VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 376: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)
Bắt đầu từ ngày Mậu Thân tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Ngày Mậu Thân tháng 4, Tam tỉnh và Xu mật viện tâu: Đặng Oản vừa bị giáng chức đến Trừ châu, còn Tống Dụng Thần có thể điều động sang một chức giám đương khác, xin thêm chức Giám Thái Bình châu trông coi thuế trà, muối, phèn và rượu, sau khi mãn nhiệm sẽ không bổ nhiệm người khác. Vua đồng ý.
[2] Chiếu cho Thái sư Văn Ngạn Bác được đặc cách áp dụng quy chế của tể thần, sứ tương khi xuất sứ đến kinh đô được phép xử lý công văn.
[3] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần thấy các đạo cấm quân từ khi đặt tướng đến nay, ngày đêm luyện tập võ nghệ, đánh kiếm, đâm giáo, bắn cung, đấu sức, đều gấp đôi so với trước. Nhưng từ năm ngoái thử nghiệm ở biên giới, vẫn chưa thấy hiệu quả thắng địch. Vì việc quân sĩ tập luyện chỉ là một việc trong quân, còn trăm trận trăm thắng thì phải có đạo lý riêng, không thể không xem xét. Thần nghe nói các tướng luyện quân đều dạy hai buổi sáng tối, quân mới tuyển có khi cả ngày không được nghỉ, quân sĩ rất khổ sở. Năm ngoái ở biên giới phía tây có chiến sự, quân từ các quận nội địa đến chiến trường đều hăng hái đi, vui mừng vì được miễn tập luyện. Triều trước rất chú ý đến quân sĩ[1], mỗi năm sai quan đến kiểm tra, ban thưởng hậu hĩ, thăng chức nhanh chóng, lòng quân còn như vậy; thần thấy ngày nay ban thưởng không bằng triều trước, mà việc bắt quân sĩ khổ sở vẫn như cũ, thần thấy rất nghi ngờ. Các danh tướng xưa như Lý Mục, Vương Tiễn, muốn dùng sức chết của quân sĩ, ắt phải mổ bò rót rượu, cho họ vui chơi, nuôi dưỡng mà không thử sức; quân sĩ đều ném đá nhảy xa, hăng hái muốn lập công, rồi mới dùng họ, nên đánh đâu thắng đó. Nay bình thường không có việc gì, ngày đêm bắt quân sĩ tập luyện khổ sở, khiến họ không còn sức lo việc sinh nhai, cơm áo cạn kiệt, tiều tụy buồn bã, lúc nguy cấp sao có được sức chết của họ! Thần xin cho cấm quân, trừ những người mới tuyển chưa quen, còn lại mỗi ngày chỉ tập một buổi, để họ có sức lo việc sinh nhai, ngày sau đem đi đánh trận, họ sẽ vui lòng liều chết báo đáp triều đình, chắc chắn hơn trước.”
(Việc theo hay không cần xem xét.)
[4] Ngày Kỷ Dậu, ba tỉnh tâu rằng: “Các nơi bị hạn hán lâu ngày và thiên tai đã được chỉ huy cứu tế, ngoài ra, theo điều lệ, tiền thường bình khi gặp giá lúa cao thì giảm giá bán, không được lỗ vốn, khi giá rẻ thì tăng giá mua. Trước đây, các quan tâu rằng giá gạo ở Hoài Nam là 170 đồng một đấu, huống chi gạo thường bình mua vào năm được mùa, giá tiền không nhiều, sợ rằng các quan cứng nhắc theo điều lệ, cố giảm giá thị trường, khiến dân không được hưởng lợi. Xin cho các Ty Đề điểm hình ngục ở phủ giới và các lộ chỉ huy những nơi dân đói kém do thiên tai, giá gạo thường bình không lỗ vốn, đều được phép bán ra. Và giao cho các châu huyện nghiêm ngặt kiểm tra, không được bán cho những kẻ buôn bán.” Được chấp thuận.
[5] Lại tâu: “Các quan từ Lục sự trở xuống ở ba tỉnh, nếu vì công lao mà được tăng lương, thì tối đa chỉ được 10 quan.” Được chấp thuận.
[6] Thừa sự lang, Câu đương Thượng Thanh Thái Bình cung Tiết Thiệu Bằng tâu rằng: “Cha thần trước đây giữ chức Đồng tri Xu mật viện, vì bàn việc dân kinh thành nuôi ngựa mà bị giáng làm Tri Tùy châu. Do lo sợ vì tội của tiền thần nên qua đời, xin được tặng quan và nghị thụy theo lệ dành cho các quan chấp chính đã mất.” Chiếu tặng Tiết Hướng đặc biệt chức Ngân Thanh Quang Lộc đại phu.
[7] Lễ bộ tâu: “Theo trạng của Thừa chỉ ty, các quan Hậu điện Chi nhân các môn và Khởi cư xá nhân đã được triều đình cho phép đứng hầu ở thượng điện, còn Xu mật đô thừa chỉ chưa được chỉ dụ. Nay xét, nếu có việc tấu phúc hoặc truyền tấu công sự, thì được phép lên điện. Nếu là các chức Hoành hành sứ, Phó kiêm lĩnh, thì đứng hầu theo bản ban.” Được chấp thuận.
[8] Lã Đại Phòng tâu: “Khi thần còn giữ chức ở Thành Đô phủ, theo chỉ triều đình, cùng với các quan Chuyển vận ty hai lộ Thành Đô phủ và Lợi Châu lo việc mua ngựa, nhờ sự hợp lực nên đạt được kết quả tốt. Nay xin được thăng chức cho Chương Tiết, hiện đang giữ chức Quyền Thành Đô phủ lộ Chuyển vận phó sứ.” Chiếu đổi Chương Tiết làm Quyền Thành Đô phủ lộ Chuyển vận sứ.
[9] Thái sư trí sĩ Văn Ngạn Bác xin miễn việc bày hàng đón rước, Vua đồng ý.
[10] Triều thỉnh lang Nhậm Công Dụ tâu: “Trong quân đội tập luyện, bắt tụng niệm phép mới, có những người ngu muội không hiểu, càng thêm khổ sở. Thần cho rằng sức mạnh của cung nỏ, nên căn cứ vào khả năng của binh sĩ mà định, sao cho bắn trúng và đâm sâu. Đánh nhau bằng giáo đao, đại thể nên tùy tiện. Lấy việc nhất định thắng làm chính, không cần phải theo đúng phép. Như vậy thì người ta sẽ thấy tiện lợi khi tập luyện, vui vẻ tiếp thu giáo huấn, mà không bị huấn luyện hà khắc.” Xu mật viện xét rằng phép mới dạy duyệt trong quân đội, trước đã có chỉ dụ, vốn là do giáo đầu chỉ dạy, không nên bắt binh sĩ đều phải tụng niệm. Vua xuống chiếu theo đó mà thi hành.
(Sách 《Cựu lục》 chép: “Tiên đế tự chế ra phép tập bắn, Nhậm Công Dụ chê là hà khắc.” Sách 《Tân lục》 biện rằng: “Nhậm Công Dụ nói huấn luyện hà khắc, không phải là chê phép. Từ chữ ‘Tiên đế tự chế’ đến chữ ‘chê là hà khắc’ gồm 15 chữ đều bỏ đi.”)
[11] Xét duyệt việc bảo đảm của các quan đề cử bảo giáp ở Hà Bắc là Địch Tư, Lưu Định, các quan câu đương công sự là Lý Doãn Tề, Lôi Du, Tôn Văn, Bùi Hi, các chỉ huy là Trương Đức, Hứa Á, Trương Ngạn, Tôn Tuấn, đều xứng đáng được khen thưởng. Trong đó, Địch Tư, Lưu Định, Tôn Văn, Trương Ngạn, Tôn Tuấn, mỗi người được thăng một chức, giảm hai năm khảo hạch; Lý Doãn Tề và những người khác được thăng chức và giảm năm khảo hạch tùy theo mức độ. Xu mật viện tâu: “Gần đây, Lại bộ đã định việc khen thưởng các quan đề cử bảo giáp ở phủ giới, đều đã giảm một nửa ân điển. Nay Địch Tư, Lưu Định vì bố trí sai lầm, nhiều lần khiến bảo giáp phạm tội và tự ý chỉ huy việc trồng trọt ở đoàn trường, khiến bảo giáp phải bồi thường tiền của; Tôn Văn không xử lý việc này, chỉ huy nhận hối lộ, khiến bảo giáp phạm tội và đánh đập bảo chính, đều đã bị giáng chức.” Chiếu chỉ rằng Địch Tư, Lưu Định, Tôn Văn không được ban ân điển, còn lại đều theo quy định của Lại bộ, giảm một nửa khen thưởng theo lệ.
(Cựu lục chép: “Tư, Định đều được tiên đế đề bạt, bắt tội nhỏ để trách phạt.” Tân lục biện rằng: “Tội của Địch Tư, Lưu Định đã rõ ràng, không phải bắt bẻ. Bỏ đoạn ‘Tư, Định đều được tiên đế đề bạt’ trở xuống 13 chữ, ‘giảm một nửa theo lệ’ đã thấy trước, nên bỏ. Nay dùng lại văn cũ, chỉ bỏ đoạn ‘Tư, Định đều được tiên đế đề bạt’.”)
[12] Ty Đề cử bảo giáp Hà Đông lộ tâu: “Hộ phường quách huyện Giới Hưu, châu Phần là Vũ Quốc, vốn không thuộc diện phải xếp vào bảo giáp, đã gửi đến ty thẩm xét xem có được miễn hay không. Nay xin rằng các hộ phường quách, chợ thảo, chợ trấn là nghĩa dũng hoặc trước đây thuộc nghĩa dũng, nay đổi sang xếp vào bảo giáp để huấn luyện, mỗi hộ chỉ phải cử một người. Còn lại không hạn chế số người, không phải cử thêm. Riêng nhà Vũ Quốc, lộ đã lệnh cho Vũ Hạo sung vào bảo đinh[2], sau đó lại cử thêm Vũ Tuyên, Vũ Tham, xin được miễn.” Chiếu rằng các hộ phường quách, chợ trấn ở ba lộ, theo điều lệ phải xếp vào bảo giáp không huấn luyện; còn các hộ ở những nơi này, trước đây là nghĩa dũng nay đổi sang bảo giáp, đều áp dụng theo pháp bảo giáp không huấn luyện.
