VI. TỐNG THẦN TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 361: NĂM NGUYÊN PHONG THỨ 8 (ẤT SỬU, 1085)
Từ tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 đời Thần Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 11, ngày Quý Tỵ, ban chiếu rằng kẻ cướp bị tra hỏi mà tự thú thì không được giảm tội.
(Cựu lục chép: Trước đây, vào năm Hi Ninh, nếu chứng cứ kẻ cướp chưa rõ ràng, nhưng bị bắt mà tự khai thì đều được giảm nhẹ tội. Lúc đó, Tư Mã Quang cho rằng không đúng, Bộ Hình do dự, có tâu xin, Vua theo. Tân lục biện rằng: Điều lệ về việc tra hỏi và tự thú đã được bàn kỹ ở quyển 4. Từ “Trước đây, năm Hi Ninh” đến “Vua theo” gồm 40 chữ đều bị xóa bỏ. Tháng 2 năm sau, Phạm Thuần Nhân tâu, cần xem xét. Sự việc ở quyển 4 xảy ra vào ngày 25 tháng 4 năm đó.)
[2] Triều Phụng lang, Trực Long Đồ các, Quyền phát khiển Kinh Đông lộ Chuyển vận sứ Phạm Thuần Túy được bổ nhiệm làm Tri Khánh châu, thay anh trai là Phạm Thuần Nhân.
[3] Ngày Đinh Dậu, rước thần chủ của Thần Tông vào thờ tại Thái miếu, gian thứ 8.
(Tân kỷ chép: Rước thần chủ của Thần Tông vào Thái miếu, nhạc gọi là “Đại Thành chi vũ”.)
[4] Triều nghị đại phu Tiên Vu Sân làm Kinh Đông chuyển vận sứ. Cuối niên hiệu Hi Ninh, Sân từng làm Kinh Đông chuyển vận sứ, bấy giờ Tư Mã Quang nói với mọi người rằng: “Nay lại lấy Tử Tuấn làm chuyển vận sứ, thật không hợp lý. Nhưng triều đình muốn cứu vãn tình trạng suy yếu ở vùng đông, không thể không dùng Tử Tuấn. Đây là phúc tinh của cả vùng, có thể làm mẫu mực cho các chuyển vận sứ khác.” Lại nói: “Sao có được trăm Tử Tuấn để bố trí khắp thiên hạ!” Sân đến nơi, tâu xin bãi bỏ hai xưởng luyện sắt ở Lai Vu và Lợi Quốc, lại xin cho muối biển được thông thương như ở Hà Bắc, dân chúng rất vui mừng. Lại xin chấm dứt việc triều cống của Cao Ly, chỉ cho phép buôn bán ở Lưỡng Chiết, không cần phiền nhiễu triều đình. Việc tuy không được thực hiện, nhưng lễ nghi triều đình đối đãi với Cao Ly cũng giảm bớt so với trước.
(Theo hành trạng của Sân do Lý Trĩ soạn và bia mộ của Phạm Trấn. Truyện của Sân chép rất sơ lược, cũng không chép việc Sân lại làm Kinh Đông chuyển vận sứ.)
[5] Ngày Tân Sửu, ban đức âm giảm tội tử một bậc cho những người phạm tội trong khu vực hai kinh và Hà Dương, tha tù tội nhẹ; miễn thuế cho dân phục dịch xây lăng.
[6] Thị ngự sử Lưu Chí tâu: “Thần thấy từ khi bệ hạ nghe chính đến nay, ngoài các chấp chính ở Tam tỉnh và Xu mật viện tâu việc trong ngoài, các quan lại khác hợp lệ được vào chầu vẫn chưa được chỉ dụ. Thần nghĩ rằng lúc mới lên ngôi, nên mở rộng trí tuệ, tiếp kiến bề tôi, để hỏi han việc nước. Tuy bề tôi bàn việc có thể dâng sớ tâu lên, nhưng có việc nói vẫn chưa hết ý, huống chi chỉ qua văn tự! Lý lẽ sâu xa, tình tiết phức tạp, cần phải chỉ bày, trao đổi trực tiếp, mới có thể làm sáng tỏ. Thần nghĩ trước đây vì lo việc sơn lăng của tiên đế, chưa kịp làm lễ, nay việc thăng phụ đã xong, xin trước hết cho các quan đài gián được vào chầu tâu việc.”
(Theo tấu nghị của Chí tự chú, ngày 11 tháng 11 tâu việc này.)
[7] Ngày Nhâm Dần, xuống chiếu cho Trung thư xá nhân Tiền Hiệp xem xét lại nghi thức triều cống của Cao Ly.
[8] Thừa nghị lang Lý Sĩ Kinh làm Biên tu quan, đều theo chỉ huy ngày 21 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 7.
(Chỉ huy ngày 21 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 7 chưa thấy, e rằng có chỗ sai sót. Bản mới và bản cũ đều giống nhau, cần xem xét.)
[9] Chiếu rằng các vật phẩm hiện có tại các trường vật hóa ở kinh đô, nếu phải nộp tiền thì đều được miễn.
[10] Chiếu rằng: “Thạch Đắc Nhất đã được bổ làm sứ Vĩnh Dụ lăng, bãi chức Phó đô tri nội đình và các kiêm nhiệm khác, việc đề cử giám giáo mã quân sở, đề cử huấn luyện hoàng thành ty thân tòng thân sự quan xạ cung, đều giao cho Áp ban nội đình Lương Tòng Cát quản lý. Đồng Văn quán giao cho Nội thị áp ban Lưu Hữu Phương, Nội tỉnh thừa phụng thánh chỉ, Nội đông đầu cung phụng quan Vũ Cầu đều được bãi chức ở các tử hạ. Vũ Cầu, Trần Xử Ước, Triệu Lễ, Lưu Viện, Tô Khuê đặc cách được thăng chức và giảm năm khảo hạch để chuyển đi. Trương Sĩ Ngạn kiêm nhiệm câu đương hậu uyển, trước tiên được bổ làm Tẩu mã thừa thụ. Tây đầu cung phụng quan Trần Đoan, Hác Tùy, Vương Cấu, Điện đầu Lưu Hữu Đoan đều được bổ làm Tẩu mã thừa thụ.” Trương Sĩ Ngạn cùng năm người, cùng Tây đầu cung phụng quan Trương Lâm, Thạch Đào, Cao ban Hàn Mạc, Hồ Huyến đều được giảm năm khảo hạch theo thứ bậc, phụng chỉ theo chỉ huy đã có.
(Mật chiếu ngày 12 tháng 11.)
[11] Khôi phục huyện Quản Thành làm Trịnh Châu, do Giám sát ngự sử Lưu Chửng và huyện lệnh Chu Bân có thỉnh cầu.
