có thể giữ được thiên hạ. Chiếu thư của Quang Vũ, ý cũng giống vậy, đều là lời bàn rất đúng của các bậc thánh hiền xưa. Đời Tiền Hán, Phàn Khoái muốn có mười vạn quân, đi ngang ngược trong Hung Nô, đến đời Ngũ Đại, Cảnh Diên Quảng nói nước Tấn có mười vạn thanh kiếm lớn mài ngang, đó đều là lời nói khinh suất của võ phu đời trước. Nay trong lúc triều đình bàn bạc, thần mong bệ hạ nghe theo lời bàn rất đúng, bỏ lời nói khinh suất, để yên định quốc gia, thì thiên hạ may mắn lắm thay!”
[14] Lại nói: “Gần đây, Xu mật viện nhận được tấu chương từ Hi Hà, nói về việc thủ lĩnh lớn ở Mạc Xuyên là Ôn Khê Tâm thăm dò tình hình, cho biết nước Hạ năm nay hạn hán lớn, dân chúng đói khổ. Còn theo tin tức thăm dò từ Kinh Nguyên lộ, cũng nói rằng nước Hạ vì hạn hán không có mùa màng, khó khăn trong việc điểm quân. Thần cũng lo rằng vùng biên giới phía tây chỉ giống như trước đây ở Thiểm Tây, ít mưa, nhưng tin đồn thường quá đáng, như trong chiếu thư nhà Hán có nói: ‘Tin đồn thường sai lệch’. Trước đây, khi chưa khởi binh đánh Linh Vũ, các nơi đều nói Tây Hạ suy yếu, nhưng đến khi bị vây ở Vĩnh Lạc, khiến các tướng khinh địch mà thất bại, đây là bài học gần đây.” Lại nói: “Thần gần đây nghe nói nước Hạ nhiều lần cử sứ giả đến triều đình, lễ nghi cung kính, ngoài dư luận đều cho rằng có thể dần dần ngừng chiến tranh. Thần biết rằng người phương Tây mua nhiều hàng hóa của Hán, dường như không có kế hoạch thường xuyên đến, thần lo rằng có thể sau khi phân định địa giới, họ muốn dùng binh lực để ép kết minh. Thần đã chỉ huy các tướng ở biên giới, luôn chuẩn bị cho những tình huống bất ngờ. Mong triều đình răn dạy các quan biên giới, không được lơ là. Những quân mã tăng thêm trước đây và các quan lại mới bổ nhiệm, hãy tạm giữ lại, đợi đến khi phân định địa giới, nhận được thệ thư, rồi giảm bớt cũng chưa muộn. Việc triều đình làm, người Di và Hạ đều nhìn vào, nên phải thận trọng. Những việc thần tấu trình về lợi hại biên phòng và tiến cử quan lại, cũng mong không giao cho các ty, mà đặc biệt ban thánh chỉ thi hành, tránh dùng thường lệ gây trở ngại. Khi có việc khẩn cấp, nếu chẳng may để lọt kế gian của giặc, trên làm lo lắng cho bệ hạ, thì tội của thần không chết cũng không chuộc được.”
[15] Chiếu: Giám sát ngự sử kiêm việc tâu bày, điện trung thị ngự sử kiêm việc giám sát. Bắt đầu dùng lời của Lữ Công Trước và Lưu Chí.
(Cựu lục chép: Không phải quan chế của tiên đế. Tân lục chép: Đã nói Giám sát ngự sử kiêm việc tâu bày, điện trung thị ngự sử kiêm việc giám sát, việc bắt đầu từ đây, thì rõ ràng không phải quan chế của tiên đế. Nay bỏ sáu chữ “không phải quan chế của tiên đế”. Xét Lữ Công Trước và Lưu Chí thực sự đã tâu trình trước sau, nay ghi rõ nguyên do. Chính mục chép: Giám sát ngự sử kiêm việc tâu bày chỉ có bốn người, điện trung thị ngự sử kiêm việc giám sát chỉ có hai người.)
[16] Tiền Kinh Đông lộ chuyển vận sứ Ngô Cư Hậu bị giáng làm Thành châu đoàn luyện phó sứ, an trí ở Hoàng châu; Phó sứ Lữ Hiếu Liêm được bổ làm giám Bân châu trà diêm tửu thuế. Do ngự sử tâu rằng họ hà khắc.
(Ngày 12 tháng 5 bị xét. Chính mục chép: Đều phạm tội vi pháp bóc lột, để mong được thăng tiến.)
[17] Triều tán đại phu Phó Nghiêu Dũ được bổ làm Bí thư giám.
(Cuối tháng 6, Tư Mã Quang tiến cử.)
[18] Thừa nghị lang, Tập hiền hiệu lý Cố Lâm được bổ làm Triều phụng lang, Lại bộ lang trung.
[19] Chiếu: Hạ quốc phái sứ đến tiến cống, ban cho lịch mới.
[20] Chiếu bãi bỏ nghĩa thương, số lương đã thu, gặp năm mất mùa dùng để cứu tế.
[21] Ngày Kỷ Mão, Tư chính điện học sĩ, Chính nghị đại phu kiêm Thị độc, Đề cử Trung Thái Nhất cung kiêm Tập Hi quan Hàn Duy được thăng làm Tư chính điện đại học sĩ, vẫn theo lệ thủ thượng thư cấp bổng lộc. Do Duy là cung thần của tiên đế.
(Chính mục chép: Chi trả tiền chức thượng thư, gạo mạch, tiền cung quan thị độc không chi. Lại ngày 16 tháng 11, ngự sử Lưu Chửng tâu rằng việc này không đúng. Thực lục không chép.)
[22] Chính tự Phạm Tổ Vũ được bổ làm Trứ tác tá lang. Thừa nghị lang Khổng Văn Trọng được bổ làm Hiệu thư lang. Thiểm Tây chuyển vận phó sứ Diệp Khang Trực, Lý Sát đều được thăng một chức và tiếp tục tại nhiệm. (Chính mục.) Triều tán đại phu Giả Thanh được bổ làm Đề cử Thái Bình quan. Thông nghị đại phu, Thiên Chương các đãi chế Sở Kiến Trung, Thông nghị đại phu Hàn Thục đều được thăng chức và về hưu.
(Chính mục.)
[23] Quyền Đề cử Hoài Nam Đông lộ Thường bình Hoàng Thực được bổ nhiệm làm Đề điểm Khai Phong phủ giới các huyện, trấn công sự. Thực là con của Hoàng Hảo Cổ.
(Ngày 18 tháng 11 năm Nguyên niên, Tôn Thăng có nói, có thể tham khảo.)
[24] Chiếu rằng: “Gần đây, chiếu lệnh liên tục ban xuống, mong rằng sẽ san sẻ gánh nặng cho dân, thuận tiện và yên ổn cho cả công và tư. Nhưng nghe nói quan lại vẫn quen thói cũ, không thực sự chấp hành, thậm chí còn bỏ qua, khiến người dân xa gần chưa được hưởng ân huệ. Từ nay về sau, hãy hết lòng tuân hành, các Giám ty phải kiểm tra giám sát. Nếu có vi phạm, Ngự sử đài sẽ tấu lên.”
[25] Thị ngự sử Lưu Chí tâu: Thần trộm nghĩ rằng chính sự ở các châu, huyện, việc bỏ hay làm, được hay mất, trách nhiệm ấy nên thuộc về các giám ty. Chức vụ giám ty cũng rất quan trọng, chỉ cần một người có tài hay không, thì cả một vùng đất rộng hàng ngàn dặm, sự vui buồn đều hệ thuộc vào đó. Trước đây, triều đình thay đổi lớn về pháp chế, tuyển chọn những người có khả năng thực hiện, nên không căn cứ vào thâm niên, mà chỉ cốt chọn được những người tài năng mạnh mẽ, quyết đoán, có khí thế như gió lốc, để hoàn thành công việc, dựa vào đó giải quyết tình thế trước mắt. Đến khi pháp chế đã thi hành, việc đã thành lập, nhưng về sau việc dùng người vẫn theo lối cũ, chưa từng cân nhắc thời thế, có sự nới lỏng hay thắt chặt. Vì thế đến nay, chính sự của các sứ giả thường khắc nghiệt, hẹp hòi, bắt chước nhau thành thói quen[4]. Các quận huyện noi theo, cũng không dám làm khác. Khiến dân chúng không thấy đức nghĩa, mà chỉ thấy hình phạt, chỉ nghe nói đến lợi lộc, đã lâu rồi! Đâu phải bản ý của chính lệnh là như vậy? Chỉ vì việc thi hành sai lệch, tích tụ thành thói quen đến mức này.
Gần đây nhờ thánh chỉ thương xót dân chúng, đã cách chức những giám ty có tội ác quá nặng, nhưng những người còn lại phần lớn tài năng còn lẫn lộn, tâm chí chưa thống nhất, ai cũng nghĩ đến lợi riêng. Những kẻ âm thầm chờ đợi, thì ắt sẽ theo thói cũ mà coi thường mệnh lệnh, khiến ân huệ bị ngăn trở; những kẻ nông cạn ham lợi[5], thì lại uốn cong quá mức, hoặc bỏ bê những việc đáng lẽ phải làm. Hai điều này không thể không xem xét, chỉ cần chọn được người tài, mới có thể khắc phục được tệ nạn này. Thần mong bệ hạ suy xét kỹ.
Các vùng Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây vốn là những nơi khó khăn, trước đây dùng những sứ giả được đề bạt nhanh chóng, phần lớn chưa từng trải qua việc dân, địa vị thấp, uy tín kém. Dù họ tự ý ra oai nghiêm khắc, nhưng dưới quyền vẫn không phục. Nay nên khôi phục một phần chế độ cũ của tổ tông, ở ba lộ này đặt chức Đô chuyển vận sứ, dùng các quan chức hai chế đảm nhiệm, để tăng thêm trọng trách. Các lộ khác cũng nên chọn những người có thâm niên cao, am hiểu dân chính, biết cách trị nước gần với đạo trung, bổ nhiệm làm giám ty. Rõ ràng ban cho họ chiếu lệnh, để họ trung hậu an dân mà không quá buông lỏng, nghiêm túc xử lý công việc mà không quá nông cạn. Nếu các sứ giả bộ thật sự như vậy, thì chính sự các châu huyện sẽ theo đó mà thay đổi, nhân chính của tiên đế, ân đức của bệ hạ mới có thể thấu đến dân chúng, việc cho dân nghỉ ngơi cũng không khó. Xem xét những người đương chức mà không làm tốt, đều nên loại bỏ. Những người bị cách chức, nếu không có lỗi lớn, nên trả lại thâm niên, bổ nhiệm vào chức vụ khác, chỉ cần không để họ thất nghiệp là được. Việc cấp bách hiện nay, e rằng chính là ở đây. Kính mong bệ hạ xem xét kỹ và thi hành.
(Lời tâu của Chí nhân vì chiếu này, nên phụ theo sau chiếu.)
[26] Chiếu rằng: “Các quân khí do trong ngoài chế tạo, căn cứ vào nguyên liệu và nhân công hiện có để sản xuất. Còn lại, binh tượng trở về nơi thuộc quyền, dân công được thả về.”
(Theo 《Cựu lục》: Thiên hạ thái bình đã lâu, khí giới không được tu sửa, tiên đế tập hợp thợ sửa chữa để phòng bất trắc. Đến nay bãi bỏ. 《Tân lục》 biện giải: Việc tu sửa binh khí thời Hi Ninh đã ghi trong 《Thần Tông thực lục》, không cần chép ở đây. Từ “Thiên hạ thái bình” đến “bãi bỏ” 24 chữ đều bỏ.)
[27] Sứ thần cống phẩm nước Vu Điền làm lễ cúng dường chư tăng để cầu phúc cho Đại Hành hoàng đế. Ban sắc thư khen ngợi.
