"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 364: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)

Từ tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Dần, mùng một, đổi niên hiệu.

(Lã Đào trong 《Ký Văn》 chép: Chính sách thời Nguyên Hựu cho rằng pháp chế thời Nguyên Phong là bất tiện, bèn khôi phục lại pháp chế thời Gia Hựu để cứu vãn. Tuy nhiên, không thể thay đổi hoàn toàn, đại thể là dùng cả hai pháp chế mới và cũ, coi trọng sự thuận tiện cho dân. Có người bàn rằng: “Thực hiện pháp chế đối xứng.” Các quan trong triều thích đùa bảo rằng: “Không chỉ pháp lệnh như vậy, đến cả niên hiệu cũng đối xứng nữa.” Tuy là lời đùa cợt nhưng cũng có ý vị, điều này cho thấy ý nghĩa của việc đổi niên hiệu lúc bấy giờ, tạm ghi chú ở đây.)

[2] Ngày Tân Mão, xuống chiếu cho Kinh lược sứ Quảng Tây điều tra việc Tri châu Quảng Nguyên là Dương Cảnh Thông sai Đàm An đi cướp bóc dân biên giới, đồng thời gửi văn thư cho Tĩnh Hải quân An Nam[1], hỏi rõ nguyên nhân không tuân theo chiếu chỉ.

[3] Ngày Nhâm Thìn, xuống chiếu rằng: “Lâu ngày không có tuyết, lo ngại việc tù nhân bị giam giữ lâu ngày, ở kinh thành giao cho Hình bộ lang trung, Ngự sử, cùng Ty Đề điểm phủ Khai Phong, các châu quân ở các lộ giao cho Giám ty thúc giục xét xử nhanh chóng.”

[4] Trước đó, có người dâng thư lên nói: “Thần trộm nghĩ rằng tuyết chưa rơi đúng mùa, âm dương không hòa hợp, có lẽ là do việc hình ngục chưa được xử lý một cách thận trọng, pháp lệnh chưa được khoan dung công bằng, quan lại chưa tận tâm với chức trách, văn thư giấy tờ chất đống, trên dưới đều lười biếng, chỉ lo đối phó trước mắt. 《Hồng Phạm》 có nói: ‘Nghiêm túc thì mưa thuận gió hòa.’ Đây chẳng phải là do trên dưới không nghiêm túc mà ra sao! Các quan đại thần trong triều đình không đồng lòng lo việc nước, ai nấy đều ôm lòng riêng, có kẻ còn dèm pha lừa dối! Các quan Thượng thư, Thị lang của Lục bộ dưới quyền không dốc lòng vì nước, còn các Lang trung, Viên ngoại tuy không có tài năng, không đủ sức đảm đương chức vụ, cùng những kẻ không chuyên tâm với công việc, triều đình lại không phân biệt rõ ai có tài ai không để quyết định bãi chức hay lưu dụng; các Lang trung, Viên ngoại, lại viên không làm tròn nhiệm vụ, trì hoãn lười biếng, không bị trừng trị, lại còn được khoan dung, dần dần thành thói quen. Từ các chức Tả Hữu Bộc xạ, Tả Hữu Thừa của Thượng thư tỉnh trở xuống, tệ nạn đã như vậy, huống chi là các cơ quan khác[2]?

Thần ngu muội cho rằng nên ban chiếu thư xem xét lại các vụ án trong thiên hạ, sai các quan theo thứ tự phân công xử lý các vụ án trong kinh thành, bãi bỏ những pháp lệnh trái với ý chỉ của tổ tông, ra lệnh cho Thượng thư tỉnh và các cơ quan trong kinh thành phải tận tâm với chức trách[3], khiến mọi người đều phải tự mình gánh vác trách nhiệm. Nếu có ai không tuân theo, Ngự sử, Gián quan sẽ lần lượt tâu lên những sai phạm của họ, triều đình sẽ xét xử và thi hành không tha thứ. Làm như vậy thì âm dương hòa hợp, trời đất ứng nghiệm, tuyết sẽ rơi đúng mùa, khí hậu sẽ ôn hòa vậy.”

(Theo 《Chương Tấu Lục》 quyển thứ nhất, vào ngày 23 tháng 12 năm thứ 8. Không rõ người tâu là ai, 《Tạp Lục》 ghi là Lưu Chí, nhưng Lưu Chí có dâng chương bàn về việc không có tuyết, đã chép vào cuối tháng 12 năm thứ 8, e rằng không phải là việc này[4], cần phải xem xét thêm.)

[5] Ngày Ất Mùi, xuống chiếu cho cựu quan Nhập nội Đông đầu Cung phụng quan, bị phối làm lao dịch ở Nhữ Châu là Hàn Vĩnh Thức được đặc cách tha về tự do. Vĩnh Thức từng làm chức Chiếu quản Quân mã công sự trong ty Kinh chế Lô Châu Di tặc, khi Hàn Tồn Bảo do dự không tiến quân, giết người vô tội để lấy thủ cấp bị xử tử, Vĩnh Thức vì tội liên đới bị đặc cách phối làm lao dịch ở đảo Sa Môn, ba lần dời đến Nhữ Châu. Đến lúc này, mẹ ông lại dẫn chiếu xin tha tội, nên đặc cách chấp thuận.

[6] Ngày Bính Thân, lấy Triều phụng lang, Quyền phát khiển Hoài Nam Chuyển vận phó sứ Lộ Xương Hoành, Thừa nghị lang, Công bộ Lang trung Lữ Đại Trung[5], cùng làm Quyền phát khiển Thiểm Tây Chuyển vận phó sứ.

(Cần xem việc Lữ Đại Trung xử lý việc cắt đứt buôn bán, Tư Mã Quang có ghi chép trong thư từ với Viện Mật, nhưng trong hành trạng của Đại Trung không thấy nhắc đến, cần tra cứu thêm. Ngày 28 tháng 10[6], Đại Trung vẫn giữ chức Thiểm Tây Chuyển vận phó sứ.)

[7] Quyền phát khiển Khai Phong phủ Lã Đại Phòng tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, khôi phục lại chức Huyện úy và Cung thủ, xin cho các quan văn võ và những người liên quan đến việc bắt trộm cướp ở các huyện thuộc phủ giới đều thuộc quyền quản lý của bản phủ cùng với Đô đại Đề cử ty. Việc thưởng phạt, xin giao cho bản phủ tự quyết định.” Triều đình chấp thuận.

(Việc khôi phục Huyện úy và Cung thủ là theo chỉ dụ ngày 14 tháng 5 năm thứ 8. Ngày 22 tháng này, Chu Quang Đình có tâu việc này, ngày 2 tháng 2, Lưu Chí cũng có tâu, cần tra cứu thêm.)

[8] Ngày Mậu Tuất, Tông chính tự tâu rằng Ngọc điệp quan Hoàng Lí dâng sớ: “Từ khi Thần Tông hoàng đế lên ngôi đến nay, sách Ngọc điệp, Tộc tịch và Loại phổ đều chưa được tu chỉnh. Xin cho biên soạn các năm từ năm Hi Ninh thứ 10 đến ngày 5 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8, theo đúng quy thức.” Triều đình chấp thuận.

[9] Thị ngự sử Lưu Chí tâu:

[10] Thần trộm nghĩ rằng, đạo trị nước của thánh nhân tuy chỉ một, nhưng đạo ấy không bao giờ cũ kỹ[7], mà đạo ấy thể hiện trong hình danh, pháp số, ắt có chỗ thiên lệch không phát huy được, mờ mịt không thực hiện được, thánh nhân tùy thời mà thay đổi. Thay đổi thì thông suốt, thông suốt thì lâu dài, để tận dụng lợi ích của thiên hạ, đó là lý do ngũ đế có chế độ khác nhau, tam vương có lễ nghi không giống nhau. Quốc gia kế thừa sau thời kỳ suy đồi cuối Đường và Ngũ đại, tổ tông sáng lập chế độ, tạo ra pháp luật, phù hợp với thời thế, thuận theo sự biến đổi[8], tuy thánh thánh nối tiếp nhau, nhưng pháp lệnh ngày càng thêm bớt, có khi thi hành, có khi bãi bỏ, chưa từng giống nhau. Đến việc an dân trị nước, cái gọi là đạo không bao giờ cũ kỹ, thì chưa từng khác nhau.

Thần Tông với lòng nhân từ sáng suốt, thấu hiểu số phận của sự kế thừa và cải cách, mọi chính lệnh, chế độ, từ việc gấp rút đến việc thong thả, đều giải quyết và thay đổi lớn, nên thiên hạ được hưởng lợi. Nhưng đến nay, đã gần hai mươi năm, cái gọi là thiên lệch không phát huy được, mờ mịt không thực hiện được, lại xuất hiện. Việc ấy không phải một, mà lớn nhất là phép dịch. Về tệ hại của phép dịch[9], liên quan đến nhau và cần thay đổi, đó là phường trường và lộc của lại. Ban đầu vì việc sai dịch không công bằng, nông dân vất vả tốn kém, nên sai quan lại bàn cách điều hòa và nới lỏng. Nhưng quan lại không suy xét kỹ nguyên nhân, bèn xóa bỏ hết các sắc lệnh sai dịch cũ của tổ tông, đặt ra phép quan tự thuê người, thu tiền theo hộ để trả tiền thuê, gọi là trợ dịch, lại gọi là miễn dịch.

Từ hộ trên đến hộ dưới năm bậc, những nhà vốn không phải chịu sai dịch, đều bị thu thuế, ngoài các khoản thuế khóa, điều tiết, trăm thứ đòi hỏi, mua bán, cầu xin, lại sinh ra thứ thuế nặng này. Năm nào cũng phải nộp, không có hạn chế. Người xưa có câu, đất bằng không có mỏ đồng, nhà nông không có lò đúc tiền, nay phải nộp bằng tiền, mà đất đai sản xuất, chỉ có lụa, tơ, lúa, thóc. May mắn được mùa, nhưng châu huyện thúc ép, không thể không bán rẻ, không có gì để nuôi sống bản thân; nếu mất mùa, thì phải bán tài sản, hoặc vay nặng lãi của nhà giàu để đáp ứng thời hạn. Lại không có pháp giảm thuế, châu huyện hộ trên thường ít, hộ trung, hộ dưới thường nhiều, từ khi pháp này thi hành, sổ sách không thay đổi, cốt sao thu được nhiều tiền, nên các nơi tùy tiện nâng hộ, hộ dưới lên trung, hộ trung lên trên. Nay thiên hạ thường hộ trung, hộ trên nhiều mà hộ dưới ít, huyện giàu, làng lớn, hộ trên nộp tiền dịch, mỗi năm có đến mấy trăm quan, lại có đến nghìn quan, mỗi năm nộp mãi, đến khi nghèo kiệt mới được giảm.

Xưa kia sai dịch ở làng huyện, thay phiên nhau, hạng trên chịu dịch lớn, nhanh nhất cũng hơn mười năm mới đến lượt[10], còn hạng dưới thì phải hai, ba năm mới chịu một lần, tuy có vất vả tốn kém, so với nạn thuế nặng ngày nay, thì đâu nhiều đâu ít. Nay thiên hạ tiền ngày càng nặng, hàng hóa ngày càng rẻ, dân ngày càng khốn khổ, sao lại ngồi nhìn mà không cứu giúp vậy! Thế thì trước đây quan lại đặt ra pháp luật, không phải vì muốn giảm nhẹ dịch và có lợi cho dân, mà chính là để thu gom, bóc lột, hại dân lợi quan, khiến nước nhà bị chê trách, hoàn toàn trái với ý tốt của triều đình muốn ban ơn cho dân. Thần trộm thấy việc sai dịch, xưa có người vì sợ phá sản mà không dám làm, chỉ có dịch nha tiền mà thôi. Nay thiên hạ phường trường, quan lại thu nhập tự bán, mỗi năm được tiền không dưới mấy trăm vạn, dùng làm tiền trả cho việc thuê nha tiền. Tính thu nhập một năm, chi tiêu một năm, còn dư dả, thì dịch nha tiền nặng nề, không cần đến nông dân nữa. Nông dân đã bỏ được dịch nặng này, ngoài ra chỉ còn tán tòng, thừa phù, cung thủ, thủ lực, kỳ hộ trưởng, tráng đinh. Những dịch này không tốn kém nhiều, nên dùng lại phép sai dịch của tổ tông, từ hạng nhất trở xuống đều phải chịu, so với chế độ cũ, thì dịch đã nhẹ đi. Người trị dân thì phục vụ dân, là đạo lý xưa nay, cần gì phải cấp tiền?

[11] Phép phường trường, trước đây các hộ đấu thầu kế tiếp nhau[11], đều có định mức, không cho phép tăng giá, nếu có cắt giảm thì bị tước bỏ. Tổ tiên không phải không biết việc tăng giá có lợi cho nhà nước, nhưng không cho phép là vì biết rằng thích lợi trước mắt ắt sẽ có hại về sau. Phép mới lại cho phép đóng kín đơn dâng lên, cho phép người trả giá cao được lấy, do đó kẻ tiểu nhân cầu may một thời, tranh nhau vượt mức cũ, có khi đến hai ba lần, trước là trăm quan, nay có đến nghìn quan, trao đổi túi tiền, bịa đặt vốn thế chấp. Mức thuế đã lớn, lý ra khó mà thực hiện, do đó trăm điều tệ hại nảy sinh, nhất định sẽ thâm hụt, châu huyện vất vả giám sát trách nhiệm, lo lắng đến việc bảo lãnh, giam giữ ràng buộc, cuối cùng không có tiền nộp. Quan phủ tiếc mức thuế, không giảm giá, thì ai còn dám mua? Nay phường trường trong thiên hạ, như thế này đã chiếm mười phần năm sáu. Vì vậy, lợi thu được từ việc tăng giá đóng kín, so với mất mát do thâm hụt, hầu như không bù đắp được. Tài lợi có thể thông suốt mà thôi, không thể tận cùng, giảm bớt một phần, chia sẻ với dân, thì công tư cùng giúp nhau, lợi ích sẽ lâu dài. Thần xin bãi bỏ phép đóng kín dâng đơn, các phường trường trong thiên hạ, giao cho các lộ chuyển vận, đề cử ty, so sánh mức lợi tịnh hiện nay với mức cũ trước khi có phép mới, cùng với vị trí quan trọng hay không, lấy mức trung bình, lập làm mức vĩnh viễn. Áp dụng phép cũ để chiêu mộ người, mong rằng người nhận đấu thầu không gặp họa phá sản, mà lợi thu được của quan phủ sẽ ổn định và không mất mát.

[12] Phép cấp lộc cho quan lại, người làm quan trong thiên hạ, theo chế độ cũ, các lộ và châu huyện đều có phép khác nhau, có người được cử từ hộ dân trong làng, có người được tuyển dụng từ những người tự nguyện, sau khi nhậm chức, vừa được hưởng ưu đãi từ cơ quan, lại được luân phiên ra vào để đền bù, lại tích lũy năm tháng, có hy vọng được thăng chức, thực hiện lâu dài, người ta tự cho là tiện lợi.

Lúc đó, các cơ quan thấy trong 《Lễ kinh》 có quy định về lộc của người dân thường làm quan, bèn mượn lý thuyết đó để bóc lột dân. Họ không biết rằng thời Tam đại đã xa, nhiều việc không thể áp dụng được trong thời nay. Lộc của người dân thường làm quan, tuy có ghi trong sách, nhưng phép tắc và số lượng không thể biết rõ chi tiết, bèn bịa đặt ra, thu tiền dân để cấp lộc cho quan lại, nếu không nặng thì không đủ để chiêu mộ, nếu không nhẹ thì không đủ để cấp phát.

Hiện nay, quan lại trong và ngoài triều, trừ những người thuộc phép nặng, những người khác mỗi tháng được cấp rất ít, về lợi ích thì chưa đủ để giúp ích, mà số tiền cấp phát tích lũy, trong thiên hạ đã không ít, vô cớ làm hao tổn tài sản dân chúng để làm việc này, thật là vô nghĩa! Đến như việc gọi là cấp lộc nặng để thực hiện phép kho, càng không hợp lý. Phàm một đồng tiền trở lên đều bị phạt tù, gọi là hình phạt nghiêm khắc cũng được, nhưng lại cho rằng quan lại sợ mà không nhận hối lộ, thì thần không dám chắc.

Nay người chủ trương nói: “Pháp luật nghiêm ngặt thì quan lại tất sợ, nên từ khi ban lệnh đến nay, người phạm tội ít.” Thần cho rằng không phải người phạm tội ít, mà là người bị bắt ít; không phải người bị bắt ít, mà là người bị xử tội ít. Lưới pháp luật chặt chẽ, thì người cho và người nhận đều giấu giếm, cũng sẽ tránh né khéo léo, nên nói là người bị bắt ít. Một đồng tiền mà bị phạt tù, ai chịu nổi? Ai dám dễ dãi? Nên nếu có người bị bắt, nếu có chút nghi ngờ, hoặc không có người tố cáo để được thưởng, thì quan phủ thường xử nhẹ, bỏ nặng lấy nhẹ; nếu ở ngoài lộ, thì dù là sứ giả cũng có khi bảo châu huyện làm như vậy, đó cũng là tình người, nên nói là người bị xử tội ít. Giả sử người phạm tội đều bị bắt, người bị bắt đều bị xử tội, thì đó cũng là điều mà pháp luật thời tiên vương không có, và là điều mà thánh nhân nên thương xót. Quan lại nhận hối lộ, theo luật đã có hình phạt, nhưng người làm trái pháp luật, từ một tấm lụa trở lên đều bị phạt tù, thì hình phạt cũng không nhẹ. Nay thay đổi hình pháp thời tiên vương mà nặng thêm, lại tăng lộc cho quan lại để mua sự thực hiện pháp luật, thật là vô nghĩa.

Thần ngu muốn xin trừ những người làm công theo phép cũ trước niên hiệu Hi Ninh vẫn được cấp lộc như cũ, còn những người được cấp lộc theo phép mới và tăng thêm, đều nên bãi bỏ. Thần ngu thật không biết kiêng kỵ, nay việc sai dịch nha tiền, thì dùng tiền giá phường trường để chi trả; việc sai dịch cung thủ, thì dùng phép sai dịch thời tổ tông để phân bổ, lộc của quan lại không phải do phép cũ cấp, thì đều bãi bỏ, những việc như người sai dịch tiêu phí, tư dịch, thì cấm theo phép mới thời Hi Ninh. Nếu làm như vậy, thì tiền miễn dịch, có thể hoàn toàn bãi bỏ. Có người nói tiền miễn dịch được ghi vào kho thường bình, vốn không chỉ dùng để chiêu mộ người sai dịch, mà các khoản chi phí khác của quan huyện, nhiều khoản dựa vào đó, thì không thể bàn về lợi hại. Thần cho rằng tiền sai dịch do Tư nông quản lý, nếu không có chiếu chỉ đặc biệt, thì không dùng để chi tiêu thường xuyên, nay bãi bỏ cũng không tổn hại đến quốc dụng. Huống chi từ thời tổ tông đến nay, trước khi phép sai dịch chưa đổi, tiền sai dịch chưa thu, trong hơn trăm năm[12], không biết làm sao để trị quốc, cũng nói rằng dùng có chừng mực, lấy có đạo lý.