(Cựu lục chép: Vào đầu niên hiệu Hi Ninh, quan lại và dân chúng Trịnh Châu vì phải đảm đương nhiều việc lao dịch, cung ứng, cả công lẫn tư đều mệt mỏi, nên xin được giảm bớt thành một huyện thuộc kinh đô. Triều đình chấp thuận. Đến lúc này, do Giám sát ngự sử Lưu Chửng và huyện lệnh Chu Bân có thỉnh cầu. Tân lục biện giải: Trịnh Châu bị bãi bỏ vào đầu niên hiệu Hi Ninh, được khôi phục vào đầu niên hiệu Nguyên Hựu. Lý do bãi bỏ và khôi phục đều gắn với tình hình thời đó, không cần ghi chép đầy đủ, từ chữ “Hi Ninh” đến chữ “thị” gồm 27 chữ đều bị xóa bỏ. Ngày 5 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 5 bãi bỏ Trịnh Châu[1], ngày 12 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất khôi phục quân ngạch.)
[12] Nước Vu Điền dâng ngựa, được ban thưởng 1.200.000 tiền.
[13] Bộ quân Phó đô chỉ huy sứ Miêu Thụ vì bệnh xin về làm quan ở cung quán, chiếu cho nghỉ ngơi, các châu không được tâu xin bổ nhiệm quan quản câu.
(Chính mục ngày 13 cần xem xét.)
[14] Ngày Giáp Thìn, chiếu khôi phục 100 suất giải cho Khai Phong phủ. Vào niên hiệu Hi Ninh, bãi bỏ suất giải của Khai Phong phủ, sáp nhập vào Thái học, đến lúc này khôi phục lại.
(Cựu lục chép: Tiên đế mở rộng Thái học để nuôi dưỡng sĩ tử, muốn bãi bỏ khoa cử, trước tiên bãi bỏ suất giải của Khai Phong, sáp nhập vào Thái học, đến lúc này khôi phục lại. Tân lục biện giải: Phương pháp mở rộng Thái học để nuôi dưỡng sĩ tử đã được ghi đầy đủ trong 《Thần Tông thực lục》, không cần ghi lại ở đây, từ chữ “Tiên đế” đến chữ “cử thủ” gồm 13 chữ đều bị xóa bỏ. Ngày 12 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 3 bãi bỏ suất giải của Khai Phong phủ, không phải vào niên hiệu Hi Ninh. Ngày 16 tháng 8 năm Thiệu Thánh thứ 3[2].)
[15] Cho các chức vụ ở Đăng văn cổ viện và Kiểm viện khuyết về quyền quản lý của Trung thư tỉnh, nhiệm kỳ ba năm. Giáng chức Vĩnh Dụ lăng phó sứ, Tuyên chính sứ, Đăng châu phòng ngự sứ Tống Dụng Thần làm Hoàng thành sứ, vẫn giữ chức Đăng châu phòng ngự sứ, kiêm giám sát thuế rượu ở Trừ châu. Có người tâu rằng ông ta làm nhiều việc hưng lợi quá tỉ mỉ, nên có mệnh lệnh này.
(Sách 《Cựu lục》 chép: Mệnh quan khảo cứu chưa xong mà đã có trách phạt. 《Tân lục》 chỉ bỏ đi sáu chữ không bàn luận thêm, cần tra cứu tên người tâu, và nên bỏ đi. 《Chính mục》 chép: Vĩnh Dụ lăng phó sứ, Tuyên chính, Đăng phòng Tống Dụng Thần hưng trí tài lợi, phần nhiều lừa dối, đặc cách giáng làm Hoàng thành sứ, vẫn giữ chức Đăng phòng, kiêm thuế rượu Trừ châu, việc điều tra không tiến hành. 《Chính mục》 nói “căn ma bất hành”, tức là 《Cựu lục》 nói “khảo cứu vị tất”, cần xem xét kỹ hơn. Sang năm tháng giêng ngày 14, sẽ xử lý việc này.)
[16] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Người phương Bắc ở địa giới quân Hỏa Sơn xếp đá làm tường, lo rằng có âm mưu xâm chiếm dần.” Chiếu rằng: “Tả tàng khố phó sứ Triệu Tông Bản đến nơi xây tường xem xét, vẽ bản đồ tâu lên. Nếu xâm phạm địa giới cũ, liền gửi văn thư yêu cầu phá bỏ, và phải chuẩn bị trước.” Không lâu sau, lại tâu rằng người phương Bắc nói muốn tranh chiếm tường đá, xin tăng quân phòng thủ. Chiếu cho các ty an phủ dọc biên giới bí mật cùng dò xét, nếu quả có xâm chiếm, tâu lên để phá bỏ.
[17] Chiếu cho các lộ xét xử việc tư lập nhà tù.
[18] Thông nghị đại phu Lô Cách mất.
(Lô Cách có tin báo mất vào ngày 14 tháng 11, ngày 16 mới sai con ông là Lô Bỉnh làm Tri châu Hồ Châu, ngày 11 tháng 12 lại cho Lô Cách được truy phong dưỡng lão. 《Cựu lục》 chép như vậy, 《Tân lục》 theo đó. Có thể Lô Cách mất vào ngày 14 tháng 12, 《Cựu lục》 chép nhầm là ngày 14 tháng 11, cần xem xét kỹ hơn.)
[19] Ngày Bính Ngọ, Bộ quân đô ngu hậu, Hùng châu đoàn luyện sứ Lưu Xương Tộ làm Tri châu Vị Châu, thay Lô Bỉnh, cho Lô Bỉnh làm Tri châu Hồ Châu.
(Ngày 16 tháng 11 năm thứ 8, Xương Tộ làm Tri châu Vị Châu, ngày 28 tháng 2 năm thứ nhất làm Tri châu Hi Châu, ngày 22 tháng 3 dời về Vị Châu.)
[20] Lưu Chí tâu rằng: “Triều trước vì Lưu Xương Tộ từng có chút công lao, nên dùng ông ta quản quân, làm Tri châu Diên, trong ngoài đều cho là không thỏa đáng. Khi tiên đế băng hà, triệu ông ta vào làm túc vệ, dư luận mới tạm yên. Nay lại có lệnh bổ nhiệm ông ta làm Tri châu Vị, khiến mọi người lại kinh ngạc. Thần nghe nói phép tắc của tổ tông là không dùng võ tướng làm đại tướng, chuyên quyền một đạo, mà phải dùng văn thần làm Kinh lược để tổng quản. Võ tướng làm Tổng quản, chỉ huy binh mã, hiệu là tướng quan, chịu sự điều động, ra vào chiến trận, đều phải tuân theo mệnh lệnh. Quốc gia thái bình hơn 120 năm, trong ngoài không có việc gì, nhờ phép tắc đó mà kiềm chế được biên thần, đó là đạo lý vậy. Thần từng suy nghĩ sâu xa về việc phòng thủ biên giới, chống giặc ngoại xâm, đã tìm ra thượng sách, để lại cho hậu thế lâu dài mà không thể thay đổi, đó là một trong những điều đó.