[28] Lễ bộ tâu: Những người đỗ cử nhân bị đình chỉ thi vĩnh viễn hoặc bị phạt chưa mãn hạn, chưa được vào học, xin cho họ được thi và nhập học. Theo đó.
[29] Sông vỡ đê tại cửa Tiểu Trương, phủ Đại Danh.
[30] Kim bộ Viên ngoại lang Phạm Ngạc cùng với Hà Bắc chuyển vận xem xét pháp luật về muối. Trước đó, Giám sát Ngự sử Vương Nham Tẩu tâu rằng: “Thần thấy rằng ở Hà Bắc hai năm nay thi hành pháp luật mới về muối, xem xét kỹ văn bản, thấy rõ ràng chi tiết. Mục đích là vì lợi ích quốc gia, thu lợi cho triều đình, không phải không chu đáo. Tuy nhiên, khi mới ban hành luật, chắc hẳn cho rằng quan lại không vất vả mà pháp luật vẫn thi hành được, dân chúng không khổ mà lợi ích vẫn thu được.
Nhưng nay thần thấy, thực tế hoàn toàn khác. Xe chở hàng gọi là ‘hòa cố’ (thuê mướn), nhưng ở các quận, huyện, trấn, trại, có nơi không có người để thuê, nên không tránh khỏi việc bắt buộc các hộ giàu phải cung cấp xe, gây phiền nhiễu. Cơ quan chủ quản gửi văn bản gọi là ‘hòa cố’, nhưng các quận, huyện thực hiện thì thực chất là phân bổ đều. Một năm có khi đến bốn lần, liệu họ có chịu nổi không? Chở đến quan, quan tự bán, tất nhiên phải giữ lại một phần để phòng hao hụt, nên người mua không tránh khỏi việc thiếu cân lượng. Trước đây, thương nhân tự do buôn bán, tùy theo khả năng, vận chuyển muối đến những nơi xa xôi, hẻo lánh, muối vẫn dư thừa, dân chúng không biết đến nỗi lo thiếu muối. Nay việc vận chuyển khó khăn, không liên tục, nên không tránh khỏi việc thường xuyên thiếu muối. Gọi là pháp luật tốt, có phải như vậy không?
Thần nghĩ rằng những người bàn luận chắc hẳn nói rằng: ‘Chỉ cần thu lợi từ thương nhân, đem về cho triều đình, mà không tăng thêm gánh nặng cho dân.’ Nhưng hiện nay, khắp nơi, giá muối dân gian đã tăng gấp đôi, tức là vừa đoạt lợi của thương nhân, vừa tăng giá cho dân để thu lợi. Vì vậy, muôn người than thở, cho rằng chưa từng quen ăn muối đắt như vậy, cũng chưa từng thấy việc mua muối khó khăn như vậy. Lại nghe nói rằng, ở những nơi xa thành thị, các hộ nghèo thường không dám ăn muối, thậm chí có người so sánh muối với thuốc. Tăng giá cho dân để thu lợi cho quan, coi đó là thành tích, ai mà không làm được? Dù tăng gấp mười lần cũng không khó, nhưng liệu có ổn với dân chúng không? Thần nghĩ rằng Hà Sóc là nơi căn bản của thiên hạ, từ thời tổ tiên đến nay, luôn được ưu đãi.
Mong bệ hạ đừng lấy việc làm tổn hại dân làm lợi, mà hãy lấy việc làm lợi cho dân làm lợi, khôi phục lại pháp luật về muối như cũ, để ban ân huệ vô cùng cho hàng triệu sinh linh ở Hà Bắc.”
Lời tâu kèm thêm: “Năm Khánh Lịch thứ 6, có quan viên bàn về pháp luật muối, trong một năm, so với trước có thể tăng thêm 59 vạn 2.800 quan tiền. Lợi nhuận thu được quả thật lớn. Nhưng Nhân Tông không để ý, mà thương xót phán rằng: ‘Trẫm lo lắng cho quân dân Hà Bắc đột nhiên phải ăn muối đắt, hãy tạm thời cho họ theo lệ cũ.’ Đến nay, các bậc lão thành nhắc lại, thường rơi nước mắt. Sắc lệnh đó được khắc trên bia đá ở Bắc Kinh, nay sao chép lại dâng lên, mong bệ hạ thấy được ý của Nhân Tông, noi theo mà thi hành, để tăng thêm đức lớn, tạo phúc lành vô biên cho xã tắc.”
[31] Lại nói: “Năm Khánh Lịch thứ 6, thuế muối hàng năm chỉ có hơn 19 vạn quan, nay dựa theo số thuế muối thu được hàng năm trước khi thi hành pháp chuyên bán năm Nguyên Phong thứ 6 làm mức, đã là hơn 33 vạn quan, so với cũ không phải là không tăng.” Do đó, Nham Tẩu lại tâu:
[32] “Thấy rõ chỉ dụ triều đình, sai Phạm Ngạc đi xem xét việc Chuyển vận sứ Hà Bắc là Phạm Tử Kỳ tâu xin cho thu thuế muối một phần mười. Thần trước đây ở Hà Bắc, cũng biết có thương nhân tự xin với quan, xin bỏ việc mua độc quyền mà nguyện nộp thuế gấp đôi, là vì thương nhân lo sợ việc mua độc quyền sẽ cướp mất lợi của họ, nên khéo léo đưa ra kế này. Người chủ trương kế sách chỉ biết có thể thu được gấp đôi thuế từ thương nhân để làm lợi, mà không biết thương nhân sẽ lại tăng giá bán cho dân chúng để gây hại. Thần gần đây vì bàn về việc mua độc quyền muối ở Hà Bắc không tiện, đã từng chép lại sắc thư năm Khánh Lịch thứ 6 của Nhân Tông dâng lên, ý muốn được xem qua thánh lãm, không còn có chỉ dụ này nữa. Nay đã không như vậy, lẽ ra phải bàn lại. Thần thấy Nhân Tông đã không thi hành pháp mua độc quyền của Tam ty, lại không theo lời xin tăng thuế của Đô vận ty, thẳng thắn phê rằng: “Trẫm lo quân dân Hà Bắc đột nhiên phải ăn muối đắt, có thể tạm cho theo lệ cũ.” Một lời cảm động lòng người, thấm sâu vào xương tủy, khắc vào ngọc bích, sáng như mặt trời mặt trăng. Lúc đó, tính ra mỗi năm tăng thêm gần sáu mươi vạn quan, Nhân Tông há không biết đó là lợi lớn và lâu dài cho nhà nước sao! Ý ngài cho rằng cất giữ trong quan phủ không bằng cất giữ trong dân, lo trước mắt không bằng lo xa. Vì vậy đặc biệt bỏ đi mấy chục vạn quan lợi tức vô cùng, để làm ơn vô cùng cho mấy trăm vạn gia đình. Thời gian tuy đã cũ, mà ơn huệ vẫn mới.
Nay bệ hạ mới lên ngôi, chính là lúc có thể khôi phục lời nói cảm động lòng người của tổ tông[6], không nên vì lợi nhỏ mà mất lòng dân. Lợi nhỏ dễ được, lòng người khó được, cái khó được ấy, bệ hạ há không tiếc sao? Giả sử sứ giả báo lại rằng tăng thuế là khả thi, bệ hạ sẽ theo lời đó mà tăng thuế chăng? Như vậy thì sắc thư của Nhân Tông sẽ ra sao? Lời trong sắc thư, từ sông Hoàng Hà trở về bắc, ai ai cũng biết, không thể trái mà lại trái, thì danh nghĩa của bệ hạ sẽ ra sao? Thần thực biết bệ hạ không có ý đó, chỉ sợ rằng người bàn luận trong triều chưa nghĩ đến mà thôi. Lấy lợi hại nghĩa, không phải là mưu kế hay. Lấy oán đổi ân, không phải là lời khuyên trung. Tóm lại, lời đức âm ngày trước không thể quên, lòng vui mừng ngày nay không thể mất, đạo lý rõ ràng trước mắt, không còn gì nghi ngờ. Thần xin bãi bỏ việc sai Phạm Ngạc, đặc biệt lấy sắc thư năm Khánh Lịch để răn dạy người bàn luận, để tỏ rõ lòng yêu thương của bệ hạ, ngăn chặn ý tụ thuế của kế thần. Như vậy không chỉ người Hà Bắc may mắn, mà cả thiên hạ đều may mắn!”
(《Thực lục》 chỉ chép việc Phạm Ngạc cùng với Ty Chuyển vận Hà Bắc bàn bạc về pháp chế muối, không chép việc Chuyển vận sứ Phạm Tử Kỳ kiến nghị xin thu thuế muối một phần mười. Chỉ có chương của Vương Nham Tẩu là có ghi chép này. Ngày 28 tháng giêng năm sau, pháp chế muối ở Hà Bắc đều theo như cũ, có lẽ là không theo đề nghị của Tử Kỳ, chẳng phải là do chương sớ của Nham Tẩu này đã tác động sao? Lời nói không thể dừng lại là như vậy. Đại để, 《Cựu lục》 đối với những chính sách mới thời Nguyên Hựu đều xóa bỏ, không ghi chép đầy đủ, 《Tân lục》 tra cứu không kỹ, phần nhiều theo lối cũ, những ý tốt đẹp trong việc thay đổi chính sách thường không được phân biệt rõ ràng, thật đáng than thở.
《Vương Nham Tẩu triều luận》 chép: Bàn về việc cử Phạm Ngạc tăng thuế muối ở Hà Bắc rằng: “Cất giữ ở quan không bằng cất giữ ở dân, có lợi cho trên không bằng có lợi cho dưới. Năm Khánh Lịch thứ 6, có người bàn về pháp chế muối, mỗi năm tăng thêm hơn 59 vạn quan. Nhân Tông nói: ‘Sợ rằng dân Hà Bắc sẽ phải ăn muối đắt’, nên không theo. Nay sắc thư vẫn còn, mong bệ hạ lấy tổ tông làm gương. Lúc mới lên ngôi, nên thu phục nhân tâm, không nên vì lợi nhỏ mà đánh mất lòng dân.” Lại bàn về việc tăng thuế muối không tiện, Vua nói: “Cần bàn bạc thêm”, tấu rằng: “Dù bệ hạ chưa muốn quyết đoán, mà để các đại thần cùng bàn, thì mong bệ hạ lấy chương sớ của thần mà xem xét ý của các đại thần, trong đó những lời gian trá để bảo vệ việc nhất thời có thể thấy, lời ngay thẳng để cứu vớt nỗi khổ của trăm họ cũng có thể thấy, may mắn bệ hạ mỗi lần xuất ngôn, để nêu cao luận điệu của bậc trung hiền, mà chủ trương mưu kế cứu vớt hoạn nạn. Cũng đủ để ngăn chặn lòng gian tà, thi hành ân trạch thánh nhân.”)
Nham Tẩu lại nói: “Thần trộm nghĩ triều đình biết rõ pháp chế muối ở Giang Tây, Hồ Nam gây hại sâu sắc, khiến dân chúng không còn đường sống, trước hết đã cử sứ giả đi xem xét, tấm lòng thương xót của bệ hạ muốn cứu giúp, thật là đến nơi đến chốn. Nghe nói dân hai lộ, ngửa mặt về phương Bắc vui mừng mà bảo nhau rằng: ‘May mắn triều đình biết nỗi khổ của ta mà nghĩ đến ta, những kẻ lập pháp để lừa dối trên, sẽ bị trị tội.’ Có người cùng nhau làm lễ Phật nơi đường lớn, để cầu chúc vạn thọ; có người uống rượu nơi chợ, reo hò chúc mừng; có người đốt hương trên đầu, thắp hương trên đỉnh, luyện hương trên cánh tay để đón sứ giả. Suy ra mà xem, lòng mong đợi ân huệ của bệ hạ biết bao! Dù có cởi trói treo ngược cũng không đủ để ví sự khẩn thiết ấy. Thần trộm biết sứ giả phải đến giữa mùa hè năm sau mới có thể về triều tâu lại, nếu phải đợi sứ giả trở về rồi mới thay đổi pháp chế, thì dân ở xa tội tình gì, phải chịu đựng khổ sở lâu đến thế sao? Há không nghĩ rằng một ngày gian nan, không phải là một ngày bình yên sao? Thần e rằng có người không kịp đợi ân trạch của bệ hạ mà đã chết mất. Kính mong bệ hạ hạ lời đức âm, trước hết bãi bỏ pháp chế ấy, đợi sứ giả tâu lên, rồi bàn bạc việc làm trong tương lai. Như vậy, dân chúng hai lộ dù có chết cũng không hối hận.”
(Tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 6, lần đầu ủy thác cho Trần Tư, Trương Sĩ Trừng thi hành pháp chế muối. Ngày Đinh Sửu tháng 4 năm thứ 8, sai Trần Thứ Thăng đi xem xét. Ngày Mậu Thân tháng 5, Thứ Thăng kiêm lĩnh Hồ Nam. Ngày Tân Tỵ tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất, Kiển Chu Phụ bị trị tội. Ngày Nhâm Thìn tháng 2 nhuận, Sĩ Trừng bị trị tội. Nham Tẩu dâng lời, không rõ thời gian, phụ sau phần pháp chế muối Hà Bắc.)
[33] Ngày Canh Thìn, Thị ngự sử Lưu Chí tâu: “Xét theo tờ trát của Môn hạ tỉnh ngày 7 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 5, Môn hạ tỉnh tấu: ‘Căn cứ vào tờ trình của sảnh Cấp sự trung: Phòng Phong bác xét lại tờ trát của Trung thư ngày 18 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 3, Ngự sử trung thừa Lý Định tâu xin rằng mọi việc bổ nhiệm đều phải do Phong bác ty báo cáo ngay trong ngày cho đài. Vâng theo thánh chỉ: “Chấp thuận.” Tiếp theo, căn cứ vào tờ trát của Trung thư ngày 2 tháng 9 cùng năm, Đồng tri Gián viện Thái Biện tâu xin rằng mọi việc bổ nhiệm và thay đổi sự việc đều phải do Phong bác ty sao chép và báo cáo. Vâng theo thánh chỉ: “Mọi việc bổ nhiệm và thay đổi sự việc đến Phong bác ty đều phải sao chép và báo cáo.” Xét lại gần đây theo chế độ mới, Phong bác ty được chuyển về Môn hạ tỉnh thành Phong bác phòng, còn Phong bác ty cũ theo chỉ dụ triều đình bị bãi bỏ. Lại theo điều lệ mới của quan chế, Gián viện đã bị bãi bỏ, Gián quan thuộc về quan chức ngoài Trung thư Môn hạ, không nói rõ điều lệ cũ có còn hiệu lực hay không. Tất cả các việc bổ nhiệm và thay đổi sự việc mà phòng này tiếp nhận, hiện nay chưa dám theo lệ cũ báo cáo, cũng chưa dám ngừng báo cáo.’ Tờ bạch thiếp nói: ‘Nếu theo lệ cũ báo cáo, chưa rõ lấy tên cơ quan nào? Nếu lấy tên phòng này, vì đã thuộc về Môn hạ tỉnh; nếu lấy tên tỉnh này, lại sợ rằng nội tỉnh không có lý do báo cáo cho ngoại ty. Và xét lại điều lệ, không có điều lệ nào quy định Môn hạ tỉnh gửi văn bản cho ngoại ty.’ Vâng theo thánh chỉ: ‘Không cần báo cáo nữa.'”
Thần trộm nghĩ triều đình cẩn thận trong việc ban hành mệnh lệnh, nên bắt các cơ quan kiểm tra lẫn nhau, trong thì Môn hạ được quyền phong bác, ngoài thì Đài gián được quyền bàn luận. Tuy nhiên, ở triều đình, việc lộ thông tin, pháp luật nghiêm cấm, ai dám truyền ra? Nếu không phải Môn hạ kịp thời báo cáo, thì Đài gián chỉ nghe được sau khi mệnh lệnh đã ban hành. Đó là lý do Lý Định và Thái Biện xin như vậy, và Tiên đế đã chấp thuận. Sau đó, Cấp sự trung chỉ vì Phong bác ty đổi thành phòng, lại nghi ngờ nội tỉnh không thể báo cáo cho ngoại ty, nên làm tờ trình, dẫn đến có chỉ dụ tiếp theo sửa đổi. Hiện nay, chỉ khi sắc mệnh đã đến Lục bộ, các bộ đã thi hành, mới bắt đầu báo cáo theo sự việc, lý lẽ không ổn, Cấp sự trung bỏ qua việc phản bác, hoặc phản bác không đúng, các mệnh lệnh bổ nhiệm, chế độ thay đổi chính sách, thường đã được thi hành rồi, mà Đài gián mới bàn luận sau đó, dù Thánh từ khoan dung nghe theo, chắc chắn không khó để sửa đổi, nhưng nếu có người cho rằng mệnh lệnh đã ban hành, không thể thay đổi, thì việc đặt quan chức không có ích gì.
Vì vậy, thần ngu muốn xin tạm dùng chỉ dụ năm Nguyên Phong thứ 3, mọi việc bổ nhiệm và thay đổi sự việc, đều do quan Phong bác của Môn hạ, theo lệ cũ báo cáo ngay trong ngày cho Gián quan và Ngự sử đài, để mệnh lệnh chưa ban hành, đã có thể bổ sung trước, và triều đình cũng dễ thi hành. Tờ thiếp hoàng nói: ‘Phong bác ty đổi thành phòng, tên tuy khác nhưng nhiệm vụ không khác, nếu cho rằng không thể dùng văn bản, e rằng nên dùng Cấp sự trung gửi văn bản cho các nơi. Xin xem xét.’ Không được trả lời.”
(Ngày 16 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, Lưu Chí lại tâu việc này.)
[34] Ngày Quý Mùi, Long đồ các đãi chế Triệu Ngạn Nhược kiêm Thị độc, Bí thư giám Phó Nghiêu Dũ kiêm Thị giảng.
[35] Trước đó, Thị ngự sử Lưu Chí tâu rằng: “Thần trộm nghĩ rằng đức của bậc thánh nhân, sự thông minh sáng suốt vốn là thiên tính sẵn có. Tuy nhiên, Khổng Tử nói: ‘Ta không phải sinh ra đã biết, mà là do ham mộ cổ nhân và siêng năng học hỏi mà biết.’ Mạnh Tử cũng nói rằng mọi người đều có bốn mầm mống đức tính, giống như lửa mới bắt đầu cháy, suối mới bắt đầu chảy, chỉ cần bồi đắp thêm là được. Nếu không bồi đắp, sẽ đánh mất gốc rễ[7]. Xưa kia, Chu Thành Vương lên ngôi khi còn nhỏ, các bậc thầy và bảo thần như Chu Công, Thiệu Công, Thái Công đã dạy dỗ, dẫn dắt ngài bằng đạo đức và lễ nghĩa. Những người bên cạnh ngài đều như vậy, nên dù Thành Vương còn nhỏ, những gì nghe thấy đều là chính đạo. Đến đời Nhân Tổ, khi ngài lên ngôi cũng ở tuổi thanh niên, đã dùng Lý Duy, Yến Thù làm Thị độc, Phùng Nguyên, Tôn Thích làm Thị giảng. Những người này đều là danh nho đức cao, được chọn lựa kỹ càng.
Khi ấy, ngài vừa thân chính, trong lúc rảnh rỗi xử lý việc nước, thường vào ngày chẵn triệu họ vào cung, giảng giải kinh điển hoặc đọc các câu chuyện về tổ tiên. Chính sự sáng suốt, ân trạch vô cùng. Nay Hoàng đế bệ hạ kế thừa thiên mệnh, nối tiếp nghiệp lớn, với tư chất xuất chúng, lại được Thái hoàng thái hậu bệ hạ nhân từ đức độ bảo hộ, dẫn dắt, nên sự thành tựu đã đầy đủ. Tuy nhiên, ngài đang ở tuổi thanh xuân, cần được bồi dưỡng, những người bên cạnh nên là người chính trực, những việc nghe thấy nên là việc chính đáng[8]. Nhờ đó, gây dựng điều thiện, nuôi dưỡng nguồn cội, giữ gìn từ nhỏ, cẩn thận từ đầu[9], tôn trọng đức tốt, phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu biết, làm cho ánh sáng rạng rỡ. Vì vậy, các chức quan khuyến giảng, tiến độc, phụ đạo không thể không chọn lựa cẩn thận[10]!
Thần thấy Kiêm Thị giảng, Cấp sự trung Lục Điền, Thái Biện đều là người trẻ mới được đề bạt, vượt cấp nhanh chóng, xét về đức nghiệp thì chưa được thử thách, xét về uy tín thì vốn bị coi thường, để họ giữ chức vụ này, mọi người đều cho là không thích hợp. Xin bãi chức kiêm nhiệm của họ để thỏa lòng công luận. Mong Thánh từ trong số các quan Lưỡng chế trở lên, chọn người thông hiểu kinh thuật, có đức hạnh, trung tín hiếu đễ, thuần hậu lão thành để đảm nhiệm chức vụ này. Vào những ngày không nghe chính sự, ở điện yên tĩnh, thỉnh thoảng cho triệu vào đối đáp, để họ giảng giải kinh sách, trình bày nghĩa lý trong thiên hạ, đạo lý quân thần phụ tử xưa nay, nhằm mở rộng trí tuệ, đáp ứng ý nguyện kế thừa và cầu trị.” Do đó, Lục Điền và Thái Biện đều bị bãi chức, còn Triệu Ngạn Nhược và Phó Nghiêu Dũ được bổ nhiệm.
(Việc Lục Điền, Thái Biện bị bãi chức Kinh diên, Thực lục không ghi chép. 《Chính mục》 ngày 18, có lệnh từ sau rèm: “Sắp mở Kinh diên, nên chọn người lão thành đoan chính, Triệu Ngạn Nhược, Phó Nghiêu Dũ hai người thế nào? Lục Điền, Thái Biện còn trẻ, thay thế họ.”)
[36] Sứ giả nước Hạ là Lã Tắc, Ngôi Danh Hoài Phổ đến yết kiến ở điện Diên Hòa. Vì tang mẹ là Lương thị nên đến báo cáo.
[37] Chiếu rằng: “Hoàng thái phi ra vào[11], kiệu khiêng lên xuống ở cửa Hội Thông.”
(Cựu lục chép: Phi là mẹ Vua, như vậy là không đúng lễ. Tân lục biện luận rằng: Hoàng thái phi ra vào, kiệu khiêng lên xuống ở cửa Hội Thông, e rằng không thể cho là không đúng lễ. Nay bỏ sáu chữ đó.)
[38] Ngày Ất Dậu, an táng Thần Tông Anh Văn Liệt Vũ Thánh Hiếu Hoàng đế tại Vĩnh Dụ Lăng.
(Vào tháng 9 năm Thiệu Thánh thứ 2, tháng 11 năm Sùng Ninh thứ 3, và tháng 11 năm Chính Hòa thứ 3, tổng cộng ba lần gia tôn thụy hiệu, nhưng ở đây chỉ ghi lại thời điểm an táng ban đầu.