[13] Ty Đại tông chính tâu: “Tông thất Nội điện Sùng ban Sĩ Trác tấu rằng có các em là Điện trực Sĩ Bôi, Sĩ Tiên, Sĩ Song hiện ở trong cung, xin theo lệ của Lệnh Yến, được dẫn theo để chỉ dạy, sau này khi nhận chức cũng xin được dẫn theo. Lại có tông thất Điện trực Sĩ Dĩ tâu xin được đón mẹ là Lưu thị, dẫn theo em là Điện trực Sĩ Cương để chỉ dạy.” Đều được chấp thuận.
[14] Hộ bộ tâu: Lộ Hà Đông trước đây vì hợp sao nộp thuế, nay xét thấy thiếu hụt, xin được miễn trừ. Được chấp thuận.
[15] Thượng thư Hộ bộ Lý Thường tâu: “Các trường Sầm Thủy vốn sản xuất nhiều quặng đồng, nhưng mấy năm gần đây thu mua không đủ, xin chọn một viên văn quan có năng lực am hiểu việc khai mỏ và đúc tiền đến các trường đó để tìm hiểu sự tình. Cố gắng chiêu mộ thợ mỏ, để việc khai thác đồng phát triển, sau đó xem xét các châu quận có lò đúc bị bỏ hoang, tùy theo số đồng thu mua được mà khôi phục dần việc đúc tiền.” Được chấp thuận.
[16] Sở Quốc tín tâu: Sứ giả nước Liêu đến chúc mừng tiết Khôn Thành, cần cử người tiếp đón, cung ứng và cấp phát hành lý, chưa dám áp dụng theo lệ tiết Đồng Thiên của Thần Tông hoàng đế. Chiếu cho áp dụng theo lệ đó.
[17] Ngày Canh Tuất, Hình bộ tâu: Xin lập pháp cấm quan lại tại kinh đô tư ý sử dụng người hưởng lộc hậu. Vua đồng ý.
[18] Ngày Tân Hợi, Văn Ngạn Bác, tước Lộ quốc công, chức Hà Đông tiết độ sứ, Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty đã về hưu, vào chầu. Vua cho con ông là Di Khánh, chức Thừa nghị lang, quyền phát khiển đề cử Tam Môn, Bạch Ba liễn vận, được phép đỡ cha lên điện, ban cho Di Khánh áo mũ kim tử.
[19] Dương vương Hạo giữ chức Thái úy, đổi làm Tiết độ sứ Vĩnh Hưng, Phượng Tường. Kinh vương Quần giữ chức Thái úy, đổi làm Tiết độ sứ Thành Đức, Kinh Nam.
[20] Vua ban chiếu: “Mỗi khi có chiếu chỉ mở khoa thi, các quan văn từ chức thăng triều trở lên, không phạm tội tham nhũng và tội riêng, được tiến cử một người trong số các thí sinh ứng thi tiến sĩ, không phân biệt địa phương, không phải là người thân thích, phải là người thông hiểu kinh điển, đạo đức tốt. Khi giải danh sách thí sinh và tâu lên Nam tỉnh, dưới tên mỗi người được tiến cử ghi chú hai chữ “Kinh minh hành tu“, đến ngày xướng danh ở điện thí, sẽ được nâng lên một bậc. Nếu sau khi làm quan phạm tội tham nhũng hoặc vi phạm danh giáo, sau khi xét xử sẽ bị trị tội, người tiến cử cũng bị giáng một bậc so với việc tiến cử người chuyển làm quan kinh đô.”
[21] Trước đó, Tư Mã Quang tâu: “Trước đã có chỉ dụ của triều đình, khoa trường năm tới tạm thời vẫn thi hành theo phép cũ[3]. Thần nghe nói gần đây có thánh chỉ, các tiến sĩ về kinh nghĩa, đều phải kiêm dụng chú sớ và các thuyết của các nhà hoặc ý kiến riêng, đồng thời bãi bỏ luật nghĩa, thi hành trước. Thần suy xét ý của triều đình, có lẽ vì các cử nhân về kinh nghĩa và văn thể, chuyên học theo tân học của họ Vương đã lâu, khoa trường năm tới muốn kiêm lấy cả cựu học, nên mới có chỉ dụ này, để các cử nhân biết trước mà học tập. Điều thần xin thiết lập khoa Kinh Minh Hành Tu, là muốn các cử nhân biết rằng khoa trường sắp tới, triều đình coi trọng hành nghĩa, không chỉ chuyên lấy văn học, nhằm làm đẹp giáo hóa, dày phong tục, so với kinh nghĩa và văn thể, càng quan trọng hơn, nên để các cử nhân biết trước. Thần xin cũng ban chỉ dụ của triều đình, thi hành trước, huống chi điều này không hề cản trở phép cũ của tiến sĩ.” Triều đình nghe theo.
(Lời Tư Mã Quang nói về khoa trường năm tới vẫn theo phép cũ, là chỉ dụ ngày mồng 2 tháng nhuận. Kinh nghĩa kiêm dụng chú sớ và ý kiến riêng, đồng thời bãi bỏ luật nghĩa, là theo lời tâu của Tô Triệt ngày mồng 3 tháng 4. Ngày 16 tháng 6, Lưu Chí lại có lời xin, ngày 12 tháng 11 năm thứ 2, cần tra cứu thêm.)
[22] Triều đình ban chiếu, bia thần đạo của tể tướng cũ Vương Khuê, ban tên ngạch là “Ý Văn”, và sai Trung thư xá nhân Tiền Hiệp viết chữ.
[23] Lại ban chiếu, các quan chức sự từ khanh giám trở xuống được phép cho con cháu tập ấm, phải đến chức Triều phụng lang mới được phép, còn lại vẫn theo điều lệ cũ.
(Việc này nên tìm người đầu tiên đề xuất để ghi chép.)
[24] Tam tỉnh và Xu mật viện tâu: Phạm tội vì nghi ngờ mà bị bắt, nếu khi bị tra hỏi, tự thú nhận, thì đều theo phép án vấn dục cử tự thú; nếu đã bị tra hỏi mà không nhận tội, thì không được giảm tội. Triều đình nghe theo.
[25] Tri phủ Dĩnh Xương mới nhậm chức là Hàn Chẩn tâu: “Con trai của Giang Hưu Phục, nguyên là Tập hiền hiệu lý, đồng tu khởi cư chú, tên là Giang Mậu Tương, tài chất thuần mỹ, có thể giữ được gia pháp. Gần đây nhờ ân điển được thăng chức, nhưng gặp lúc bị bệnh chân, tình cờ bị trễ việc vào triều tạ ơn, nên vượt quá hạn 100 ngày. Tuy nhiên thực tế chưa từng xin nghỉ, mà bộ phận có trách nhiệm không xem xét giải quyết, mong được cho phép vào triều tạ ơn, và xét tài chất của ông ấy, hãy sớm cất nhắc sử dụng.” Chiếu cho Giang Mậu Tương đặc cách được vào triều tạ ơn.
[26] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu: “Nguyên là Tư chính điện học sĩ Trần Tiến, tính cách nghiêm cẩn, chất phác, đã phụ tá tiên đế khi còn ở Đông cung. Kính xét nguyên là Lại bộ thượng thư tặng Vương Đào cùng Trần Tiến đều là cung liêu[4], khi Vương Đào mất, may mắn gặp lúc tiên đế khỏe mạnh, được hưởng ân điển dày, không gì là không đầy đủ; còn Trần Tiến không may, mất chưa bao lâu thì gặp lúc tiên đế băng hà, nên lễ tặng chưa được đầy đủ. Mong chiếu cho bộ phận có trách nhiệm xem xét thi hành.” Chiếu đặc cách tặng Trần Tiến làm Quang lộc đại phu.
[27] Điện trung thị ngự sử Lâm Đán tâu: “Theo lệnh Nguyên Phong, các nơi ghi chép việc giam giữ tù nhân phải đối chiếu hồ sơ vụ án từ đầu đến cuối, nếu sự việc không có gì đáng nghi, thì đọc cho tù nhân nghe bản án đã được thẩm định và yêu cầu họ nhận tội. Nếu tù nhân phản đối hoặc gia đình kêu oan, phải báo ngay lên cấp trên để nhanh chóng xem xét lại. Khi thi hành án tử hình ở chợ, phải cử quan khác cùng với quan coi ngục giám sát, điều động người phòng hộ, trước hết cấp rượu thịt, cho phép thân nhân từ biệt, trình bày tội trạng, không được bịt miệng hoặc để đám đông ồn ào. Việc thi hành án phải tiến hành vào giờ Mùi và giờ Thân, qua đêm mới được thu nhặt thi thể. Các châu có tù nhân tử hình, nếu quan viên đã kết án mà tù nhân phản đối hoặc gia đình kêu oan, phải dùng ngựa trạm báo lên Ty Đề điểm hình ngục xem xét. Triều đình thương xót dân ngu muội tự rơi vào hình phạt, bất đắc dĩ mới thi hành án tử, tìm cách để họ được sống, cũng có thể nói là đã hết lòng. Vì thế, tù nhân dù chết cũng không oán hận, các châu quận trong thiên hạ không dám không tuân theo.
Thần nghe nói ở kinh đô, Đại Lý tự, Khai Phong phủ ty, Tả Hữu quân tuần ty, mỗi khi tra hỏi tù nhân, phần nhiều quan khám sợ liên lụy, hoặc muốn làm qua loa, không chịu thân hành thẩm vấn, việc đánh đập, gông cùm đều giao hết cho lại dịch. Lại thấy khi thi hành án tử hình ở chợ, nếu tù nhân đã bị gông cùm đánh đập, thì dùng cáng khiêng đi. Dù có thể đi bộ, cũng bị bịt miệng, bịt tai, lại dùng giấy tiền dày che kín đầu, quân tuần, ngục tốt hàng trăm người vây quanh, giữa chừng dùng búa sắt đập vào gông, hô to ồn ào, tiếng không ngớt. Tù nhân dù muốn kêu oan cũng không thể nói được, thân nhân cũng không có cơ hội từ biệt, vì thế không thể tránh khỏi oan sai. Bệ hạ sai gián quan, ngự sử phân xử các vụ án trong kinh thành và vùng phụ cận, thánh tâm thương xót, có thể nói là hết mực. Nhưng việc thần đi lần này chỉ là giải quyết tạm thời các vụ giam giữ, nếu việc thẩm vấn tù nhân, thi hành án tử hình vẫn như trước, thì dân chúng vẫn tiếp tục bị hại. Kính xin ban bố rõ ràng các quy định về thẩm vấn, xét xử và thi hành án tử, răn dạy các quan coi ngục phải tuân thủ. Nếu còn dám trái lệnh, cho phép cơ quan thống hạt phát hiện và xử lý, đồng thời cho phép gia đình bị hại khiếu nại, lập tức xử lý. Những kẻ không tuân pháp, đều bị xử theo tội vi chế, người biết mà không xử cũng bị xử như vậy. Nhờ đó, tệ nạn tích tụ lâu năm sẽ được dẹp bỏ, dưới chốn kinh kỳ sẽ không còn người oan khuất.” Vua xuống chiếu cho Hình bộ soạn luật trình lên.