Thời Đường Tiên Thiên, Khai Nguyên, các tướng như Tiết Nột, Quách Nguyên Chấn, Trương Gia Chính, Vương Tuấn, Tiêu Tung, Đỗ Xiêm, Lý Thích Chi từ chức Tiết độ sứ được phong làm Tể tướng. Lý Lâm Phủ ghét các nho thần vì có công lao nơi biên ải mà được trọng dụng, muốn ngăn chặn việc này để củng cố quyền lực của mình, bèn tâu với Minh Hoàng rằng: ‘Với tài năng hùng mạnh của bệ hạ, quốc gia giàu mạnh, mà giặc ngoại xâm vẫn chưa diệt được, là do dùng văn quan làm tướng, sợ tên đá, không dám xông pha. Chi bằng dùng tướng người phiên, họ sinh trưởng nơi chiến trận, quen với tên đá, bệ hạ dùng họ, ắt họ sẽ hết sức liều chết.’ Minh Hoàng nghe theo. Bèn dùng An Tư Thuận thay Lý Lâm Phủ làm Tiết độ sứ, thăng chức cho An Lộc Sơn, Cao Tiên Chi, Ca Thư Hàn làm đại tướng. Lý Lâm Phủ thấy lợi vì họ là tướng người phiên, không có tư cách làm Tể tướng, nên An Lộc Sơn được kiêm quản ba đạo binh hùng mạnh, cuối cùng khởi binh làm loạn khắp thiên hạ, nhà Đường từ đó suy yếu. Thần cho rằng phép tắc của tổ tông không dùng võ tướng làm đại tướng, dụng ý rất sâu xa, không phải kẻ nông cạn có thể hiểu được. Như Lưu Xương Tộ, tài năng không phải là hiếm có, nếu thực sự xuất chúng, có thể giao phó, thì phép tắc của tổ tông sẽ bị phá bỏ. Thần mong chọn các văn thần trong ngoài từng giữ chức biên ải, cho làm đại tướng, thì phép tắc của tổ tông sẽ được giữ vững. Nếu không may đời sau có người lấy việc này làm ví dụ, để võ tướng làm tướng biên ải, mà gặp họa không ngờ, như thời trước, thì sao có thể không phòng ngừa từ trước được!”
Sau đó có chiếu rằng: “Quản quân thường thiếu nhiều người, Lưu Xương Tộ đã được bổ làm Tri châu Vị, nên lệnh chọn người khác để bổ nhiệm. Nếu đã ban sắc, thì thu hồi lại.”
(Ngự tập ngày 2 tháng 12, nay phụ vào đây. Ngày Nhâm Tuất 2 tháng 12, đổi lệnh cho Lưu Tường làm Tri châu Vị.)
[21] Chiếu rằng những ngựa thiếu của quân Mã quân cần cấp, tại phủ giới kinh đô, các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Đông, Thiểm Tây không quá bảy phần, lộ Hà Bắc không quá sáu phần.
[22] Xu mật viện xét thấy đã có chỉ huy trước đây, các quan đề cử phủ giới và ba lộ bảo giáp đều bãi bỏ, lệnh cho các lộ đề hình và phủ giới đề điểm ty kiêm quản; việc bảo giáp chỉ dạy tập vào ba tháng mùa đông; và sẽ thi hành từ ngày mùng một tháng giêng năm sau. Chiếu rằng: “Các văn bản tấu trình và di chuyển liên quan đến bảo giáp phải ghi là ‘mỗ lộ đề điểm hình ngục kiêm đề cử bảo giáp ty’, các quan giám giáo ở các huyện đều bãi bỏ, chỉ giao cho lệnh tá giám giáo. Các huyện có từ mười đô bảo giáp trở lên, trước khi dạy tập mùa đông, từ kinh đô cử một chỉ sử đến đó cùng giám giáo. Mỗi đề cử bảo giáp ty đều đặt một viên câu đương công sự và một chỉ sử.”
(Thực lục chỉ ghi việc bãi bỏ các quan giám giáo bảo giáp, đặt câu đương công sự và chỉ sử, nay dùng theo bản văn thời chính ký của Xu mật viện.)
[23] Giám sát ngự sử Vương Nham Tẩu từng nói: Thần trộm nghĩ rằng phép bảo giáp đã thi hành nhiều năm, triều đình vốn đã biết rõ nỗi khổ chung của dân chúng, mà trước đây đã hạ chiếu miễn trừ cho người bệnh, loại bỏ kẻ yếu nhỏ, tha cho người thuộc hạng năm có ruộng không đủ hai mươi mẫu, giảm từ sáu lần tập luyện trong một tháng xuống còn ba ngày tập hợp tập luyện, đó là ân huệ rất lớn. (Theo lời bàn của Vương Nham Tẩu trong triều, tấu xin bãi bỏ việc giám sát tập luyện bảo giáp cùng với tờ trát, ngày 11 tháng 10 dâng lên, nay phụ vào ngày 16 tháng 11. Việc bảo giáp miễn trừ cho người bệnh, loại bỏ kẻ yếu nhỏ, tha cho người thuộc hạng năm có ruộng không đủ hai mươi mẫu, là theo chỉ dụ ngày 22 tháng 4 năm Ất Dậu. Việc tập hợp tập luyện ba ngày, căn cứ theo tấu chương của Tư Mã Quang ngày 12 tháng 7, chắc cũng vào khoảng tháng 4).
Nhưng cơ quan đó vẫn còn, thì mối họa vẫn tồn tại. Nay thần được ơn, từ chức tri huyện Hà Bắc được thăng làm ngự sử, dám đem những điều mắt thấy tai nghe và tự mình trải nghiệm tâu lên bệ hạ, không dám giấu giếm sự thật để lừa dối triều đình, cũng không dám tô vẽ sự việc để làm rối loạn phép tắc, chỉ mong bệ hạ lắng nghe, thật may mắn thay! Triều đình biết dạy dân để làm quân, mà không biết rằng dạy quá khắt khe khiến dân không chịu nổi; biết lập riêng một cơ quan để quản lý, mà không biết rằng quấy rối quá nhiều khiến dân sinh oán. Dạy dân là để sử dụng, mà khiến họ sinh lòng oán hận, thì e rằng một ngày nào đó sử dụng sẽ không được như ý muốn, không thể không suy nghĩ.
Dân chúng nói rằng, khó khăn của phép tập luyện không đáng kể, mà sự hà khắc của việc trói buộc còn khổ hơn; trói buộc không đáng kể, mà sự tàn bạo của roi vọt còn khổ hơn; roi vọt không đáng kể, mà sự đòi hỏi vô tận còn khổ hơn nữa. Đang cày ruộng thì phải bỏ dở, đang làm cỏ thì phải ngừng, đang làm việc thì phải bỏ đi[3], đó là nỗi khổ của việc trói buộc. Khi tập luyện, bảo trưởng được đánh, bảo chính lại đánh, chỉ sử và người tuần kiểm lại đánh chéo nhau, chỉ sử và người phụ trách công việc của đề cử ty lại đánh lẫn nhau[4], quan trưởng của đề cử ty lại đánh, hễ có ai trốn tránh, huyện lệnh lại đánh. Dân chúng không còn đường sống, thường nói với nhau rằng: “Chỉ hận chưa chết thôi!” Đó là nỗi khổ của roi vọt.