Trong 《Tống Hồng Sơn Tập》 có bài văn tế Thần Tông Hoàng đế viết: “Vào ngày 6 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 8, năm Ất Sửu, Đại Hành Hoàng đế dời ngai vàng về Dụ Lăng, trời đất u ám biến sắc, người Hoa cùng người Di đều chạy đến chung nỗi đau. Cầu Kiều Sơn đã đóng lại, nhân thế vạn năm! Quan thần Phùng Mỗ, kính nghe tin đại sự, nhân dịp này, lòng thành kính đã bày tỏ sự tôn sùng, dâng lễ vật nhỏ để bày tỏ lòng tưởng nhớ. Mong thần linh thấu hiểu, xin được bày tỏ đôi lời ai điếu. Lời rằng: ‘Từ thời Trung Đường, suy tàn đổ nát, dân chúng lầm than, tai họa kéo dài qua năm đời. Công đức tổ tiên, mở mang trời đất, năm đời thánh quân rực rỡ, muôn dân được thịnh vượng. Một trăm ba mươi năm, xưa nay chưa từng có. Lòng trời ưu ái, nghiệp đế càng thêm hưng thịnh.
Kính nghĩ Đại Hành Hoàng đế, ứng vận mà sinh, ngày càng hưng thịnh, sáng suốt. Nhân từ xa rộng, hiếu đạo đến cùng, văn trị rực rỡ, võ công thành tựu. Tin dùng tướng tài không nghi ngờ, tùy thời thay đổi để khắc phục tệ nạn. Lo cho dân đến mức vất vả, tính toán kỹ lưỡng để kinh doanh. Pháp chế nhà Hán mới mẻ đẹp đẽ, quan chế nhà Thuấn hòa bình. Nhớ tướng tài thời xưa, khôi phục phủ binh nhà Đường, tài mưu lược đều đủ, binh khí tất phải tinh xảo. Cờ thần hướng đến đâu, dân man di được yên ổn. Uy danh vang đến Tây Vực, giáo hóa lan khắp Nam Minh. Kim Xương Lục Bộ, Bích Thủy Tam Xá[12], pháp độ sâu xa, văn chương rèn luyện. Bảy năm nhuận qua, một lần biến hóa, sắp cử hành lễ hội lớn như Vân Đình, xa đuổi theo dấu vết thời Đường Ngu.
Ôi! Há ngờ đạo cao đức trọng, lại bỏ cõi đời mà cưỡi mây, giấc ngủ dài đột ngột, chín tuổi chỉ là lời nói suông. Trong cung có mẹ hiền, bên ngoài có Vua kế vị sáng suốt, cúi ngửa giao phó, từ đầu đến cuối đều lo lắng chăm chỉ. Lời di huấn trong tranh vẫn còn, tiếng chuông khánh vang vọng không nghe.
Ôi đau thương! Sương đầu mùa trên sông Hà, Lạc, chim nhạn bay, trời sắp sáng trên núi Câu, Tung, gió buồn thổi, xe ngọc dừng bánh, cửa vàng mở ra. Cung kiếm cất giấu mãi mãi, bàn ghế dẹp đi mà lòng vẫn nghi ngờ. Xe cung tịch mịch sắp trở về, ngựa tiên thong dong không trở lại. Ôi đau thương! Giữ đất bị ràng buộc, xa nước đường xa, mang ơn mà nhớ nhung, tiễn đưa mà hồn tan. Cảm thần du nơi biển suối, chỉ rơi lệ nơi mây trời[13]. Ôi đau thương! Kính xin hưởng lễ!”).
[39] Ngày Bính Tuất[14], ban chiếu rằng: Những việc thuộc các cơ quan Tự, Giám liên quan đến các địa phương bên ngoài, nếu cần tra xét và thúc giục, thì cho phép thi hành. Đây là theo đề nghị của Lang trung Hình bộ Đỗ Hoành.
(Cựu lục chép: Từ khi chế độ quan chế được thi hành, các cơ quan Tự, Giám không xử lý việc bên ngoài, chỉ có Đô Thủy Giám và Đại Lý Hữu trị ngục được phép ban hành văn thư. Đến lúc này, Lang trung Hình bộ Đỗ Hoành đã xem xét và thay đổi chế độ, dẫn chứng chế độ thời Đường để đề nghị. Triều đình đồng ý. Tân lục đã bỏ hết những chi tiết này, cần xem xét lại.)
[40] Ban chiếu bãi bỏ phép đo đạc ruộng đất (phương điền).
(Theo Cựu lục: Tình trạng thuế và lao dịch không đều đã kéo dài lâu, người giàu đóng ít, người nghèo đóng nhiều, nên hộ dân nghèo ngày càng khốn đốn. Tiên đế thương xót, đã lập ra phép đo đạc ruộng đất để điều chỉnh. Phép này rất chi tiết, giúp lao dịch không còn tình trạng nặng nhẹ bất công. Nhưng nay lại bãi bỏ đột ngột.
Tân lục biện giải rằng: Thần Tông thương xót tình trạng thuế và lao dịch không đều, nên lập ra phép đo đạc ruộng đất để điều chỉnh. Tuy nhiên, do quan lại không đủ năng lực, dẫn đến gây phiền nhiễu. Đến lúc này mới bãi bỏ, không phải là đột ngột. Từ chữ “thuế dịch” đến “bãi bỏ đột ngột” gồm 40 chữ đều bị xóa bỏ. Phép đo đạc ruộng đất bắt đầu ban hành từ tháng 8 năm Hi Ninh thứ 5.)
[41] Quyền Phát khiển Kinh Tây lộ Chuyển vận phó sứ Thẩm Hi Nhan được điều đi quản lý Thái Bình Quan. Thị ngự sử Lưu Chí tâu rằng: “Hi Nhan tại địa phương này đã tự ý khởi công xây dựng, thu góp tiền bạc trái phép. Triều đình đã cử quan điều tra xác minh, nhưng vẫn còn nhiều việc cần xét hỏi, gây phiền nhiễu không cần thiết. Xin trước hết cách chức để các địa phương khác biết mà răn đe.” Do đó có mệnh lệnh này.
(Cựu lục chép rằng chiếu thư nói ông ta tham lam, Tân lục theo đó. Nay dựa theo tấu nghị của Lưu Chí để bổ sung. 《Chính mục》 chép: Ngày 12 tháng 6 lệnh phân tích, ngày 24 tháng 7 thể lượng. Ở đây nói chiếu thư chỉ ra Hi Nhan tại nhiệm đã bóc lột.)
[42] Triều tán lang, Trực Long đồ các, Quyền đề điểm Khai Phong phủ giới chư huyện trấn công sự Phạm Tuân bị cách chức, đi nhậm chức Tri Lâm Giang quân. Tuân trước đó xin miễn ứng phụng sơn lăng, Hộ bộ không đồng ý, bèn cùng Hộ bộ tranh luận dâng tấu, sau lại xin tự nhận trách nhiệm. Triều đình xuống chiếu cho Ngự sử điều tra rõ ngay thẳng hay gian trá. Lưu Chí cho rằng Tuân nên bị cách chức trách phạt.
(Mật sớ: Ngự sử đài tấu: “Theo tờ trát của Thượng thư, Hộ bộ tâu: ‘Theo chỉ của Đô tỉnh gửi xuống, Triều tán lang, Trực Long đồ các, Quyền đề cử phủ giới chư huyện trấn Phạm Tuân tấu: “Việc ứng phụng sơn lăng Đại Hành hoàng đế, theo lệ năm Trị Bình, từ Bản Kiều đến Huỳnh Dương gồm bảy trạm, các khoản chi phí đều do các cơ quan ở kinh đô lo liệu, ước tính dùng hơn ba mươi vạn tiền, cỏ và thóc. Trước đây do Tam ty chi trả, đã trình lên Hộ bộ xin cấp phát. Thần đang giữ chức trong kinh, tài phú thu được tạm đủ dùng, nay xin tự nhận chi phí bảy trạm bằng tiền của bản ty. Các khoản tiền, cỏ, thóc cần chi ở kinh đô, không phiền Hộ bộ cấp phát.” Bản bộ xét thấy, tài phú phủ giới trước đây đều do Tam ty quản lý, đến năm Hi Ninh thứ 4 mới giao cho Ty đề điểm phủ giới chi trả. Năm Trị Bình vốn do Tam ty chi trả. Năm Nguyên Phong thứ 3 lo việc sơn lăng, lẽ ra phải do phủ giới chi trả lo liệu. Bản ty không theo lệ năm Nguyên Phong thứ 3 chi trả, lại đòi bản bộ cấp phát. Bản bộ đã yêu cầu sao chép văn bản chỉ huy của Tam ty về việc chi tiền, nhưng lại giấu giếm, không chịu nộp. Trước đó tấu rằng tài phú thu được tạm đủ dùng, không phiền Hộ bộ cấp phát, nay lại thấy trước sau mâu thuẫn. Kính xin đặc biệt xử lý.’ Vâng thánh chỉ: ‘Lệnh Ngự sử đài điều tra rõ ngay thẳng hay gian trá rồi tâu lên.’ Bản đài xét thấy, việc sơn lăng Đại Hành hoàng đế lần này, các cơ quan vốn phải theo lệ lo liệu. Ty đề điểm phủ giới rõ ràng thấy năm Nguyên Phong thứ 3 đã chi trả tiền của, lẽ ra phải căn cứ vào danh mục lúc đó mà nhận trách nhiệm lo liệu. Ty đề điểm trước sau đều nói ‘không có việc chi trả tiền của’, rõ ràng là gian trá.” Vâng thánh chỉ: “Phạm Tuân bị cách chức Trực Long đồ các, giao cho chức Tri quân.”)
[43] Tri huyện An Phúc, châu Cát là Thượng Quan Công Dĩnh tâu:
[44] Thấy chiếu thư cho phép các quan trong ngoài được dâng sớ kín, thẳng thắn nói về những thiếu sót trong chính sự triều đình và nỗi khổ của dân chúng. Trước đây, vào ngày mồng 4 tháng 6, thần đã dâng sớ, nói rằng chính lệnh và pháp độ thi hành chưa được thích đáng, việc thực hiện chưa được chu toàn, có sáu điều tệ hại, trong đó một điều là chế độ miễn dịch thu thuế của dân chưa hoàn thiện. Thần cho rằng việc để dân chăm chỉ làm ruộng thoát khỏi việc công, còn những kẻ lười biếng lại sống nhờ vào của công, đó là ý định ban đầu của triều đình khi đặt ra pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào tài sản nhiều hay ít mà thu tiền của dân, rồi dùng tiền đó để mộ những kẻ lười biếng làm việc công. Lại khiến tiền thu được không lẫn với thuế thường, trong Hộ bộ thì chia ra Tả, Hữu tào, ngoài các giám ty thì có chuyển vận, thường bình quan riêng biệt. Đó là triều đình tỏ rõ sự công bằng với thiên hạ, cho thấy rõ việc thu tiền của dân là để chi trả cho việc thuê mướn nhân công, chứ không phải để dùng vào việc chi tiêu thường ngày của quốc gia.