[28] Giám sát ngự sử Hàn Xuyên xin bãi bỏ việc các cơ quan quan cục vẫn như cũ không được tiếp khách, cấm yết kiến cả trong lẫn ngoài. Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân xin ngoài việc các cơ quan quan cục ở Khai Phong, Đại Lý vẫn như cũ cấm yết kiến, còn lại tất cả đều giản lược bãi bỏ. Nếu sau khi bãi bỏ lệnh cấm, các quan lớn nhỏ, hoặc dám mang tư tình trái với công việc, lười biếng chức vụ, coi thường mệnh lệnh, thì các quan chấp pháp và người có trách nhiệm tâu việc, được quyền cử lên tâu báo, cách chức hoặc giáng chức, ai dám không phục. Việc này đối với thể chế trị nước, thực sự không phải là bổ ích nhỏ. Thượng thư tỉnh xem xét kỹ: “Pháp lệnh cấm yết kiến, là để phòng ngừa việc nhờ vả, hoặc gây trở ngại cho công việc, các chức quản câu cơ nghi văn tự, câu đương công sự quan ở An phủ ty, khó có thể đặt ra điều cấm đồng đều, nay muốn bỏ đi. Còn các quan ở Đài gián, Khai Phong phủ, Đại Lý tự, các quan quản quân ở kinh thành, đều theo điều lệ cũ, còn các pháp lệnh cấm đoán quá nặng cả trong lẫn ngoài, nên giảm bớt. Các điều kiện thông dụng ở kinh thành quá phiền phức, và còn có những chỗ chưa thỏa đáng, nên tùy việc mà sửa đổi. Những điều đã được triều đình cho phép như môn khách, tăng đạo, kỹ thuật được qua lại, đã được sửa đổi ở điều dưới. Các việc quản lý trang sản, môi giới bảo lãnh, đều được nghỉ triều, không hạn chế cấm yết kiến, cũng vẫn như cũ. Còn những hình phạt không thuộc điều sửa đổi, nên theo quy định hiện nay. Những tội trước đây phạt đồ hai năm, đều giảm xuống đánh một trăm trượng. Những tội vốn nhẹ, thì theo điều lệ cũ.” Tất cả đều được chấp thuận.
(Sách 《Tân lục》 ở phần “Tiểu bổ” có sửa chữa rằng: “Thượng thư tỉnh xem xét kỹ, tham khảo điều lệ cũ, tuyên bố lại chế độ cấm yết kiến, những tội trước đây phạt đồ hai năm” vân vân[5].)
[29] Cấp sự trung Hồ Tông Dũ tâu: “Chuyển vận sứ Hà Bắc là Phạm Tử Kỳ tâu xin cho các phán quan chuyển vận ba lộ được chi tiền mặt theo lệ của chuyển vận sứ[6], theo chỉ triều đình, được chấp thuận. Thần e rằng các nơi xa gần sẽ bắt chước nhau, tham lam thành thói quen, phá luật để xin, không có lúc nào dừng, bổng lộc tăng thêm, không biết đâu là giới hạn. Việc Phạm Tử Kỳ xin cho các phán quan chuyển vận ba lộ được chi tiền mặt, xin chỉ theo pháp cũ mà chiết trả.” Triều đình nghe theo.
[30] Thượng thư tỉnh tâu: “Bọn giặc cướp nổi loạn, việc xảy ra đột ngột, nếu xử trí không khéo, e rằng sẽ sinh ra chuyện khác. Trước đây chưa có chỉ đạo nào cho phép các ty an phủ, tổng quản hoặc kiềm hạt của bản lộ tùy tình xử đoán, nay xin thêm vào điều khoản cũ, những việc liên quan đến biên phòng và tội phạm quân sự cấp bách, cũng như bọn giặc cướp từ mười người trở lên, khó theo pháp thường, thì báo lên các ty an phủ, tổng quản và kiềm hạt xem xét kỹ rồi xử đoán xong mới tâu.” Triều đình nghe theo.
[31] Lại tâu: “Quan viên phạm tội đã được ân xá, theo luật xá thì nên xử như người không có lỗi, trước đây Hình bộ đều soạn sớ xin phê chuẩn. Vì đã theo luật xá mà được miễn trừ, tự nhiên không cần soạn sớ, chỉ cần Thượng thư tỉnh xử lý thi hành là được.” Triều đình nghe theo.
(Sách mới không ghi.)
[32] Lại tâu: “Trước đây, các điều khoản liên quan đều tùy việc giao cho Lục tào thi hành, các phòng lại phải báo lên phòng chế sắc khố, Lục tào lại phải báo lên phòng mình để thông báo, rõ ràng là trùng lặp. Nay xin lệnh cho các phòng không cần báo cáo nữa, chỉ cần các cơ quan thừa hành theo lệ cũ sao chép báo lên, giao cho phòng mình thông báo là được.” Triều đình nghe theo.
(Sách mới không ghi.)
[33] Hộ bộ tâu: “Giảng diên sở tấu, bản sở xin cấp lệnh, thị giảng, thị độc, thuyết thư chức sự tiền 10 quan. Gần đây theo chỉ triều đình, thị độc, thị giảng chức sự tiền, đặc biệt tăng lên 30 quan, không ảnh hưởng đến các khoản cấp phát khác. Theo lệ cũ, thị độc, thị giảng, thuyết thư xin cấp phát khác nhau. Riêng thuyết thư Trình Di, chưa dám theo lệ thị độc, thị giảng mà chi phát.” Chiếu rằng chức tiền của Trình Di tăng lên 20 quan.
(Ngày 18 tháng 8, chi tiền mặt.)
[34] Giang Tây, Hồ Nam án sát ty tâu: “Hồ Nam lộ trước theo chỉ triều đình, sai nội thần Cam Thừa Lập đến Đàm Châu lập cục, chế tạo đồ dùng cung phụng. Sau khi kết thúc, kiểm tra thấy thợ còn thiếu vật liệu, hiện lệnh Tuy Châu giám sát thúc giục, mong được đặc biệt miễn trừ.” Theo lời tâu.
[35] Kinh Hồ Bắc lộ đô kiềm hạt ty tâu: “Các động Đại Do thuộc Thành Châu đã được phủ dụ. Vùng Hồ Nhĩ Tây đạo[7], chỉ triều đình không cho chiêu dụ, xin tạm theo lệ Nguyên Châu mà cấp phát. Đường đi lại, qua Đại Do bảo, La Mông trại, tùy thời sai người dẫn đường. Còn Dương Thịnh Mãn, xin theo lệ ba châu một trấn, căn cứ số lượng thuế gạo nộp, đều theo lệ người quy minh ở Thành Châu. Lại có Dương Xương Man hiến nộp, xin châu ty theo lệ dùng muối để đền đáp.” Theo lời tâu.
[36] Lại tâu: “Thành Châu bảo đảm việc xây dựng La Mông trại bảo, hiến nộp đất đai, hiệu dụng quy minh ban hàng, thổ quân, xin ban ơn; Tri Thành Châu Chu Sĩ Long ở Thành Châu, các nơi Thiên Thôn, Đại Do xây dựng trại bảo, phủ dụ các động Địa Lâm, Đại Do, Dương Khê, Cổ Thiết, Cuồng Lang, tổng cộng 1.354 hộ, không có việc gì sai sót.” Chiếu ban sắc thư khen ngợi Chu Sĩ Long, lại cấp 30 lạng bạc, 30 tấm lụa, giảm thời gian khảo hạch và ban lụa có mức khác nhau.
(Không cho chiêu dụ Hồ Nhĩ Tây đạo, xem chí của Tất Trọng Du về mộ Tôn Lãm, cần tra cứu. Đã ghi vào ngày Kỷ Dậu tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 7.)
[37] Ngày Nhâm Tý, Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần gần đây từng tâu rằng, ty trà sự các lộ Ích, Lợi dùng việc mua bán trà làm hại dân chúng bốn lộ. Triều đình đã sai Hoàng Liêm đi xem xét lợi hại, xin trước hết bãi chức quan trà Lục Sư Mẫn, để các quan lại bốn lộ không lo hậu họa, dám đem những tác hại thực tế báo cáo đầy đủ với Hoàng Liêm. Nay nghe nói triều đình lại sai Hoàng Liêm kiêm quản việc trà, thần nghĩ rằng nếu Hoàng Liêm được cử làm chuyên sứ đi tra xét tệ nạn chuyên quyền về trà, thì bản thân không liên quan đến lợi hại, tất sẽ trình bày đầy đủ mọi việc lớn nhỏ về trà. Nếu tự mình quản việc trà, có trách nhiệm về tăng giảm lợi nhuận, đầy vơi kế hoạch biên cương, thì tất sẽ không dám nói hết những tác hại của việc trà. Hơn nữa, triều đình vốn vì dân xa xôi không nơi kêu cứu, nên đặc biệt cử sứ giả này đi, việc chưa xong mà đã bổ nhiệm làm quan ngoài, dân chúng không biết, tất sẽ cho rằng triều đình yên lòng làm hại dân, coi trọng việc thay đổi pháp luật. Việc này hệ trọng, nên nhanh chóng cứu chữa. Triều đình tất cho rằng Lục Sư Mẫn làm hại bốn lộ đã lâu, không muốn cử người khác thay thế, kéo dài thời gian, nhân Hoàng Liêm đang ở đó, liền cho thay thế. Việc tuy có phần thuận tiện, nhưng vẫn còn chưa thỏa đáng[8]. Thần xin chọn cử một viên quan thanh liêm cương trực, cùng Hoàng Liêm xem xét, đợi xong việc sẽ về kinh tâu bày lợi hại. Như vậy mới không dám che giấu tệ nạn về trà, dân chúng bốn lộ cuối cùng sẽ được hưởng ơn đức.”
(Ngày 14 tháng 2 sai Hoàng Liêm, ngày 4 tháng 5 sai Đỗ Hoành cùng Hoàng Liêm đi tra xét. Căn cứ theo 《Trà mã ty đề danh》, Hoàng nhậm chức vào ngày 14 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ nhất, không rõ lúc đầu được bổ nhiệm khi nào. Tô Triệt dâng tấu vào ngày 25 tháng 4, vậy tháng đó đã có lệnh bổ nhiệm, không rõ vì sao đến tháng 8 mới nhậm chức. Hay là vì lời tâu của Triệt, đã bổ nhiệm rồi lại bãi, đến tháng 8 mới bổ nhiệm lại? Ngày 28 tháng 6 có thể tra cứu.)