Làm áo, mua khăn, sắm cung, sửa tên, thêm dây, thay bao tay, sửa yên cương, làm lều che, vẽ hình pháp, làm bảng đội, đan giá, thuê bàn ghế, mua giấy mực[5], trả tiền thuê người coi sảnh, chia tiền mua rau, nộp hạt giống, v.v., danh mục trăm thứ, không thể kể xiết. Vì thế, cha ông có câu ngạn ngữ rằng: “Con trẻ tay không, không thể vào trường tập”, không phải là lời nói suông. Hai bảo chính đô và phó, hai bảo trưởng lớn và nhỏ[6], lúc bình thường ở nhà, hễ có việc cưới xin tang ma thì phải biếu xén, mùa thu thu hoạch, mùa hạ chín, tơ lụa lúa mạch đều bị đòi hỏi, gặp nhau ở thành thị, một bữa ăn một chén rượu cũng bị đòi hỏi. Đó là do bị ép buộc mà không dám không làm. Hễ không vừa ý, thì lấy cớ kỹ năng không đúng phép mà đánh đập nhục mạ không chừa chỗ nào. Lại còn những kẻ tuần kiểm, chỉ sử, phần nhiều từ bọn này mà ra, tham lam phạm pháp, không nghĩ đến hậu họa, còn tệ hơn cả bảo chính, bảo trưởng, đó là nỗi khổ của sự đòi hỏi vô tận.
Lại có người đuổi con nuôi, đuổi con rể, tái giá mẹ mình, anh em chia nhà để trốn tránh nghĩa vụ; có người tự làm độc mắt, chặt ngón tay, đốt cháy da thịt để tự gây tàn tật nhằm trốn tránh; có người bỏ nhà trốn đi không về; có người để lại người già yếu ở nhà còn bảo đinh tự trốn. Bảo đinh tự trốn, thì pháp luật quy định gia đình phải nộp tiền thưởng mười ngàn để chiêu mộ lại. Nếu gia đình có khả năng nộp tiền, thì đã không đến mức phải trốn; đã trốn thì biết là cùng khốn, mà bắt nộp mười ngàn, làm sao có được? Vì thế, huyện nào cũng thường có hàng trăm nhà người già yếu than thở trên đường, kêu van nơi công đường. Dù thần ngu muội, cũng biết không nỡ, huống chi Bệ hạ nhân từ thánh minh thấy cảnh ấy, sẽ ra sao?
Ngoài bảo đinh ra, các hộ bình thường hễ có một con ngựa, đều bắt phải cho mượn. Suốt ngày tập cưỡi ngựa, chạy nhảy liên tục, thường khiến ngựa đói khát, gầy yếu, tàn tật mà chết, ai còn dám nói gì? Hoặc có nhà chủ nhân vì việc đi vắng, lỡ cho mượn ngựa, liền bị truy hỏi, đánh đập. Lại có nhà vì nợ thuế bị bức bách, không còn cách nào khác phải bán ngựa, thì lại bị ép buộc phải chuộc lại, nên ai cũng coi việc có ngựa là họa. Đó đều là do quan lại Ty Đề cử ỷ vào pháp luật sinh sự, gây thêm phiền nhiễu cho dân. Thần nghĩ, xưa nay chưa từng không dạy dân chiến đấu, nhưng chưa từng nghe có chuyện như thế, tại sao? Vì dựa vào tình người mà đặt ra pháp luật. Dựa vào tình người để suy ra pháp luật, thì càng lâu càng vững; ỷ vào uy quyền để thi hành mệnh lệnh, thì càng nghiêm càng loạn. Đó là lẽ tự nhiên.
Thú cùng thì cắn, người cùng thì lừa, xưa nay chưa từng có ai bức cùng kẻ dưới mà không gặp nguy. Thần thấy Ty Bảo giáp từ trên xuống dưới, quan lại không có chút tình thương dân, nên dân coi quan phủ chẳng khác gì hổ lang, tích tụ oán hận, ai cũng như vậy. Gần đây, bảo đinh bắt chỉ huy, đuổi tuần kiểm, tấn công cán sự Ty Đề cử, ngục tù liên tiếp, đến nay chưa dứt. Dù dân ngu muội, há quên tình yêu cha mẹ vợ con, mà vui lòng làm việc phạm thượng để chuốc họa? Chỉ vì bị bức đến cùng cực mà thôi! Thần cho rằng, tích tụ càng sâu, thì khi bùng phát, chưa chắc không nghiêm trọng hơn thế. Tình hình như vậy, không thể không lo liệu trước[7], để giữ đại thể, vì sự yên ổn.
Ba mùa làm ruộng, một mùa tập võ, là chế độ thông thường của tiên vương. Thần nghĩ, trong một tháng, dồn dạy ba ngày, không bằng cuối năm, dồn dạy một tháng. Việc đồng áng đã xong, không còn việc gì khác, người dân tự nhiên yên tâm tập võ mà không oán hận. Như thế có thể bãi Ty Đề cử, bỏ quan Tuần giáo, giao hết về châu huyện[8], giao cho các lộ An phủ ty quản lý. Mỗi khi đến mùa đông tập võ, thì An phủ ty chọn quan Tuần giáo đến các huyện, cùng với lệnh tá tập võ dưới thành, mỗi huyện chia làm hai phiên, mỗi phiên một tháng. Khi bắt đầu tập võ, thì bàn luận cấp bậc với chính trưởng; khi kết thúc, thì không còn quan hệ gì với chính trưởng. Như thế, dân chúng được thảnh thơi làm ăn, không còn nỗi khổ trốn tránh quanh năm, không còn nạn bị ức hiếp bóc lột, không còn tệ nạn tranh giành phạm thượng. Hơn nữa, việc võ bị không bỏ, uy danh vẫn giữ, há chẳng phải dễ làm mà có công sao? Mong Bệ hạ suy tính kỹ, quyết tâm thi hành, để giảm bớt nhiều việc, ban ân huệ an lạc cho dân, tạo phúc lành yên ổn cho nước nhà, thiên hạ may mắn biết bao. (Dồn dạy ba ngày, xem tấu chương của Tư Mã Quang ngày 12 tháng 7.) Lại tâu: “Ty Đề cử Bảo giáp Tiền lương ba lộ tuy xếp vào hàng Giám ty, nhưng thực chất không có việc gì, các quận huyện chỉ có mấy trăm ngàn tiền phong trang, qua năm bảy đạo, mỗi tháng chỉ làm một lần kết toán mà thôi. Mỗi khi đến tuần giáo, không có gì để chỉ huy, chỉ khiến châu huyện thêm phiền nhiễu đón tiếp. Nếu giao cho ty khác kiêm nhiệm, cũng không có gì không được, xin bãi bỏ, để giảm bớt nhũng viên.”
[24] Sau khi bãi bỏ Ty đề cử tiền lương (việc bãi bỏ Ty đề cử tiền lương diễn ra vào ngày 26 tháng 8), Nham Tẩu lại tâu: “Trước đây, khi làm tri huyện ở Hà Bắc, thần đã tận mắt chứng kiến những tác hại của phép bảo giáp không chỉ một hai. Khi được ân chiếu làm Ngự sử, thần đã trình bày chi tiết những lợi hại của phép bảo giáp, soạn thành trát tử, mong được diện tấu. Nhưng trước khi đến kinh, thần đã nghe triều đình có chỉ huy chỉ cho luyện tập vào mùa đông một tháng. Khi thần nhậm chức ở Đài, phụ trách việc quân sự, thấy rằng phép bảo giáp mới vẫn còn duy trì Ty đề cử giáo duyệt[9], và đổi chức Tuần giáo quan các huyện thành Giám giáo quan, thần mới biết triều đình chưa thấu hiểu căn nguyên của tác hại từ phép bảo giáp vẫn còn tồn tại. Thần đã từng dâng trát tử lên, mong bệ hạ thấu hiểu những tác hại của phép bảo giáp, chủ yếu là do các quan thuộc Ty đề cử không thấu hiểu ý triều đình, ỷ vào pháp luật, thi hành quá nghiêm khắc. Dân chúng nghe đến tên họ đã nhăn mặt, không còn an lạc. Nay dù có cố gắng ngăn chặn, nhưng vẫn sinh ra nhiều tệ nạn, e rằng tác hại sẽ không dừng lại. Thần mong bệ hạ thấu hiểu dân tình, bãi bỏ Ty đề cử bảo giáp và các Giám giáo quan, chỉ để các châu huyện và An phủ ty phụ trách, để dân chúng yên tâm sinh sống, vui hưởng thánh chính, thật là may mắn.