[13] Ngày nay, trăm họ trong thiên hạ, mệt mỏi xương cốt, chịu đói rét, chịu đòn roi, suốt năm vội vã nộp tiền cho nhà nước. Không may gặp phải những năm liên tiếp có thiên tai, thực sự lo sợ rằng những người nghèo khổ sẽ phải lưu lạc, chết đói bên đường; còn những kẻ cường bạo thì chịu đựng, không thể trở thành lương dân của bệ hạ. Vậy nên, tiền dịch chính là sinh mệnh của dân, liên quan đến an nguy của thiên hạ, sao có thể coi đó là mệnh lệnh bất di bất dịch được! Xưa kia, giàu có được cất giữ trong dân, thực sự khiến dân chúng ngoài việc nộp thuế còn có thể tự nuôi sống mình, thì phần dư thừa đó chính là kho tàng ngoài của quốc gia, khi cần thì lấy mà thôi. Lúc bình thường, ngồi nhìn họ khốn khó, không phải là kế sách hay. Vì vậy, thần cho rằng tiền dịch nên bãi bỏ hoàn toàn. Tiền dịch bãi bỏ, thì cơ quan đề cử thường bình cũng có thể bãi bỏ, giao việc hiện có cho chuyển vận ty là đủ. Thiên hạ đã giảm bớt hàng chục giám ty, thì châu huyện sẽ được thong thả hơn, trên dưới đều đỡ phiền hà, không phải là việc nhỏ. Tuy nhiên, đây là đại pháp, lời thần chỉ là đại lược, còn những chi tiết của pháp luật, hoặc có chỗ mâu thuẫn, nên có luận bàn thống nhất. Xin chọn hai ba viên quan trong hai chế, là người thông hiểu việc trị nước, am tường dân sự, lập cục bàn bạc, soạn thảo điều lệ, do các quan chấp chính tam tỉnh chủ trì, chờ thánh chỉ thi hành.

(Tân lục chép sớ này của Tư Mã Quang vào ngày 6 tháng 2, sau khi trình bày mười điều hại, vì khi ban hành mới chép. Theo chương tấu lục, thực ra sớ này dâng lên ngày 9 tháng giêng, nay phụ lục vào ngày này.)

[14] Điện trung thị ngữ sử Lưu Thứ Trang tâu: “Thần thấy từ năm Hi Ninh đến nay, thay đổi pháp dịch mới, ý muốn ban ơn đều cho dân, nhưng nhà giàu có được hưởng nhàn hạ, còn dân nghèo ngày càng khốn khó. Xin ban chỉ dụ cho các lộ chuyển vận, đề cử quan, cùng bàn bạc với quận huyện, nghiên cứu kỹ lưỡng, soạn thảo rồi tâu lên.”

[15] Giám sát ngự sử Vương Nham Tẩu tâu:

[16] Thần xin trình bày rằng phép miễn dịch đã thực hiện lâu ngày, thấy rõ nhiều tệ hại, cần phải thay đổi để thông suốt. Thần xin dẫn chứng từ việc quản lý huyện An Hỉ thuộc châu Định trước đây, mong bệ hạ xem xét. Huyện An Hỉ có hơn 13.000 hộ, trong đó hơn 5.000 hộ thuộc hạng tư. Tài sản mỗi hộ chỉ đáng giá 24 quan tiền trở lên, nhưng phải nộp tiền dịch hàng năm, khiến họ rơi vào cảnh cực kỳ nghèo khó. Trước khi phép dịch chưa thi hành, hạng tư chỉ có hơn 1.600 hộ. Do số tiền dịch quá lớn, hạng trên không đủ nộp, nên đã nâng 3.400 hộ từ hạng năm lên hạng tư, và 700 hộ từ hạng tư lên hạng ba. Theo lệ cũ, phép phân hạng cứ ba năm điều chỉnh một lần, chỉ khi gia sản tăng lên mới nâng hạng, nên dân không oán hận. Nay hộ dưới tài sản không tăng, nhưng lại bị nâng hạng, bắt nộp tiền dịch. Chỉ riêng một huyện nhỏ mà mỗi năm thu hơn 14.700 quan tiền, thuế pháp quá nặng, sức dân không chịu nổi. Sức dân không chịu nổi mà mong họ không oán hận, sao được? Ngoài số tiền chi trả hàng năm, còn dành 3.800 quan làm tiền phong trang cho bảo giáp, thực chất không có việc dịch mà vẫn phong trang, danh nghĩa là gì? Nay dù cho phép giữ lại hai phần mười số tiền dư để giảm thuế, coi là ân huệ lớn, nhưng chi phí thuê mướn, số tiền phong trang, và số dư vẫn còn nặng, chưa thực sự công bằng. Thần thường thấy hộ dưới nộp thuế trong cảnh khó khăn, còn châu huyện thì không ngừng dùng roi vọt ép buộc. Ép người làm điều họ không muốn, rốt cuộc không thể lâu dài. Nếu miễn dịch cho những hộ đáng phải đi dịch thì còn có thể, nhưng phần lớn hộ dưới cả đời không phải đi dịch, nay lại bắt họ nộp tiền hàng năm, gọi là miễn dịch, thần cho rằng vốn không phải đi dịch, thì miễn cái gì? Đây chỉ là đánh thuế thẳng vào tiền của họ mà thôi.

[17] Xưa kia khi phép sai dịch còn thi hành, dân làng bị sai đi làm dịch đều tự mình làm, gọi là ứng đương môn hộ. Mỗi người đều bảo vệ gia đình và bản thân, có ý thức trân trọng, không ai không chọn con cháu tốt để giúp việc công. Dựa vào họ để làm việc thì việc thành, dựa vào họ để quản lý tài sản thì không bị lừa dối, trong lúc cấp bách hay thong thả đều có chỗ dựa. Khi phép thuê mướn được thi hành, danh tiếng của họ trở nên thấp kém, con người họ cũng bị coi thường, bỏ mình ứng mộ, phần nhiều là những kẻ phù phiếm nơi chợ búa, hiếm có người dân chất phác từ làng quê. Phòng bị quá lỏng lẻo thì kẻ phạm tội nhiều, kiểm soát quá nghiêm khắc thì kẻ bỏ trốn cũng nhiều, quận huyện vì thế mà thế lực suy yếu, công việc nguy hiểm, đây không phải là cách để coi trọng căn bản, nghiêm ngặt trong lúc cấp bách, duy trì lâu dài. Những tệ nạn thu thuế từ dân đã như vậy, thuê người làm dịch cũng có tệ nạn như vậy, nếu không có cách thay đổi và thông suốt, liệu có được không? Xét từ một huyện An Hỷ, có thể thấy được cả vùng Hà Bắc, xét từ vùng Hà Bắc, có thể thấy được cả thiên hạ. Thần ngu muội xin bãi bỏ phép miễn dịch, khôi phục phép sai dịch như sắc lệnh thời Gia Hựu, chỉ riêng với dịch lớn ở nha tiền thì lập phép tương trợ bản đẳng, để tận dụng lợi ích của sự thay đổi thông suốt. Ví như trong một huyện, có một trăm gia đình phải ứng dịch lớn, mỗi năm chọn mười người, thì chín mươi gia đình còn lại cùng giúp đỡ, năm sau đổi mười hộ, lại làm như vậy[13], thì dịch lớn sẽ không có tệ nạn thiên lệch.

Còn những việc sai dịch vô danh, những khoản bồi thường phi lý, đều dùng lệnh cấm của phép mới thời Hi Ninh, thì dù không giúp đỡ cũng có thể làm được. Nay cái gọi là giúp đỡ, chỉ là giúp đỡ chi phí hàng năm của gia đình người làm dịch mà thôi, không phải là thu thuế nặng; nếu thực sự làm được như vậy, lòng người đều vui vẻ giao hảo để yên ổn làm ăn, quận huyện không phải lo lắng về việc đốc thúc, đó là chính sách tốt đẹp của thiên hạ, đây thực sự là việc cấp bách hiện nay. Nếu chấp thuận lời tấu của thần, xin chọn dùng một hai người am hiểu việc đời, thấu hiểu lòng dân, đứng ra lập cục, bàn bạc kỹ lưỡng rồi thi hành, mong rằng có thể tận dụng lợi ích lâu dài.

[18] Lại tâu rằng: “Xưa kia các phường trường, bến đò đều dùng để thưởng cho những người làm việc lâu năm ở nha môn. Nay nếu thi hành phép sai dịch, lại bắt những nhà có người làm nha môn phải tự giúp đỡ lẫn nhau, lại cấm không cho họ được bồi thường, thì những người ở phường trường, bến đò tự nhiên sẽ quy về nhà nước. Chỉ xin định lại giá cả hợp lý để khắc phục tình trạng giá quá cao.” Lại tâu rằng: “Gần đây có chỉ dụ cho phép thuê người làm kỳ trưởng, hộ trưởng, nhưng kỳ trưởng phải thuê người từ hạng ba trở lên, như vậy triều đình đã biết rằng những kẻ vô công rỗi nghề không thể đảm nhận việc dịch được[14], nhưng lại không biết rằng những nhà hạng trên thực sự không muốn nhận việc thuê; không muốn thì tất nhiên sẽ giả vờ nhận thuê mà thực chất vẫn dùng phép sai dịch, đó là lẽ tất nhiên ở các quận huyện. Gọi là sai dịch thì lại cho tiền thuê, gọi là thuê thì lại dùng phép sai dịch, thần cho rằng không bằng công khai dùng phép sai dịch thì tiện hơn. Huống chi những nhà hạng ba trở lên vốn phải làm kỳ trưởng, kỳ trưởng lại không phải bỏ ra chi phí gì, chỉ vô ích bắt những nhà hạng dưới đóng góp tiền cho họ. Kính xin xem xét kỹ, sớm ban chỉ dụ đổi sang dùng phép sai dịch để giảm bớt gánh nặng cho dân nghèo, thiên hạ sẽ rất may mắn.”

[19] Vương Nham Tẩu lại tâu: “Thần trộm thấy từ khi thi hành pháp thuê mướn, các kho tàng, trường vựa trong thiên hạ đều do những kẻ vô gia cư, không có nghề nghiệp ổn định trong chợ búa ứng mộ để đảm nhận công việc. Những người bảo lãnh họ thường có gia sản không đầy một hai trăm ngàn, nhưng lại quản lý tài sản công lên đến mấy chục vạn quan. Những kẻ này vốn không có gì để nương tựa, nên thường dễ dàng phạm pháp, một khi lừa đảo, trộm cắp, liền bỏ trốn ngay, dù tịch thu hết tài sản của chúng cũng không đủ bồi thường một phần vạn. Dù bắt được và giết chúng, cũng chẳng ích gì cho việc. Thần trộm nghĩ rằng những kẻ tiểu nhân này cũng không tự mình gây ra họa, mà là do bị lừa dối đến nỗi này! Thần xin được khôi phục lại việc sai phái các hộ dân trong làng xã đảm nhận việc quản lý tài sản công trong thiên hạ, để các quận huyện có chỗ nương tựa, đồng thời tránh được tệ nạn công quỹ bị xâm phạm vô cùng, và cứu những kẻ tiểu nhân khỏi nỗi khổ hình phạt vô tận. Chi tiết về pháp sai phái, thần đã tâu trình gần đây, mong bệ hạ sớm ban chỉ thị thi hành, để làm phúc cho thiên hạ.” Lại tâu: “Nếu triều đình chưa tin, xin hạ lệnh cho các lộ thống kê tổng số tài sản công bị lừa đảo, chiếm đoạt từ khi thi hành pháp thuê mướn, số người phạm pháp đã bị xử, số người bỏ trốn chưa bắt được, và số người bị tịch thu gia sản mà vẫn không đủ bồi thường, thì sẽ thấy ngay pháp này có tiện lợi hay không.” Lại tâu: “Thần gần đây đã tấu, xin tuyển chọn một hai người am hiểu sâu sắc việc dân, đứng đầu thiết lập cục, xem xét định ra pháp sai dịch, đây thực là điều mà dân chúng trong thiên hạ ngày đêm mong đợi. Mong bệ hạ sớm ban chỉ thị thi hành, để yên lòng dân.”

(Cựu lục chép vào ngày 6 tháng 2 theo lời Tư Mã Quang bãi bỏ tiền miễn dịch, tiếp theo ghi lời Lưu Chí xin dùng tiền phường trường để mộ nha tiền, còn các dịch nhân khác đều theo pháp tổ tông. Lại chép lời Lưu Thứ Trang và Vương Nham Tẩu. Xét lời Lưu Chí thực tế dâng vào ngày 9 tháng giêng, nay chép đầy đủ vào ngày này; lời Tư Mã Quang cũng chép riêng đầy đủ vào ngày 20 tháng giêng; lời Vương Nham Tẩu không rõ dâng vào tháng ngày nào, nay phụ chép dưới lời Lưu Chí ngày 9 tháng giêng; chỉ có lời Lưu Thứ Trang không có bản nào khác để tham khảo, tạm theo thực lục, phụ chép giữa lời Lưu Chí và Vương Nham Tẩu. Cựu lục chủ trương tân pháp, bỏ qua chính luận, chỉ ghi vài câu, cũng không lạ gì, tân lục không truy cứu thêm, chỉ dựa theo cựu bản, thực là quá sơ sài.)

[20] Ngày Kỷ Hợi, vì để tang nên bãi bỏ việc dâng lễ tại cung Cảnh Linh, sai quan đảm nhiệm việc này.

[21] Ngày Canh Tý, chiếu rằng các quân được điều đi làm nhiệm vụ, mỗi ngày đặc biệt cấp khẩu phần ăn, tướng hiệu ba thăng, binh lính hai thăng. Trước đây chỉ có người đi phòng thủ và hộ tống mới được cấp khẩu phần, còn lại đều chia gia lương làm lộ phí. Lại bộ Thượng thư Tăng Hiếu Khoan tâu rằng việc này không công bằng, xin lập pháp riêng, nên có chiếu này.

(Điều này được thêm vào theo sách biên lục.)

[22] Ngày Tân Sửu, Triều tán đại phu, Quang lộc khanh Lữ Gia Vấn được bổ làm Tri Hoài Dương quân, vì Giám sát ngự sử Tôn Thăng tâu rằng: “Khi pháp thị dịch mới thi hành, Gia Vấn thực sự đảm nhiệm việc này, lừa dối trên, phá hoại pháp luật, gây thất thoát rất nhiều”, nên có mệnh lệnh này.

(Cựu lục chép: Ban đầu, Tiên đế khôi phục chức quan Ty thị của Tuyền phủ, thu mua những hàng hóa không bán được, những vật dụng bị ứ đọng trong dân, mua lại với giá của chúng, ghi rõ giá cả, để chờ người mua khi cần, nên lập ra pháp thị dịch, và Gia Vấn thực sự là người đầu tiên thực hiện. Đến lúc này muốn bãi bỏ thị dịch, nên Giám sát ngự sử Tôn Thăng tâu rằng: “Khi pháp thị dịch mới thi hành, Gia Vấn thực sự đảm nhiệm việc này, lừa dối trên, phá hoại pháp luật, gây thất thoát rất nhiều”. Tiểu lại Triệu Tuyên, trước đây vì công việc của Ngô An Trì mà bị đặc chỉ vĩnh viễn không được bổ nhiệm; nhưng Gia Vấn lại lệnh đổi tên để thuộc vào Quang lộc, lại còn đưa vào quốc gia[15], nên có mệnh lệnh này.)

[23] Châu Trịnh lại được phục hồi làm quân Phụng Ninh.

(Cựu lục chép: Chiếu rằng châu Trịnh theo lệ cũ được phục hồi làm quân Phụng Ninh. Tiên đế giảm bớt sức dân, nên sáp nhập châu Trịnh thành huyện để giảm bớt người đi phục dịch, đến lúc này lại phục hồi quân ngạch. Tân lục biện rằng: Chỉ nên ghi thẳng việc sáp nhập và phục hồi châu huyện, không nên thêm bình luận. Từ “Tiên đế giảm bớt sức dân” đến “phục hồi quân ngạch” hai mươi bốn chữ đều bị xóa bỏ. Ngày 5 tháng 8 năm Hi Ninh thứ 6 bãi bỏ châu Trịnh, ngày 12 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 phục hồi.)

[24] Chiếu cho Triều thỉnh đại phu, Giám tại kinh Bì giác tứ trường khố vụ Tôn Lộ, Triều phụng đại phu, Quyền Đô đại đề cử Thanh hà Liễn vận Mục Diễn, cùng xem xét và sắp xếp việc kinh chế tài dụng ở Hi Hà Lan Hội lộ.