Tuy nhiên, thần lại thấy lạ là khi mới ban hành pháp lệnh về kỳ, tráng, hộ trưởng, đều là thuê mướn, nhưng sau một thời gian, việc của kỳ, tráng lại giao cho chính trưởng của bảo giáp, việc của hộ trưởng lại giao cho giáp đầu thu thuế. Số tiền thuê mướn trước đây, ngoại trừ tiền dùng cho thừa thiếp nhân và nhân viên của Hình pháp ty[15], còn lại đều bị phong tồn một lúc. Nếu cho rằng kỳ, tráng, hộ trưởng thực sự có thể bãi bỏ, thì số tiền dùng vào việc đó đáng lẽ phải được giảm bớt cho dân, nhưng hiện nay tiền không giảm, lại bắt chính trưởng của bảo giáp làm việc của kỳ, tráng, giáp đầu thu thuế đảm nhiệm trách nhiệm của hộ trưởng, như vậy khác nào bắt dân vừa nộp tiền để miễn dịch lại vừa phải làm việc công. Thần nghe nói năm ngoái triều đình đã hạ lệnh cho các địa phương tu sửa sách dịch, nhưng đến nay vẫn chưa ban hành. Thần mong bệ hạ nhân lúc chưa ban hành, hãy ra chiếu cho các cơ quan hữu trách lấy số tiền phong tồn của kỳ, tráng, hộ trưởng, giảm bớt đều cho dân. Lại khiến số tiền dư thừa ít thì vẫn giữ nguyên, nhiều thì không quá hai phần, để phòng khi có hộ dân bỏ trốn, hoặc gặp thiên tai hạn hán. Như vậy, việc triều đình thu thuế của dân đều có giới hạn, ân huệ ban cho dân, không gì lớn hơn thế. Kính mong được xem xét kỹ lưỡng và thi hành, để cứu giúp dân chúng, khiến họ thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Chiếu rằng: “Việc dịch của kỳ trưởng, hộ trưởng, tráng đinh trong các lộ thuộc phủ giới, đều thuê mướn, (kỳ trưởng cho phép hộ thuộc đẳng thứ ba, hộ trưởng từ đẳng thứ tư trở lên ứng mộ.) Cấp tiền thuê theo đẳng cấp. Việc trước đây dùng bảo chính thay kỳ trưởng, giáp đầu thu thuế thay hộ trưởng, thừa thiếp nhân thay tráng đinh, đều bãi bỏ. Nếu những người trước đây làm bảo chính, hộ trưởng, bảo đinh, muốn ứng mộ mà không ảnh hưởng đến việc của bảo mình thì cho phép. Tiền thuê mướn trong các lộ thuộc phủ giới, tạm thời lấy từ số tiền dư thừa của tiền dịch. Số tiền phong tồn của kỳ, hộ trưởng, tráng đinh trong các lộ[16], chuyển vào tiền dịch để chi dùng chung, số tiền dư thừa không được quá hai phần, nếu có dư thì giảm đều cho dân.”
(Cựu lục chép chiếu rằng việc dịch của kỳ trưởng, hộ trưởng, tráng đinh đều thuê mướn, bãi bỏ bảo chính, giáp đầu, thừa thiếp nhân. Tân lục theo đó. Cựu lục lại chép: Năm Hi Ninh đầu tiên, liên kết dân chúng, mười nhà làm một bảo, chọn một người trong chủ hộ có tâm lực làm bảo trưởng; năm mươi nhà làm một đại bảo, chọn một người trong chủ hộ có tâm lực nhất và tài sản nhiều nhất làm đại bảo trưởng; mười đại bảo làm một đô bảo, chọn hai người trong chủ hộ có đức hạnh, tâm lực, tài năng, dũng cảm được mọi người kính phục và tài sản nhiều nhất làm đô phó bảo chính, cùng nhau bảo đảm, cùng nhau chịu trách nhiệm, đó là phép thập ngũ thời xưa. Đến nay bãi bỏ. Tân lục biện rằng: “Phép bảo ngũ năm Hi Ninh, Thần Tông thực lục đã chép rất rõ, không cần chép lại ở đây. Đã có chiếu thuê mướn kỳ trưởng, tráng đinh, thì việc bãi bỏ bảo chính, phó đã rõ. Từ chữ ‘Hi Ninh’ đến chữ ‘bãi bỏ’ chín mươi bốn chữ xóa bỏ.” Xét lúc này bảo giáp vẫn còn, bảo chính trưởng cũng chưa bãi bỏ, cả Tân lục và Cựu lục đều sai. Điều này căn cứ vào Hồ Châu tân biên Nguyên Phong đến Nguyên Hựu tục lệnh tu nhập. Ngày mồng 4 tháng 6 dâng sớ nói sáu việc, tên họ cần tra cứu, căn cứ vào Nguyên Hựu mật sơ, đó là Thượng Quan Công Dĩnh.)
[45] Ngày Đinh Hợi, mẹ của Hạ quốc chủ qua đời, sai sứ phó là Lã Tắc Ngôi Danh Hoài Phổ đến cửa khuyết báo tang. Chiếu đưa Học sĩ viện ban chiếu hồi đáp, theo lệ năm Gia Hựu thứ nhất, cấp tặng vật phẩm hiếu tang và đồ an táng. Sai Triều phụng lang[17], Hình bộ Lang trung Đỗ Hoành sung chức Tế điện sứ, Đông đầu Cung phụng quan, Cáp môn Chi hậu Vương Hữu Ngôn sung chức Điếu uỷ sứ, lại mượn chức Cung bị khố sứ.
(Ghi chép bí mật ngày 26 tháng 10. 《Thực lục》 chỉ chép Đỗ Hoành sung chức Tế điện, Vương Hữu Ngôn làm Điếu uỷ.)
[46] Lã Đại Phòng tấu: Quân nhân Xuyên Hạp phạm pháp, dân chúng phạm trộm cắp, đều trình lên Kiềm hạt ty xét tình hình mà xử phạt. Theo lời tấu. Lại tấu: Quan chức Xuyên Hạp, xin đều do Lại bộ bổ nhiệm. Chiếu cho Lại bộ xem xét rồi tâu lên.
(Hai việc này căn cứ vào 《Chính mục》 của Đại Phòng thêm vào. “Xét tình hình mà xử phạt”, căn cứ vào mật sớ thì theo; việc bổ nhiệm quan, lệnh cho Lại bộ xem xét. Ngày 18 tháng 4 năm nguyên niên, và ngày 22 tháng 6 có thể tham khảo.)
[47] Thiên Chương các Đãi chế Phạm Thuần Nhân kiêm Thị giảng, Triều nghị đại phu Triệu Chiêm làm Thái thường Thiếu khanh, Khai phong phủ Thôi quan Triệu Quân Bật làm Tư huân Lang trung[18], Thừa nghị lang Lữ Đại Trung làm Công bộ Lang trung.
[48] Ngày Kỷ Sửu, chiếu cho Cảnh Phúc điện sứ, Vũ Tín quân Lưu hậu Lý Hiến theo lệ xá tội không truy cứu, đặc cách bãi chức nội đình. Các chức vụ Lưu hậu do công trạng mà được bổ nhiệm, giao nộp lại Thượng thư tỉnh. Do Hiến tấu việc không đúng sự thật, không nên dẫn lệ thường xá không tha, nên có mệnh lệnh này.
(Đoạn này, 《Tân lục》 đều theo 《Cựu lục》, chưa rõ ràng, cần xem xét. 《Chính mục》 chép: Lý Hiến bãi chức nội đình, bãi chức Lưu hậu. Cũng không ghi rõ nguyên nhân.)
[49] Xu mật viện tâu: “Dân huyện Tân Lạc, châu Định là Giả Trừng dâng trạng tố cáo việc dân gian khổ sở, trong đó có việc bảo giáp, mỗi huyện sai ba quan giám giáo, một viên tuần kiểm, hai người tam ban để điểm, cùng người hành trượng ở một trường bảo đinh năm mươi người, xử phạt đến bốn mươi chín người, mỗi người đều bị đánh mười ba trượng vào mông, chỉ đánh một bên, giữ lại một bên, lần sau tuần thí sẽ xử phạt tiếp. Lại có việc cung nỗ quá cứng, khiến bảo đinh thường xuyên bị đánh trượng. Nay định rằng ở phủ giới và ba lộ, quan tuần giáo bảo giáp cùng chỉ sử, nếu bảo giáp có phạm tội, đều gửi văn thư về huyện, nếu không có huyện thì báo lên châu, quân để xử lý. Tất cả các chỉ dụ trước đây cho phép xử phạt, đều không được thi hành nữa.” Được chấp thuận.
[50] Chiếu rằng: “Các quan đề cử bảo giáp ở phủ giới và ba lộ đều bãi bỏ, lệnh cho các lộ đề hình và ty đề điểm phủ giới kiêm lĩnh. Việc bảo giáp chỉ dạy vào mùa đông ba tháng, bắt đầu thi hành từ ngày mùng một tháng giêng năm sau.”
(Thực lục chép việc bãi bỏ các quan đề cử bảo giáp ở phủ giới và ba lộ, các lộ do đề hình ngục kiêm lĩnh. Việc bảo giáp chỉ dạy vào mùa đông ba tháng. Bảo giáp bắt đầu dạy từ tháng mười, đến tháng giêng thì dừng. Xem ngày 6 tháng 7.)
[51] Xu mật viện tâu: “Các công việc dưới quyền các tướng vốn do ty tướng thi hành. Vì tri châu, tri huyện cũng hợp tác cùng làm, nay lập điều lệ, các công việc dưới quyền tướng đều do tri châu cùng quản lý, ở huyện thì do tri huyện cùng quản lý.” Được chấp thuận.
(Mật ký ngày 28. Thực lục chép Xu mật viện tâu việc công sự của ty tướng muốn lệnh cho thủ lệnh cùng trị, được chấp thuận.)
[52] Miễn tiền mua ruộng đất hộ tuyệt mà gia đình cựu tướng Ngô Sung còn nợ. Vì vợ ông là Lý thị tự trình bày.
[53] Hàn Duy tâu: Thần trộm thấy thời tiên đế, hưng binh lớn, đánh sang phía tây nước Hạ, ban đầu lấy danh nghĩa vấn tội, sau đó chiếm đất của họ, khiến người Hạ có cớ, mất đi sự cung thuận. Tục nước họ lấy việc không báo thù làm nhục, nay thế lực nước họ dần hồi phục, ắt sẽ đến đánh chiếm lại đất cũ. Nếu không may lại bị họ đoạt mất, thì công lao nhiều năm của tiên đế sẽ mất trong một sớm một chiều, thật đáng hổ thẹn. Nếu lại hưng binh chống trả, thì biên giới sẽ lại nảy sinh mâu thuẫn, thần e rằng chiến tranh liên miên, tai họa không dứt. Thần trộm nghĩ, việc binh không thể không ngừng có ba lý do, đất không thể không bỏ có năm lý do, xin trình bày với bệ hạ. Kính nghĩ, hoàng đế tuổi còn trẻ, thái hoàng thái hậu ở sâu trong cung cấm, há thường nghe việc quân sự? Vạn nhất giặc đến xâm phạm biên giới, tin báo dồn dập, điều động binh lương, ứng phó không kịp, e rằng sẽ làm kinh động thánh tâm, khiến ngài lo lắng. Đó là lý do thứ nhất việc binh không thể không ngừng. Từ sau trận Linh Châu, thất bại ở Vĩnh Lạc, lực lượng Quan, Thiểm suy yếu, khí thế quân sĩ chưa hồi phục. Nay nếu lại hưng binh lớn, ắt sẽ có kẻ vi phạm quân lệnh, bỏ trốn thành giặc cướp. Ngoại hoạn chưa dứt, nội loạn lại nổi, thần e rằng mối lo của triều đình không phải ở nước Hạ. Đó là lý do thứ hai việc binh không thể không ngừng. Đất đai trải dài ngàn dặm, đóng quân mấy chục vạn, ắt phải nhờ bậc đại thần mưu lược sâu xa, uy tín cao để thống lĩnh, tướng tài trung nghĩa dũng cảm ra trận chiến đấu, quan lại có năng lực lo việc hậu cần. Xét lại các đại thần hiện tại, cùng với những sự việc gần đây, e rằng chưa đủ để đảm đương việc này, huống chi vũ khí đều là thứ bỏ lại, kho tàng có nguy cơ cạn kiệt. Đó là lý do thứ ba việc binh không thể không ngừng.
[54] Tiên đế vì Bính Thường nhận tước mệnh của triều đình, mà quốc mẫu tự ý bắt giam và phế truất, nên phát binh hỏi tội. Nay Lương thị đã chết, Bính Thường phục vị, tỏ ra cung thuận, có lễ của phiên thần. Nếu nhân lúc này trả lại đất cũ, thì danh nghĩa hỏi tội của Thần Tông không phải là lời nói suông, ý ban đất của tân hoàng thực là theo chí của tiên đế. Đây là lý do thứ nhất không thể không bỏ đất này. Triều đình từ khi chiếm được đất Hi Hà, mỗi năm tốn năm sáu trăm vạn tiền, sau khi chiếm được Lan Châu, lại tốn thêm hơn một trăm vạn. Càng được nhiều, càng tốn kém, việc mở rộng đất đai không có lợi, đã rõ ràng. Đây là lý do thứ hai không thể không bỏ đất này.