Nếu không bãi bỏ Ty đề cử bảo giáp và các Giám giáo quan, thì dù bảo giáp không có việc gì, dân chúng vẫn bị áp chế, không tránh khỏi bị xâm phạm, quanh năm không giảm được nỗi khổ bị quấy nhiễu, điều này triều đình không thể không xem xét. Hơn nữa, quan thuộc của Ty này, ba lộ không dưới vài trăm người, tốn kém lương bổng, cũng không phải là cách làm lâu dài. Nay có chỉ huy (chỉ huy vào ngày Kỷ Hợi 26 tháng 8), từ tháng 10 đến tháng giêng, chia làm bốn đợt luyện tập. Thần thấy rằng vào tháng 10, dân chúng chưa kết thúc việc đồng áng, tháng giêng lại sắp có việc phu dịch, công việc nông nghiệp cũng bắt đầu, lúc này luyện tập chắc chắn sẽ gây trở ngại. Chỉ nên chia làm hai đợt, luyện tập trong hai tháng 11 và 12, sẽ thuận tiện hơn cho dân chúng, không cần chia làm bốn đợt. Thần đã từng điều tra kỹ, hiểu rõ tình hình, mong triều đình xem xét thêm.
Nếu bãi bỏ Ty đề cử, thì bảo giáp và đô bảo không bị giảm, thế lực dân binh của quốc gia cũng không bị tổn hại. Hơn nữa, mọi người đã được yên ổn sinh sống, thì khi quốc gia cần dùng, họ sẽ sẵn lòng phục vụ. Thần mong bệ hạ đừng nghi ngờ, sớm đưa ra quyết định sáng suốt để an lòng dân chúng. Nếu hàng năm từ kinh thành cử chỉ sử đến các nơi cùng giám sát việc luyện tập[10], e rằng những kẻ thô bạo sẽ ỷ vào việc được triều đình cử đến, làm oai làm phép, gây rối loạn, chỉ nên để An phủ ty cử quận sứ thần là thuận tiện.” (Ngày Bính Ngọ 16 tháng 11, bãi bỏ Giám giáo quan).
[25] Lại tâu: “Thần thấy gần đây ban xuống chỉ huy về việc bảo giáp, vẫn cử sứ giả đi các nơi để kiểm tra[11], thần dám bàn về tác hại của việc này. Mỗi lần thấy sứ giả đi đến, đoàn ngựa hộ tống đông đúc, uy phong lẫm liệt, việc cung ứng tốn kém, tiếp đón trọng hậu, khiến các quận huyện náo loạn. Một quận nhỏ, hộ phường quách phải nhuộm năm sáu trăm tấm lụa để làm màn trướng tiếp đón, chỉ xét việc này thì những việc khác có thể biết. Tuy không phải sứ giả bắt làm như vậy, nhưng các châu quận nghe tiếng đều sợ hãi, không dám không làm, nên nơi nào họ đến, dân tình đều khổ sở. Lại nữa, những người bảo đinh được kiểm tra, tuy mỗi người được ba đến năm xấp lụa, nhưng chỉ để chi phí ăn uống, quần áo khi kiểm tra đã không nhẹ; sau khi nhận được lại bị mọi người hao tổn, cũng không ít, phần còn lại mang về được bao nhiêu? Thần đã từng hỏi kỹ, đều nói rất khổ[12]. Nếu triều đình chỉ bảo dạy vào mùa đông, không lỡ mùa vụ, thì gia đình họ tự có thể dư dả. Ơn trời sâu nặng, không phải so với việc kiểm tra ban thưởng một lần! Xét kỹ tình hình, họ không lấy việc được thưởng một lần làm đủ, mà lấy việc yên ổn cả đời làm vui. Huống chi những thứ ban thưởng, lại chỉ lấy từ số tiền dịch mà các hộ bảo đinh nộp, tức là lấy từ túi họ mà cho lại, cắt thịt họ mà cho ăn, sao bằng không lấy không cắt thì cả hai đều được. Thần ngu muốn mong bệ hạ nhân việc dạy mùa đông mà ban ơn, hạ lệnh bỏ việc kiểm tra hàng năm phiền phức, giảm bớt tiền dịch và việc phong trang gây rối, một mực yên tĩnh để dưỡng sức và thư thái lòng dân, dân chúng thật may mắn biết bao.”
[26] Lại tâu: “Thần thấy rằng hàng năm, Ty Bảo Giáp từ trong khoản tiền phong trang chi ra cho mỗi hộ dân một quan tiền, bắt nộp một tấm lụa; mỗi huyện không dưới nghìn trăm hộ, mỗi hộ không dưới ba bốn tấm, để dùng vào việc ban thưởng khi duyệt binh. Nếu may mắn tằm tơ thành công, thì dân vội vã dệt nộp; nếu không may không thành, thì phải mua đắt để kịp hạn. Vì Ty Chuyển Vận đã tự mình phân phát tiền mua lụa trước không ít, nay Ty Bảo Giáp cũng phân phát, thì dân gian lại sinh thêm một tầng nhiễu loạn về việc phân phối, cho họ cũng không phải là ân huệ, thần cũng cho rằng nên bãi bỏ việc này.”
[27] Lại tâu: “Thần thấy mỗi lần duyệt binh, một quận nhỏ có mua bạc sáu bảy mươi lạng[13], gọi là mua hòa, nhưng thực chất là phân phối đều lên các hộ phường quách. Hạn kỳ thúc bách, mỗi lạng có phải bồi thêm ba hai trăm tiền, sự phiền nhiễu này, suy ra có thể biết.”
(Ngày 22 tháng 7, Giáp Dần, sai quan đi duyệt binh ba lộ Bảo Giáp. Ngày 26 tháng 8, Kỷ Hợi, bãi chức quan đề cử tiền lương. Từ tháng giêng đến tháng mười, chia làm bốn đợt dạy duyệt. Ngày 28 tháng 10, Kỷ Sửu, bãi Ty Bảo Giáp, lệnh cho quan đề hình kiêm quản, chỉ dạy duyệt vào mùa đông ba tháng. Ngày 16 tháng 11, Bính Ngọ, bãi chức quan giám giáo. Ngày 6 tháng 12, Bính Dần, hộ đinh thứ năm được miễn dạy duyệt mùa đông.)