(Ngày 12 tháng 7, hai người cùng được thay đổi chức vụ. Lúc đó, có người trong triều muốn bỏ Hi Hà, nhưng bàn cãi chưa quyết. Có người nói với Diễn: “Chuyến đi này có thể tự quyết định, nếu không sẽ thành gánh nặng.” Diễn từ tốn đáp: “Xem xét lợi hại thế nào thôi, việc vương sự bận rộn, đâu có thời gian lo cho bản thân?” Khi trở về triều, xin đem việc kinh chế trả lại cho Chuyển vận ty, đề xuất bãi bỏ 27 việc gây hại cho công tư, giảm kinh phí hơn 190 vạn quan mỗi năm. Cùng với Lộ bàn luận thêm về việc biên cương. Lộ cho rằng: “Bỏ Lan châu thì Hi Hà nguy, bỏ Hi Hà thì Quan Trung dao động. Nhà Đường từ khi mất Hà, Hoàng, hễ Thổ Phiền, Hồi Cốt không thuận là nguy hiểm đến tận cửa nước. Đến nay hơn 200 năm, nếu không phải nhờ tiên đế anh minh võ lược, thì ai có thể khôi phục được? Nay một sớm giao cho kẻ địch tham lam, e rằng không đủ để ngăn giặc, chỉ thêm hậu họa mà thôi!” Cuối cùng Hi Hà không bị bỏ, Diễn có công lớn trong việc này. Sự việc này căn cứ theo bài chí mộ của Trương Thuấn Dân viết về Mục Diễn, cần xem xét thêm. Cựu lục truyện về Diễn phần lớn dựa vào bài chí mộ của Thuấn Dân. Tân lục biện luận về Cựu truyện rằng: “Có đại thần muốn bỏ Hi Hà, bàn cãi chưa quyết, hy vọng Diễn đồng ý để củng cố ý kiến của mình.” Đây đều là lời vu khống vô căn cứ, đã xóa bỏ 21 chữ. Không biết Cựu truyện thực sự dựa vào bài chí mộ của Thuấn Dân, nay cần phải biện luận với Thuấn Dân mới được, nhưng việc muốn bỏ Hi Hà lúc này chưa xảy ra, tạm ghi chú ở đây, ngày 8 tháng 7 cần xem xét. Ngày 25 tháng 4, bổ nhiệm Diễn làm Thiểm Tây Vận phán, ngày 12 tháng 7, bổ nhiệm Tôn Lộ làm Thiểm Tây Vận phán, ngày 2 tháng 8 năm thứ 5, Diễn thay Lộ đến Hi Hà Lan Dân sắp xếp ruộng đất cho cung tiễn thủ.)

[25] Quan Đề cử bảo giáp Thiểm Tây là Địch Vịnh cùng các quan dưới quyền đều được giảm năm khảo khóa, vì có công trong việc kiểm tra và tập huấn.

[26] Chiếu cho các ty Kinh lược, An phủ, Đô tổng quản các lộ Thiểm Tây, Hà Đông: “Từ năm Nguyên Phong thứ 4 về sau, tất cả các chức quan được thêm do việc quân sự đều bãi bỏ. Vẫn phải trình bày số lượng quan chức trước khi có việc quân và số lượng quan chức bãi bỏ hiện nay để tâu lên, trong đó những chức quan trọng cần giữ lại cũng phải tâu xin chỉ dụ.”

[27] Lại chiếu cho ty Kinh lược lộ Phu Diên, báo cho nước Hạ về việc đổi niên hiệu.

[28] Chiếu cho ty Chuyển vận sứ lộ Hà Đông, miễn thu số lượng lương thực bị mất do dân phu vượt biên giới.

[29] Nghi vệ xuất nhập của Thái hoàng thái hậu[16], đều theo lệ của Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu, những việc cũ không thể khảo cứu thì theo lệ của Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu mà thi hành.

[30] Lễ bộ tâu: Thần chủ của Dực Tổ hoàng đế và Giản Mục hoàng hậu được thờ trong giáp thất, xin theo lễ không kiêng kỵ và không kiêng húy ngày kỵ của Dực Tổ hoàng đế và Giản Mục hoàng hậu. Chiếu chuẩn y.

[31] Tam tỉnh và Xu mật viện tâu: Lễ bộ Thượng thư Hàn Trọng Ngạn và các quan bàn về nghi thức khi Thái hoàng thái hậu xuất giá, các quan tùy tùng khởi cư, đối đáp, ban trà rượu, chiếu đều theo đó. Khi không ngự điện, việc khởi cư với các quan tùy giá, đều theo lệ của Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu, một ngày trước truyền tuyên. Khi giá ra khỏi cáp môn, theo lệ tấu tiền hậu điện, không ngồi, không dẫn kiến. Việc tạ từ công sự, các quan tùy giá khởi cư ở nội đông môn.

[32] Công bộ tâu rằng, hào thành bốn mặt của kinh thành chỉ dùng quân lính Quảng Cố để tu sửa dần dần, không cần huy động dân phu. Triều đình đồng ý. (Cựu lục chép: Ban đầu, thành đô từ thời Chu Thế Tông đến thời Tiên đế đã 125 năm, đổ nát dần dần nhưng không ai dám bàn việc tu sửa. Tiên đế bắt đầu tu sửa từ năm Hi Ninh thứ 8, đến năm Nguyên Phong thứ nhất thì hoàn thành. Năm thứ 5, lại xuống chiếu đào sâu hào thành, đến nay chưa xong, nên có chiếu này. Tân lục biện luận rằng: Việc tu sửa thành đã được chép trong Thần Tông thực lục, không cần ghi lại ở đây, nên xóa bỏ 57 chữ từ “Ban đầu, thành đô” đến “có chiếu này”.)

Đề điểm Kinh Đông hình ngục Hoắc Tường tâu: “Gần đây theo chỉ dụ triều đình, các nơi thuộc các lộ bị mưa lớn làm hư hại tường thành đều phải khẩn trương tu sửa. Các châu Truy, Duy, Lai giáp biển, tường thành nhiều chỗ đổ nát, xin được điều động dân phu các châu để cùng tu sửa.” Triều đình hạ chiếu chỉ dùng quân lính tu sửa dần dần, không cần huy động dân phu.

[33] Tam tỉnh tâu: “Ngục hữu trị của Đại Lý tự gần đây xét xử công việc rất ít. Các quan lại, lại viên, ngục lại hiện có vẫn giữ nguyên biên chế, chỉ tốn lương bổng vô ích, xin hợp hai ty tả hữu thành một ty, và giảm bớt quan lại thừa.” Triều đình đồng ý.

[34] Xu mật viện tâu rằng quân An phủ vùng biên giới phía nam Lô châu tấu rằng, thủ lĩnh người Man là Khất Đệ đã chết, thủ lĩnh mới là A Cơ đã khắc bài xin đến quan đầu hàng. Triều đình hạ chiếu lệnh cho Trương Khắc Minh cùng Lý Tông, Phó sứ Chuyển vận Lộ Tử Châu, cùng xử lý việc này.

[35] Tả Chánh ngôn Chu Quang Đình tấu: “Thần nghe rằng giữa trời và người chưa từng có sự ngăn cách, sự ứng nghiệm của tai ương và điềm lành thì mật thiết như hợp với phù hiệu, huống chi bề tôi thay trời trị vạn vật, thực sự có trách nhiệm mưu lược sáng suốt và giúp đỡ hòa hợp. Xét trong 《Chu quan》 thì có thuyết về việc điều hòa âm dương, nghiệm trong sử Hán thì có văn thư miễn chức vì tai dị. Thần thấy từ mùa đông sang mùa xuân[17], tuyết chưa rơi, nếu một năm mất mùa, thì dân sẽ trông cậy vào đâu? Khi bệ hạ sáng suốt trị vì, đang giao trách nhiệm cho các phụ thần, nếu không phân biệt rõ trung thần và gian tà, thì làm sao có thể đón được khí hòa? Thần thấy rằng Thái Xác bất kính, Chương Đôn bất trung, Hàn Chẩn bất sỉ, đã thể hiện rõ ràng qua việc làm, sao có thể để họ tiếp tục ở ngôi vị mà làm tổn hại đến chính sự thánh minh? Thần tuy đã hai lần dâng tấu, nhưng đến nay vẫn chưa thấy thi hành.

Thần xem xét từ xưa đến nay, người trị vì thiên hạ, dùng trung hiền thì trị, dùng gian tà thì loạn, đó là đạo lý không thể thay đổi. Kính mong bệ hạ, khi bắt đầu mưu cầu trị quốc, đang một lòng hướng đến thái bình thiên hạ, nên lấy gương xưa để hiểu nguyên nhân trị loạn, thì trung hiền không thể không tin dùng, gian tà không thể không xa lánh. Nhưng hiện nay trong hàng phụ tá, vẫn còn sự lẫn lộn giữa trung thần và gian tà, muốn đạt được sự trị yên, về lý thì rất khó. Trời không thuận, tai ương có lẽ là do đó. Kính mong bệ hạ xem xét ý trời, xét tình người, dùng người hiền không do dự, bỏ kẻ tà không nghi ngờ, tự nhiên trời người hòa hợp, điềm lành sẽ đến, ứng nghiệm của năm được mùa, chắc chắn chưa muộn. Thần mong bệ hạ xem xét lại tấu chương trước của thần, sớm ban lệnh quyết đoán để thi hành.”

(Theo 《Biên loại chương sớ》[18], Quang Đình dâng tấu vào ngày 12 tháng giêng. Phần thiếp hoàng viết: Tuyết chưa rơi, xin dùng người hiền, bỏ kẻ gian.)

[36] Ngày Quý Mão, chiếu cho Ngự sử Trung thừa Hoàng Lý và Thị ngự sử Lưu Chí cùng tiến cử hai viên Ngự sử.

[37] Chiếu bảo việc lập pháp riêng về bảo mã để tâu lên.

(Việc bàn về lập pháp riêng cho bảo mã đã được ghi trong sớ của Tư Mã Quang vào ngày 12 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 8, không rõ vì sao Cựu lục lại bắt đầu ghi vào ngày 14 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất, Tân lục lại theo đó, cần xem xét thêm.)

[38] Chiếu rằng các vụ án đã tâu lên trước ngày hôm nay, các cơ quan liên quan đều giảm một nửa thời hạn xử lý. Do hạn hán, việc xét xử các vụ án bị đình trệ, mà các vụ án do Đại Lý tâu lên chưa xử còn nhiều.

[39] Trung thư tỉnh tâu rằng, sau khi kiểm tra, phát hiện Tống Dụng Thần có việc dẫn nước Lạc thông ra sông Biện và việc xuất nạp của Kinh thành sở vi pháp luật. Chiếu rằng: “Tống Dụng Thần bị giáng làm Hoàng thành sứ, thêm chức Giám trừ châu tửu thuế. Những việc liên quan đến tiền của chưa rõ ràng, giao cho Hộ bộ xử lý dứt điểm. Vẫn lệnh cho bộ này trình bày các việc cần xử lý để tâu lên.”

(Ngày 14 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8, Dụng Thần đã bị giáng làm Giám trừ châu tửu, Thực lục ghi giống với Chính mục của Lã Đại Phòng. Nhưng Chính mục có thêm năm chữ “căn ma bất hành”, Thực lục không có; Cựu lục lại có câu “khảo cứu chưa xong mà đã giáng”, Tân lục lại bỏ hết, nghi ngờ rằng trong chiếu này, tên Tống Dụng Thần bị thiếu chữ “dĩ”, cần xem xét thêm[19]. Xem lại ngày 12 tháng 8, lại bãi bỏ việc kiểm tra, Vương Nham Tẩu và Vương Địch có tâu. Lúc đầu ra lệnh kiểm tra, cần xem lại ngày tháng. Ngày 14 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8, từ chức Tuyên chính, Đăng phòng bị giáng làm Hoàng thành, Giám trừ châu tửu; ngày 18 tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ nhất lại bị giáng làm Hoàng thành, thêm chức Giám trừ châu tửu. Có lẽ trước đó bị giáng chưa mất chức Dao phòng, nên làm Giám tửu; nay mất chức Dao phòng, chỉ còn làm Hoàng thành, và thêm chức Giám. Ngày 4 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 3 và ngày 4 tháng 8 năm thứ 4, cần xem xét thêm.)

[40] Hộ bộ tâu: “Theo chiếu chỉ, các lộ thuộc phủ giới, việc sai phái kỳ trưởng, tráng đinh[20], đều chiêu mộ sung vào, cấp tiền công theo thứ bậc; việc trước đây dùng bảo chính thay kỳ trưởng, dùng giáp đầu thu thuế thay hộ trưởng, dùng thừa thiếp nhân thay tráng đinh đều bãi bỏ, xem xét việc chiêu mộ kỳ trưởng, hộ trưởng nếu dùng số tiền ít để chiêu mộ, e rằng số tiền chi ra ít, người ứng mộ sẽ không làm. Hơn nữa, tráng đinh trước đây vốn thuộc hạng thứ tư trở xuống, trước đây không xuất tiền dịch mà chỉ luân phiên sung vào, lại không cấp tiền công, cũng e rằng khó chiêu mộ. Lại lo ngại các lộ đề cử ty, châu huyện, vì thấy chiếu chỉ hiện nay đều mới thực hiện chiêu mộ, lại thu thêm tiền dịch từ dân. Xin cho các lộ thuộc phủ giới từ trước đến nay có nơi luân phiên sai phái và chiêu mộ dịch nhân, đều xin theo phép dịch cũ; nếu có việc cần tăng giảm, cũng theo điều khoản tăng giảm của phép dịch mà thi hành.” Đều theo đó.

[41] Ty chuyển vận lộ Hà Bắc tâu, xin xem xét việc lợi hại của sông Hoàng Hà[21], từ đê Nghênh Dương đến cửa Tôn Thôn thuộc địa giới Bắc Kinh, trong mùa xuân năm nay liền thi công, cùng với việc tu sửa trước đê sông cũ, tránh lãng phí công sức đào sông mới, về sau mùa hạ thu sẽ gây ra đại họa. Chiếu cho Lý Thường cùng các quan xem xét thi hành xong rồi tâu, nếu không thể thi hành, liền trình bày sự việc lên.

(Ngày 14 tháng 12 năm ngoái, ngày 6 tháng 2 năm nay, ngày 4 tháng 4.)

[42] Hộ bộ tâu, Ty chuyển vận lộ Hà Đông chi cấp tiền thưởng nhiều, dẫn đến thiếu vốn mua lương thực. Chiếu đặc cách cấp 10 vạn quan tiền diêm sao.

[43] Nội thị áp ban Lưu Hữu Phương xin tránh thân với Trương Mậu Tắc, chiếu đặc cách không phải tránh.

[44] Chiếu cho dân bảo giáp ở châu Thương, châu Quắc vẫn như cũ, không phải tập luyện mùa đông; dân bảo giáp ở huyện Can Hữu, về sau vẫn theo lệ tập luyện mùa đông.

[45] Hôm đó, Vua ban chiếu cho Cáp môn, Tư Mã Quang và Lữ Công Trước từ nay trở đi khi vào chầu trước và sau điện, đặc cách cho đứng riêng một hàng, chỉ lạy hai lần.

[46] Ngày Giáp Thìn, Giám sát ngự sử Vương Nham Tẩu tấu rằng:

[47] “Thần nghe rằng bậc Vua có đức lớn ắt phải biết lo sợ. Điều lo trên là đạo trời, điều lo dưới là lòng dân. Vì vậy thường làm vui lòng dân để cầu đạo trời, thuận theo đạo trời để an ủi lòng dân. Thần thấy từ mùa đông đến nay không có tuyết, nay đã sang xuân rồi, hạn hán thành tai họa, không chỉ một nơi mà lan rộng khắp bốn phương. Lúa mạ khô héo, nước suối cạn kiệt, biến dịch rất lớn, đó là đạo trời cảnh báo bệ hạ vậy. Lòng dân kêu than, ngày ngày lo sợ dịch bệnh nổi lên, đói kém tiếp theo, kẻ lưu vong không nơi nương tựa, giặc cướp nổi lên nhiều, đó không phải là việc nhỏ của quốc gia, bệ hạ sao không tìm hiểu từ lòng dân? Nay bệ hạ tuy có lòng nhân ái sâu sắc, nhưng chỉ làm những việc cầu đảo nhỏ nhặt để mong tiêu trừ tai họa, thì thần cho rằng chưa nắm được cốt yếu của việc cầu đạo trời. Cốt yếu của đạo trời là bỏ điều dân khổ mà không tiếc, dứt điều dân ghét mà không nghi ngờ. Sách truyện nói: ‘Động lòng dân bằng việc làm chứ không bằng lời nói, ứng với trời bằng thực chất chứ không bằng văn chương.’ Đó không phải là lời nói dối đời sau. Mong bệ hạ đừng xem thường, thật may mắn thay! Thần xem thấy trời đất đã nhiều lần tỏ ý với bệ hạ, trước đây trời vừa âm u lại trong sáng, muốn có tuyết lại thôi, bệ hạ có biết điều đó không? Cũng như bệ hạ đối với mối họa lớn trong thiên hạ, kẻ gian lớn trong triều, đã tỉnh ngộ lại nghi ngờ, định đoạn lại dừng. Nếu bệ hạ dứt khoát phân biệt trung tà, rõ ràng phải trái, trừ mối họa lớn, khôi phục lợi lớn, khiến muôn dân vui mừng, đồng lòng một lời, khí hòa bốc lên trời, thì trời tự nhiên sẽ ban mưa móc tốt lành đáp lại bệ hạ, lo gì tai biến, cần gì cầu đảo nữa!”

[48] Hiện nay, những tệ hại lớn nhất trong thiên hạ không gì bằng phép Thanh Miêu và Miễn Dịch, âm thầm làm khốn khổ dân chúng, không gì bằng phép trà và muối, gieo rắc độc hại khắp nhiều nơi. Bệ hạ vốn đã biết rõ, nhưng vẫn còn do dự chưa quyết đoán để dứt bỏ tận gốc. Đó là lý do lòng dân vẫn còn uất ức, mà ý trời vẫn chưa mở ra. Những kẻ gian thần lớn nhất trong triều không ai bằng Thái Xác với sự âm hiểm tà ác, Chương Đôn với sự xảo trá độc ác, cùng nhau kết bè kết đảng để che mắt thiên tử, bạo ngược với kẻ dưới, lừa dối người trên, dấu vết bất trung đã rõ ràng qua hai triều. Người trong thiên hạ đều mong trục xuất chúng để đạt được thái bình, nhưng bệ hạ lại dung túng và giữ chúng lại. Đó là lý do lòng dân vẫn còn uất ức, mà ý trời vẫn chưa mở ra. Kính mong bệ hạ trên thể theo lòng trời, dưới xem xét ý dân, phấn chấn uy nghi, một lần dứt bỏ những tệ hại lớn, một lần loại bỏ những gian thần lớn, để làm phúc lớn vô cùng cho tông miếu xã tắc, và hạnh phúc lớn nhất cho sinh linh. Tuy nhiên, dù thần đã nhiều lần dâng chương mà lời nói vẫn xa cách thiên tử, lời đã hết mà lòng thánh vẫn chưa hồi chuyển. Có lẽ bệ hạ cho rằng thần mang lòng oán hận, không dựa vào công luận thiên hạ mà tự ý phỉ báng đại thần. Kính mong bệ hạ đưa ra những chương sớ trước sau của thần, tập hợp trăm quan ở triều đường để hội nghị, quyết định đúng sai. Nếu cho lời thần là sai, thần xin cam chịu sự trục xuất. Nếu cho lời thần là đúng, xin bãi chức Thái Xác và Chương Đôn. Thần không dám kích động, nhưng nếu không làm vậy, e rằng không thể giải tỏa nghi ngờ trong lòng thánh và hoàn thành việc trị quốc. Thần vô cùng khẩn thiết dâng lời trung cáo.