Có người bàn rằng Lan Châu gần sào huyệt của người Hạ, là nơi hiểm yếu nhất. Những nơi khác cũng có chỗ hiểm yếu, có thể xây thêm thành lũy, bỏ đi thì không tiện. Nếu bệ hạ muốn lại khởi binh, thu phục đất Linh, Hạ, thì giữ lại cũng được. Nếu không có ý đó, hao người tốn của, giữ đất trống rỗng, thì lại thêm một Hi Hà nữa. Kính mong bệ hạ lấy thanh tĩnh làm tâm, nhân huệ làm chính sách, e rằng việc này không thể lại khởi lên ngày nay. Đây là lý do thứ ba không thể không bỏ đất này. Liêu, Hạ hai nước, đời đời kết thông gia, lại có thế chân răng môi, nếu chẳng may Liêu Quốc gửi thư viện cớ ý khởi binh của tiên đế, lấy việc Lương thị chết, Bính Thường phục vị làm lý do, đến xin lại đất đã mất, thì họ vừa nắm được nghĩa lý của ta lại cướp mất cơ hội của ta. Lúc đó triều đình muốn cho đất, thì là nghe lệnh của Liêu Quốc, mà ân đức về họ. Không cho, thì là phơi bày lỗi của tiên đế, tổn hại uy tín của đại quốc, mà biên hoạn lại nổi lên. Đây là lý do thứ tư không thể không bỏ đất này. Trung Quốc quý là vì có lễ nghĩa ân tín. Tục của họ đáng khinh là vì tham lam bạo ngược. Nay nắm cái quý của mình, đối phó với cái khinh của họ, thì Trung Quốc được tôn trọng. Cho họ cái họ muốn, để đạt cái ta không muốn, thì địch phải phục. Đây là lý do thứ năm không thể không bỏ đất này.
[55] Thần nghe rằng Cổ Công Đản Phụ ở đất Bân bị Nhung Địch đánh, muốn chiếm đất và dân, dân đều giận dữ muốn đánh. Cổ Công nói: “Có dân lập Vua là để làm lợi cho họ. Nay Nhung Địch đánh nhau, muốn lấy đất và dân của ta, dân ở với ta hay ở với họ có gì khác? Dân vì ta mà đánh nhau, giết cha con người ta để làm Vua, ta không nỡ làm vậy.” Bèn cùng thuộc hạ rời Bân, dừng lại ở chân núi Kỳ, dân Bân cả nước dắt già bồng trẻ, đều trở về với Cổ Công ở chân núi Kỳ. Các nước lân cận nghe tiếng nhân đức của Cổ Công, cũng nhiều người về theo. Cổ Công Đản Phụ là vị Vua đầu tiên của nhà Chu. Nhung Địch đánh đất phong của Cổ Công, nhưng Cổ Công không nỡ giết cha anh người ta để chiếm đất, lòng nhân của ông cảm động lòng người sâu sắc, nên dân Bân dắt già bồng trẻ trở về, các nước lân cận cũng nhiều người về theo. Đời sau nhờ lòng nhân ái được lòng dân, đến đời Vũ Vương, bèn có thiên hạ. Nay lại cướp đất người, lại muốn giết cha anh người ta để giữ đất, khác với Cổ Công Đản Phụ xưa. Bệ hạ thử tính xem, hiệu quả của việc tu đức hành nhân với lợi ích của việc dùng binh mở đất, cái nào nhiều hơn?
Thần lại nghe, Tề Tuyên Vương ngồi trên điện, có người dắt bò đi qua dưới điện, Vua thấy hỏi: “Bò đi đâu?” Đáp: “Để tế chuông.” Vua nói: “Thả nó đi, ta không nỡ thấy nó run rẩy, như kẻ vô tội mà phải chết.” Nên Mạnh Tử nói rằng: “Tấm lòng ấy đủ để làm vương rồi. Nay ân huệ đủ đến cả loài vật, mà công lao chưa đến với dân, là không làm chứ không phải không thể làm.” Thần thấy từ khi hoàng đế lên ngôi, Thái hoàng thái hậu bệ hạ nhiếp chính, phàm mệnh lệnh nào bất tiện cho dân đều bãi bỏ, lợi ích có thể đến với dân đều ban cho, thu nạp bề tôi ngay thẳng ôn hòa, bãi chức quan lại tham tàn. Từ kinh sư đến các nước chư hạ, dân chúng vui mừng ngưỡng mộ như cha mẹ hiền, có thể nói là nhân đức đến cùng cực. Nay ân huệ của bệ hạ đủ đến cả Trung Quốc, mà công lao chưa đến với ngoại di, đúng như Mạnh Tử nói, không phải không thể làm, mà là không làm. Bệ hạ nếu thực lòng lúc này ban chiếu minh, đem hết đất đai quân đội chiếm được trả lại cho nước Hạ, thì Vua tôi nước ấy cảm ân bệ hạ, dân chúng cảm ơn triều đình. Các nước lân bang nghe Trung Quốc thi hành nhân chính, quân dân ta biết nhà Vua quý trọng sinh mạng, thì tiếng vui mừng, lòng ngưỡng mộ, sẽ còn hơn cả kinh sư và các nước chư hạ. Kính mong bệ hạ xem xét đức hạnh của Cổ Công, suy nghĩ tấm lòng của Tuyên Vương, xem xét lời nói chí lý của Mạnh Tử, xét kế trung thành của thần ngu muội, phát lòng thành quyết đoán mà thi hành. Thần nghĩ không chỉ kẻ địch cảm phục, trời xét đức giúp thuận, cũng sẽ ban phúc vô cùng.
Sách 《Thư》 nói “Chỉ có đức mới động được trời”, lại nói “Lòng thành cảm động thần linh, huống chi là dân có mầm”, đó đều là điều thánh vương đời trước đã làm có hiệu quả, mong bệ hạ đừng nghi ngờ. Còn như tính toán chi phí đã qua, tiếc đất khó giữ, hao tốn vàng bạc, động binh mã, để tranh thắng bại không biết trước, lại còn có họa về sau, đó đều là lời bàn tầm thường của thế tục, đâu đáng để bệ hạ nghe! Thần xin soạn sẵn bản thảo chiếu ban cho nước Hạ, dâng lên. Thiếp hoàng nói: Thần nay trình bày, sợ rằng việc cơ mật biên phòng, bệ hạ đã suy nghĩ kỹ, nên không ngại nói nhiều. Khi các phụ thần tấu trình, có thể giúp bệ hạ quyết đoán. Chỉ xin lưu lại trong cung, làm chủ ý thi hành.
[56] Lại tâu: Những điều thần trình bày đều rất hợp lẽ phải, và suy nghĩ về việc cần làm hiện nay, không gì hơn kế sách này, mong bệ hạ xem xét kỹ và suy ngẫm sâu xa. Nếu tranh giành đất đai và giao chiến, thì về sau họa phúc sẽ không thể lường được.
[57] Lại tâu: Nếu bệ hạ phát khởi lòng thành, lấy việc ngừng binh và yêu dân làm ý, tự đủ để động đến trời và cảm hóa người, cũng không cần đợi họ đến xin đất rồi mới ban cho.
[58] Lại tâu: Người xưa coi rợ Địch như ngoại hóa[19], chỉ nên tự tính toán lợi hại[20], chứ không nên so đo với họ. Thần trộm nghĩ rằng triều đình hiện nay chưa phải là lúc dùng binh và làm khổ dân, các bậc thánh vương đời trước khuất phục trước rợ Địch không phải là ít, đều là ý này. Huống chi nay tự xử ở lẽ phải rất cao, không phải là khuất phục.
[59] Lại tâu: Những điều thần nói hôm nay, cần phải làm kịp thời mới được, nếu nước Hạ khởi binh xâm phạm biên giới, người phương Bắc gửi thư xin đất, thì sẽ mất cơ hội của ta, không thể dùng được nữa. Người xưa tu đức hành nhân, không tính toán lợi hại nhất thời. Tại sao vậy? Vì công lao tu đức hành nhân lớn, còn lợi hại mà người đời tính toán nhỏ, lớn nhỏ cách xa như trời với đất vậy. Lại tâu: Kế sách của thần hôm nay, chính là để thực hiện ý hỏi tội của tiên đế, mở rộng đức hành nhân của bệ hạ, trong yên lòng sĩ dân, ngoài tiêu trừ mối họa của kẻ địch, nhưng vẫn chưa nói hết được lợi hại của việc phòng thủ biên giới. Thần nghe nói triều đình đã triệu Phạm Thuần Nhân, tri châu Khánh, đến. Thuần Nhân và cha ông đều làm tướng, rất hiểu rõ tình hình phương Bắc và việc biên cương, mong bệ hạ thương xét, thúc giục Thuần Nhân vào triều, hỏi han trực tiếp, để có thể xem xét kỹ càng hơn.
[60] Chiếu thảo ban cho Hạ quốc chủ viết: “Trước đây, Thần Tông hoàng đế thấy ngươi đời đời được phong tước, làm bình phong cho triều đình, nhưng quốc mẫu cùng các đại thần phụ chính đã tự ý giam cầm và phế truất ngươi, nên đã phát binh lớn để hỏi tội. Gần đây nghe tin quốc mẫu đã qua đời, khanh lại nắm quyền chính, từ khi tiên đế băng hà, đã nhiều lần sai người đến viếng và tế lễ, tỏ ra cung thuận, giữ lễ phiên thần, Trẫm rất khen ngợi. Trẫm nhận mệnh trời, thống trị vạn nước, kẻ nào thuận theo thì khen thưởng, kẻ nào trái mệnh thì trừng trị, nghĩa không phân biệt thân sơ. Trẫm khen ngợi việc khanh phục vị và làm tròn chức vụ, thương xót dân chúng của ngươi mất đất mất nghiệp, để hoàn thành chí nguyện của tiên đế, nay trả lại cho nước ngươi những vùng đất mà quân đội triều đình đã chiếm được, khanh hãy rõ ràng dụ dân chúng, cho họ trở về nơi cũ sinh sống và canh tác, đừng để xảy ra hậu họa, tuân theo mệnh lệnh của Trẫm, và hãy luôn trung thành siêng năng.”
(Tấu sách này của Duy, không rõ thời điểm. Chức vụ của ông là Tư chính điện học sĩ[21], Chính nghị đại phu kiêm Thị độc. Xét rằng Duy đã được thăng chức Tư chính điện đại học sĩ vào ngày 18 tháng 10, lại thấy ngày 16 tháng 10 bổ nhiệm Phạm Thuần Nhân làm Thiên Chương các đãi chế, ngày 25 tháng 10 bổ nhiệm làm Thị giảng, Duy nói đã triệu tập Thuần Nhân, thì chắc chắn là sau ngày 25, nếu là sau ngày 25 thì phải gọi là Tư chính điện đại học sĩ. Có lẽ khi biên soạn đã lỡ bỏ sót chữ “đại”[22]. Lại thấy chiếu thảo của Duy viết “quốc mẫu qua đời”, xét việc Bỉnh Thường báo tang Lương thị là vào ngày 2 tháng 10, thì việc Duy tấu sách này chắc chắn là vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11. Phụ lục vào cuối tháng 10. Cần xem xét thêm.)