[28] Triều tán đại phu, Hồng lư thiếu khanh Trần Mục được bổ làm Trực Long đồ các, Tri đâu châu, Thông nghị đại phu, Đề cử Thái Thanh cung Cung Đỉnh Thần được thăng làm Chính nghị đại phu về hưu.
(Chính mục.)
[29] Chiếu cho Môn hạ tỉnh đặt ra phòng Thôi khu.
[30] Tri Thái châu Vương Tử Kinh bị bãi chức, lệnh về Dương châu nghe chỉ, vì Thị ngự sử Lưu Chí tâu rằng đang sai quan đi xét việc Vương Tử Kinh khi ở Phúc Kiến mua trà ép dân, không nên giao cho chức quận nữa.
[31] Tri châu Thiền là Vương Lệnh Đồ tâu rằng, trước đây đã từng kiến nghị khôi phục dòng sông lớn cũ[14], nhưng chưa nghe thực hiện. Chiếu cho Thị lang Lại bộ là Trần An Thạch và Nhập nội đô tri là Trương Mậu Tắc cùng xem xét lợi hại rồi tâu lên. Sau đó lại sai Câu đương Ngự dược viện là Phùng Tông Đạo thay Trương Mậu Tắc.
(Ngày 14 tháng 12, sai Lý Thường đi.)
[32] Lễ bộ tâu rằng, việc triều hạ vào ngày Đông chí và Chánh đán, trong thời gian để tang nên bãi bỏ, đề nghị ngày đó cho quần thần ở cửa Đông trong Đông thượng các môn dâng biểu chúc mừng, Vua theo lời tâu.
[33] Chiếu rằng những người thi Võ cử phạm quy chế học hoặc luật Cống cử mà bị tội, cho phép theo như Tiến sĩ, xét mức độ tội mà xử lý, theo lời thỉnh cầu của Kiển Tự Thần.
[34] Ngày Mậu Thân, Viên ngoại lang Binh bộ là Diệp Tổ Hiệp tấu: “Nợ Thị dịch, một khi quan phủ dùng pháp luật thúc giục, gần đây tuy có chiếu cho gia hạn thời gian và giảm số tiền[15], nhưng sức dân đã kiệt quệ, chắc chắn không thể trả nổi; khi hạn kỳ hết, lại càng thúc giục. Thần nghĩ rằng việc phụ miếu đã gần kề, mong nhân dịp này hạ lệnh cho Hữu ty kiểm tra, nếu thực sự không thể nộp được, xin đặc biệt nghị bỏ qua.” Chiếu rằng các hộ lớn hiện còn nợ tiền lãi Thị dịch ba phần đều được miễn trừ; còn tiền gốc của các hộ đó, giao cho cơ quan phụ trách căn cứ theo các chỉ dụ trước đây để thu nộp, không được để thiếu sót.
[35] Thị ngự sử Lưu Chí tâu: “Thần thấy Hình bộ thị lang là Kiển Chu Phụ và con là Viên ngoại lang ty Phong là Tự Thần, trước đây vâng mệnh đi sứ Giang Tây, Hồ Nam về việc muối, liên tiếp tăng thêm hạn ngạch bán, các châu huyện sợ hãi vâng theo, đều bắt dân phải mua, khiến người ta phạm tội, tan cửa nát nhà, nhiều nơi oán than. Triều đình đã sai sứ đi xét việc ấy, nhưng nghe nói Chu Phụ không chút kiêng sợ, lại tự biện bạch, che giấu lỗi lầm, mà cha con vẫn ung dung làm quan hầu cận, ra vào triều đình, đâu phải là việc nên làm của kẻ đang chờ tội! Mọi người đều chỉ trích. Thần thật sợ Chu Phụ vì lo mất chức, có thể tìm cách khác để mong thoát tội, làm mất lòng công luận. Xin bãi chức của Chu Phụ, Tự Thần, cho ra ngoài làm quan, đợi khi xét xong sự việc, sẽ nghe chỉ dụ của triều đình.”
(Sách 《Chính mục》 chép ngày 18 tháng 11 việc Lưu Chí xin cách chức Chu Phụ, Tự Thần, tức là tờ tâu này. Nay xem tập của Lưu Chí, thêm vào ngày 3 tháng 12. Lại ngày 22, Lưu Chí còn có hai tờ tâu nữa. Ngày 22 tháng 2 năm Nguyên Niên, Chu Phụ, Tự Thần mới bị trách phạt.)
[36] Bộ Lễ tâu: “Sứ phụng uý của nước Cao Ly gửi thư cho châu quận không ghi niên hiệu, chỉ ghi năm Ất Sửu. Chúng thần không dám giữ, cũng không dám trả lời, xin cho quan tiếp sứ nói rõ.” Vua nghe theo.
[37] Ngày Kỷ Dậu, sứ sang mừng lên ngôi của nước Liêu là Lâm Nhã, Tiết độ sứ quân Sùng Nghị là Gia Luật Bạch; Phó sứ là Triều nghị đại phu, Thiếu khanh Sùng Lộc, Tu soạn sử quán là Ngưu Ôn Thư vào chầu ở điện Tử Thần, sau đó vào chầu Thái hoàng thái hậu ở điện Sùng Chính.
[38] Ngày Canh Tuất, cho con trai của con gái Tả tàng phó sứ Tây Kinh là Giải Tông Lễ là Hồ Đại Chương làm Tam ban cung chức, vì Tông Lễ chết vì việc quan.
[39] Ngày Đinh Tỵ, tiến sĩ hương cống Trình Di được bổ làm Thôi quan Đoàn luyện châu Nhữ, sung chức Giáo thụ Quốc tử giám Tây Kinh, do Môn hạ thị lang Tư Mã Quang, Thượng thư tả thừa Lữ Công Trước và Lưu thủ Tây Kinh Hàn Giáng tiến cử học hạnh của ông, nên có mệnh lệnh này.
(Tư Mã Quang và Lữ Công Trước cùng dâng chương tiến cử Trình Di, nhưng trong thực lục hiện nay không ghi tên Tư Mã Quang, có lẽ là sai sót. Ngày 18 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất đổi làm Thừa phụng Hiệu thư, ngày 14 tháng 3 lại đổi.)