[49] Dán tờ vàng: “Nay gian tà ở triều, ngăn cản lương tâm của bệ hạ, hại chính sách tốt đẹp của bệ hạ, không phải một hai người, nhưng không ai bằng Thái Xác, Chương Đôn là kẻ gian thần xuất chúng. Thần không thể không trước hết vì bệ hạ mà mạnh dạn nói ra, mong bệ hạ sáng suốt xem xét và tiếp nhận, thật may mắn!” Lại dán tờ vàng: “Thần nghe ngóng ý kiến trong ngoài, đều mong sau khi thăng phụ sẽ có nhiều thay đổi lớn, tiến cử người trung, loại bỏ kẻ gian, hưng lợi trừ hại, để thỏa mãn nguyện vọng của thiên hạ, nhưng im lặng không nghe thấy gì, chỉ nghe nói sau khi thăng phụ, các đại thần chấp chính được thăng chức vô cớ, nhận ban thưởng hậu hĩnh mà thôi. Nay đại hạn như vậy, đúng lúc phải theo gương hai triều Hán, cách chức Tam Công, mà lại ban thưởng bừa bãi cho Xác và những người khác, đó là lý do trời đất không thuận. Kính mong bệ hạ soi xét cổ nhân mà hành động, để đáp lại lời cảnh báo của trời, quốc gia thật may mắn!”

[50] Ngày Bính Ngọ, Vua ngự điện Diên Hòa, xét xử tù nhân ở kinh thành, ngoại trừ những tội không được tha thứ theo lệ thường, các tội tử hình tạp phạm trở xuống giảm một bậc, tội đánh trượng trở xuống được tha.

[51] Ngày Đinh Mùi, Tam tỉnh và Xu mật viện tâu: “Trong biểu của Cao Ly có biểu của Thái hoàng thái hậu và vật phẩm tiến cống. Theo lệ cũ, chỉ trả lời bằng sắc thư hồi dụ của hoàng đế, nay muốn làm theo lệ.” Vua đồng ý. Ra chiếu rằng việc Cao Ly chúc mừng lên ngôi và tiến cống vật phẩm, đều theo điều lệ mà ban thưởng.

[52] Ngự sử trung thừa Hoàng Lí tâu, xin sửa đổi điều khoản không dùng việc bãi chức, xá tội, giảm án. Chiếu cho Hình bộ và Đại Lý tự xem xét kỹ, nên bỏ hay giữ rồi tâu lên.

(Tô Thức tự biện chương, có thể tham khảo.)

[53] Ngự sử Vương Nham Tẩu tâu rằng việc bổ nhiệm gần đây Thái học bác sĩ Lưu Kinh, Học chính Tạ Văn Quán không hợp ý dân chúng, đều bãi chức.

[54] Ngự sử An Đôn tâu rằng Khai Phong phủ thôi quan Hồ Cập để tên ngục tốt Hồ Nghĩa tra tấn người vô tội đến chết, lại xét án làm lộ bí mật công việc. Chiếu giao cho Lại bộ xét xử và bổ nhiệm chức vụ thích hợp.

(Tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 8, ngày Bính Tuất, Cập vẫn giữ chức cũ.)

[55] Ngự sử Lưu Thứ Trang tâu: “Môn hạ, Trung thư ngoại tỉnh đặt cục bổ nhiệm quan chức, biên soạn điều lệ của Lục tào và các tự giám, đã qua nhiều năm nhưng vẫn chưa hoàn thành. Xin hãy bãi bỏ cục này, giao việc biên soạn cho Lục tào tùy theo sự việc mà tu chỉnh, và giao cho các quan thuộc Tam tỉnh xem xét kỹ lưỡng.” Chiếu chỉ rằng: Việc biên soạn điều lệ phải hoàn thành trong vòng một mùa, nếu quá hạn thì quan lại sẽ không được cấp thêm lương bổng.

(Cựu lục chép: Ban đầu, Tiên đế chỉnh đốn chức vụ của Tam tỉnh và Lục tào, nhưng chưa có pháp luật cụ thể, nên ra chiếu cho Ngoại tỉnh đặt quan chức để biên soạn; chưa kịp trình lên thì đã có chiếu này. Tân lục bàn rằng: Vì chưa có pháp luật và việc biên soạn chưa hoàn thành, nên không cần ghi chép đầy đủ, từ “Ban đầu Tiên đế chỉnh đốn” đến “có chiếu này” gồm 35 chữ, đều bị xóa bỏ.)

[56] Lễ bộ tâu rằng, sứ giả Cao Ly đến phúng viếng và chúc mừng lên ngôi đã dâng lễ vật, nên ban thưởng lại. Chiếu ban cho Quốc vương Cao Ly ba con ngựa, một bộ yên cương bạc, hai bộ quần áo, hai đai vàng, 150 tấm gấm lụa, 500 tấm vải may quần áo, 10.000 tấm lụa, và 5.300 lạng đồ bạc; sứ giả phúng viếng và chúc mừng lên ngôi, cùng phó sứ và tùy tùng, đều được ban thưởng vật phẩm khác nhau.

[57] Kinh lược ty Quảng Tây tâu rằng, chủ trại Hoành Sơn thuộc Châu Ung là Lưu Thuấn Tân đã dò biết rằng Nùng Trí Hội ở Châu Quy Hóa cùng những người khác định vào tháng chín cướp bóc người Sơn Lao, đã gửi văn thư đến Châu Ung để điều tra. Chiếu chỉ rằng: “Trí Hội trước đây bị Giao Chỉ đuổi đánh, vừa mới trở về hang ổ, chắc chắn không dám xâm lược, gây thêm thù oán. E rằng các quan chức biên giới vì muốn lập công được thưởng, nên đã lấy cớ Giao Chỉ gây sự, vu cáo Trí Hội. Hơn nữa, từ tháng mười năm ngoái đã báo cáo, đến nay vẫn chưa xác minh được sự thật, mà Kinh lược ty ở gần biên giới nhất còn không thể xác minh, thì việc phòng thủ biên giới lúc cấp bách sao có thể không bỏ lỡ cơ hội? Hãy lệnh cho Miêu Thời Trung nhanh chóng điều tra rõ ràng, nếu Giao Chỉ vô cớ xâm phạm, nên ngay lập tức chất vấn lý do không tuân theo chiếu chỉ. Những người nam nữ bị bắt, hãy dụ họ trả về, sau khi việc xong thì báo cáo.”

(Miêu Thời Trung làm Tri châu Quế, vào tháng sáu năm Nguyên Phong thứ bảy.)

[58] Sứ giả nhà Liêu làm nhiệm vụ tiếp đón nói: “Sứ giả quốc tín Tiêu Hợp nói: ‘Sứ giả phương Nam khi qua nước chúng tôi, trong danh sách cấp lương thực không có chữ “Đại Tống quốc chúc mừng chính đán hoặc sinh thần“. Nay trong danh sách cấp lương thực lại có chữ “Đại Liêu quốc chúc mừng“, xin bỏ bốn chữ này mới dám nhận.'” Sau đó, triều đình ra lệnh cho Hùng Châu gửi văn thư đến Trác Châu của Bắc triều, danh sách cấp lương thực sẽ được gửi đi sau khi Tiêu Hợp qua biên giới, và báo cáo sau khi hoàn thành.

[59] Hình bộ tâu: “Theo chiếu chỉ ngày 24 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8: ‘Khai Phong phủ và các châu quân ở các lộ, khi tâu án tử hình, nếu hình danh thực sự có nghi ngờ và tình tiết đáng thương, thì Đại Lý tự phải xét xử theo pháp luật, và gửi điều khoản nghi ngờ, đáng thương đến Hình bộ xem xét. Nếu hình danh thực sự có nghi ngờ, tình tiết thực sự đáng thương, thì phải trình bày nguyên nhân và xin chỉ dụ; nếu không có nghi ngờ và đáng thương, thì phải gửi bản sao tâu lên và thi hành theo pháp luật, không được dùng lệ cũ để giảm tội, làm hỏng các điều khoản chính của luật pháp. Vẫn giao cho Môn hạ, Trung thư, Thượng thư tỉnh kiểm tra. Nếu có gì không đúng hoặc dùng lệ phá điều, thì tâu xin xét xử.’ Bộ này xem xét, ngoài việc đã tuân thủ, tất cả các vụ án tâu lên xin chỉ dụ đều phải gửi lên tỉnh xin chỉ dụ.” Triều đình đồng ý.

(Cả tân lục và cựu lục đều ghi như vậy.)

[60] Triều tán lang, Tập hiền hiệu lý Hoàng Liêm làm Hộ bộ lang trung. Liêm đề cử bảo giáp ở Hà Đông lộ được sáu năm, chưa từng xin về kinh, dù ở đoàn giáo trường cũng chưa từng thay đổi y phục nho sinh, nên so với Thiểm Tây, Hà Bắc, riêng ông không được ban chiến bào. Cuối năm Nguyên Phong, bảo giáp các lộ khác kéo quân vào huyện, trấn, giết hại quan lại, bọn cướp hoành hành qua mấy châu, chỉ có bảo giáp Hà Đông không làm chuyện trộm cắp vặt. Tư Mã Quang lúc nhàn rỗi, đi lại giữa Thiểm, Lạc, nghe dân Hà Đông khen ngợi nhiều, bèn hỏi kỹ về tình hình trị an; Lữ Công Trước cũng nói việc quân sự ở Hà Đông[22], dân biên giới rất cảm đức Liêm, nên có sự thăng chức này.

(Điều này căn cứ vào hành trạng của Hoàng Liêm do Hoàng Đình Kiên soạn thêm vào, cần xem xét thêm.)

[61] Triều phụng lang Lưu Dục làm Hộ bộ viên ngoại lang.

(Theo 《Chính mục》.)

[62] Ngày Kỷ Dậu[23], chiếu rằng nghi vệ khi Thái hoàng thái hậu ra vào, có thể thêm 36 người thuộc Ngự long cốt đỏ tử trực, 45 người thuộc Ngự long cung tiễn trực, 45 người thuộc Ngự long nỗ trực, 50 người thuộc Hoàng thành ty cấm vệ, 350 người thuộc mã đội, 100 người thuộc Đông Tây ban và Trà tửu ban điện thị, 20 người thuộc khoái hành. Quân đầu dẫn kiến ty có hai viên giám quan, cùng mang theo thừa cục, đẳng tử, theo lệ tùy giá ứng phó; quân dung trực và các điện thị động nhạc, đợi ngày khai nhạc sẽ xin chỉ.

[63] Hôm đó, Tư Mã Quang bắt đầu xin nghỉ vì bệnh.

[64] Ngày Canh Tuất, Thị ngự sử Lưu Chí tâu: “Thần từ tháng 11 năm ngoái đến nay đã nhiều lần dâng sớ, đàn hặc tể tướng Thái Xác bất cung bất trung, tham quyền lừa dối trên, không có tiết tháo liêm sỉ, đánh mất đạo tiến thoái, mưu đồ tư lợi lập đảng, ngầm hại chính sự, đều là những việc công luận không thể dung thứ, mà lại liên quan đến đại thể an nguy của triều đình. Trời giáng điềm răn, hạn hán thành tai họa, không có đức hòa hợp âm dương, không đáp ứng được lòng mong mỏi của trong ngoài. Xin hãy bãi miễn, cho ra ngoài bổ nhiệm, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được mệnh lệnh chấp thuận hay từ chối. Vì thần đảm nhiệm chức vụ ngôn quan, đã đàn hặc thì nghĩa không thể dừng lại. Các chương sớ trước sau đều không được đưa ra thi hành, nhiều lần xin vào chầu cũng không được chỉ thị cho phép, trên dưới cách trở, tình chí không thông, công đạo không rõ, tà chính không phân biệt.

Nay hạn hán lan rộng, hai vụ mạch đều thất bát, dân chúng thiếu ăn, dịch bệnh đã phát sinh, giặc cướp sắp nổi lên. Bệ hạ thành tâm cầu đảo, không phải không chuyên cần, nhưng khí hòa không đáp lại, thì tai họa lớn ấy là do ai gây nên? Bệ hạ nhân từ bao dung, không truy cứu nguyên nhân, muốn giữ ân ý với đại thần thì cũng được, nhưng sinh dân có tội gì mà không được thương xót cứu giúp? Giả như không muốn phơi bày tội ác trước sau của Thái Xác, thì cũng nên theo điển cố xưa nay, chỉ vì tai biến mà bãi chức, có gì không được? Xin hãy xem xét kỹ các sớ tấu của thần về việc Thái Xác trước đây, đều giao xuống Tam tỉnh. Nếu lời thần không sai, xin hãy sớm quyết đoán, bãi chức Thái Xác để đáp lại lời răn của trời, để yên lòng trong ngoài; nếu lời thần không xuất phát từ công luận, thì xin hãy cách chức thần để tạ lỗi với Thái Xác. Điều quý là trung tà thị phi được phân biệt, chứ không phải để thần cứ mãi dâng sớ, làm phiền thánh thính.”

[65] Thiếp hoàng: “Thái Xác bị bãi thì người ngay thẳng có thể ngẩng đầu, bè đảng gian tà có thể hóa giải; Thái Xác không bị bãi thì đạo quân tử suy vi, đạo tiểu nhân thịnh hành. Người ngay thẳng tiến lên thì chính sự tốt đẹp, thiên hạ yên ổn; kẻ gian tà tiến lên thì chính sự không tốt, thiên hạ nguy nan. Xin bệ hạ thánh minh xem xét kỹ.”

[66] Lại dán tờ vàng: “Việc phân biệt chính tà của đại thần, quyết định đi hay ở của sĩ đại phu, đều nằm ở hành động này mà thôi, bệ hạ còn ngại gì mà không làm vậy!”

[67] Lại dán tờ vàng: “Người quân tử tiến lên thì có thể nuôi dưỡng kẻ tiểu nhân, kẻ tiểu nhân tiến lên ắt sẽ hại người quân tử. Việc tiến thoái[24], thần không dám ép buộc bệ hạ, nhưng chỉ mong thánh ý sớm có quyết định. Nếu muốn dùng người chính trực, thì xin hãy nhanh chóng cách chức Xác; nếu không muốn, cũng mong sớm cách chức những kẻ nói nhiều, để người thiện lương, quân tử sớm có kế hoạch rời đi, tránh để ngày sau bị họa hại, đó cũng là ân huệ của bệ hạ. Nay kẻ xấu lẫn lộn tiến lên, lâu ngày không phân biệt, không phải là cách để bảo toàn người tốt.”

(Ngày Kỷ Dậu, 21 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất, trong bản thảo của Chí, đây là tờ tấu thứ năm. Ngày 21 tháng giêng dâng tờ tấu thứ nhất, phụ lục cuối tháng 10 năm thứ tám; tờ tấu thứ hai ngày 6 tháng 12; tờ tấu thứ ba ngày 14 tháng 12; tờ tấu thứ tư ngày 18 tháng 12; tờ tấu thứ năm ngày 21 tháng giêng năm thứ nhất; tờ tấu thứ sáu và thứ bảy, nay phụ lục sau đây; tờ tấu thứ tám ngày 27; tờ tấu thứ chín ngày 7 tháng 2; tờ tấu thứ mười ngày 15 tháng 2.)

[68] Chí lại nói:

[69] Thần gần đây đã nhiều lần dâng sớ, xin bệ hạ đoán xét để bãi chức tể thần Thái Xác, nhưng đến nay vẫn chưa được chỉ thị thi hành. Thần vốn thấy gian tà đang ở triều, sài lang ngáng đường, nên không tránh họa hoạn để hết lời can gián, mà bệ hạ vẫn chưa xem xét, phải chăng vì thần hèn mọn, lời nói nhỏ nhặt không đủ lay động thánh thượng? Nhưng những điều thần nói đều là đại kế an nguy của thiên hạ, họa phúc của dân chúng, chẳng phải vì lợi riêng của thần. Nay lẽ nào lại im lặng, cúi mong bệ hạ xét soi, đừng vì thần hèn mà bỏ qua lời nói, thiên hạ may mắn lắm thay. Kính xét Xác vốn không có học thuật, lại không có đức vọng, chỉ nhờ cơ hội mà được tiến thân, chỉ biết dùng ngục hình để đàn áp người lương thiện, vơ vét của dân, nịnh hót cầu cạnh để leo lên chức vụ, lại lấy việc sâu hiểm khó lường làm phép tắc, lấy xu nịnh để được lòng người làm sự nghiệp, dẫn dắt bè đảng để cùng nhau che đậy, đây là điều thiên hạ đều biết.

[70] Trước đây, khi linh cữu Thần Tông xuất phát, Xác đã công khai trái lệnh không vào nội cung túc trực. Đến khi sứ sơn lăng trở về, cũng không theo lệ cũ từ chức, lại để người dưới quyền phao tin khắp nơi rằng mình có công lớn trong việc định kế, được tân hoàng nương tựa. Tham công trời để củng cố quyền vị, lừa dối trên dưới không biết xấu hổ, thậm chí còn lợi dụng việc triều chính để thực hiện ý đồ riêng, nhân lúc Vương Khuê qua đời, đã đưa người thân tín vào chức vụ, kiêm nhiệm cả ba tỉnh. Kiển Chu Phụ và con trai rõ ràng có tội ác, nhưng vì Chu Phụ khi ở Khai Phong đã xử hai vụ Thái Thạc thiếu nợ, đều dùng phép tắc bẻ cong để che đậy, báo đáp ân riêng, không để bị cách chức. Những việc như thế này cũng là điều trong ngoài đều biết, thần đã từng bàn kỹ trong chương sớ trước rồi.

[71] Từ mùa đông năm ngoái đến nay, kinh thành và các vùng lân cận như Kinh Đông, Kinh Tây đều không có mưa tuyết, điều này dễ dàng nhận thấy. Còn những vùng xa xôi như Thiểm Tây, Hà Bắc, Giang, Hoài, mỗi khi có người từ đó đến, thần đều hỏi thăm, họ đều nói rằng “đại hạn”. Như vậy, vùng bị thiên tai có thể nói là rất rộng lớn. Mạng sống của trăm họ trong một năm chỉ trông cậy vào lúa mạch, nếu lúa mạch không được mùa thì dân sẽ đói, dân đói thì giặc cướp tất nổi lên, lại thêm dịch bệnh liên tiếp xảy ra. Tình thế thiên hạ thực sự đáng lo ngại, đây không phải là tai dị nhỏ nhặt, mà là lời cảnh cáo của Thượng đế để lay động lòng thánh. Thời Hán, mỗi khi có thủy hạn tai biến, tất phế truất Tam công, mà Tam công vì tai dị dẫn tội tự sát cũng không hiếm. Lại nói: “Nấu Hoằng Dương, trời mới mưa.” Việc nấu người không phải là cách để cầu mưa, nhưng mưa tất sẽ đến, bởi Tang Hoằng Dương là gian thần tham lam, cho rằng nấu kẻ này thì lòng dân vui, lòng dân vui thì trời hết giận mà khí hòa ứng.