[61] Thị ngự sử Lưu Chí tâu: Theo tờ điệp của Lại bộ, ngày 16 tháng 10, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng phụng thánh chỉ, bổ nhiệm Đường Thục Vấn làm Tả ty gián, v.v. Lại có tờ điệp ngày 28 tháng 10, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng phụng thánh chỉ, cách chức Lục Điền khỏi chức Thị độc. Thần trộm thấy từ trước đến nay, theo chế độ triều đình và quy chế quan chế gần đây, việc bổ nhiệm, có khi do Trung thư tiến cử, có khi do Xu mật viện tiến cử[23], có khi do Tam tỉnh và Xu mật viện cùng tiến cử. Bởi vì việc kiến quan phân chức, mỗi nơi có việc cai quản riêng, pháp luật không được xen lẫn. Việc Tam tỉnh và Xu mật viện cùng thỉnh chỉ, dường như chỉ áp dụng cho việc bổ nhiệm các chức vụ như suý thần, đại lại biên trấn, hoặc nội thần có chức vụ cao mà thôi. Nay việc bổ nhiệm gián quan, cách chức thị giảng, không hiểu Xu mật viện can dự vào làm gì[24], bên ngoài xôn xao, đều cho rằng Tam tỉnh dung túng cho Xu mật viện xâm phạm làm rối loạn chính thể, không ai là không nghi ngờ.
Thần trộm nghĩ rằng, điều mà quốc gia nương tựa là cương kỷ, điều mà đại thần nên giữ là danh phận. Cương kỷ được chính đáng ở trên, thì kẻ dưới không có tà tâm; danh phận được trị ở dưới, thì chính sự không có nhiều cửa[25]. Một khi có sự xâm phạm, sao không lo sẽ nảy sinh mầm họa? Triều đình ngày nay đang cần tôn cường quân đạo, cẩn thủ pháp chế của tổ tông, nghiêm ngặt danh phận của bề tôi, để tiêu trừ tâm tiếm quyền. Nay việc phế bỏ và bổ nhiệm quan lại là đại chính của bệ hạ; mà việc của Tam tỉnh, Xu mật viện vốn không phải là chức trách của họ, vượt pháp ra khỏi vị trí, ngang nhiên bàn luận, công khai phạm phận. Thần e rằng tích tiểu thành đại, giao loạn chức trách, dần dần hành xử theo ý riêng, làm hại chính sự. Trên thì bệ hạ coi thường, dưới thì nảy sinh mối họa tranh đoạt, ngăn ngừa từ nhỏ, thực sự liên quan đến quốc thể. Mong thánh từ đặc biệt ban chiếu chỉ răn dạy các quan lại của Tam tỉnh và Xu mật viện, phàm việc bổ nhiệm tiến cử, đều phải tuân theo điều chế và thứ tự từ trước để thỉnh chỉ, nhằm quý trọng việc chính danh định nghiệp, sự việc không bị xâm phạm, để tôn trọng triều đình, để chính đáng tại vị.
[62] Tờ thiếp hoàng tâu rằng: “Thần lại lo việc bổ nhiệm các chức gián quan nói trên, từng có thánh chỉ đặc biệt cho phép Xu mật viện cùng tiến cử, nhờ có đặc chỉ là ơn thánh ưu đãi bề tôi, muốn hợp cùng ý kiến chung, nhưng tiết tháo của bề tôi, tự nên dẫn nghĩa từ chối, giữ gìn kỷ cương triều đình, để yên phận mình, không nên nhân tiện mà tiến cử, e rằng dần dần làm mất thể chế.”
[63] Giám sát Ngự sử Vương Nham Tẩu tâu rằng: “Nghe đồn rằng Chương Đôn trước rèm hỏi việc bệ hạ tự phê chuẩn bổ nhiệm gián quan, uốn éo nhiều lần, lời lẽ có ý khinh nhờn, ngoài triều truyền nhau, mọi người đều phẫn nộ. Kính xét việc bổ nhiệm gián quan vốn thuộc về Tam tỉnh, không liên quan gì đến Xu mật viện, mà Đôn không giữ phận mình, vượt chức buông lời, dám làm như vậy! Huống chi những người bệ hạ bổ nhiệm, đều là những người mà công luận trong thiên hạ từ lâu mong được làm gián quan, ngự sử, Đôn là bề tôi, đã không thể tiến cử hiền tài để giúp nước, thấy bệ hạ dùng người hiền, lại còn đố kỵ, ngăn cản, thần không biết Đôn có tâm gì để thờ bệ hạ! Vả lại, việc bệ hạ tự phê chuẩn bổ nhiệm gián quan từ thời tổ tông vẫn là chuyện thường, mà Đôn lại cho rằng bệ hạ không nên tự bổ nhiệm. Bệ hạ thông minh rộng hỏi, biết dùng người hiền mà tiến cử, kẻ bất tiếu mà cách chức, đó là đức lớn, mà Đôn lại hỏi bệ hạ biết từ đâu, đó là không muốn uy quyền thuộc về nhà Vua, người ngay thẳng vào triều đình, tâm địa bất trung của Đôn đã rõ, xâm phạm chức phận, khinh nhờn bề trên, nghĩa lý không thể dung thứ. Quốc gia có pháp luật thường, xin trị tội rõ ràng, để nghiêm chức phận bề tôi, để trọng uy quyền nhà Vua.”
[64] Lại tâu rằng: “Thần nghe ngoài triều xôn xao, đều nói Đôn cậy thế lộng quyền, không chỉ khinh nhờn mọi người, lại còn dám coi thường bệ hạ, thần đang giữ chức ngôn quan, đã nghe việc này, không dám không tâu. Nhưng việc này chỉ có bệ hạ biết, nếu lời thần không sai, xin giao xuống thi hành.”
[65] Lưu Chí lại tâu: “Thần thấy ngày mồng 6 tháng này, linh giá của Thần Tông hoàng đế tiến hành xuất phát, theo chiếu chỉ, ngày hôm trước, năm sứ và các quan chấp chính của Tam tỉnh phải túc trực tại Lưỡng tỉnh và các trạm. Thần nghe nói chỉ có Tể tướng Thái Xác là không vào túc trực, trong ngoài đều nghi ngờ và kinh hãi. Thần nghĩ rằng việc sơn lăng là việc lớn của quốc gia, việc di chuyển linh cữu và tiến hành tang lễ là nghi thức trọng đại. Vì vậy, đêm trước, các quan túc trực trong cung là để đêm đó Bệ hạ thân hành làm lễ tế điện, lòng của bề tôi đều cùng nhau tưởng nhớ, không thể yên giấc nơi riêng tư. Đến cả những người phụ trách việc chạy việc, ai dám không thành kính tuân theo thời gian quy định để cùng hoàn thành việc này? Thế mà Thái Xác đứng đầu trăm quan, giữ chức Sơn lăng sứ, đáng lẽ phải phụ trách toàn bộ công việc, lại đêm đó không đến túc trực, coi thường lễ nghi, có lòng bất kính, thần xin kính cẩn tâu lên để bệ hạ rõ. Mong bệ hạ xét đoán, đặc biệt xem xét và thi hành.”
[66] Lại tâu: “Nếu Thái Xác đã đến cửa cấm mà gặp lúc cửa đã đóng, cũng nên lập tức tâu trình nguyên do, xin chỉ thị khác, không nên công nhiên cho rằng việc không túc trực là đúng.” Không được trả lời.
(Đây là bản tấu thứ nhất. Ngày mồng 6 tháng 12 là bản tấu thứ hai, ngày 14 tháng 12 là bản tấu thứ ba, ngày 18 tháng 12 là bản tấu thứ tư, ngày 21 tháng giêng năm đầu tiên là bản tấu thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, ngày 27 là bản tấu thứ tám, ngày mồng 7 tháng 2 là bản tấu thứ chín, ngày 15 tháng 2 là bản tấu thứ mười.)
[67] Tả Chánh ngôn Chu Quang Đình tâu: “Thái Xác được tiên đế chọn dùng, lên đến chức Tể tướng, nhưng khi tiễn đưa tiên đế, lại không hết lòng cung kính. Khi linh cữu xuất phát trên đường, Xác làm Đại lễ sứ, lẽ ra phải cùng các quan theo hầu đi trước sau từ tốn, luôn lo lắng cho sự yên ổn của thần linh. Nhưng Xác không làm như vậy, mỗi khi linh cữu di chuyển, thường chạy trước đi xa mấy chục dặm để tự tiện an nhàn, còn linh cữu đi phía sau thì hoàn toàn không đoái hoài. Làm bề tôi mà bất kính, không gì lớn hơn điều này.” Lại tâu: “Chương Đôn lừa dối ngang ngược, Hàn Chẩn a dua nịnh hót để được sủng ái.” Tấu chương dâng lên nhiều lần, lời lẽ rất khẩn thiết.
(Đoạn này căn cứ theo bản truyện mới chép thêm vào, sẽ tìm bản tấu chương gốc để biên soạn theo sự việc.)
[68] Ban đầu, Thái Xác cùng Chương Đôn, Hình Thứ và những người khác cùng mưu vu cáo Thái hoàng thái hậu, tự cho rằng mình có công định sách. Hàn Chẩn vốn bất bình, đến khi Thái Xác làm Sơn lăng sứ, Chẩn bèn trước rèm tâu rõ tội trạng gian trá của Thái Xác và những người kia. Từ đó, Đông triều và ngoại đình đều biết rõ việc này. Khi Thái Xác đi sứ trở về, muốn đề bạt thuộc quan Cao Tuân Huệ làm Đãi chế, Trương Tấn làm Lang quan, Hàn Tông Văn làm Quán chức, Thái hoàng thái hậu hỏi ý Hàn Chẩn, Chẩn nói: “Tuân Huệ là người thân của Thái hoàng thái hậu; Tấn là em của Trung thư thị lang Trương Tảo; Tông Văn là cháu của thần. Nếu thưởng bạt không theo thứ tự, truyền ra trong ngoài, thì các bề tôi đều vì tư lợi riêng[26], lấy gì để làm gương cho thiên hạ?” Tuy nhiên, Tuân Huệ và những người kia cuối cùng vẫn được ban ơn theo lệ cũ.
(Điều này căn cứ theo “Hàn Chẩn tân truyền”, không rõ lấy từ sách nào. Thiệu Bá Ôn trong “Biện vu” nói: “Chẩn vốn bất bình Thái Xác, Chương Đôn dùng mưu gian của Hình Thứ vu cáo Thái mẫu, bèn trước rèm tâu rõ việc. Thái hoàng thái hậu và ngoại đình mới biết rõ chi tiết.” “Tân truyền” có lẽ căn cứ vào đây. Ban đầu Thái Xác làm Sơn lăng sứ, Lưu Chí hặc tội bất kính của ông ta, đây là chương đầu tiên. Khi việc sơn lăng xong, Thái Xác trở về triều không chịu lui, người dâng tấu nối tiếp nhau, khoảng tháng 11, khởi đầu từ Lưu Chí. Ngoại đình đã biết mưu tà của Thái Xác, nhưng không dám nói thẳng, không rõ vì sao. Thái Xác bị cách chức trước, Hàn Chẩn còn ở lại ít lâu, có lẽ vì đã vạch trần tội trạng của Thái Xác và những người kia, nên Đông triều cho là trung. Cần xem xét thêm.)