[40] Tư Mã Quang tâu: “Thần nghe rằng hai người quý không thể cùng phục vụ nhau, hai người hèn không thể cùng sai khiến nhau, đó là lẽ tự nhiên, là tình thường của con người. Vì thế, thánh nhân đặt ra Vua tôi, khiến bề tôi dâng kế sách, còn Vua quyết định đúng sai, như lưới có giềng, có điều lệ mà không rối loạn, đó là lý do quốc gia được trị vì. Nếu Vua không quyết định, để bề tôi làm theo ý mình, thì sớm tối sẽ tranh cãi, yếu không thắng mạnh, ít không thắng nhiều, hoặc sẽ a dua theo nhau, chiếm giữ chức vụ, sống qua ngày, chỉ lo trước mắt, đó là lý do quốc gia suy vong. Tuy nhiên, khi Vua xét đúng sai, cũng nên suy nghĩ kỹ, nghe xét rõ ràng[16], sáng suốt không nghi ngờ, rồi mới quyết định. Từ xưa đến nay, hưng thịnh hay suy vong đều do con đường này mà ra. Lòng người khác nhau, như mặt mỗi người, dù là Chu Công thánh thiện, Thiệu Công hiền tài, cùng phò tá Thành Vương, vẫn có người không vui, huống chi là kẻ tà chính, trung nịnh, mỗi người đều có chỗ tồn tại! Thần nghĩ rằng hoàng đế còn trẻ, thái hoàng thái hậu thân chính, việc lớn nhỏ đều giao cho chấp chính, ngồi yên mà thành công. Nếu chẳng may quần thần có ý kiến khác nhau, thế lực ngang nhau, không ai phục ai, thần mong bệ hạ đặc biệt lưu tâm, xét rõ đúng sai. Nếu Giáp đúng mà Ất sai, nên bỏ Ất theo Giáp; Ất đúng mà Giáp sai, nên bỏ Giáp theo Ất. Như vậy thì quần thần không ai dám không phục, chính sự tốt đẹp ngày càng mới mẻ. Nếu không, dù bệ hạ có lòng muốn trị vì, sự nghiệp cũng khó thành. Huống chi sách xưa nói: ‘Chỉ Vua mới có quyền ban phúc, giáng oai.’ Không thể để quyền thưởng phạt hoàn toàn thuộc về chấp chính, khiến Vua không thể tự quyết.”
[41] Lại tâu rằng: “Thần nghe người xưa có câu: ‘Mưu tính thì cần nhiều người, quyết đoán thì cần một người.’ Bệ hạ khoan dung nhân từ, giao việc chính sự cho quần thần, nhưng đôi khi các quan bàn luận khó thống nhất, nếu Bệ hạ không quyết định được đúng sai, thì tranh cãi sẽ kéo dài không dứt, việc công sao có thể thành tựu được? Thần xin dẫn theo sách 《Độc Đoạn》 của Thái Ung chép về chế độ nhà Hán: ‘Khi có việc nghi ngờ, các công khanh và trăm quan họp bàn, nếu các đài các đã có quyết định chính thức mà có người vẫn cố giữ ý kiến riêng, thì gọi là bác nghị; nếu ý kiến nào hợp với ý trên, thì văn báo sẽ ghi rằng: “Quan mỗ, người mỗ, nghị khả.“‘ Đó là cách để các bề tôi đều trình bày hết ý kiến, mà bậc quân chủ cũng không mất quyền quyết định. Nay các quan chấp chính, tuy đều cùng nhau ra sức, đồng lòng hiệp sức; nhưng nếu vạn nhất có ý kiến không thể thống nhất, xin cho phép mỗi người được dâng tờ tấu riêng, mong Bệ hạ xem xét kỹ đúng sai, có thể thực hiện hay không, rồi dùng ý chỉ của mình để quyết định, hoặc tuyên dụ trước rèm, hoặc phê chuẩn trong cung, lệnh theo lời tâu của người nào; nếu các quan vẫn còn cố tranh cãi, thì mong Bệ hạ xem xét thêm; nếu quyết định trước đó quả là sai, thì đừng ngại sửa đổi; nếu đã rõ ràng không còn nghi ngờ, thì cứ quyết định mà không thay đổi. Như vậy, suy nghĩ kỹ rồi mới làm, hầu như có thể thỏa lòng mọi người, việc cũng ít sai sót hơn.”
(Hai tờ tấu này không rõ thời gian, căn cứ vào tập của Tư Mã Quang thì nằm sau khi tiến cử Trình Di. Trình Di được bổ làm Giáo thụ Tây Kinh vào ngày 21 tháng 11. Nay tạm ghi vào cuối tháng, cần xem xét thêm.)
[42] Thị ngự sử Lưu Chí tâu: “Sách truyền có nói: ‘Có người đức tiến thì triều đình được tôn trọng’. Lại nói: ‘Người nhân đức nên ở ngôi cao, kẻ bất nhân mà ở ngôi cao, là gieo rắc điều ác cho mọi người’. Thần thấy Tri Xu mật viện sự Chương Đôn, tính tình khinh bạc, vốn không có phẩm hạnh, khi bàn việc chính sự ở triều đình, không có tư cách của bậc đại thần, chỉ dùng sự cường bạo ngang ngược, nói những lời đùa cợt để khinh nhục đồng liêu, khoe khoang với tả hữu. Những lời ấy lan truyền khắp kinh thành, rồi lan ra bốn phương, người ta truyền nhau làm trò cười. Gần đây, thánh chỉ sửa đổi những chính lệnh chưa được hoàn thiện, Đôn lại nhất định đưa ra ý kiến khác, ngăn trở việc ấy. Khi Tống Dụng Thần kiêu ngạo ngang ngược phạm pháp, Đôn ở trong triều đình lại thân thiết với hắn, nhận rượu ngon mà hắn biếu. Dù đã được ân xá, thần cho rằng bậc đại thần không liêm chính, phạm vào trách nhiệm lớn về đạo nghĩa, không nên như tiểu thần bàn về việc xá tội trước sau. Thần xét Đôn nhờ cơ hội may mắn, được giữ chức vụ gần Vua, không biết suy nghĩ sâu xa về chức tước cao bổng lộc hậu của triều đình, không biết tự trọng, để báo đáp bằng lòng trung nghĩa. Mà lại khinh nhục đùa cợt, không thể gọi là có đức; ngăn cản điều thiện hại chính sự, không thể gọi là nhân; kết giao với kẻ không đáng, lại nhận của hối lộ, có thể nói là không có liêm sỉ, có thể nói là gieo rắc điều ác cho mọi người. Đang ở ngôi cao mà tự đắc, mọi người đều chỉ trỏ bàn tán, e rằng không phải là cách để tôn trọng triều đình, khuyến khích quần thần. Thần xin thánh thượng quyết đoán, bãi chức Chương Đôn, để thỏa lòng công luận.”
(Tống Dụng Thần bị giáng làm Giám thuế ở Châu Trừ vào ngày 14 tháng 11. Tờ tấu này chỉ việc Đôn thông đồng với Dụng Thần, chắc chắn là sau khi Dụng Thần bị giáng chức, nay phụ vào cuối tháng 11, cần xem xét kỹ hơn. Lưu Phỏng, Vương Tri Thường soạn tập hành trạng của Lưu Chí, chép tờ tấu hặc Chương Đôn sau khi luận tội Thái Xác, như vậy thì nên phụ tờ tấu này vào cuối năm sau, cần xem xét thêm. Thái Xác nói về Chương Đôn, từ tháng 11 về sau nhiều lần có việc này. Tôn Giác lúc ấy làm Đại gián, chỉ chưa thấy tờ tấu nào của ông, cuối tháng giêng năm sau có hai tờ, lại không biết thực sự vào lúc nào, cần tìm tập của Tôn Giác để biên soạn lại. Từ tháng 11 năm ngoái về sau, việc đàn hặc Thái Xác cũng là tờ tấu đầu tiên của Vương Nham Tẩu vào đầu xuân năm Nguyên Hựu thứ nhất. Hình Thứ chép lời nói việc làm của Tôn Giác, cần xem xét thêm.)