Các triều đại trước và triều đình ta, mỗi khi gặp thủy hạn biến dị, thì các đại thần chấp chính tất phải dẫn tội tự hặc, lo sợ kính sợ trời, tha thiết xin từ chức để nhường đường cho người hiền, tạ tội với trời, bởi thân là công khanh, chức trách là điều hòa âm dương. Xác giữ chức Thượng tướng, chính là người đảm nhận trách nhiệm này, nhưng lại thản nhiên không để ý, trước đây làm Sơn lăng sứ trở về không từ chức, nay gặp đại hạn cũng không từ chức. Trong ngoài, sĩ luận đều kinh ngạc, cho rằng Xác tham lam cố giữ bổng lộc, thực sự có ý khinh thường triều đình, cho rằng Hoàng đế bệ hạ còn trẻ, Thái hoàng thái hậu bệ hạ đang buông rèm nhiếp chính, có lẽ chưa biết rõ về việc đại thần làm Sơn lăng sứ và gặp tai dị, rõ ràng có điển cố từ chức, nên may mắn không ngộ ra mà không chuẩn bị lễ tự ngôn, ngạo nghễ an nhiên, coi thường công luận. Nay hạn hán kéo dài nhiều tháng, đã sang xuân, dân chúng kêu than, kinh hãi nhìn quanh, đúng là lúc đại thần phải lo sợ chờ tội, cũng là lúc bệ hạ nên suy nghĩ đáp lại lời cảnh cáo của trời, thay đổi chính sự, thay đổi đại thần.

[72] Hán tự {hantu}: Xác đã chiếm giữ lâu ngày, gian hiểm âm hại, không trung thành với nước, không có lòng với dân, kết bè đảng với Chương Đôn, cùng nhau bảo vệ pháp luật hủ bại, ngăn cản đồng liệt, để ngăn chặn chính sách tốt đẹp của bệ hạ, ai mà không phẫn nộ? Thế mà bệ hạ bao dung như trời đất, không phân biệt tà chính, không rõ ràng công tư, khiến cho sĩ đại phu trong ngoài không thấy được đúng sai thành bại, nên còn nghi ngờ chờ đợi, chưa dám hết lòng vì nước nhà. Kính mong bệ hạ thương xót nạn hạn hán này, sớm đưa ra quyết định sáng suốt, rõ ràng theo lệ cũ mà cách chức, cho ra ngoài bổ nhiệm, thì thiên hạ ắt yên ổn, lòng người ắt vui vẻ. Lòng người thiên hạ đã yên ổn vui vẻ, mà trời đất không hòa hợp, thần xin chịu tội lừa dối không dám tránh. Vậy thì bệ hạ tiếc gì việc bãi chức Xác để cứu mạng sống của bốn biển, so sánh lợi hại, đâu nặng đâu nhẹ? Bệ hạ nếu cho rằng mới lên ngôi chưa lâu, ân đãi chấp chính, không muốn vội vàng thay đổi, nay nghe chính sự đã hơn năm, lại đổi niên hiệu rồi, còn chờ đợi đến bao giờ? Nếu cho rằng hoàng đế bệ hạ còn trẻ, cần người phụ đạo bên cạnh, thì đã có hai ba người già cả đạo đức, cần gì đến Xác? Xác gian hiểm khắc bạc không thể dùng, lâu ngày ở bên cạnh bệ hạ, triều đình rốt cuộc chẳng được lợi gì. Kính xin bệ hạ sớm ra chỉ thị, đem các chương sớ luận tội Xác của thần trước sau, giao cho ngoại triều thi hành, thần không nỡ lòng yêu nước yêu dân nhỏ bé này.

[73] Thiếp hoàng: “Nếu không sớm bãi chức Xác, thì người tốt rốt cuộc không thể đứng vững, bè đảng gian tà rốt cuộc không thể phân biệt, pháp luật hủ bại rốt cuộc không thể sửa đổi, chính sách tốt rốt cuộc không thể thực hiện, dân mệt mỏi rốt cuộc không thể yên ổn, sĩ đại phu rốt cuộc còn nghi ngờ sợ hãi không dám hết lòng với triều đình. Việc này hệ trọng lớn lao, kính mong bệ hạ nghe không nghi ngờ, sớm thi hành.” Lại thiếp hoàng: Thần trước cũng luận tội Chương Đôn, xin giáng chức, nay chưa dám cùng làm phiền bệ hạ, đợi đến ngày bãi chức Xác, sẽ dâng sớ khác tấu trình.”

[74] Lại dán tờ vàng nói: “Việc thủy hạn bãi miễn tể tướng, xưa nay đều có chuyện rõ ràng. Xác giữ chức thượng tướng, tội ác không ít, nay chỉ vì hạn hán mà bãi chức, lại miễn cho việc biếm trích, che giấu gian tà, đã là may mắn, không tổn hại quốc thể. Thần chỉ một lòng như vậy, cũng không phải là cuồng vọng tự bỏ mình. Trời phú cho thần tính ngay thẳng, lòng ghét gian ác, xuất thân từ nơi xa xôi, được đặt vào chức ngôn lộ, thấy Xác vô lễ kiêu ngạo, là mối họa cho thiên hạ, nên hết lời nói để báo đáp ân tri ngộ, mong sớm được chỉ huy, làm việc tốt đẹp đầu năm.”

(Chí để lại bản thảo coi đây là tờ tấu thứ sáu, dâng vào ngày không tháng giêng. Xét năm đó ngày 13 tháng giêng là Lập xuân, tờ tấu nói “Nay hạn hán kéo dài nhiều tháng, đã sang xuân rồi”, có lẽ là trước tờ tấu thứ năm ngày 21, người biên soạn bản thảo lỡ quên, nay vẫn phụ vào ngày 21[25].)

[75] Chí lại tâu:

[76] Thần từ tháng 11 năm ngoái đến nay đã nhiều lần dâng sớ tấu, đàn hặc Thái Xác, xin được miễn chức, nhưng đến nay vẫn chưa được thi hành. Thần thấy từ thời tổ tông đến nay, các bậc đại thần nếu phạm vào công luận, một khi bị đài gián luận tội, thì chưa có ai được an vị mà không bị cách chức. Những việc bị đàn hặc cũng chỉ là một hai việc nhỏ, hoặc phát giác ra những việc riêng tư kín đáo, nhưng một khi sớ tấu dâng lên, ngay lập tức được thi hành. Bởi việc bãi chức hay giữ lại đại thần đều phải dựa vào công luận, dù là bậc quân chủ cũng không thể dùng ý riêng mà quyết định.

Nay những tội của Thái Xác mà thần luận tội không phải là một hai việc, cũng không phải là việc nhỏ, lại càng không phải là việc bới móc lỗi riêng tư kín đáo của người khác, mà đều là những tội lớn như lừa dối Vua, bất kính bất trung, tham công cậy quyền, không biết liêm sỉ, lập bè kết đảng, là những tội ác lớn nhất của bề tôi, lại có bằng chứng rõ ràng, là điều mà thiên hạ đều biết, và pháp luật không thể dung thứ. Thần đã nhiều lần dâng lời, hết lòng trung nghĩa, nhưng ý trời càng cao, không thể lay động. Nay trời cảnh cáo, hạn hán đã thành, lúa mạ khô héo, dịch bệnh phát sinh, đói kém sắp đến, dân chúng sẽ lưu lạc, giặc cướp sẽ nổi lên, lòng người hoang mang, mệnh trời gần kề. Mấy tháng nay, mặt trời mờ tối, gió bụi mịt mù, đây là thời điểm nào, mà bệ hạ vẫn chưa lo lắng, trời cảnh cáo như vậy, há không đáng sợ sao?

Muốn chuyển họa thành phúc cũng không khó, bởi tai biến ngày nay, vốn không phải do bậc quân chủ thất đức mà gây ra, cũng không phải do triều đình không có nhân chính mà dẫn đến, mà chỉ vì chính sự ngày nay nằm trong tay đại thần, mà gian thần lẫn lộn, trung thần và gian thần hỗn tạp, không có đức hòa hợp âm dương, không làm thỏa mãn lòng người trong ngoài, gây hại cho dân chúng, khiến lòng người uất ức mà dẫn đến. Bệ hạ chỉ chuyên tâm bao dung, để thiên hạ chịu họa, mà riêng may mắn cho một hai kẻ gian, đó là ý gì! Tà chính không phân biệt, thị phi không rõ ràng, như đen trắng, băng lửa không thể cùng tồn tại, nên sớm phân biệt, thì những người trung nghĩa sẽ biết hướng đi, mà chính sự tốt đẹp sẽ được thiết lập. Thần lại nghĩ rằng thánh từ không muốn làm tổn thương ân tình, muốn đợi họ tự xin từ chức rồi mới lấy lễ mà cách chức chăng? Thái Xác không biết liêm sỉ, tham quyền cậy thế đã lâu, từ năm ngoái đến nay, trăm phương ngàn kế, tìm cách giữ vững địa vị không thể lay chuyển, thì ngày nay há chịu tự xin từ chức vì hạn hán sao? Nếu bệ hạ nghi ngờ thần đàn hặc đại thần, có ý riêng tư, xin hạ lệnh đem những sớ tấu trước sau của thần giao cho Tam tỉnh xét xử phải trái, sớm ban thánh chỉ, cách chức Thái Xác để đáp lại lời cảnh cáo của trời. Lòng người trong ngoài đã yên ổn vui vẻ, thì thiên tai ắt sẽ tiêu tan, khí hòa ứng mà mưa thuận sẽ đến, còn có thể cứu được một phần vạn của nạn hạn hán và dịch bệnh, xin sớm ban chỉ xử lý.

[77] Dán tờ vàng: “Xưa kia gặp hạn hán, lụt lội thì cách chức Tam công. Từ khi bản triều lập quốc đến nay, các đại thần gặp thiên tai dị thường, không ai không tự xin từ chức, đóng cửa chờ tội. Nay hạn hán lớn như vậy, Xác ở ngôi Tể tướng, vẫn an nhiên tự tại, không chút lo lắng, đủ thấy hắn coi thường triều đình, không màng đến công luận.”

[78] Lại dán tờ vàng: “Bệ hạ từ năm ngoái đến nay, những chính lệnh nào bất tiện cho dân đều đã sửa đổi, tuy chưa thể dứt bỏ hoàn toàn những tệ hại lớn, nhưng những điều đã sửa đổi cũng không ít, đều là những điều mà Xác từ lâu vẫn bảo vệ cho là pháp luật tốt, nay lại cùng mọi người sửa đổi. Trước đây không cho là sai, nay lại không cho là đúng, thì còn có thể làm đại thần mà trách nhiệm với nghĩa vụ phụng sự Vua sao! Hơn nữa, có người bàn rằng Xác sâu hiểm và nhiều mưu kế, nay chịu theo sửa đổi, không phải là thành tâm, mà chỉ là giả vờ tựa vào người chính trực để tìm kế an thân, đợi lúc khác lại thực hiện ý đồ của mình, thì những chính sách tốt đẹp hiện nay sẽ phải thay đổi. Thần thấy tâm địa của Xác đã bộc lộ sự phản phúc, nên lời bàn của mọi người không thể không xem xét. Chỉ mong sớm cách chức Xác, chuyên dùng người chính trực, để chính sách tốt được thiết lập hoàn toàn, thì sau này không thể lay chuyển được nữa.”

(Trong di cảo của Chí, đây là tờ tấu thứ bảy, ghi vào tháng giêng nhưng không rõ ngày.)

[79] Chí lại tâu:

[80] Thần gần đây đã dâng sớ xin cách chức Tể tướng Thái Xác, đến nay vẫn chưa được thi hành. Vì thần giữ chức Ngự sử, lấy việc chỉ trích kẻ gian tà làm nhiệm vụ, nay Tể tướng gian hiểm, phạm vào công luận, nếu thần thất chức, thì còn ai dám nói nữa? Thần thấy từ khi tổ tông lập quốc đến nay, việc chọn dùng Tể tướng đều xem xét kỹ lưỡng, chọn lựa người có đức có uy trong thiên hạ, nên trong thì miếu xã yên ổn, ngoài thì rợ Hạ sợ hãi, dưới thì dân chúng phục tùng, công danh sự nghiệp của họ rạng rỡ khắp thiên hạ, đến nay vẫn được ca ngợi; chưa từng có kẻ lại pháp ngục, bề tôi tham lam, tài năng quỷ quyệt, hành vi âm hiểm, bị thiên hạ ghét mà lại ở ngôi Tể tướng như Xác.

[81] Thần sở dĩ không tránh nhiều lần, dám mạo muội tâu lên. Xác đáng phải bãi chức, tội của y không phải một: Công nhiên trái lệnh của bệ hạ, không đến túc trực trong lễ phát dẫn của Thần Tông, là đại bất kính, đáng bãi chức thứ nhất; Sứ giả đi sơn lăng về, rõ ràng có lệ cũ của các triều đại trước và triều ta, nhưng y không chịu dẫn việc xin từ chức, bỏ lễ tham quyền, đáng bãi chức thứ hai; Hoàng đế bệ hạ lên ngôi, là nhờ trời người giúp đỡ, và đức của Thái hoàng thái hậu, thế mà Xác tự xưng là người định sách, tham công của trời, đáng bãi chức thứ ba; Ở Trung thư hai năm, không đem việc bổ nhiệm cùng tam tỉnh hợp tấu, đến khi thân chuyển sang Môn hạ, lại ngầm sai người tâu xin, lộng quyền mưu tư, đáng bãi chức thứ tư; Em y phạm pháp, Kiển Chu Phụ nhận xét hai lần, đều làm qua loa cho xong việc, nên nay Chu Phụ cha con có tội, ngôn luận nhiều lần đàn hặc, thế mà Xác ra sức bênh vực không bãi chức, bẻ cong phép công, báo ơn riêng, đáng bãi chức thứ năm;

Các quan chấp chính, đã được ơn thăng chuyển, vô cớ lại thêm một chức, càn dẫn lệ cũ đời Gia Hựu, Trị Bình không thể dùng được, lừa dối thánh thượng, không biết liêm sỉ, đáng bãi chức thứ sáu; Kết bè đảng với Chương Đôn, một mềm một cứng, một hợp một lìa, muốn làm hao mòn đồng liệt, ngăn trở chính sự tốt, trong ngoài đều biết mưu kế ấy, đáng bãi chức thứ bảy; Từ tháng mười năm ngoái đến nay, trời không mưa tuyết, nắng gắt hoành hành, thiên hạ đại hạn, lòng dân hoang mang, thực do Xác gian tà gây nên, huống chi y ở ngôi thượng tướng, đáng lãnh trách nhiệm ấy, đáng bãi chức thứ tám; Xác trong khoảng Hi Ninh, Nguyên Phong, bức cung oan ngục, đuổi người hiền, tiến kẻ gian, thay đổi chính lệnh của tổ tông, vơ vét của dân.

Xác ở ngôn luận, ở Ty nông, ở chấp chính, đầu cuối đều đảm nhiệm việc ấy, thấy pháp lệnh không tiện, chưa từng nghe nói một lời bàn bạc bổ khuyết, chỉ biết nịnh hót giữ gìn, để mưu cầu tiến thân. Đến nay, tự thấy sai lầm, mới nói với người rằng: “Lúc ấy há dám nói sao!” ý của Xác là muốn giữ vững danh vị ngày nay, nên đổ lỗi cho tiên đế, thật là đại bất trung, triều đình lấy tước cao lộc hậu, nuôi dưỡng phụ thần, để làm gì? Há có thấy điều đáng nói mà không nói sao? Giá như nói mà không nghe, nên liều chết theo, giá như sợ hãi không dám nói, thì nên từ chức mà đi, đó là bổn phận thường của bề tôi. Lúc ấy xu nịnh, đến khi thời thế đổi thay, mới tính kế tự toàn mà đổ lỗi, thật là đại bất trung. Phụng sự tiên đế không trung, thì há chịu hết lòng với bệ hạ sao? Tội ác ấy càng lớn, đáng bãi chức thứ chín; Gần đây đi sứ sơn lăng về, các quan theo hầu, theo lệ đều được ban ơn, thế mà Xác đặc biệt tiến cử Cao Tuân Huệ, Trương Tấn, Hàn Tông Văn, xin ban ơn hậu, trên muốn lấy lòng thánh ý, dưới muốn mua chuộc đồng liệt, nhờ bệ hạ rất công minh, soi thấu mưu kế ấy nên việc bàn không thành. Trong ngoài nghe tin, không ai không vui mừng, bệ hạ xem cách dùng tâm ấy, thì tà chính của Xác không khó biết. Việc ấy càng làm xôn xao dư luận mà tội càng lớn, đáng bãi chức thứ mười.

[82] Tội ác của Xác như vậy[26], dư luận xôn xao, lời nói nhỏ bé của kẻ bề tôi ngu muội này đã hết sức trình bày, nhưng đức độ của bệ hạ bao dung, không để ý đến mọi điều, trong lòng nhân từ của bệ hạ không mất ân huệ với Xác thì được, nhưng còn như sự nặng nhẹ của triều đình, sự an nguy của thiên hạ, họa phúc của dân chúng, sự đi lại của nhân tình, việc bãi chức Xác, thì hệ trọng há chẳng lớn sao! Nay những người trung nghĩa đang ở thời thịnh trị, ai nấy đều muốn tự hiến thân, mà Xác vẫn còn tại chức, ai dám mở mắt giương cung hết lòng vì triều đình? Người chính trực không được đứng vững, thì chính sách tốt đẹp của bệ hạ không được thi hành, pháp luật hủ bại của thiên hạ không được sửa đổi. Nay hạn hán kéo dài nhiều tháng, gió khô nắng gắt, từ mùa đông sang xuân, lúa mạch đã khô héo, dịch bệnh sắp bùng phát, tình hình trong ngoài đều hoang mang bất an, đều do kẻ gian tà lớn đang ở triều đình, trời giáng điềm cảnh cáo. Kính mong bệ hạ sâu sát tình thế, lấy thiên hạ làm trọng, sớm đưa ra quyết định sáng suốt, bãi chức vụ của Xác, cho ông ta ra ngoài bổ nhiệm[27], để đáp lại thiên biến, triệu hòa khí, an ủi dư luận, làm mới chính sách đổi niên hiệu, thiên hạ may mắn biết bao!