[38] Triều phụng đại phu, quyền Đô đại đề cử Thanh Hà liễn vận ty Mục Diễn được cử làm Quyền Thiểm Tây chuyển vận phán quan.
[39] Ngày Quý Sửu, ban chiếu rằng: Những người do các quan chấp chính tiến cử để bổ sung vào các chức vụ ở Quán Các, nếu trong đó có người được tiến cử từ hàng tuyển nhân, nếu thi đỗ, sẽ được bổ làm Chính tự ở Bí thư tỉnh, theo lệ của Thái học bác sĩ mà cải quan, đợi khi phục vụ đủ bốn năm, sẽ được bổ làm Hiệu lý ở Bí các; những người chưa được cải quan, phải đợi đến ngày cải quan mới được bổ.
[40] Lưu Chí tâu rằng: “Thần trộm thấy trước đây triều đình cải cách hành chính, ở Lục tào thuộc Thượng thư tỉnh gồm 24 ty, đặt chức Thượng thư, Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang; ở các Tự, Giám, đặt chức Trưởng, Nhị, Thừa, Bạ. Tùy theo chức vụ mà bố trí lại viên, trên dưới đều đầy đủ, đó là để noi theo cổ chế, thực là cảnh thái bình thịnh trị. Tuy nhiên, công việc của các cơ quan có nhiều có ít, mà đều bố trí đủ quan chức; quan lại có người vất vả, có người nhàn hạ, mà đều hưởng bổng lộc như nhau, thần do đó nghi ngờ rằng có tình trạng thừa quan và lãng phí. Nay bệ hạ ban ân huệ cho thiên hạ, giảm thuế khóa, tha nợ đọng, mọi khoản thu từ dân đều có đạo lý, mà chi tiêu vẫn không tiết kiệm, thì không phải là cách ‘lượng vào để tính ra’. Thần đã suy nghĩ ngày đêm để tìm giải pháp, trộm nghĩ rằng bãi bỏ quan chức thừa, cắt giảm lại viên dư thừa, cũng là một cách để giảm bớt công việc và tiết kiệm chi phí. Thần xin đặc biệt xin chỉ thị, kiểm tra lại những công việc ít ỏi trong 24 ty thuộc Thượng thư tỉnh, và những Tự, Giám nhàn rỗi vô ích, vốn từ thời tổ tông chỉ giữ tên mà không bổ người, nay nên bãi bỏ tất cả các quan chức được bổ nhiệm, giao công việc đó cho các ty và cơ quan có liên quan đảm nhiệm. Bởi vì từ khi các Tự, Giám được thiết lập song song với các tỉnh, đài[9], công việc bị chia cắt, đùn đẩy lẫn nhau, không ai chịu trách nhiệm, nên văn thư bị đình trệ, người dân chịu hậu quả. Nay nếu không có sự điều chỉnh để phù hợp với tình hình hiện tại, mà chỉ muốn bắt chước cổ nhân, thì đó chính là cái gọi là ‘hư danh mà chịu thực hại’ vậy.”
[41] Ba tỉnh tâu: “Các chức vụ trong sáu bộ Thượng thư có công việc nhàn rỗi và bận rộn không đều, nay muốn giảm định số lượng nhân viên, những việc đơn giản thì để các ty kiêm nhiệm. Ty Phong, Ty Huân, Thương bộ, Từ bộ, Giá bộ, Tỷ bộ, Thủy bộ mỗi bộ giảm một người, lấy Chủ khách kiêm Thiện bộ, Chức phương kiêm Khố bộ, Đô quan kiêm Ty Môn, Đồn điền kiêm Thủy bộ, định thành 35 người.” Được chấp thuận.
[42] Lại tâu: “Các quan đề cử tích trữ tiền của nhiều năm, giao cho Ty Đề điểm hình ngục quản lý, theo phép Thường bình thương cũ. Thường bình thương thu mua vào mùa xuân, mùa thu, và khi mùa màng thu hoạch, khi đói kém thì bán ra, đổi cũ lấy mới, giao dịch với lúa của tỉnh, và khi đói kém thì cứu tế[10], các quan chủ quản đều phải tuân theo pháp luật. Tiền và lúa cho vay từ Thường bình thương, khi tơ lụa và lúa mì được mùa, cho phép nộp trước một nửa số thuế hạ, ai muốn nộp cả thì chỉ tính lãi một phần.” Được chấp thuận.
(Lưu Chí ngày 21 tháng 7 tâu rằng: “Ngày 28 tháng 4, Trung thư tỉnh chỉ thị thi hành phép Thường bình cũ là phép Thanh miêu.” Có lẽ là ngày 26, nhầm “sáu” thành “tám”. Xét ngày Kỷ Sửu tháng 4, Hàn Chẩn đã bãi chức Hữu tướng, Lữ Công Trước lấy chức Hữu tướng kiêm Thị trung, thực tế là ngày Đinh Tỵ tháng 5, lúc này Trung thư tỉnh chỉ có Trương Tảo một người làm Thị lang, có lẽ Tảo đã có lời tâu riêng? Lại theo chương hặc của Lưu An Thế tháng 5 năm thứ 4, việc phục hồi phép Thanh miêu là do Phạm Thuần Nhân đề xuất, ở đây chỉ nói Ba tỉnh, không nhắc đến Mật viện, không rõ vì sao. Lại ngày 4 tháng 8 năm đầu, Tư Mã Quang dâng tờ khải xin ước thúc việc ép buộc, chép sắc lệnh ngày 26 tháng 4, ở đây cũng không có. Cần xem xét kỹ.)
[43] Lại nói: “Theo lệ cũ, nếu xử án sai mà bị giáng chức do đặc chỉ, sau này được xét lại và sửa chữa, thì vẫn tính thời gian từ ngày xử án ban đầu. Nay những người được Tố lý sở xem xét thấy tình thực đáng thương, lý nên được miễn trừ, nên theo đặc chỉ hiện tại mà thi hành, không tính lại thời gian từ ngày xử án ban đầu.” Được chấp thuận.
[44] Chiếu cho các lộ chuyển vận phán quan được phép thay đổi phó sứ lẫn nhau.
[45] Tri Giang Ninh phủ Vương An Lễ tâu: “Nhờ ơn được điều làm Tri Thanh Châu, nhưng vì anh là An Thạch qua đời[11], hiện đang lo việc tang lễ, không có con cháu đủ sức lo liệu, xin được ở lại hoàn thành nhiệm kỳ này.” Chiếu theo lời thỉnh cầu, đồng thời hủy bỏ chiếu chỉ bổ nhiệm mới làm Tri Thanh Châu.
(Ngày 4 tháng 4, An Lễ được bổ làm Thanh Châu.)
[46] Trung thư xá nhân Tô Thức, Phạm Bách Lộc tâu: “Lại bộ gửi đến từ đầu, trong đó có việc Tri Kiến Xương quân Trần Dịch được bổ làm Tri Duyện Châu. Xét Dịch tính tình gian hiểm, hành vi thô bỉ, tội lỗi trước đây đáng lý phải bị cách chức. Mệnh lệnh bổ nhiệm Kiến Xương đã trái với công luận, sao có thể thu dụng lại, lại giao phó đại chức! Không chỉ khiến dư luận bất bình, mà còn lo ngại gian tà được dùng lại, hậu quả đáng sợ. Vì thế, chúng thần không dám theo lệ soạn chiếu chỉ.” Chiếu bãi bỏ việc này.
[47] Điện trung thị ngự sử Lâm Đán tâu: “Gần đây giá gạo và lúa mì trong kinh thành tăng cao, nếu tiếp tục leo thang, e rằng dân nghèo sẽ bị hại. Xin hạ lệnh cho Hộ bộ, theo quy định tính toán giá gốc của gạo và lúa mì, lệnh cho Tư nông tự chỉ để các quan lại tại các kho thay nhau quản lý, lập bốn trường bán ra để cứu tế sự thiếu thốn.” Được chấp thuận, đồng thời lệnh cho Hộ bộ cử quan lập trường.
[48] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu: “Xin đối với các sứ thần quản hạt ở quân doanh Trí Viễn vụ cùng Đông Tây Sằn vụ, căn cứ vào số lượng binh sĩ dưới quyền phạm tội nhiều hay ít để lập ra phép xếp hạng[12], mỗi năm cuối cùng xét duyệt thứ bậc trên dưới của các nhân viên, cũng lập ra mức thưởng phạt theo thứ bậc. Những người vì công vụ đi ra ngoài mà phạm lỗi, thì không tính vào số đó.” Chiếu cho Hình bộ lập pháp tâu lên.
[49] Lại tâu: “Quan sát sứ, Tri châu Lộ Châu là Trương Thành Nhất, trước đây làm Đô thừa chỉ ở Xu mật viện. Có người đào mộ cha ông ta, Thành Nhất mượn cớ sửa mộ xin về, rồi từ trong huyệt lấy chiếc đai tê giác cha ông ta từng đeo mà dùng. Lại nữa, Thành Nhất lúc đầu nghe tin mộ bị đào, chẳng hề kinh hãi, sau khi đổi đai, lại còn lấy trộm đồ trang sức của mẹ, cướp hết châu ngọc trong quan tài đem về. Việc ông ta không chôn cất mẹ đẻ, vốn chẳng có gì lạ. Xin thu hồi những vật Thành Nhất cướp từ trong huyệt, giao cho nhà thờ quản lý, cấp thời hạn bắt chôn cất mẹ, sau đó mới cách chức vĩnh viễn.” Chiếu cho Ty đề hình bản lộ xem xét xác thực, riêng việc không chôn mẹ, lệnh cho Khai Phong phủ xem xét tình hình thực tế rồi tâu lên.
[50] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Nghe nói ở Hà Đông, ngoài các châu Tấn, Giáng, Từ, Hích vẫn bán muối Giải như cũ, các châu huyện khác chỉ bán muối của hai giám Đông, Tây Vĩnh Lợi[13], dân gian chưa từng thiếu muối ăn. Từ năm Nguyên Phong thứ ba trở đi, anh của tể tướng trước là Thái Xác là Thái Lệ bàn thêm việc bán muối ở thành Mã Trì, châu Hãn thuộc Hà Đông. Muối này lẫn diêm tiêu, vị đắng, dân không muốn mua. Chuyển vận ty xin ngừng thu, nhưng bộ Ngu là Lý Khang cố tình gây khó dễ[14], không chịu xét theo thực tế. Xin hạ lệnh cho chuyển vận ty Hà Đông xác minh, nếu không có gì trở ngại thì theo lời xin mà ngừng thu. Lại hỏi tội Thái Lệ vì kiến nghị hại dân, quan lại bộ Ngu a dua quyền thế, cố ý trì hoãn.” Chiếu cho các quan kiến nghị và bộ Ngu xử lý việc trì hoãn, lệnh Đại Lý tự điều tra tâu lên.