[43] Giám sát Ngự sử Vương Nham Tẩu tâu: “Thần nghe nói hôm trước các đại thần chấp chính bàn việc định chế độ thùy liêm cho Thái hoàng thái hậu, Môn hạ Thị lang Chương Đôn đã nói trước mặt mọi người rằng: ‘Hãy đợi ban cho một ít lễ số.’ Các bề tôi nghe thấy, không kể sang hèn, hiền ngu, ai nấy đều biến sắc, cùng phẫn nộ. Thái hoàng thái hậu là mẹ của Tiên đế, bà nội của Hoàng đế, địa vị tôn quý nhất thiên hạ. Việc thùy liêm nghe chính là di chế của Tiên đế, từ trước đến nay trong triều đều có tiền lệ, bề tôi phải bàn bạc rõ ràng rồi thi hành, há có thể tùy tiện nặng nhẹ theo ý riêng? Xét lời nói của Đôn, là lời gì? Suy lòng dạ của Đôn, thật là lòng dạ gì? Vô lễ trái nghĩa, không phải là điều bề tôi nên nói ra. Thần xin luận tội đại bất kính, xin giao cho Hữu ty trị tội Đôn.” Lại tâu: “Thần mới nghe tin đồn, chưa dám tin hẳn, sau thấy người nói càng nhiều, lời lẽ đều giống nhau. Bởi vô lễ với Vua là điều bề tôi đều ghét, thần không dám che giấu không tâu, để nuôi dưỡng cái ác của kẻ cường thần. Kính mong Bệ hạ sớm trị tội Đôn, để răn đe quần thần.”
(Chương tấu này không rõ dâng vào tháng nào, nhưng vì là việc đàn hặc chấp chính, hẳn là sau khi cho phép các quan Giám sát được tâu việc. Nay nhân việc Lưu Chí hặc Đôn, xin phụ chép vào đây.)
[44] Hữu Gián nghị đại phu Tôn Giác tấu: “Triều đình gần đây ban chỉ, cho phép Ngự sử và các quan Giám sát được tâu việc. Thần nghe nói khi triều đình mới đặt chức Giám sát, chỉ lệnh cho họ xem xét việc sai trái của các cơ quan, e rằng trong số đó có người không đủ tư cách đảm đương trách nhiệm tâu bày. Xin lệnh cho Trung thừa, Thị ngự xem xét thêm, ai có thể tâu việc, ai nên bãi chức; nếu không đủ, thì lệnh cho cử người có thể tâu việc để tâu lên.” Được chấp thuận.
(Việc mật tấu tháng 11, nay phụ chép vào cuối tháng. Ngày 14 tháng 12, Chương Đôn và Lưu Chửng bị bãi chức.)
[45] Điện trung thị ngự sử Hoàng Giáng tấu rằng, các lộ Giang Tây, Hồ Nam đã phái sứ đi khảo sát, Kiển Chu Phụ cùng con là Tự Thần nên bổ nhiệm ra ngoài để chờ xét xử. Chiếu lệnh việc muối ở Giang Tây, Hồ Nam, Phúc Kiến, sai Trần Thứ Thăng, Trương Nhữ Hiền khẩn trương khảo sát và tâu lên.
(Việc mật tháng 11.)
[46] Lệnh huyện Thọ Xuân, châu Thọ, kiêm Giáo thụ châu Tào là Chu Tư tâu rằng: “Sông Quảng Tế thực sự là một trong ba con sông vận chuyển lương thực đến kinh sư, phía dưới thông với Giang, Hoài, hai Chiết, phía trên đạt đến kinh sư, nên sản vật của lộ Kinh Đông cùng với Giang, Hoài, hai Chiết đều có thể trao đổi và đưa về kinh sư; dân Kinh Đông nhờ đó mà sống rất nhiều. Từ thời tổ tông, quan vận chuyển được đặt ở Tào, tiền và lương thực của Kinh Đông từ Tế đến Tào, từ Tào đến kinh sư, chỉ khoảng bốn năm trăm dặm. Gần đây, Lý Sát nghe theo kế sách Thanh Biện của Tống Dụng Thần, bèn dời việc vận chuyển đến Hoài Dương, tiền và lương thực của Kinh Đông từ Tế vào Tứ, từ Tứ vào Thanh Biện rồi đến kinh sư, đường đi quanh co xa xôi gần hai ngàn dặm. Thần xin khôi phục việc vận chuyển về Tào, như vậy không chỉ thuận tiện cho việc cung ứng mà dân Kinh Đông cũng được hưởng lợi.” Chiếu lệnh Hộ bộ xem xét và trình bày rõ lợi hại.
(Việc mật tháng 11, nay ghi vào cuối tháng. Ngày 22 tháng 3 năm Nguyên Niên khôi phục lại.)
- Chữ 'năm thứ 5' trong 'ngày 5 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 5 bãi bỏ Trịnh Châu' vốn bị thiếu, căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 85, phần Địa lý chí, 《Tống hội yếu》 phần Phương vực 5-1, 《Cửu vực chí》 quyển 1, mục Trịnh Châu và quyển 237 sách này, ngày Tân Tỵ tháng 8 năm Hi Ninh thứ 5 để bổ sung. ↵
- Chỗ này nghi có thiếu chữ. ↵
- 'Đang làm việc' nguyên văn là 'đang thu thuế', căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 192, 《Thông khảo》 quyển 152 sửa lại. ↵
- Nguyên văn có chữ 'huy' thừa sau chữ 'chỉ', căn cứ theo bản trong các bộ sách và 《Tống sử》, 《Thông khảo》 đã dẫn mà bỏ. ↵
- 'Mua giấy mực' nguyên văn là 'mua rượu', căn cứ theo 《Tống sử》 và 《Thông khảo》 đã dẫn mà sửa. ↵
- 'Hai bảo trưởng lớn và nhỏ' nguyên văn là 'hai bảo chính lớn và nhỏ', căn cứ theo các bản sách, 《Tống sử》 đã dẫn và đoạn văn sau trong quyển này mà sửa. ↵
- Không thể không lo liệu trước 'lo liệu', sách 《Tống sử》 và 《Thông khảo》 quyển 153 chép là 'lo'. ↵
- Giao hết về châu huyện 'giao hết' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào các bản khác, sách 《Tống sử》, 《Thông khảo》 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 109 chính. ↵
- 'Tồn' nguyên là 'Tại', theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại ↵
- 'Cộng' và 'Duyệt' hai chữ nguyên bản thiếu, theo các bản bổ sung ↵
- Vẫn cử sứ giả đi các nơi để kiểm tra, chữ 'các nơi' trong các bản và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 đều viết là 'hàng năm'. ↵
- Đều nói rất khổ, sách trên không có hai chữ 'rất khổ'. ↵
- Một quận nhỏ có mua bạc sáu bảy mươi lạng, chữ 'thập' trong các bản khác chép là 'thiên'. ↵
- Khôi phục dòng sông lớn cũ, chữ 'khôi' nguyên bản là 'khai', căn cứ theo bản các và 《Tống hội yếu》 phương vực 15/10 sửa lại. ↵
- Giảm số tiền, chữ 'chiếu' trong bản các là 'tức', 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 110 về Thị dịch vụ viết là 'huệ'. ↵
- 'nghe xét', bản các các làm 'thanh xét'. ↵