(Lời của Chí về mười việc Xác nên bãi chức, cùng với ngày Mậu Tuất mùng 6 tháng 7 năm thứ 8, ngày Ất Tỵ 14 tháng 9 và ngày Giáp Ngọ mùng 5 tháng 2 nhuận năm nay do Tô Triệt trình bày, cần xem xét chung. Chương này trong tập của Chí có, nhưng trong di cảo lại không có, cần xem xét.)

[83] Ngày Tân Hợi, chiếu rằng do mưa thuận ít, ngày 24 tháng này Thái hoàng thái hậu sẽ thân hành đến Trung Thái Nhất cung và Tập Hi quan để cầu mưa.

[84] Chiếu rằng các chùa, giám thiếu quan chức, đều theo lệnh thông dụng ở kinh thành, các quan Lục tào, Tự, Giám đang nghỉ phép hoặc đi sứ được phép kiêm nhiệm chức vụ ngoài, chủ bạ cũng được tạm quyền làm thừa, theo yêu cầu của Lễ bộ.

(Tân lục đã bỏ đi.)

[85] Lại có chiếu rằng: “Đổi tướng thứ 11 của phủ giới sung làm tướng thứ 7 của Kinh Tây, huấn luyện quân mã của châu Trịnh và châu Hoạt, vẫn đóng quân tại châu Hoạt như cũ. Lấy ba chỉ huy bộ quân của châu Trịnh dưới quyền tướng thứ 11 của phủ giới, lệ thuộc vào tướng thứ 10 của Kinh Tây[28]; ba chỉ huy bộ quân của huyện Dương Vũ dưới quyền tướng thứ 7 của Kinh Tây, lệ thuộc vào tướng thứ 7 của phủ giới. Tướng thứ 10 của phủ giới Khai Phong, huấn luyện quân mã của huyện Uý Thị và huyện Dương Vũ, vẫn đóng quân tại huyện Uý Thị như cũ.” Vì châu Trịnh đã khôi phục như cũ.

(Sách 《Tân Lục》 bỏ đi.)

[86] Xu mật viện tâu: “Bảo giáp của phủ giới và ba lộ đã bãi bỏ việc tập trung huấn luyện, các khí giới dùng để huấn luyện, lệnh cho nộp lại cho quan. Lại lập ra quy định thưởng cho việc tố giác tư hữu cấm binh của phủ giới và ba lộ.” Được chấp thuận.

[87] Tả chánh ngôn Chu Quang Đình tâu, xin ủy thác cho lệnh và tá lựa chọn những tay cung yếu kém, thay bằng những người ứng mộ vào bảo giáp. Được chấp thuận.

(Sách 《Tân Lục》 bỏ đi phần nói về Lã Đại Phòng vào ngày mồng 7.)

[88] Lại tâu rằng, đã nhiều lần ban chỉ huy xuống các lộ Thiểm Tây, Hà Đông, cấm người biên giới không được giao dịch riêng với nước Hạ, nhưng nghe nói việc giao dịch riêng vẫn không hề sợ hãi. Chiếu cho các tướng quan và sứ thần các thành trại, ra lệnh cho các thủ lĩnh phiên bộ và các nhân viên cung tiễn thủ, tướng hiệu giữ biên giới phải cảnh giác, người vi phạm sẽ bị trị tội.

(Chiếu ngày 11 tháng 2, có thể tham khảo.)

[89] Quang Đình lại tâu:

(Theo sách 《Biên Loại Chương Sớ》 thêm vào ngày 22 tháng giêng.)

[90] Thần nghe rằng từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, luôn nghĩ đến việc đưa thiên hạ đến cảnh thái bình. Trong bốn biển, không ai không vui mừng hân hoan, đều cho rằng sau khi lên ngôi, bệ hạ ắt sẽ làm nên đại sự, tiến cử người trung, loại bỏ kẻ tà để khởi xướng nền trị vì tốt đẹp. Mọi người đều ngóng cổ chờ đợi, ngày đêm mong mỏi, nhưng nay đã hơn một năm rồi, vẫn chưa thấy chiếu chỉ minh bạch, lòng người uất ức mà thấu lên trời, nên từ mùa đông sang xuân, mưa móc không xuống. Bệ hạ lo lắng khổ tâm, không thần nào không tôn kính, thậm chí thân hành đến điện tiện, xét xử tù nhân, nhưng điềm lành vẫn chưa ứng nghiệm. Trời có lẽ muốn thức tỉnh bệ hạ về nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, há chẳng phải là do bọn gian thần vẫn đang chiếm giữ vị trí mà chưa bị loại bỏ, tư tâm và tà thuyết cùng nhau gây rối loạn, khiến biến thành khí độc lan khắp thiên hạ sao? Nay một quận một huyện mà không có người tài, còn gây hại cho ngàn dặm, huống chi những kẻ đang giữ trọng trách, mọi hành động đều ảnh hưởng đến thiên hạ, nếu không phải người xứng đáng, thì hại lớn biết bao! Hiện nay thánh chính ngày càng mới mẻ, lẽ ra phải được mưa thuận gió hòa, nhưng vẫn chưa được như vậy, ắt là do trung thần và gian thần chưa phân biệt rõ, đây chính là ý trời muốn thức tỉnh bệ hạ. Nếu bệ hạ soi xét thấy rõ bọn gian tà, sớm ra quyết đoán sáng suốt, thì khí hòa sẽ mang lại điềm lành, chắc chắn chưa muộn.

Như Thái Xác bất kính mà tư tâm, Chương Đôn bất trung mà tà thuyết, Hàn Chẩn không biết xấu hổ mà lạm hưởng ân sủng, đều là những kẻ không xứng đáng đảm nhận trọng trách, thần đã nhiều lần bàn luận đầy đủ, mong bệ hạ lưu tâm xem xét, để mang phúc đến cho thiên hạ. Thần nghĩ rằng Thái Xác, Chương Đôn, Hàn Chẩn bất kính, bất trung, không biết xấu hổ như vậy, ắt không có lòng công chính chí đại, không lo nghĩ cho sinh linh của bệ hạ. Vì thế, khi bàn luận chính sự, Chương Đôn thì công khai ngang ngược, buông lời biện bạch, ra sức chê bai để hại chính sự; Thái Xác thì bề ngoài tỏ ra không so đo, nhưng trong lòng thực sự đồng lòng, bề ngoài tôn kính hiền tài, nhưng bên trong lại giúp đỡ kẻ tà; Hàn Chẩn thì mỗi khi bàn luận, cũng không ủng hộ điều chính đáng, chỉ lo im lặng để giữ an toàn cho mình. Bọn đại thần chấp chính với tâm địa như vậy, chỉ vì bệ hạ khoan nhân nên vẫn còn dung thứ cho họ tại vị, nhưng há chẳng phải là điều đáng lo ngại sâu sắc cho thánh chính sao!

[91] Hiện nay trong nước có những tệ hại như phép Thanh Miêu, Miễn Dịch, trà muối chưa được sửa đổi hết, ngoài biên giới có việc phòng thủ và tranh chấp lãnh thổ chưa được xử lý. Theo thần thấy, đó đều là những tệ hại ngọn ngành, chưa đáng lo ngại, chỉ có bọn gian tà chưa bị trừ bỏ mới thực sự là mối họa lớn ở gốc rễ. Nếu mối họa gốc rễ được trừ bỏ, thì những tệ hại ngọn ngành lo gì mà không tiêu tan? Kính nghĩ Bệ hạ sáng suốt như mặt trời mặt trăng, vô tư như trời đất, mọi chính sách đều xuất phát từ lòng thành, chỉ có điều trong hàng ngũ chấp chính, bọn gian tà chưa bị trừ bỏ, đó mới là mối họa lớn nhất ở gốc rễ. Vua Thuấn trị vì, trừ bỏ bốn tội mà thiên hạ đều phục; Vua Thang có thiên hạ, dùng Y Doãn mà kẻ bất nhân phải tránh xa. Thần mong Bệ hạ noi theo gương Vua Thuấn, Vua Thang trong việc trừ bỏ bốn tội, loại bỏ kẻ bất nhân, dứt khoát quyết đoán, cách chức Thái Xác, Chương Đôn, Hàn Chẩn, chọn dùng người trung hiền để phụ tá thánh trị, thì tự nhiên ba quang sáng tỏ, nóng lạnh điều hòa, mưa thuận gió hòa, điềm lành sẽ đến ngay.

[92] Giám sát Ngự sử Vương Nham Tẩu tấu:

(Biên loại chương sơ, năm Nguyên Niên, tháng giêng, ngày 22.)

[93] Thần gần đây vì đại hạn, dâng chương xin sớm loại bỏ đại hại, trừ đại gian, để đáp lại lời răn của trời, chỉ rõ Thái Xác, Chương Đôn kết bè kết đảng, che lấp tai mắt của thiên tử, hà hiếp kẻ dưới, lừa dối người trên, dấu vết bất trung rõ ràng ở hai triều. Xin đưa ra các chương sớ trước sau của thần, tập hợp trăm quan ở triều đình hội nghị, để quyết định phải trái, nay đã nhiều ngày, chưa được thi hành. Thần nghĩ bệ hạ cầu đảo rất chuyên cần[29], mà lòng trời chưa ứng, nạn hạn ngày càng nặng, sinh mệnh dân chúng gần như tuyệt vọng, bệ hạ không thể không suy nghĩ. Thần cho rằng thủy hạn là tai họa, việc lớn của quốc gia, xét theo điển chương cũ của các đời trước, thì Tam công theo lệ phải bị cách chức; xét theo chuyện cũ của triều ta, thì bề tôi cầm quyền tự nên nhường lời. Nay bệ hạ có lòng khoan dung, đã coi trọng ý định cách chức người, mà gian thần không biết xấu hổ, lại quên mất tâm tránh chức[30]. Thần ở lúc này sao có thể im lặng? Vì điều thần dựa vào, là công cụ của triều đình, điều thần trình bày, là công luận của thiên hạ, bỏ công cụ mà không nói thì phụ triều đình, bỏ công luận mà không lo thì phụ thiên hạ, thần nếu như thế, bệ hạ dùng thần để làm gì? Vả lại từ xưa đến nay, đặt chức Gián quan, Ngự sử, chính là để vì triều đình bàn đại hại, nói đại gian, làm tai mắt cho thiên tử, không phải để che lấp sự thông minh của thiên tử, khiến kẻ gian ngày càng tăng ác.

[94] Lại từ xưa đến nay, những tai họa lớn trong thiên hạ đều do bọn gian thần lớn gây ra, nếu trừ được bọn gian thần lớn trước thì tai họa lớn tự nhiên sẽ tiêu tan. Những điều thần đã trình bày trước sau về hai gian thần, sự tích rất rõ ràng, kính mong bệ hạ xem xét lời khổ tâm của thần, thấu hiểu tấm lòng máu thịt của thần. Thần không phải kẻ điên cuồng, sao lại dám không tiếc thân danh, ngông cuồng phá hoại bậc trung hiền; không tiếc gia đình, cố ý kết bè với quyền thần. Bệ hạ há không biết Thái Xác, Chương Đôn chịu ơn sâu của tiên đế, rõ biết nỗi khổ của thiên hạ, nhưng không hề dâng một lời nào để tiên đế biết, chỉ biết nịnh hót, lừa dối, che đậy, để giữ thân củng cố địa vị mà thôi, chứ không phải tiên đế không nghe lời họ. Họ phụ ơn đức, thật đáng đau lòng, há có kẻ không trung thành ngày trước mà lại mong họ trung thành ngày nay sao? Người xưa nói rằng đạo nghe lời phải xem việc làm. Nay việc làm của bọn Xác, bệ hạ có thể xem mà biết; lời nói của bọn thần, bệ hạ có thể xét mà nghe. Thần nghĩ bệ hạ vốn biết Xác, Đôn là gian tà, nhưng chưa thể quyết đoán ngay. Truyện nói: “Đáng đoán mà không đoán, ắt sẽ gặp loạn.” Đó là điều tiên vương răn dạy sâu sắc, mong bệ hạ sớm ban ơn theo như lời thần đã xin trước đây, trên để đáp ý trời, dưới để yên lòng dân.

[95] Thiếp hoàng: “Thần nghĩ rằng lòng dân ngày nay mong đợi bệ hạ, cũng như bệ hạ mong đợi ý trời, bệ hạ chưa đáp được lòng dân, nên ý trời chưa đáp lại bệ hạ, lẽ này rất rõ, bệ hạ sao lại tiếc bỏ gian tà để ứng với ý trời, làm phúc cho sinh linh?”

[96] Ngày Nhâm Tý, Hình bộ sửa đổi pháp lệnh về công tội của quan sát ở Ngự sử đài, cuối năm khảo xét và so sánh phân hạng, đều được chấp thuận.

[97] Ngày Quý Sửu, Thái hoàng thái hậu ngự giá đi cầu mưa.

(Điều này căn cứ vào 《Chính mục》 thêm vào, 《Thực lục》 không ghi.)

[98] Ngày Giáp Dần, Đổng Chiên sai người vào cống.

[99] Ngày Bính Thìn, Vua ngự giá đến chùa Đại Tướng Quốc cầu mưa.

[100] Trong cung ban ra chiếu của Thái hoàng thái hậu rằng: “Việc lập nguyên miếu đã có từ lâu. Trước đây, Thần Tông hoàng đế mới đến từ cung, cùng xây dựng tẩm điện để tôn nghiêm tổ tiên, lòng hiếu thảo ấy có thể nói là đến mức tột cùng. Nay Thần Tông đã được thăng phụ, theo lệ cũ nên xây dựng cung điện để phụng thờ thần linh. Nhưng phía đông cung viên gần kề dân cư, muốn mở rộng thì sợ gây phiền nhiễu, muốn tham khảo ý kiến của các quan lại, đều cho rằng nên hợp đế hậu làm một điện, nhưng lại lo không xứng với ý của Thần Tông là kính phụng tổ tiên. Nghe nói phía sau điện Trị Long có đất vườn, theo suy đoán của hậu điện, vốn để dành cho ta, có thể lập ngay tại đó nguyên miếu của Thần Tông. Sau khi ta qua đời, sẽ theo Anh Tông hoàng đế ở Trị Long, trên để yên ổn thần linh, giữa để thành chí của con ta, dưới để an lòng dân, chẳng phải là tốt sao!”

(Cựu lục chép: Thần Tông bắt đầu xây dựng nguyên miếu, kính cẩn phụng thờ tổ tiên, sắp xếp tượng thờ theo thứ tự, đều tuân theo lễ chế, đời sau không được thêm bớt. Đến nay nối tiếp ý nhỏ, phụng thờ Thần Tông ở hàng hậu điện đã nhiều năm. Từ đó có thể thấy sự bất trung của gian thần. Tân lục biện rằng: Đây là đức lớn của Tuyên Nhân thái hậu, để thành tựu cái đẹp của Thần Tông, mà cho rằng việc phụng thờ Thần Tông ở hậu điện không phải là ý chỉ của chiếu. Từ “Thần Tông bắt đầu xây dựng” đến “bất trung” 53 chữ, đều bị xóa bỏ.)

[101] Thị ngự sử Lưu Chí tâu: “Thần nhiều lần dâng sớ đàn hặc tể thần Thái Xác, xin bãi miễn, đến nay chưa được chỉ dụ. Trong triều đình, kẻ trung người tà cùng tồn tại, khiến nhân tình trong ngoài bất an. Thần tuy chức nhỏ, nhưng giữ trách nhiệm giám sát, nghĩa không thể im lặng. Tội ác của Xác, thần đã nhiều lần tâu bày, nay xin bàn thêm về việc hệ trọng liên quan đến an nguy quốc gia. Từ khi bệ hạ lên ngôi, đã trọng dụng Tư Mã Quang, giao chấp chính, khiến thiên hạ vui mừng, mong được nghỉ ngơi. Nhưng Quang một mình kiên trì đạo lý, chỉ dựa vào sự thấu hiểu của bệ hạ, còn các quan trong triều không những không giúp, mà còn ganh ghét, hãm hại. Kẻ ganh ghét Quang chính là kẻ hại chính sự để mưu lợi riêng. Vì thế, mỗi khi bàn việc, thường tranh cãi mãi mới quyết định; chính lệnh ban ra, quan lại trong ngoài vẫn nghi ngờ, không chịu hết lòng thi hành.

Đó là vì Xác cùng Chương Đôn vốn là những kẻ trước đây lừa dối tiên đế, tạo ra pháp luật, kiên trì bảo vệ lâu nhất. Nay họ nắm giữ chức vụ quan trọng, uy quyền lấn át trong ngoài, lại kết bè kết đảng, ngày đêm mưu tính củng cố địa vị, chờ ngày thay đổi tình thế để nắm lấy quyền lực. Đó là lý do khiến nhân tình lo sợ, chưa dám hết lòng phụng sự triều đình. Trên thì chính sách nhân từ của bệ hạ bị Xác ngăn trở, không thể thấm nhuần đến dân; dưới thì sĩ đại phu dù có lòng trung nghĩa cũng bị Xác kìm hãm, không thể hết lòng với Vua. Vậy thì tác hại của Xác và Đôn ngày nay, há chẳng lớn sao? Thần không hiểu bệ hạ còn tiếc gì một lời mà không trừ bỏ kẻ đại hại cho thiên hạ? Nay Tư Mã Quang đã già, bệnh tật nặng nề, nếu chẳng may Quang không thể tiếp tục, thì chính sách nhân từ của bệ hạ sẽ không còn, dân chúng sẽ không được cứu giúp, người hiền mà bệ hạ trọng dụng sẽ bị Xác hãm hại. Người hiền bị họa chưa đáng bàn, nhưng nếu Xác lại được toại chí, thì tác hại với thiên hạ sẽ còn lớn hơn trước. Bệ hạ hãy nghĩ đến điều này, thì đại kế xã tắc, há chẳng nên lo lắng sao?