(Ngày 24 tháng 2, Triệt tâu, đến nay mới thi hành.)
[51] Thượng thư tỉnh tâu: “Các nơi xa xôi tâu xin xét án chờ phúc quyết rất nhiều, thường kéo dài nhiều năm, giam cầm tội nhân lâu ngày, rất bất tiện. Xin cho các tội nhân ở các lộ Xuyên, Quảng, Phúc Kiến, Kinh Hồ Nam thuộc loại tình tiết nhẹ mà hình phạt nặng phải tâu xin xét xử, thì trình lên An phủ ty hoặc Kiềm hạt ty xét tình hình quyết đoán rồi tâu.” Theo lời tâu.
[52] Tiến sĩ Hoàng Thiên ở Lăng Tỉnh giám tâu: “Lợi từ núi rừng không gì bằng giếng muối, trước đây các cơ quan ngoài thuế khoá, còn bắt mỗi giếng mỗi năm nộp 50 quan tiền, gọi là tiền quan khê, xin miễn trừ.” Chiếu cho Hoàng Liêm xét tâu.
[53] Ty Án sát trà sự phủ Thành Đô lộ tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, lệnh một thể án sát việc Thông phán châu Hà là Chương Phúng xin bãi bỏ việc bán lẻ trà nụ ở Thiểm Tây. Nay trước hết án sát thấy các trường bán trà ở châu huyện, ngoài việc đã lệnh cho các phố hộ thu mua[15], các vụ lại tự xay nhỏ bán lẻ, tuy nói là chiêu dụ, nhưng thực chất là ép buộc. Mong ban chỉ huy, các nơi bán trà nụ xay nhỏ ở các lộ chuyên về trà, trước hết hãy tạm dừng.” Triều đình nghe theo.
[54] Triều Phụng lang, Thủ Khởi cư lang Mãn Trung Hành được bổ nhiệm làm Trực Long đồ các, Tri châu Minh.
[55] Trước đó, Giám sát ngự sử Tôn Thăng tâu: “Thần trộm xét người xưa nói rằng bậc vương giả chính tâm để chính triều đình, chính triều đình để chính bá quan, chính bá quan để chính vạn dân, chính vạn dân để chính bốn phương. Như vậy, sự chính trực của vạn dân và bốn phương bắt đầu từ triều đình và bá quan, mà sự chính trực của bá quan tất phải bắt đầu từ triều đình. Trên triều đình, các bề tôi tả hữu, hàng ngũ thị tòng đều là những người đoan chính, lương thiện, trung trực, thì bá quan há có kẻ nào không chính trực sao? Bởi vì các đại thần ngày nay chính là thị tòng thời trước; thị tòng ngày nay chính là đại thần thời sau. Việc lựa chọn thị tòng há có thể không thận trọng sao? Hơn nữa, bề tôi thị tòng lấy việc bàn luận, suy nghĩ, hiến kế, thay thế làm chức trách, lấy việc soạn thảo, tu chỉnh làm nghiệp vụ. Đoan chính, lương thiện, trung trực là bản chất; văn chương, từ hoa chỉ là thứ yếu. Muốn trong sạch dòng chảy, ắt phải lắng trong nguồn cội. Nếu không phải người xứng đáng mà chiếm dụng danh khí, dùng vào việc nhỏ thì kết bè đảng gian tà mà che lấp thông minh; dùng vào việc lớn thì dẫn dụ bậc quân chủ không theo đạo mà hại thiên hạ. Sai lầm trong việc dùng người đời trước, nguyên nhân dần dần đều do đây.
Bệ hạ lên ngôi đến nay, hư tâm nghe lời tâu bày, dùng người chính trực; chỉ trích gian tà, đả kích tà đạo, thần thực là chức trách. Trung Hành khí thức nông cạn, tính chất gian hiểm, trước đây ở triều đình cũ, từng được từ chức Ngự sử thăng lên chức Đài đoan, đã không có lời nói trung thực, nghị luận thẳng thắn để cứu chữa bệnh thời thế, chỉ chuyên việc nịnh hót, chiều theo ý trên, ngầm phụ họa quyền thần. Như Vương An Lễ từng dâng sớ luận bàn việc Trung thư không công bằng, tể tướng rất oán hận, Trung Hành bèn ra sức bài xích, chê bai để phụ họa ý tể tướng, cuối cùng bị tội lừa dối. Trung Hành giữ chức vụ tai mắt của triều đình, không làm sáng tỏ thông minh của bậc quân chủ, mà lại làm chó săn cho tể tướng, thì nhân phẩm của hắn tốt xấu thế nào, không cần bàn cũng có thể biết được. Thần mong bệ hạ khi lựa chọn bổ nhiệm, lại ban cho sự xem xét kỹ lưỡng, không chỉ để thần ngu này tránh được trách nhiệm phải nói trước việc, mà còn mong triều đình thu được công lao lắng trong nguồn cội, trong sạch dòng chảy.”
Do đó, Trung Hành bị điều ra ngoài giữ chức[16].
[56] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu:
[57] Kẻ trị thiên hạ tất lấy hiếu làm đầu, kẻ chính thiên hạ tất bắt đầu từ gần. Khi bệ hạ mới lên ngôi, đề cao đại hiếu để giáo hóa bốn phương, mà trong hàng ngũ văn võ gần gũi lại có kẻ đại bất hiếu, làm ô uế sự trong sáng, làm rối loạn phong hóa, công luận há có thể dung thứ được sao? Thần thấy Quan sát sứ, Tri Lộ châu Trương Thành Nhất, trước đây khi làm Đô thừa chỉ ở Xu mật viện, có kẻ trộm đào mộ cha ông ta, Thành Nhất lấy cớ tu sửa mộ, xin phép tự đi, nhân đó trong huyệt mộ lấy chiếc đai đen bằng sừng tê giác mà cha ông ta đeo, đem về, thay lớp lót rồi tự đeo vào người. Chiếc đai này là do Chân Tông hoàng đế ban cho cha ông ta, cha ông ta quý trọng nên người nhà đem chôn theo. Nay Thành Nhất lại nhẫn tâm nhân việc trộm đào mộ, vì lợi mà lấy đi, lại không tự biết việc này là đại ác, mà còn tỏ vẻ đắc ý khoe khoang với người khác, ai cũng biết, đều nói Thành Nhất không có lòng ghét kẻ trộm đào mộ, mà lại có ý mừng vì kẻ trộm tạo cơ hội, việc này chẳng khác gì cùng kẻ trộm đào mộ cha. Kẻ trộm có thể tha thứ, nhưng Thành Nhất thì không thể tha thứ. Người trong họ không ai là không phẫn nộ, muốn triều đình trị tội ông ta, nhưng lại sợ Thành Nhất ỷ thế lộng quyền, uy phúc tại miệng, không dám tố cáo[17]. Lại nữa, mẹ đẻ của ông ta đã chết từ lâu, không có lý do gì mà không chôn, vẫn để ở chùa phía bắc thành. Thành Nhất đã giàu sang, lại ở kinh đô lâu ngày, không phải vì không có sức mà không lo liệu được, không phải vì không có thời gian mà không làm được, chỉ vì tham đắm vinh hoa lợi lộc, không chịu bỏ ra vài ngày rảnh rỗi để chôn cất mẹ mình mà thôi. Chuyến đi thăm mộ, nếu không phải vì trong đó có lợi lộc gì đó, chắc cũng không xin phép đi. Suy cái tâm này mà phụng sự Vua, thì có điều ác gì mà không dám làm, đây chính là lý do thiên hạ hận không thể giết được ông ta.
[58] Long Đồ các Trực học sĩ, Tân tri Giang Ninh phủ Lý Định, đã làm quan lâu năm, thấy việc tránh tang phục, rõ biết họ Cừu là mẹ mình mà không nhận. Đến khi bị người ta nói, lại đổ lỗi cho cha mình, rồi qua lại phản phúc, khéo léo dùng lời nghi ngờ để lừa dối lòng mình, mà phản bội người thân, cứ như là từ trước đến nay không có mẹ. Vào niên hiệu Hi Ninh, khi làm chức Tri chế cáo, bị các quan Gián và Ngự sử dâng tấu chương luận tội, các cơ quan tra xét, dấu vết rõ ràng, thiên hạ không ai không ghét sự xấu xa của y, thế mà Tể tướng Vương An Thạch bẻ cong phép tắc, đi ngược đạo lý, một mình bênh vực, để y tác oai tác quái, ngang nhiên vu hãm người khác, chiếm đoạt danh vị, đến nay vẫn còn tại chức.
[59] Xét việc Thành Nhất và Lý Định đại nghịch bất hiếu, lẽ trời không dung, nhân luân đều bỏ, thế mà cả hai đều được hưởng chức tước cao sang, cai quản đất lớn, làm quan đầu tỉnh, thì làm sao thuận theo lẽ trời, sáng tỏ nhân luân, làm chính trị triều đình ngay thẳng, làm phong hóa bốn phương thuần hậu được? Kính mong bệ hạ sáng suốt, cùng bãi chức cả hai, không cho dự vào hàng ngũ triều đình, để làm gương răn cho kẻ bất hiếu trong thiên hạ muôn đời.
[60] Thiếp hoàng: “Thần kính xét Thành Nhất và Lý Định đại bất hiếu, làm hỏng lễ pháp, làm hư hỏng phong tục, không phải tội khác có thể so sánh được, mong bệ hạ quyết đoán không nghi ngờ, đặc biệt xử tội lưu đày hoặc tử hình, để giải tỏa nỗi phẫn uất tích tụ lâu năm trong dư luận, và khiến thiên hạ đời sau biết rằng kẻ làm ác rốt cuộc sẽ gặp họa, để phò trợ nền giáo hóa của đời.”