[69] Trước đó, có nhà sư tên Huệ Tín đến phủ Khai Phong tố cáo: “Các quan lại của Tăng lục ty nhận hối lộ, vi phạm pháp luật, cử các nhà sư và sa di không có giới điệp đến đạo tràng ở Phúc Ninh điện để nhận ân trạch một cách gian dối.” Tri phủ Khai Phong là Thái Kinh dựa vào bản tường trình của Tăng lục ty, kết tội Huệ Tín vu cáo, phạt đánh hai mươi gậy vào mông. Sau đó, Huệ Tín lại tố cáo lên Từ bộ, Từ bộ gửi văn thư đến Đại Lý tự yêu cầu xử lý theo pháp luật. Đại Lý tự nhiều lần gửi văn thư đến phủ Khai Phong để lấy hồ sơ[27], nhưng phủ Khai Phong không trả lời, mà trình lên Đô tỉnh rằng: “Các việc mà Lục sát cử hặc phủ này không đúng, đều phải tấu trình lên triều đình để ghi vào sổ, hoặc giao cho ty xét xử. Nay Từ bộ không hỏi phủ này xử lý thế nào, mà trực tiếp gửi đến Đại Lý tự[28], là vi phạm pháp luật. Xin được điều tra kỹ.” Có chiếu chỉ: “Từ bộ phân tích rõ.” Từ bộ tâu: “Huệ Tín tố cáo các công nhân hưởng lộc nặng của Tăng lục ty và tiểu sư nhận tiền, theo điều luật mà xử lý, gửi đến Đại Lý tự. Đây không phải là việc cử hặc phủ Khai Phong. Phủ này lại lấy việc Lục sát cử hặc làm lý do, thật không hợp lý.” Tháng đó, có chiếu chỉ rằng văn trạng mà Huệ Tín đã trình lên Từ bộ sẽ không được thi hành nữa.
(Theo tấu nghị của Lưu Chí, việc không thi hành văn trạng của Huệ Tín là do thánh chỉ ngày 16 tháng 10, nay phụ lục vào cuối tháng 10.)
[70] Thị ngự sử Lưu Chí tâu rằng: “Xem xét việc lại nhân hưởng lộc nặng mà nhận hối lộ, theo pháp luật thì cho phép tố cáo. Điều gì pháp luật cho phép tố cáo thì tố cáo đó phải được chấp nhận. Vụ kiện của Huệ Tín và việc xử lý của Từ bộ đều đúng, không trái với lý lẽ. Đại Lý vì Huệ Tín trước đây từng kiện tại Khai Phong, nên lấy án cũ để đối chất, nhưng Khai Phong trước đó cho rằng Huệ Tín không liên quan đến mình, nên đã xử phạt trượng một trăm. Nếu trong đơn kiện của Huệ Tín có xen lẫn việc liên quan và không liên quan đến mình, thì phần không liên quan phải chịu tội, còn phần liên quan thì phải xử lý. Nếu nội dung đơn kiện đều không liên quan đến mình, thì Huệ Tín tuy bị phạt, nhưng tăng ty nhận hối lộ, đối với Khai Phong là bộ phận phạm pháp, vẫn phải cử người điều tra xử lý. Vì vậy, Khai Phong tự nghi ngờ không đúng, sợ bị liên lụy, nên không chịu đưa án cũ ra, lại viện dẫn rằng việc cử người điều tra phải xin chỉ dụ triều đình, cho rằng Từ bộ không nên trực tiếp giao cho Đại Lý. Việc tấu trình này là để che đậy sai lầm của họ. Khi triều đình lấy được bản phân tích án từ Từ bộ, thấy rằng việc nhận đơn kiện và giao cho cơ quan có thẩm quyền xử lý là đúng pháp luật, chưa từng đề cập đến việc xử án trước đây của Khai Phong phủ có đúng hay không, thì việc Từ bộ và Khai Phong tranh luận đã rõ ràng, mà việc ở Đại Lý cũng không có gì cản trở, tự nhiên phải xét xử. Nay lại vì Khai Phong tấu trình sai, nên bãi bỏ việc xử án mà Từ bộ và Đại Lý phải làm, thì thần không hiểu.
Nếu vẫn cho rằng việc đúng sai giữa Từ bộ và Khai Phong chưa rõ, nên bãi bỏ cả hai, thì đối với Từ bộ và Khai Phong là được, nhưng Huệ Tín vô tội mà bị hình phạt, thật là bất hạnh! Lại nhận hối lộ mà được miễn tội, sao lại may mắn thế! Lại nhận hối lộ đã bị tố cáo, tăng tố cáo có thể là vu khống, mà đều không xử, là phế bỏ pháp luật. Cho phép tố cáo, cho phép nhận, mà không xử lý, là phế bỏ pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền xử án sai mà không hỏi tội, là phế bỏ pháp luật. Pháp luật là của chung thiên hạ, do các cơ quan có thẩm quyền giữ gìn, dù là hoàng đế cũng không thể tùy tiện. Nay nếu cho rằng chỉ dụ là do ý chỉ của hoàng đế, dựa vào pháp luật chung của thiên hạ, thì bệ hạ há lại tự phế bỏ nó? Vì vậy, thần biết chắc chắn không phải như vậy. Thần lo rằng khi tả hữu tấu trình và hoàng đế phê duyệt, đã không trình bày rõ ràng đúng sai, trình bày sơ sài, dẫn đến quyết định này. Kính mong hoàng thượng xem xét lại, ra chỉ dụ cho Đại Lý tự điều tra sự thật việc Huệ Tín tố cáo, xử lý theo pháp luật. Nếu Từ bộ và Khai Phong cũng có tội, xin hãy xét xử cùng một lúc, để chính danh pháp luật.”
[71] Thiếp hoàng tâu rằng: “Theo quy định của triều đình, nếu chiếu chỉ hoặc mệnh lệnh không hợp lý, đều phải tâu lên để xem xét. Nay việc công này tuy đã có thánh chỉ, nhưng vẫn còn chỗ chưa thỏa đáng, cần phải xin chỉ thị. Số lượng tăng nhân sử dụng trong đạo trường nội điện không ít, đều ra vào cung cấm, nhưng Tăng ty không hề tuyển chọn, lại có quan lại nhận hối lộ, dám coi thường pháp luật ngay dưới chốn kinh thành, lý lẽ không thể tha thứ được.”
(Lời tâu của Chí về việc tuân theo hay không, thực lục không ghi chép. Xem lại tấu chương của Tôn Thăng hặc tội Thái Kinh vào tháng nhuận tháng 2 năm sau có nói: “Huệ Tín do bị các quan đàn hặc, đã giao cho Đại Lý xét xử, tang chứng về việc tham nhũng của Tăng lục ty đã rõ ràng.” Như vậy, triều đình quả nhiên nghe theo lời Chí, ra lệnh cho quan tư pháp điều tra kỹ lưỡng rồi mới cho ra khỏi ngục. Nhưng không rõ xử lý cụ thể như thế nào! Có thể tham khảo chương tấu của Chí vào ngày 29 tháng giêng năm sau.)
- Chữ 'Chính Mục' nguyên bản viết là 'Chính Nguyệt', xét rằng tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8, ngày Giáp Ngọ, Thái hoàng thái hậu mới bắt đầu quyền đồng xử phân quân quốc sự, chữ 'Chính Nguyệt' là sai, nay căn cứ vào bản trong các để sửa. ↵
- Nay việc bổ nhiệm từ trong cung ra, chữ 'mục' nguyên là 'tự', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 3-54 và 《Trị tích thống loại》 quyển 18, Tuyên Nhân thùy liêm thánh chính sửa lại. ↵
- Hay là do tả hữu tiến cử, chữ 'tiến' trong sách trên viết là 'vi'. ↵
- 'bắt chước' nguyên là 'theo', căn cứ vào bản trong các và 《Trung túc tập》 quyển 6, 《Khất tuyển giám ty trừng thải châu huyện sớ》 mà sửa ↵
- 'nông cạn' nguyên là đảo ngược, căn cứ vào sách trên và 《Trị tích thống loại》 quyển 18, 《Tuyên nhân thùy liêm thánh chính》 mà sửa ↵
- chính là lúc có thể khôi phục lời nói cảm động lòng người của tổ tông, bản các bản 'khả' chép là 'Nghi', 'dĩ phục' đảo ngược, xét theo văn nghĩa thì bản các bản tốt hơn. ↵
- sẽ đánh mất gốc rễ, 《Trung Túc tập》 quyển 3, trong bài 'Khất thận trạch giảng độc quan tấu' có thêm 26 chữ: 'Nhiên chi tính tắc tuy thánh nhân phương kì thuỷ dã học vấn dĩ đạt chi phạm vi dĩ thành chi giả kì khả thiếu tai'. ↵
- nên là việc chính đáng, chữ 'thị' nguyên là 'tương', theo bản các và 《Trung Túc tập》 sửa lại. ↵
- giữ gìn từ nhỏ, cẩn thận từ đầu, chữ 'thận' nguyên là 'cẩn', do kiêng húy nên đổi, nay theo 《Trung Túc tập》 sửa lại. ↵
- không thể không chọn lựa cẩn thận, chữ 'thận' nguyên là 'thẩm', do kiêng húy nên đổi, nay theo 《Trung Túc tập》 sửa lại. ↵
- Hai chữ 'Hoàng thái' trong 'Hoàng thái phi ra vào' vốn bị đảo ngược, căn cứ vào các bản khác, quyển 243 sách 《Tống sử》 truyện Khâm Thành Chu hoàng hậu và chú văn của điều này mà sửa lại cho đúng. ↵
- Bích thủy tam xá: 'Bích' nguyên là 'Bích', xét 'Bích thủy' chỉ Thái học, tức là Phán Trì, hợp với 'tam xá' ở dưới, nay theo bản các mà sửa. ↵
- Chỉ rơi lệ nơi mây trời: 'hề', các bản chép là 'ư'. ↵
- Bính Tuất nguyên là 'Bính Thân', căn cứ theo các bản khác và 《Tống sử》 quyển 17, kỷ Triết Tông sửa lại. ↵
- Ngoại trừ tiền dùng cho thừa thiếp nhân và nhân viên của Hình pháp ty, 'nhân viên' trong các bản khác là 'nhân lại', có lẽ đúng. ↵
- Số tiền phong tồn của kỳ, hộ trưởng, tráng đinh trong các lộ, các bản khác có thêm chữ 'dư'. ↵
- Triều phụng lang, 《Tống sử》 quyển 486, 《Hạ quốc truyện》 chép là 'Triều tán lang'. ↵
- Khai phong phủ Thôi quan Triệu Quân Bật làm Tư huân Lang trung, 'Triệu Quân Bật', các bản chép là 'Triệu Quân Tích'. ↵
- Người xưa coi rợ Địch như ngoại hóa, các bản chép là 'Người xưa đối đãi với rợ Địch'. ↵
- chỉ nên tự tính toán lợi hại, chữ 'đương' nguyên là 'thường', theo các bản và văn dưới sửa lại. ↵
- Chữ 'kì' trong các bản và bản hoạt tự đều viết là 'cụ', có lẽ đúng. ↵
- Chữ 'lục' nguyên bản viết là 'lục', căn cứ vào các bản và bản hoạt tự mà sửa. ↵
- có khi do Xu mật viện tiến cử, sách 《Trung túc tập》 quyển 3, bài tấu về việc bổ nhiệm của Tam tỉnh và Xu mật viện ghi là 'có khi do Xu mật viện', và phía dưới lại có thêm bốn chữ 'có khi do Tam tỉnh', nghi ngờ chỗ này có chữ bị thiếu. ↵
- không hiểu Xu mật viện can dự vào làm gì, chữ 'thức' nguyên là chữ 'uỷ', theo sách trên sửa lại. ↵
- thì chính sự không có nhiều cửa, chữ 'môn' nguyên là chữ 'bại', theo sách trên sửa lại. ↵
- Các bề tôi đều vì tư lợi riêng 'Quần', Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 97 'Trục tiểu nhân' chép là 'Quân', có lẽ đúng. ↵
- Chữ 'lấy' trong câu 'Đại Lý tự nhiều lần gửi văn thư đến phủ Khai Phong để lấy hồ sơ' ban đầu bị thiếu, dựa vào bản trong các và đoạn văn sau 'Đại Lý tự cho rằng Huệ Tín đã từng tố cáo ở Khai Phong, nên lấy hồ sơ trước để đối chất' mà bổ sung. ↵
- Chữ 'trực tiếp' trong câu 'trực tiếp gửi đến Đại Lý tự' ban đầu viết là 'đi', dựa vào bản trong các và ý nghĩa của văn bản mà sửa. ↵