Thời cơ khó được mà dễ mất, họa phúc cách nhau chỉ trong gang tấc, mong bệ hạ suy nghĩ thấu đáo, sớm quyết đoán, bãi chức Xác và Đôn, chọn người có đức vọng cùng chí hướng với Quang, đặt bên cạnh, để hoàn thành chính sách tốt đẹp của bệ hạ, an ủi dân chúng mệt mỏi, khiến người trung nghĩa không còn lo sợ, hết lòng báo đáp bệ hạ. Việc này không khó, chỉ cần bệ hạ một lời. Xác không bị trừ, thì bè đảng sẽ hình thành; Xác bị trừ, thì bè đảng sẽ tan. Bọn tiểu nhân tà đảng vốn vì lợi mà kết hợp, nếu thấy triều đình đã chính đáng, thì chúng cũng sẽ thay đổi theo thời, đều có thể dùng được. Xin bệ hạ sớm đem các sớ tấu của thần về Xác ra thi hành, sớm bãi chức Xác để phân biệt chính tà. Thần vô cùng phẫn uất, lo nước yêu Vua đến cực điểm.”

[102] Dán tờ vàng: “Thần nghe nói Xác thường đến ty Thông tiến dò hỏi văn tự của các quan, nhân đó trong sổ sách đều thấy ghi chép số lượng. Nay tuy được ơn thánh muốn bảo toàn cho thần ngu muội, nên chưa ban xuống các chương sớ, nhưng văn tự lưu trong cung, Xác đã biết số lượng, nên đã nghi ngờ và giận dữ với thần, ngày ngày mưu toan hãm hại. Thân phận thần rất nguy hiểm, kính mong xét kỹ, chi bằng đưa hết các sớ của thần ra ngoài công khai, thần dù bị trách phạt cũng cam lòng, để tránh bị hại ngầm.”

[103] Lại dán tờ vàng: “Bệ hạ tuy dùng Tư Mã Quang, nhưng lại để Xác khống chế, nên việc chính sự đã gần một năm, tuy có thay đổi chế độ cải cách pháp luật, nhiều điều có lợi cho dân, nhưng những tệ nạn lớn vẫn còn. Hơn nữa, những người thi hành trong thiên hạ vẫn còn nghi ngờ, do dự không chịu hết lòng, khiến dân không được hưởng trọn ân huệ. Lý do họ nghi ngờ là vì Xác và Đôn nắm quyền, người ta sợ ngày sau sẽ gặp họa phản phúc. Kính mong chuyên dùng người chính trực, sớm cách chức Xác, thì chính sự tốt có thể thành công, nền tảng đã vững, ngày sau không thể lay chuyển, đó là lợi ích muôn đời.”

[104] Lại dán tờ vàng: “Thần trước đây từng dán tờ vàng tâu lên, đợi ngày cách chức Xác, sẽ đàn hặc riêng Chương Đôn, nay hai người này gây hại như nhau, đều là những kẻ mà trong ngoài đều sợ, nên thần trong tờ tâu này cùng luận bàn.” Lại dán tờ vàng: “Xác từ khi Bệ hạ lên ngôi đến nay, phạm những tội lớn bị công luận lên án, tổng cộng hơn mười việc, thần trước đã tâu lên. Nay thiên hạ đại hạn, đã lâu ngày, tai họa đã thành, Bệ hạ lo lắng vì dân, đến nỗi phải thân hành cầu đảo, mà Xác là thủ tướng, đáng lẽ phải chịu trách nhiệm, nhưng lại không chịu tội tránh chức, để tạ tội với trời, làm yên lòng người, đủ thấy hắn khinh mạn Bệ hạ. Chỉ việc này thôi, đáng bị đày xa.”

(Trong 《Chí Di Cảo》 coi đây là tờ tâu thứ tám, ngày 27 tháng giêng dâng lên.)

[105] Ngày Đinh Tỵ, Tư chính điện Đại học sĩ kiêm Thị độc Hàn Duy cùng các quan tâu: “Thần trộm thấy khi tiến đọc 《Tam triều bảo huấn》, trong đó có những việc thời tổ tông khác với hiện nay. Bởi lúc ấy thiên hạ mới định, khác với thời thái bình, nên việc bàn luận của quân thần cũng khác. Lại có những việc tổ tông xử lý tùy thời, khó áp dụng mãi về sau. Xin gặp những việc tương tự, cho phép thần xem xét kỹ, không tiến đọc nữa.” Vua nghe theo.

(Cựu lục chép: Lúc ấy muốn cải cách pháp độ của tiên đế, Duy cho rằng trong 《Bảo huấn》 có việc không nên tâu lên, nên xin không tiến đọc. Đó là ý của bề tôi muốn hiến kế thay đổi. Nhưng việc tâu trình xin chỉ mới dám thi hành, sao có thể nói là không tiến đọc? Từ câu “lúc ấy muốn cải cách” đến “không tiến đọc” gồm 26 chữ, đều bị xóa bỏ.)

[106] An phủ sứ Lộ Hà Đông Lữ Huệ Khanh tâu: “Trong lộ này, ngoài thuế chính của 14 châu quân như Thái Nguyên, Phần, còn có khoản hòa địch nhưng không dùng tiền, lại không được xét miễn khi gặp thiên tai hay đại xá. Nay triều đình tuy xóa nợ cũ nhưng chưa sửa gốc rễ. Xin giao cho Chuyển vận, Đề hình, Đề cử ty điều tra dân tình, lập pháp tâu lên.” Vua sai Chuyển vận, Đề hình, Đề cử thường bình ty cùng Kinh lược an phủ ty bàn bạc, lập pháp tâu lên.

(Có thể tra cứu trong 《Huệ Khanh gia truyền》.)

[107] Trung thư tỉnh tâu: “Theo chiếu tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 6, Xá nhân tùy theo phòng mình phụ trách mà soạn chiếu. Nay ngoài việc giáng chức, phục chức ở phòng Hình và việc thăng chuyển Phiên quan ở phòng Binh, các việc bổ nhiệm khác đều do phòng Lại soạn chiếu hàng ngày, các phòng khác không soạn chiếu. Xin cho các phòng như cũ ký duyệt văn thư, việc soạn chiếu vẫn theo lệ cũ, luân phiên soạn thảo.” Vua nghe theo.

(Ngày Ất Sửu, tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 6.)

[108] Hộ bộ tâu rằng, theo lời của cơ quan xem xét pháp luật về muối ở Hà Bắc, xin bãi bỏ pháp luật mới hiện hành, khôi phục lại pháp luật cũ để thông thương, được chấp thuận.

(Ngày 18 tháng 10 năm thứ 8, Kỷ Mão, lần đầu tiên cử Phạm Ngạc cùng với cơ quan vận chuyển ở Hà Bắc xem xét pháp luật về muối. Vương Nham Tẩu có tấu nghị, nay bãi bỏ pháp luật mới, hoàn toàn sử dụng pháp luật cũ.)

[109] Kinh lược an phủ ty của Quảng Nam Tây Lộ tâu rằng, ty Khê Động ở Nghi Châu xin cho Mạc Thế Nhẫn được phái người đến tiến cống. Chiếu rằng: “Cho phép tiến cống, nhưng không cần đến kinh đô. Biểu trạng của họ, hãy tiếp nhận và dâng lên; những vật tiến cống, giao cho ty này quản lý và báo cáo.”

[110] Tư Mã Quang và Lữ Công Trước đã được thăng chức, chiếu cho các cửa cung, Quang và Công Trước đến chính thức tạ ơn, đặc cách cho lạy hai lần, không cần nhảy múa; khi tạ ơn tại cung Cảnh Linh, cũng chỉ lạy hai lần. Quang sau đó vì bệnh xin nghỉ, ngày hôm đó (ngày 28, Đinh Tỵ) lại có chiếu miễn việc chính thức tạ ơn và tạ ơn tại cung[31]. Quang lo sợ không dám nhận chiếu, xin đợi khi khỏi bệnh sẽ vào tạ ơn, theo lệnh giảm lạy. Từ đó, Quang không thể ra ngoài trong 13 tuần, nhưng vẫn liên tục dâng tấu sớ.

(Ngày 13 tháng 5, Quang mới vào chầu tại điện Diên Hòa.)

[111] Lại gửi thư đến ba tỉnh rằng:

(gửi thư đến ba tỉnh và viện mật, không rõ thời gian, ghi chú ở cuối tháng giêng, cần xem xét kỹ hơn.)

[112] Quang cố gắng vào triều, muốn cùng các quan bàn việc dâng sớ[32], trình bày những thiếu sót để mong được chọn lựa, nhưng không thể lên xuống ngựa được, đến nơi phải xin nghỉ, kính cẩn trình bày ý kiến như sau. Pháp độ hiện nay, điều cần thay đổi trước tiên, không gì bằng tiền miễn dịch. Không chỉ bóc lột dân nghèo, khiến họ không thể sống nổi, lại còn thuê mướn những kẻ vô lại khắp nơi, bắt họ làm đủ mọi việc, quan lại không được lợi, kế sách hiện nay, không gì bằng bãi bỏ hoàn toàn tiền miễn dịch, trở lại chế độ sai dịch cũ. Dân chúng được giảm bớt gánh nặng, đã được bảy tám phần mười, nếu lo ngại mỗi nơi lợi hại khác nhau, thì giao cho các lộ chuyển vận ty và châu huyện trình bày những điều bất tiện, tâu lên triều đình, xem xét lại, đặt ra sắc lệnh riêng cho từng châu huyện mà thi hành. Điều thứ nhất không thể giao cho đề cử ty xem xét, họ tuy là chức trách, nhưng dựa vào tiền dịch, như cá gặp nước, há chịu buông tha? Ắt sẽ ngăn trở không nghi ngờ gì nữa. Quang thấy muốn làm một văn bản tâu lên, nếu đưa xuống tam tỉnh, mong các quan đồng lòng hợp sức giúp đỡ, làm như vậy, có thể trừ bỏ tệ nạn lâu đời, cứu vớt dân chúng mệt mỏi.

Phàm pháp luật lâu ngày thì khó thay đổi, pháp này thi hành đã mười lăm năm, hộ dưới tuy khổ sở, hộ trên khá thuận lợi, theo tình hình thường, bàn luận đã không đồng nhất[33], nếu không nhân lúc này quyết chí thay đổi, e rằng sau này sẽ thành bệnh nan y muôn đời. Nhà nước không thể dùng sức dân, dân nghèo thường khổ, dân giàu thường được ưu đãi. Triều đình nay muốn chỉnh đốn thiên hạ, cứu vớt dân chúng mệt mỏi, trước hết phải có một hai người giám ty tốt ở mười tám lộ, trung hậu hiểu việc, lo dân quên mình, khiến họ tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ bất tài, hưng lợi trừ hại. Triều đình có điều gì không biết về việc lộ mình, hỏi thì trả lời thực, giao cho xử lý thì không sai lệch, sau đó mới có thể dựa vào làm tay chân mắt tai. Nếu không phải người đó, thì trăm việc đảo lộn. Những văn bản về tiêu chuẩn giám ty và việc tiến cử quan chức soạn trước đây, không biết các quan đã xem hết chưa? Nếu như vậy có thể thi hành, thì sớm báo để trình lên thi hành. Tuy nhiên, đặt ra tiêu chuẩn thì dễ, giữ vững tiêu chuẩn mới khó, sau khi đã ban hành chỉ thị, mong các quan kiên trì giữ vững tiêu chuẩn này, đừng tự làm hỏng, mới có ích.

[113] Hạn hán đáng lo ngại, nếu mùa xuân lại không có mưa, ắt sẽ xảy ra nạn đói lớn, không thể không chuẩn bị trước. Cái mà quốc gia nương tựa làm gốc rễ, không gì bằng nông dân. Nông dân là nguồn gốc của cơm áo, quốc gia không thể không quan tâm trước hết. Muốn thêm sự quan tâm, không gì bằng xem xét lúc họ thiếu ăn, sớm cứu tế, khiến họ yên ổn nơi quê nhà, không đến nỗi phải lưu lạc, chi phí của quan phủ đã tiết kiệm, dân không mất việc, đó là thượng sách. Nếu đã lưu lạc, quan phủ dù có bày mưu tính kế, phân phát gạo nấu cháo, cũng chỉ tụ tập thành những kẻ chết đói, chẳng ích gì. Kế sách hiện nay, không gì bằng trước hết lấy một phần mười trong số lương thực dự trữ ở các châu huyện, dùng làm gạo cứu tế, giao cho châu huyện quản lý, cho phép tùy nghi sử dụng, thường xuyên kiểm tra. Các hộ dân ở thôn xã, nếu thiếu ăn, cho phép đến huyện trình báo, căn cứ vào số nhân khẩu nhiều ít, già trẻ mà cấp sổ lịch, cứ năm bảy ngày một lần, đến huyện xin nhận lương thực, bắt đầu từ hộ nghèo, huyện cũng lập sổ sách quản lý số lượng đã xin. Cứu tế như vậy, đến khi mùa màng thu hoạch, lập tức ngừng cấp phát, bắt họ hoàn trả số gạo đã vay, không thu lãi, như vậy mới thực sự là ân huệ.

[114] Dặc Tuấn đã bị bắt, nhưng chưa nghe nói đến việc khen thưởng người bắt được. Các tướng quan đi đánh dẹp[34], không tránh khỏi gây phiền nhiễu, nên sớm chấm dứt việc này. Hôm trước, Thái Doãn đến nói rằng ở Khai Phong có tên đại đạo, triều đình có treo thưởng cho ai bắt được, sẽ ban cho chức quan. Nay đã bắt được, lại chỉ thưởng tiền. Khổng Tử nói: “Bỏ ăn, bỏ binh, không giữ chữ tín thì không thể đứng vững”. Chính lệnh của thánh triều, há lại như thế sao? Các ngài hãy tính toán lại việc này. Phạm Cảnh Nhân khi Nhân Tông bệnh nặng, chưa có người kế vị, thiên hạ lo sợ, không ai dám lên tiếng, chỉ một mình ông dám đưa ra kế sách lớn để yên ổn tông miếu xã tắc, dâng tới mười chín chương sớ, từ chối nhận chức, có thể nói là bề tôi dám hy sinh thân mình vì nước, công lao không kém Văn, Phú. Nay Văn, Phú được trọng thưởng, còn Cảnh Nhân lại không được hưởng. Thái hoàng thái hậu cũng nên biết công lao lớn của ông[35], mong các ngài khi tiến trình văn thư bỉnh quốc[36], hãy tường tận tâu lên, xin ban ân điển đặc biệt.

[115] Hôm trước, trước rèm có tuyên dụ rằng những người dâng sớ khác biệt nên được khen thưởng đôi chút. Đây là việc tốt đẹp của thánh triều. Quang có xem xét ba quyển sách ghi chép việc dâng sớ, trong đó ghi rõ chức vụ, tên họ và những việc họ tâu lên, mong các ngài cùng chọn ra những người tài năng xuất chúng, ghi rõ tên họ tâu lên, ban thưởng xứng đáng để hoàn thành chí nguyện của thánh thượng. Lại gửi thư cho Xu mật viện rằng:

[116] Lữ Đại Trung nói rằng, giặc Hạ khi thì tỏ ra cung kính, khi thì ngạo mạn, là do việc buôn bán tư nhân công khai. Vùng đất xâm chiếm ở Diên, Khánh có hại mà không có lợi, cuối cùng cũng phải trả lại. Tuy nhiên, hiện tại chưa thể trả lại được, đợi khi Lữ Đại Trung nhậm chức, xem xét tình hình, trước tiên xin nghiêm cấm buôn bán tư nhân. Chỉ trong vòng một năm, chúng tất sẽ khuất phục, cử người đến cầu xin, sau đó triều đình ban chiếu, rộng lượng trả lại đất xâm chiếm, tha tội cho chúng, việc cống nạp và ban thưởng vẫn diễn ra như cũ. Kế sách này rất hay, xin ngài triệu kiến và hỏi han kỹ lưỡng hơn. Tuy nhiên, theo ý kiến của tôi, nếu chỉ như mùa hè năm ngoái, kiểm tra sổ sách mở niêm phong của Môn hạ đã ban hành, thì thật là qua loa, chỉ là làm trò chơi với mệnh lệnh, chẳng có ích gì, cần phải lập pháp riêng: Người Hán, người thục hộ nào buôn bán tư nhân với người Tây, kẻ phạm tội chính sẽ bị xử trảm, vợ con bị đưa đến Giang Hoài quản thúc. Dán bảng tường trình rõ ràng, cho phép người tố cáo, lập tức thưởng 50 quan tiền tỉnh, các chức Tuần kiểm, Trại chủ, Giám áp ở địa phương đó đều bị thay thế. Lại lệnh cho Kinh lược ty và châu đó thường xuyên theo dõi sát sao. Làm như vậy ở một hai nơi, mới có thể cấm tuyệt được.

[117] Nếu người phương Tây như những năm trước đem quân áp sát biên giới[37], uy hiếp Khánh Châu Lưu Thầm lúc đó, cũng không nghe theo, chỉ cố thủ vững vàng, làm cho họ tự suy yếu rồi rút lui. Kinh lược ty Hà Đông quản lý hơn hai mươi châu quân, biên giới dài hơn ngàn dặm, địa bàn tiếp giáp hai vùng biên, trọng trách của phủ Nguyên soái, có gì quan trọng hơn thế? Mà để Cát Phủ đảm nhiệm, liệu có thể xứng chức không? Ví như trước đây, quân Bắc địch xâm chiếm đất Hỏa Sơn, không chịu nhượng bộ, ngay từ lúc đầu xây đá luỹ, đã lệnh cho họ dỡ bỏ, nếu họ bắn tên, ta bắn lại thì có hại gì[38]! Vẫn rõ ràng dựa vào đạo lý, gấp rút ban hành văn thư, nghiêm khắc trách cứ, nói rằng “sẽ tâu lên triều đình, hỏi rõ Bắc triều”. Nay triều đình cũng không cùng bàn bạc, tỏ ra yếu thế, chỉ sợ mùa xuân ấm áp, quân địch quen với việc đắc chí, cho rằng Nam triều dễ đối phó, sẽ huy động đông quân, chiếm đoạt nhiều đất đai, triều đình cũng ngồi nhìn mà không làm gì được. Đất đai là gốc rễ của quốc gia, nếu quân địch muốn gì được nấy, không kể nhiều ít, muốn lấy là lấy, thì còn gì là quốc gia? Đây là do biên tướng không thể ngăn ngừa từ nhỏ, ngăn chặn từ sớm vậy. Hắn tự xin đến Dương Châu, các vị sao không sớm đồng ý, chọn người khác già dặn, trọng hậu, có mưu lược để thay thế. Tử Hậu đang muốn sắp xếp Hi Hà, làm kế lâu dài, mà Nguyên soái là người đứng đầu một phương, người đó há phải là bậc tài cao, anh hùng, lo nước quên nhà sao! Mong sớm thay đổi, đừng để hỏng việc.