[61] Lại nói: “Thành Nhất lúc đầu nghe tin kẻ trộm đào mộ cha mình, không hề kinh hãi, vẫn ung dung ra vào cung cấm hơn mười ngày, đợi sắp xếp hành trang chỉnh tề rồi mới đi. Khi đến nơi, không hề tỏ ra đau buồn mà lại có vẻ đắc ý. Kẻ trộm chỉ đào được những vật ngoài quan tài, vội vã không kịp phá quan tài, Thành Nhất thong thả, bèn mở quan tài lấy đồ. Đã thay đai lưng của cha, lại lột đồ trang sức của mẹ, và cướp hết châu ngọc trong quan tài mang về. Dù là bạo ngược như Hoàng Cân, Xích Mi, cũng chưa từng nghe làm điều đó với cha mẹ mình. Thành Nhất còn muốn cướp vàng từ người chết, há chịu tốn của cho kẻ đã khuất, nên việc không chôn cất mẹ đẻ cũng không có gì lạ. Lại nữa, họ Thành Nhất đông người, tang lễ người thân mỗi năm không dưới vài người, Thành Nhất làm Thừa chỉ lâu ngày, tích lũy được nhiều lụa phúng viếng, nhưng chưa từng chia một tấm cho nhà có tang, cũng chưa từng bỏ ra một tấm để cúng tế người đã khuất, tất cả đều đem về nhà mình. Vì thế, người trong họ nói: ‘Thừa chỉ chỉ mong chúng ta chết mà thôi!’ Không phải là lời nói suông. Thần xin truy thu những vật cướp được trong mộ của Thành Nhất, giao lại cho nhà chính thống quản lý, và hạn định thời gian chôn cất mẹ ông ta. Lại tính toán số lụa phúng viếng từ khi nhận chức đến nay, bắt phải chia cho các nhà có tang, rồi mới bãi chức suốt đời. Thần nghĩ rằng loài cầm thú còn biết cha mẹ mình, mà Lý Định vì tránh việc để tang, không nhận mẹ, còn không bằng loài cầm thú. Từ khi việc của Phán quan quân sự châu Tú xảy ra, lúc đó đáng lẽ phải bãi chức, ngày nay danh vị đều là may mắn có được sau khi đáng lẽ bị bãi chức, thần xin tước bỏ hết, bắt phải để tang, để chính hình pháp, để phục công luận. Khiến thiên hạ biết rõ ý tốt xấu của bệ hạ, để ngăn chặn và khuyến khích, thật là may mắn cho pháp luật vậy!”
[62] Vương Nham Tẩu bàn về tội của Trương Thành Nhất và Lý Định, dâng tất cả ba tờ tấu. Điện trung thị ngự sử Lã Đào, Trung thừa Lưu Chí v.v… cũng liên tiếp dâng chương, xin xử phạt nghiêm minh hai người này. Triều đình bèn hạ chiếu cho Khai Phong phủ và Kinh Tây đề hình ty, hạn trong mười ngày phải điều tra rõ ràng sự việc của Trương Thành Nhất; và Hoài Nam đề hình ty điều tra nguyên nhân Lý Định không để tang mẹ, đồng thời gửi văn thư hỏi Lý Định để kết tội, bảo đảm minh bạch rồi tâu lên.
Việc này căn cứ theo tấu nghị của Vương Nham Tẩu và 《Nguyên Hựu Mật Sớ》 mà thêm vào. Việc điều tra Trương Thành Nhất và Lý Định đều vào ngày 26 tháng 4, đến ngày 18 tháng 5 thì cả hai đều bị cách chức. 《Cựu Lục》 chép rút gọn: “Nham Tẩu lại tâu: ‘Quan sát sứ, Tri Lộ châu Trương Thành Nhất, trước làm Đô thừa chỉ Xu mật viện, có việc đào mộ cha mình, Thành Nhất mượn cớ tu sửa mộ xin về, trong huyệt lấy chiếc đai tê giác của cha đeo vào. Lại nữa, Thành Nhất lúc đầu nghe tin mộ bị đào, không hề kinh ngạc, sau khi thay đai, lại lấy trộm đồ trang sức của mẹ, cướp hết châu ngọc trong quan tài đem về, việc không chôn mẹ đẻ của hắn cũng không có gì lạ. Xin truy thu những vật trong mộ mà Thành Nhất đã cướp, giao lại cho nhà thờ của gia đình, giao cho mọi người quản lý. Cấp thời hạn để chôn cất mẹ, sau đó bỏ rơi hắn suốt đời.’ Chiếu cho Kinh Tây đề hình ty xem xét sự việc cụ thể, việc không chôn mẹ, giao Khai Phong phủ xem xét rõ rồi tâu lên.” 《Tân Lục》 theo đó.
Xét Nham Tẩu bàn về Trương Thành Nhất và Lý Định cả hai người, giao Hoài Nam hiến ty xem xét là việc Lý Định không để tang; giao Kinh Tây đề hình ty và Khai Phong phủ xem xét là việc Trương Thành Nhất trộm đai tê giác của cha và không chôn mẹ. 《Cựu Lục》 bỏ sót hoàn toàn việc của Lý Định, như thể vì Định mà giấu giếm. 《Tân Lục》 lại theo đó, nay đều không lấy.
Vương Nham Tẩu tấu luận về Trương Thành Nhất, Lý Định rằng: “Thần gần đây liên tiếp dâng chương nói về Trương Thành Nhất, Lý Định đại bất hiếu, làm hỏng lễ pháp, tổn hại phong tục, không thể dung thứ trong nhân luận, xin bỏ rơi họ, đến nay vẫn chưa được thi hành. Thần nghe việc Thành Nhất lấy đai, giao cho Kinh Tây đề hình ty xem xét, thần sợ Kinh Tây đề hình ty xem xét sơ sài, không thể tìm ra sự thật, chỉ dừng lại ở việc hỏi những người ở trang trại của Thành Nhất. Khi Thành Nhất trộm bảo vật trong mộ, chắc chắn không cho người ngoài theo, người ở trang trại làm sao biết được? Dù sau này có nghe, cũng đâu dám hỏi qua loa rồi nói? Chân Tông hoàng đế ban cho cha hắn chiếc đai tê giác quý hiếm[18], là bảo vật quý nhất thiên hạ, nhân việc trộm cắp, lợi dụng mà lấy đi, là đồng lõa với trộm cắp, việc này về tình lý lại càng nặng. Mẹ đẻ của hắn chết đã lâu, vẫn bỏ ở một ngôi chùa phía bắc thành. Đối với cha mẹ đã như vậy, thì việc hắn thờ Vua ra sao có thể biết, đây là đại ác của thiên hạ, không thể không xử nặng.
Lý Định biết rõ Cừu thị là mẹ mình mà không nhận, đến khi bị người ta nói, mới khéo léo giấu giếm, đổ lỗi cho cha, cuối cùng muốn trốn tránh, không để tang, các sĩ đại phu không ai là không căm ghét. Thời Hi Ninh, gián quan bàn luận, các cơ quan tra xét, đã có sự thật, cả triều sĩ đại phu đều ghét. Chỉ có tể tướng Vương An Thạch bẻ cong pháp luật, lừa dối triều đình, một mình chủ trương, lại tích oán hận với sĩ đại phu. Công khai làm điều gian tà, rõ ràng lừa dối, trộm cắp vinh lộc, đến nay vẫn còn. Lại tấu Lý Định tuy đã bị xử phạt, nhưng chưa từng bắt để tang, nói Lý Định từ khi mẹ mất, vốn chưa từng để tang. Nay đã định tội, lẽ ra phải để tang, nếu không để tang, thì không thể định tội được. Dù bị cách chức, đuổi về quê, nếu không bắt để tang, cuối cùng vẫn không hợp lễ nghi, thuận tình người. Triều đình nỡ nào bảo vệ một kẻ đại bất hiếu, mà không tiếc phong tục thiên hạ! Định không nhận mẹ, không để tang, chỉ là Định tự hủy lễ pháp của mình, chưa tổn hại đến triều đình. Đã qua triều đình nghị định tội, cuối cùng không để tang, thì là triều đình cho phép hắn không để tang mẹ. Các đại thần chấp chính nỡ nào cứu một kẻ đại nghịch, mà không cứu lễ pháp thiên hạ? Lấy gì để làm gương?” Vua nói: “Đợi tiện sẽ làm.” Ngày 28 tháng 6, Định lại bị trách phạt.)
[63] Ngày hôm đó (26), Nham Tẩu cùng Tả chính ngôn Chu Quang Đình cùng vào chầu ở điện Diên Hòa rất lâu.
(Điều này căn cứ theo 《Nham Tẩu triều luận》, không rõ nội dung đối đáp là gì, cũng không biết Quang Đình bàn luận việc gì. Tạm ghi lại, đợi tra cứu kỹ rồi bổ sung thêm.)
[64] Ngày Ất Mão, Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần thấy ở Hoài Nam có hạn hán, giá lương thực tăng cao, triều đình đặc cách cho lưu lại 30 vạn thạch gạo cung tiến để cứu tế khẩn cấp. (Việc lưu lại 30 vạn thạch gạo cung tiến, trong 《Thực lục》 không thấy ghi chép.) Lòng thương dân sâu sắc, trước đây chưa từng có. Tuy nhiên, thần nghe nói rằng từ tháng giêng đến nay, các kho nghĩa thương và thường bình đã lần lượt cứu tế, dự kiến đến giữa hè khi lúa chín thì tạm đủ. Không ngờ hạn hán càng thêm nghiêm trọng, lúa hè không có hy vọng, mà mùa thu còn xa đến hơn trăm ngày nữa. Dù có số gạo cung tiến lưu lại nói trên, chia đều trong một lộ, e rằng không thể cứu tế hết dân đói. Thần nghe nói rằng Phát vận ty hàng năm dùng 1 triệu quan tiền mua gạo để thay thế số gạo cung tiến của các lộ bị chậm trễ[19], hoặc khi gạo đắt cũng bán ra để thu lãi. Thần xin chỉ đạo Phát vận ty, ước tính năm nay ngoài số gạo cần lưu lại để thay thế cung tiến, phần còn lại tạm cho bán ra theo giá mua ban đầu, không được thu lãi. Trước tiên phải báo cáo rõ số lượng gạo lưu lại thay thế cung tiến, số lượng có thể bán ra, cùng giá mua ban đầu, để số gạo được nhiều hơn, cứu đói kịp thời, có thể duy trì đến mùa thu.”
[65] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu:
[66] Thần trộm thấy ngày 8 tháng 2 nhuận có thánh chỉ, tiền lương và tài vật tích trữ nhiều năm của các quan đề cử đều được chuyển làm tiền vật của kho Thường Bình, giao cho các quan đề điểm hình ngục quản lý, theo đúng phép cũ của kho Thường Bình. Thần kính cẩn xét phép kho Thường Bình: khi giá lúa rẻ thì tăng giá để mua vào, khi giá lúa đắt thì giảm giá để bán ra, thực sự là để ban ơn cho trăm họ; các bậc tấn thân bàn rằng triều đình khôi phục phép cũ này, nên đã bãi bỏ phép lấy lãi hai phần. Nay thấy ngày 26 tháng 4 có sắc chỉ, lại lập ra phép cho vay và thu lãi tiền lương của kho Thường Bình, người trong ngoài không ai không lại nghi ngờ triều đình chỉ lo việc lợi, mà tiếc rằng kẻ mưu tính cho bệ hạ đã làm mất sự thích nghi của việc nới lỏng và siết chặt.
[67] Xin trình bày về phép Thanh Miêu, các bậc công khanh, sĩ đại phu bàn về tệ hại của nó, đã khiến triều đình chán nghe. Những lời nói trước đây, thần không nhắc lại, xin lấy những điều thần nghe được từ các bậc kỳ lão để tâu lên bệ hạ. Họ đều nói rằng ý của quốc gia, chủ yếu là thu lợi tức để giúp việc chi dùng chăng? Hay là chủ yếu là ban ơn nuôi dưỡng trăm họ chăng? Nếu chủ yếu là thu lợi tức để giúp việc chi dùng, thì không có gì để nói; nếu chủ yếu là ban ơn nuôi dưỡng trăm họ, thì từ khi thi hành phép này đến nay đã mười sáu năm, chỉ thấy trăm họ quanh năm lo lắng, đảo điên vì nợ nần, không thấy một nhà nào được thêm lợi. Trong một năm, thường không tránh khỏi mùa thu bán rẻ để nộp thuế, mùa xuân mua đắt để ăn, ngày càng lún sâu vào cảnh nghèo khó mà không tự biết.
Có người nói rằng phép này để ngăn chặn việc thôn tính, nhưng thực tế việc thôn tính chưa chắc đã bị ngăn chặn. Khi đến hạn, sự thúc ép nghiêm ngặt, thì không tránh khỏi phải cầu xin các nhà giàu có, tăng lợi tức để lấy tiền. Gọi là ngăn chặn thôn tính, nhưng thực chất là giúp cho việc thôn tính. Lại có người nói rằng lợi tức hai phần là rất nhẹ, nhưng không biết rằng tiền quan không thể ngồi không mà có được. Khi xin vay, bảo trưởng ghi tên, giáp đầu tập hợp giáp, thư thủ điểm đẳng cấp[20], việc đi lại trong thành quách, việc qua lại cửa ngõ, việc xuất nạp của người quản kho, đều là những việc mà tình người không thể cấm hết được. Sao dẫn, đầu tử tiền, đều là công việc không thể thiếu. Tính chung lại, không biết là mấy phần lợi tức. Lại tự mình thúc giục, thì lại đã đến cửa. Thường xuyên mời ăn uống, hối lộ, chỉ để tránh bị đòi nợ, tích ngày dồn lâu, lại không biết là mấy phần lợi tức. Lại có người trễ hạn mà bị đòi nợ, bị đòi nợ thì bị đánh đập, bị đánh đập rồi thì bị gông cùm, tính những gì hao tổn, lại không biết là mấy phần lợi tức. Lại có người cho lúa cũ, lúa mục, mà bắt trả giá tốt, tính những gì bị thiệt hại, lại không biết là mấy phần lợi tức.
Thần nghĩ rằng những người làm quan trong thiên hạ, giỏi thúc thuế, giảm hình phạt, trong trăm người, một năm đánh một người, thì một huyện vạn hộ, đã có trăm người rồi. Thiên hạ có bao nhiêu huyện, tính chung lại, trong một năm, số người bị đánh đập không dưới mấy vạn người. Thần cho rằng cố ý ban ơn, không bằng ban ơn bằng cách không làm gì cả. Xin bệ hạ thấu hiểu những tệ hại đã xảy ra trong thiên hạ, nghĩ đến nỗi khốn cùng vô tận của trăm họ, quyết đoán không nghi ngờ, ra lệnh cho các cơ quan bãi bỏ phép Thanh Miêu, thiên hạ sẽ rất may mắn.
[68] Tờ tấu dán vàng nói: “Nay tuy không cấm mà cho phép, nhưng những người xin vay, đều là kẻ nghèo khó không có sức, không thể kịp thời nộp đủ. Vì thế cho vay chính là hại họ, điều này không thể không xem xét kỹ.”
[69] Lại nói: “Nay chiếu chỉ nói rằng, những việc như thường bình, đều phải theo các điều luật trước sau mà thi hành. Các quận huyện nghe vậy, ắt sẽ hoang mang khi nhận mệnh. Bởi các điều luật trước sau, việc thi hành rườm rà, sự đốc thúc nghiêm ngặt, thu nạp gấp gáp, người dân đều đã từng chịu đựng. Nay triều đình lại ban chiếu thi hành, thì bốn phương không thể không nghi ngờ và lo sợ. Kính mong bệ hạ đặc biệt bãi bỏ chỉ thị này, chỉ khiến thi hành theo phép thường bình thời Gia Hựu, thiên hạ sẽ rất may mắn.”
[70] Lại nói: “Những người chủ trương chỉ nói rằng, bãi bỏ thì sợ quốc dụng không đủ, nhưng chưa từng nói rằng tiền thanh miêu vốn chỉ để phong trang, chưa từng dùng vào chi phí thường ngày, thần cho rằng đây không phải là điều bệ hạ phải lo lắng.”
[71] Lại nói: “Từ khi thu phát tiền thanh miêu, cùng thi hành phép thương, hình phạt có thể nói là nặng, nhưng người phạm tội vẫn không thể ngăn chặn. Nay lại bãi bỏ phép nặng, thì lúc thu phát, sự nhiễu loạn ắt sẽ nhiều. Bỏ phép nặng để thi hành thanh miêu, đã sợ sự xâm hại càng thêm nghiêm trọng; dựa vào thanh miêu để giữ phép nặng, lại cản trở việc sai dịch. Lợi chưa thấy mà hại đã sâu, lãi chưa thu mà hao tổn đã lớn. Hơn nữa, xuất tiền thu lãi, rốt cuộc không phải là việc nên làm của quốc thể. Kính mong xem xét kỹ tờ tấu trước, sớm ban bố thi hành, để may mắn cho thiên hạ.”
[72] Lại nói: “Thần gần đây hai lần dâng chương, xin bãi bỏ việc phát tiền thanh miêu lần nữa, lại nghe nói có các quan cũng từng tâu lên, đến nay vẫn chưa được thi hành. Bệnh dân sắp khỏi lại tái phát, lòng người vừa yên lại dao động, ắt có lời gian dối mê hoặc thánh thính, mong quyết đoán từ nơi thâm cung, nhanh chóng khiến ngưng bãi.” Nham Tẩu trước sau tổng cộng năm lần dâng chương, cuối cùng không được trả lời.
[73] Tháng này, Tri châu Long Tứ là Bành Doãn Tông, Tri châu Giám là Bành Sĩ Minh, đều cử người đến tiến phụng vải khê mừng lễ Đoan Ngọ mười lăm tấm.
[74] Chiếu cho Điện trung thị ngự sử Lã Đào đến lộ Thành Đô phủ cùng với chuyển vận ty bàn định phép dịch. Trước đó, Lã Đáo nhiều lần dâng sớ bàn về lợi hại của phép sai dịch cùng các việc như phường trường, phường quách, nhân Lã Đáo xin nghỉ về quê, liền có mệnh này.
(Lã Đáo tháng 11 hặc tội Tăng Triệu không đáng được bổ làm Trung thư xá nhân, nói: “Triệu lúc đầu được bổ làm Hữu sử, thần vâng mệnh vào Thục, chưa kịp bàn luận.” Xét Triệu vào ngày mùng 4 tháng 5 được bổ làm Hữu sử, lại xét tờ trát của Lã Đáo xin được tâu việc dọc đường và vùng Xuyên Hạp ghi ngày 22 lên điện, như vậy Lã Đáo vâng mệnh vào Thục hẳn là vào tháng 4.)
[75] Lã Đáo tâu rằng:
[76] Thấy việc thi hành phép sai dịch, không bắt dân chúng nộp tiền, để cứu tệ nạn nghèo khó, là một ân huệ lớn. Tuy nhiên, sổ sách đăng ký hộ tịch ở các quận huyện trong thiên hạ, tùy theo phong tục, mỗi nơi có sự khác biệt. Có nơi lấy số tiền thuế hàng trăm quan, có nơi lấy diện tích đất tính bằng khoảnh mẫu, có nơi lấy tài sản tích lũy của gia đình, có nơi lấy số lượng giống lúa nhận được, chia làm năm hạng. Xét về năm hạng này, có sự bất công rõ rệt. Ví dụ, có người nộp thuế một quan, hoặc chiếm một khoảnh đất, hoặc tích lũy một nghìn quan tiền, hoặc nhận mười thạch giống lúa, được xếp vào hạng nhất; nhưng cũng có người nộp thuế mười quan, chiếm mười khoảnh đất, tích lũy mười nghìn quan tiền, nhận một trăm thạch giống lúa, cũng được xếp vào hạng nhất. Tuy cùng hạng, nhưng khoảng cách giàu nghèo rất xa. Nay nếu trong hạng nhất mà bổ nhiệm kỳ trưởng, thì người nộp thuế một quan và mười quan đều phải thay đổi hai năm một lần, khiến người nghèo luôn bị thúc ép, còn người giàu thì thường được may mắn. Hơn nữa, trước đây chưa có quy định như vậy[21], quan phủ chỉ căn cứ vào hạng mục để định sai dịch, nên không công bằng. Huống chi, quan lại quận huyện khó lòng toàn là người tài, hoặc nhu nhược không hiểu biết, hoặc xử lý công việc cẩu thả, hoặc khắc nghiệt gây phiền nhiễu, hoặc tham lam mưu lợi riêng, e rằng khi thi hành sai dịch, sẽ không được công bằng, và còn có sự xâm phạm[22]. Nếu không đặt ra các biện pháp phòng ngừa trước, thì dân chúng tuy không phải chịu nỗi khổ nộp tiền như hiện nay, nhưng lại gặp phải tệ nạn thiên lệch và tốn kém như trước kia, không thể đáp ứng ý nguyện an dưỡng dân chúng của triều đình. Theo suy nghĩ của thần, không gì bằng cân nhắc giữa phép sai dịch cũ và mới, đặt ra điều lệ, kính xin trình bày cụ thể như sau.