[118] Ngự sử tâu rằng việc bãi bỏ kiểm tra, duyệt binh của bảo giáp là rất hợp lý, nên theo đó. Họ có được ba mùa để làm ruộng, há lại quan tâm đến những phần thưởng nhỏ nhoi này? Mà việc này lại tiết kiệm được không ít chi tiêu quốc gia, chỉ cần lập kho dự trữ, để lại một lượng vàng bạc. Khi đến mùa đông tập luyện, giao cho lệnh, tá chọn người có tài nghệ xuất chúng, thưởng bằng đĩa bạc, bát bạc, gấm vóc; nếu như đứng cùng hàng với người khác, tuy nói là thấp hèn, nhưng cũng là quan chức do quốc gia bổ nhiệm, há có thể coi như đất bùn mà đối xử với người khác? Những người có tài nghệ xuất sắc, cùng với chính trưởng dạy người và phân số, muốn không cho đứng cùng hàng nữa. Chính trưởng đánh đập bảo đinh, chỉ vì chưa đạt phân số, chưa được thưởng mà thôi.

[119] Hôm trước thấy bộ Giáp đến báo: đất Sa Uyển chật hẹp không thể chứa hết ngựa cái do Kinh Tây gửi đến, mà nơi đó lại không có ngựa đực, nuôi nhiều ngựa cái để làm gì? Chỉ khiến chúng chết dần chết mòn, thật đáng tiếc! Muốn ra lệnh cho Kinh Tây chưa gửi ngựa đến thì đóng dấu hoàn trả lại dân, còn những con đã gửi thì giao cho Sa Uyển định giá bán đi, thế nào? Nếu được chấp nhận, mong sớm có chỉ thị, nhưng việc giám mục cũng không thể không sớm cử quan đi khảo sát để khôi phục. Thời Hán, Đường đóng đô ở Trường An, nên nuôi ngựa nhiều ở vùng Khiên Lũng, Tam Phụ; quốc gia ta đóng đô ở Đại Lương, nên giám mục đặt ở Vận, Trịnh, Tương, Vệ, Hứa, Lạc, mỗi nơi đều thuận tiện cho việc đi lại. Nay nên khôi phục lại một hai giám mục gần đó, vì các nơi này đều có nền móng cũ.

[120] Tử Hậu thường nói việc thưởng quân là sai lầm, khi nào mới giảm bớt và sửa đổi? Người biên giới lập công nhỏ thì không nên thưởng, đó là cách Tống Cảnh giữ yên thời Khai Nguyên vậy.

[121] Việc phong sự ước chừng một thiên chỉ có hai tờ, lại bỏ đi phần ghi chú[39], Tử Hậu muốn có sự lựa chọn, nhưng đã khó có thể họp bàn, việc đó cũng có lợi hại lớn, chỉ xin Tử Hậu muốn bỏ điều gì thì bỏ, còn lại cho tiến trình, mong sớm kết thúc.

[122] Lại viết thư tay cho Lữ Công Trước rằng: “Từ khi Hối Thúc vào kinh, được cùng làm việc, thường cùng các đồng liêu đi đứng ngồi không rời nhau, chưa từng được bày tỏ hết lòng thành, dù ngày ngày gặp gỡ, vẫn như cách xa ngàn dặm. Nay không may lại bị bệnh, không biết đến khi nào mới được gặp mặt, nỗi buồn bã có thể biết được. Quang vốn có tật như Quốc Vũ Tử, thích nói thẳng để vạch lỗi người, gặp kẻ tầm thường, đôi khi buông lời bừa bãi để chuốc lấy hận giận, huống chi là bạn thân tri kỷ, há dám giấu giếm tình cảm mà không nói hết sao? Hối Thúc từ thuở nhỏ chí học, làm quan rồi thực hành, ngay thẳng trung hậu, thiên hạ ngưỡng mộ, đến tuổi già mới được nắm quyền chính, những điều tích lũy cả đời, không thực hiện vào lúc này, thì còn đợi đến bao giờ? Gần đây, dư luận có phần chê trách Hối Thúc quá cẩn trọng im lặng, lúc này lại không tranh luận ở triều đình, nếu việc có sai sót, thì sẽ rơi vào phe đảng kia. Mong hãy cố gắng, cố gắng! Quang thật không giỏi giang, há dám lấy việc lo nước làm trách nhiệm của mình, nhưng lời bàn về nhà giàu hôm qua, đã tâu lên rồi. Quang từ khi bị bệnh, đã giao hết thân mình cho thầy thuốc, việc nhà cho Khang, chỉ việc nước chưa có người phó thác, nay giao cho Hối Thúc vậy.”

(Lời bàn về nhà giàu hôm qua, không rõ là việc gì, cần tra cứu. Thư gửi Tam tỉnh, Mật viện và Lữ Công Trước đều không rõ thời gian, nay phụ chép sau phần bàn về phép dịch khi xin nghỉ, cần tra cứu thêm. Thấy muốn làm một văn bản, tức là tờ tâu ngày 6 tháng 2. Bản thảo trước đây về tiêu chuẩn Giám ty và việc cử quan chức, chưa thấy. Ngày 8 tháng 2, chiếu cho Cử ty lo việc cứu tế dân đói. Dặc Tuấn, ngày 26 tháng 3, Thiểm Tào tâu rằng Dặc Tuấn đang ở Quắc Châu, Nam Dương huyện. Hàn Duy bàn về văn bản của Phạm Trấn, ngày 10 tháng 2. Việc khen thưởng tấu chương xuất sắc, Lữ Đại Trung cấm buôn bán riêng, chọn người thay Lữ Huệ Khanh, thay tướng Hi Hà, bãi việc duyệt binh Bảo Giáp, khôi phục Giám Mục, cắt giảm thưởng quân, mấy việc này cần tra cứu kỹ thời gian thực hiện, hoặc có việc chưa từng thực hiện.)

[123] Ngày Mậu Ngọ, khôi phục trấn Thúc Thành thuộc châu Doanh thành huyện.

[124] Tháng đó, Hữu gián nghị đại phu Tôn Giác tâu: “Thần trộm thấy Hán Trần Bình đối đáp với Văn Đế rằng: ‘Bệ hạ sai thần đảm nhiệm chức Tể tướng. Tể tướng là người trên giúp thiên tử điều hòa âm dương, thuận theo bốn mùa, dưới thích ứng với muôn việc, ngoài trấn an bốn phương, trong gần gũi trăm họ, khiến các khanh đại phu đều đảm đương được chức vụ của mình.’ Bính Cát thấy trâu thở gấp, liền hỏi, duyện sử cho rằng Thừa tướng hỏi không đúng, Bính Cát nói: ‘Mùa xuân thiếu dương chủ sự, chưa thể quá nóng. Tam công chuyên trách điều hòa âm dương, chức trách đáng lo, nên mới hỏi.’ Hai triều Hán gặp đại tai dị, đều miễn chức Tể tướng, vì trách nhiệm của họ là ở chỗ điều hòa. Triều Thái Tông, Lý Phưởng vì mưa dầm hơn trăm ngày, âm dương rối loạn mà bị miễn chức. Triều Nhân Tông, Vương Tăng vì cung Chiêu Ứng bị cháy mà bị miễn; Lương Thích vì tệ hại cùng phát sinh, tai dị liên tiếp mà bị miễn.

Hạn hán vượt mức bình thường, là đại tai biến, người làm Tể tướng, nên đảm nhận trách nhiệm, nếu Tể tướng không nhận trách nhiệm, thì ai sẽ nhận? Từ khi Hoàng đế bệ hạ, Thái hoàng thái hậu bệ hạ thân chính đến nay, những việc làm để yên ổn dân chúng, có thay đổi, việc ấy không phải một, dưới đến kẻ tiểu nhân nơi ngõ hẻm, nơi xa xôi cách trở, không ai là không ca ngợi và vui mừng. Nhưng âm dương chưa hòa, hạn khí quá nặng, suốt mùa đông không có tuyết, mùa xuân lại không mưa, trải dài mấy ngàn dặm, lúa mạch mất mùa, nỗi lo này không phải một ngày hai ngày mà thôi. Sợ rằng dân chúng thiếu ăn, giặc cướp nổi lên, dân lành bị hại, dần thành mối lo xa gần. Hoàng đế bệ hạ, Thái hoàng thái hậu bệ hạ thân hành cầu đảo, lo lắng khẩn thiết, đi khắp các nơi cầu khấn, chưa từng một ngày quên nỗi lo. Nhưng Thái Xác, Hàn Chẩn nhìn việc ấy, thờ ơ như không đảm nhận trách nhiệm, chưa từng đóng cửa nhận lỗi, dâng sớ tạ tội, dẫn chuyện cũ xin được miễn chức. Ý trời có thể biết, trước sau mưa tuyết rơi ít rồi dừng, mây âm vừa hợp lại tan, ý rằng kẻ lo việc không đảm đương được trách nhiệm, khí hòa không cảm ứng được chăng! Làm Tể tướng mà không có lòng lo nghĩ cho nước, ý thương dân, an nhiên tự tại, như việc ấy không phải mình lo, thần cho rằng đây không phải là đạo của bậc đại thần. Kính xin theo chuyện cũ hai triều Hán, noi theo lệ cũ của tổ tông, đều miễn chức, để cảnh cáo trăm quan.”

(Ngày Giáp Thân tháng 2, Giác lại có hai chương sớ.)

[125] Thị ngự sử Lưu Chí tâu: “Thần gần đây đã trình bày việc tấu xét vụ tăng nhân Huệ Tín tố cáo quan lại Tăng ty nhận hối lộ, đã được giao xuống Đại Lý tự xử lý. Tuy nhiên, thần thấy thánh chỉ ra lệnh chỉ căn cứ vào những người được nêu trong tờ trình của Huệ Tín gửi Từ bộ mà điều tra, không được lan man. Thần xem xét kỹ tờ trình của Huệ Tín, trước đây ở Khai Phong đã từng xử lý, sau đó gửi Từ bộ, đã chuyển sang Ty suy xét, nhưng Khai Phong lại tâu rằng Từ bộ xử lý không đúng, nên triều đình ra chỉ không thi hành nữa. Nay đã giao lại cho cơ quan chức năng, thì cơ quan đó phải tuân theo pháp luật để điều tra, nếu chỉ xét những người trong tờ trình, thì có thể bỏ sót những kẻ chia chác, cất giấu tang vật, hoặc những người liên quan nhưng không được nêu trong tờ trình, đều không được truy xét, khiến vụ án không có chứng cứ, làm sao tìm ra sự thật? Hơn nữa, Từ bộ và Khai Phong đều có liên quan, nếu có sai sót, cần phải xử lý chung một vụ, huống chi hai nơi trước đây đã có tranh chấp, sao có thể bỏ qua không xét? Những việc trong tờ trình đều vi phạm pháp luật, nếu những người trong tờ trình có liên quan đến vụ việc, sao có thể không xử lý? Từ trước đến nay, triều đình giao việc cho các cơ quan, chỉ yêu cầu tuân theo pháp luật, hoặc hạn chế không để lan man, chưa từng nghe nói hạn chế số người điều tra. Thần lại lo rằng khi trình lên xin chỉ thị, không trình bày rõ ràng, dẫn đến quyết định như vậy. Thần e rằng cơ quan điều tra sẽ nương theo ý chỉ, không xử lý công bằng, bỏ sót kẻ có tội, vi phạm pháp luật. Xin ban chỉ thị lại, yêu cầu cơ quan này tuân theo quy định điều tra từ trước, đồng thời ấn định thời hạn gấp, không được kéo dài. Nếu cơ quan xử lý trước đây rõ ràng vi phạm pháp luật, cũng cần xử lý chung một vụ và tâu lên xin quyết định.”

(Lưu Chí dâng tấu đầu vào cuối tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8, đây là tấu thứ hai, theo di cảo thì dâng vào ngày 29 tháng giêng, nay phụ vào cuối tháng.)


  1. Văn thư gửi cho Tĩnh Hải quân An Nam, chữ 'Nam' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 4, phần Thái Tông kỷ, cùng các quyển 73, ngày Quý Tỵ tháng 2 năm Đại Trung Tường Phù thứ 3; quyển 110, ngày Đinh Dậu tháng 6 năm Thiên Thánh thứ 9; quyển 141, ngày Nhâm Tuất tháng 6 năm Khánh Lịch thứ 3 trong sách này để bổ sung.
  2. Các bản khác chép 'các cơ quan' là 'trăm quan'.
  3. 'Tận tâm với chức trách' - chữ 'kì' nguyên bản viết là 'cộng', theo các bản khác và bản in hoạt tự mà sửa lại.
  4. Các bản khác chép 'e rằng không phải là việc này' là 'e rằng việc này không phải'.
  5. 'Lang trung' nguyên bản viết 'Thượng thư', căn cứ vào các bản khác và 《Tống sử》 quyển 340, 《Lữ Đại Trung truyền》 sửa lại.
  6. 'Tháng 10' nguyên bản viết 'Tháng 2', căn cứ vào các bản khác và quyển 390, ngày Nhâm Tý tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ nhất sửa lại.
  7. Thần trộm nghĩ rằng, đạo trị nước của thánh nhân tuy chỉ một, nhưng đạo ấy không bao giờ cũ kỹ, sách 《Trung túc tập》 quyển 5, bài 'Luận dịch pháp sớ' không nhắc lại chữ 'đạo'.
  8. Thuận theo sự biến đổi, chữ 'sự' nguyên bản là 'thời', căn cứ vào bản trong các kho và sách 《Trung túc tập》 dẫn trên mà sửa.
  9. Về tệ hại của phép dịch, chữ 'dịch' nguyên bản thiếu, căn cứ vào sách 《Trung túc tập》 dẫn trên và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 108, phần 'Sai dịch' mà bổ sung.
  10. Nhanh nhất cũng hơn mười năm mới đến lượt, chữ 'nhất' nguyên bản thiếu, căn cứ vào sách dẫn trên mà bổ sung.
  11. 'Hộ đấu thầu' nguyên văn là 'hộ xếp hàng', căn cứ vào bản trong các và tập 'Trung túc' dẫn trên cùng với câu văn dưới 'mong rằng người nhận đấu thầu không gặp họa phá sản' mà sửa lại.
  12. Nhất nhị
  13. lại làm như vậy 'vậy', các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 108 về sai dịch viết là 'ấy'.
  14. Triều đình đã biết rằng những kẻ vô công rỗi nghề không thể đảm nhận việc dịch được, bản các bản chữ 'Tắc' có thêm chữ 'Thị'.
  15. lại còn đưa vào quốc gia 'đưa vào' hai chữ nguyên bản đảo ngược, theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại.
  16. Nghi vệ xuất nhập của Thái hoàng thái hậu trong 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 91, phần 'Tuyên Nhân thùy liêm' có chữ 'Chiếu' ở trên chữ 'Thái hoàng'.
  17. Chữ 'thiệp' trong 'tự đông thiệp xuân' vốn bị thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 97, phần 'Trục tiểu nhân' bổ sung.
  18. Chữ 'loại' trong 'Biên loại chương sớ' vốn là 'lục', căn cứ theo các bản khác, bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 18, phần 'Triết Tông kỷ', năm Thiệu Thánh thứ nhất, tháng 5, ngày Quý Sửu, câu 'Biên loại Nguyên Hựu quần thần chương sớ và các điều thay đổi' sửa lại.
  19. Chữ 'canh' nguyên bản là 'khảo', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại.
  20. Việc sai phái kỳ trưởng, tráng đinh ở các lộ thuộc phủ giới, trong 《Tống hội yếu》 phần Thực hóa 13-1, dưới chữ 'kỳ trưởng' có thêm hai chữ 'hộ trưởng'; ở phần sau của quyển này cũng có câu 'xem xét việc chiêu mộ kỳ trưởng, hộ trưởng', nghi ngờ ở đây có chỗ bị thiếu.
  21. Xin xem xét việc lợi hại của sông Hoàng Hà, trong 《Tống hội yếu》 phần Phương vực 15-10, dưới chữ 'xin' có thêm chữ 'hạ', nghi ngờ là đúng.
  22. 'Hưng' nguyên là 'Binh', theo các bản và 《Tống sử toàn văn》 quyển 13 thượng sửa lại.
  23. Nguyên là 'Ất Dậu', xét tháng này không có ngày Ất Dậu, nay theo các bản sửa lại. Sau đây cũng vậy.
  24. Việc tiến thoái, chữ 'sự' nguyên bản là 'thời', theo các bản khác và bản in chữ rời sửa lại.
  25. Nay vẫn phụ vào ngày 21, các bản trong các bản, bản in hoạt tự có chữ 'hậu' dưới chữ 'nhật'.
  26. Tội ác của Xác như vậy, 'như vậy' nguyên văn là 'như núi', căn cứ theo bản các và sách trên đã sửa.
  27. Cho ông ta ra ngoài bổ nhiệm, bản các không có bốn chữ này.
  28. Lệ thuộc vào tướng thứ 10 của Kinh Tây, chữ 'Lệ' nguyên là 'Luyện', theo bản khác sửa lại; 'Kinh Tây' nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào văn trên dưới mà sửa lại
  29. Thần nghĩ bệ hạ cầu đảo rất chuyên cần, các bản 'Cần' dưới có chữ 'Khổ'.
  30. Lại quên mất tâm tránh chức, 'quên' nguyên là 'kị', theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 97 đổi.
  31. lại có chiếu miễn việc chính thức tạ ơn và tạ ơn tại cung 'miễn' nguyên là 'cải', theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 8 có tờ từ miễn chính thức tạ ơn. Chữ 'cải' không có nghĩa, nay căn cứ vào bản các và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 97 đổi.
  32. Muốn cùng các quan bàn việc dâng sớ, 'sớ', bản các làm 'số'.
  33. Đã không đồng nhất, 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 63, 《Tam Tỉnh Tư Mục》 chữ 'nhất' trên có chữ 'bất'.
  34. chữ 'kì' nguyên là 'hữu', theo bản trong các và dẫn từ 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa lại
  35. chữ 'đại công' trong sách trên viết là 'công đại'
  36. chữ 'bỉnh quốc văn tự thời' nguyên là 'bỉnh quốc thời văn tự', theo sách trên sửa lại
  37. Nếu người phương Tây như những năm trước đem quân áp sát biên giới, chữ 'Như' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 63, mục Tư Viện bổ sung.
  38. Nếu họ bắn tên, ta bắn lại thì có hại gì, chữ 'Ngã xạ' nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo bản các và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa lại.
  39. Lại bỏ đi phần ghi chú, trên dẫn sách 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 chữ 'khứ' viết là 'Vân'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.