[77] 1. Các huyện trước đây thu thuế một quan tiền là hạng nhất, thì trong hạng đó phải chịu một dịch vụ; nếu thuế gấp đôi một dịch vụ thì phải chịu hai dịch vụ; nếu lại gấp đôi hai dịch vụ thì phải chịu ba dịch vụ. Dù thuế nhiều hơn cũng không quá ba dịch vụ, và đều được phép thuê người thay thế. Nếu huyện có nhiều hộ mà ít dịch vụ, thì hộ trên không cần phải chịu nhiều dịch vụ, nhưng có thể sắp xếp thời gian nghỉ ngơi xa gần để cân bằng lao động. Ví dụ, Giáp sau khi chịu dịch vụ có thể nghỉ năm năm, Ất thuế gấp đôi Giáp thì nghỉ ba năm, Bính lại gấp đôi Ất thì nghỉ một năm. Những hộ phân hạng dựa trên diện tích ruộng đất và các tiêu chí tương tự, cũng như những hộ cùng hạng nhưng có mức thuế khác nhau, đều áp dụng theo cách này. Những hộ có tài sản từ ba trăm quan đến chín trăm quan đều thuộc hạng nhì[23].
[78] 2. Trước khi có chính sách trợ dịch, các châu huyện thường có nhiều người làm dịch vụ dư thừa, khiến dân chúng ít được nghỉ ngơi. Sau khi áp dụng trợ dịch, việc cắt giảm quá mức cũng dẫn đến thiếu người làm việc. Nếu theo số lượng nhân sự trước năm Hi Ninh nguyên niên, e rằng sẽ phải chịu dịch vụ quá thường xuyên, chi bằng dùng số lượng sau khi áp dụng trợ dịch, tăng thêm mỗi loại không quá hai phần.
[79] 3. Trước khi có trợ dịch, mỗi khi quan viên đi đón tiễn, không kể đường xa gần, mỗi người tán tòng quan, thừa phù, thủ lực đều phải chuẩn bị tiền đi đường, nhiều nhất là bốn mươi quan, ít nhất cũng ba mươi quan. Sau khi áp dụng trợ dịch, mỗi chặng đường chỉ được chi hai trăm đồng. Nay nếu mỗi chặng tăng thêm một trăm đồng, thì đón tiễn năm mươi chặng cũng chỉ tính năm quan.
[80] 1. Trước khi có chính sách trợ dịch, các quan viên nuôi ngựa thường từ năm đến bảy con, ít cũng hai ba con, chỉ sai hai người bạch trực đi cắt cỏ, mỗi ngày mua vài gánh cỏ để cung cấp, mỗi gánh giá từ năm mươi đến bảy mươi đồng hoặc một trăm đồng, mười ngày thay một lần, gọi là “thảo phiên”. Mỗi lần thay phiên, phải chi thêm khoảng năm đến bảy quan tiền. Sau khi có chính sách trợ dịch, mỗi quan viên được cấp bốn quan tiền để cắt cỏ, nếu nay tăng thêm số tiền này, thì việc nuôi ngựa không nhiều, sẽ không còn chi phí cho “thảo phiên”. Các nơi có sai người đi đốn củi, đốt than cũng làm theo cách này.
[81] 2. Trước khi có chính sách trợ dịch, khi các quan viên mới đến nhậm chức, mua sắm đồ dùng hoặc sửa chữa kho tàng, nhà cửa, trạm dịch, đình hậu, thuyền bè, đều dựa vào việc thu thêm từ dân, nếu cần chi mười quan tiền thì phải thu hai mươi quan; nếu cần mười đoạn gỗ thì phải mua hai mươi đoạn. Lợi dụng số dư để chi vào việc khác. Sau khi có chính sách trợ dịch, việc mua sắm đồ dùng và sửa chữa nhà cửa, cầu cống, đập nước, thuyền bè đều được tính toán kỹ lưỡng, kiểm tra chặt chẽ rồi mới chi tiền, mỗi khoản đều có định mức. Nếu nay vẫn theo định mức cũ, không để vượt quá, thì sẽ tránh được việc thu thêm bất hợp lý.
[82] 3. Trước khi có chính sách trợ dịch, khi các quan viên sai người đi công tác, không có thời hạn cụ thể, nhiều kẻ tham nhũng nhân cơ hội bắt người đi buôn bán, hoặc lấy cớ dọn nhà, bắt trộm cướp, sai đi xa hàng ngàn dặm, gây tốn kém. Sau khi có chính sách trợ dịch, việc sai người đi không quá ba trăm dặm, thời gian không quá một trăm ngày, và phải báo cáo cấp trên. Nếu là việc dọn nhà, thì phải có người bảo lãnh mới được sai, và tính tiền theo ngày. Nếu không bỏ điều này, thì cũng tránh được việc bị sai đi một cách tùy tiện.
[83] Các khoản chi phí nêu trên đều do dân đóng góp, quan lại thu và chi tiêu. Nhờ vậy, mọi việc đều có quy định rõ ràng, không gây phiền nhiễu cho dân, góp phần cải thiện chế độ sai dịch. Lại nói:
[84] Thấy rằng trong những năm gần đây, lợi ích của bốn biển phần lớn đều quy về triều đình, kho tàng của các cơ quan công quyền tích lũy lên đến hàng vạn, trong khi tài sản của tư nhân đã cạn kiệt đến chín phần mười. Kính nghĩ rằng chính sách thánh thiện ngày càng mới mẻ, ân đức tràn đầy, thấm nhuần đến tận nơi xa xôi hẻo lánh, như người bệnh nặng vừa được cứu sống nhờ thuốc quý, có hy vọng hồi sinh.
Tuy nhiên, bụng dạ trống rỗng[24], thân thể suy yếu, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Cần phải điều dưỡng, nuôi nấng để đạt được sự an toàn, sau đó mới có thể phục hồi. Vì vậy, các chính sách như đống đoá, thị dịch, nghĩa thảng, để đương, miễn dịch[25], tất cả những gì thuộc về việc tụ thuế đều nên bãi bỏ. Đây thực sự là ân huệ sâu sắc đối với dân, giúp họ được nghỉ ngơi.
Chỉ có việc bán phường trường[26] là gây hại sâu sắc nhất, cũng mong được thương xót để an ủi lòng dân. Khi ban hành luật này ban đầu, vì các cơ quan công quyền không có kỷ cương, chi phí phung phí, tham quan nhũng nhiễu, các châu quận bắt dân phục dịch[27], mà lợi nhuận từ việc bán rượu lại đều dùng để phụng sự công quyền[28], có người vì thế mà phá sản, chết vì đói rét. Triều đình biết tình hình như vậy, bèn thu hồi phường trường, tự mình bán ra, lợi nhuận thu được dùng để chiêu mộ người làm việc và cung cấp cho công quyền. Thực hiện lâu ngày, tệ nạn nảy sinh. Vì tính cách của tiểu nhân là tranh giành lợi ích mà không nghĩ đến hậu họa, họ đua nhau đóng góp, cố gắng giành lấy.
Họ đã tăng giá trị mua lên một cách vô lý[29], ví dụ giá trị thực chỉ một ngàn quan, họ đã mua với giá hai ngàn quan, lại tăng giá trị tài sản thế chấp, ví dụ tài sản chỉ đáng một ngàn quan, họ lại thông đồng với quan lại và hàng xóm để định giá lên hai ngàn quan. Đúng lúc dân gian thiếu tiền, rượu không bán được, thuế khóa và tiền thuế không đủ nộp[30], vừa hết hạn quý lại bị phạt tiền. Hoặc bắt dân phải bảo lãnh việc vận chuyển hàng hóa, trong vùng Xuyên Trung không có quan viên quản lý việc vận chuyển, hoặc số lượng hàng hóa quá nhiều không thể giao cho tướng hiệu và binh lính, thì chiêu mộ dân để quản lý, bắt các hộ phường trường bảo lãnh. Những người vận chuyển thường ăn cắp hàng hóa, bỏ trốn, khiến người bảo lãnh phải bồi thường. Hoặc giá mua ban đầu quá cao, hết hạn không có người giao dịch, lại càng nợ thêm. Vì những lý do này, nhiều phường trường bị phá sản, phải bán tài sản thế chấp để trả nợ công.
Hoặc giá tài sản thế chấp quá cao, không bán được, thì bắt hàng xóm mua. Hoặc hàng xóm nghèo khó, không mua hết, thì chia đều cho những nhà xa hơn, ép họ mua. Hoặc tài sản thế chấp của hộ đó đã hết, vẫn còn nợ công, thì bắt người bảo lãnh trả thay, cũng phải phá sản. Hoặc vu khống nợ nần, gây kiện tụng, lừa đảo tố tụng[31]. Các quận huyện vì gấp thu thuế, không hỏi có nợ hay không, khiến người dân phải nhận tội, bị trói cổ, đánh đập, tù tội không ngừng. Có người thậm chí tự tử, bán con cái mà vẫn không thoát nợ. Trong một huyện, hộ trung lưu trở lên vì mua phường trường hoặc làm bảo lãnh mà phá sản chiếm đến bốn, năm phần mười. Quan lại dùng trăm phương ngàn kế để đòi nợ, cố gắng thu gom, nhưng số tiền thực thu được chỉ đạt năm, sáu phần mười. Phường trường trong khu vực Thành Đô, giới thứ nhất bán được hơn bảy mươi hai vạn quan, giới thứ hai sáu mươi sáu vạn quan, giới thứ ba bốn mươi hai vạn quan, đại thể chỉ thu được một nửa vào công quỹ, phần còn lại không thể thu hồi[32]. Một là vì giá mua ban đầu quá cao, tăng giá ảo; hai là vì hàng hóa rẻ, tiền đắt, rượu không có lợi nhuận cao; ba là ngày càng nghèo khó, khó trả nợ. Vì thế, phường trường khắp thiên hạ tích tụ nợ nần[33], số lượng cực kỳ lớn.
[85] Thần Tông hoàng đế thấu hiểu rõ những tệ nạn này, từng vào năm Nguyên Phong thứ ba ban đại xá tại Minh Đường, cùng với chiếu xá vào tháng giêng năm thứ tám, nhiều lần thi hành việc miễn giảm và gia hạn nộp thuế. Chiếu lệnh ban xuống, dân chúng đều vui mừng ca ngợi, cho rằng ân đức lớn lao của trời đất không gì hơn thế. Ngoài những khoản đã được miễn giảm, đến nay số tiền còn nợ không dưới chín triệu quan, trong sổ sách tuy có ghi tên những khoản nợ, nhưng dưới ánh hình ngục, chắc chắn không có lý do gì để đòi đủ.
Khi Bệ hạ mới bắt đầu thi hành chính sách, phần lớn những việc thu thuế khắc nghiệt đã bị bãi bỏ, thần dân trong thiên hạ vui mừng ca ngợi, cho rằng Nhân Tông đã sống lại, nên mở rộng ân đức để đáp ứng nguyện vọng của họ. Thần ngu muội kính xin Bệ hạ đặc biệt ban chỉ dụ, những khoản nợ từ trước đến nay do mua phường trường mà thiếu lợi tức và lợi nhuận, cùng thuế quán và tiền phạt quá hạn, hiện đang bắt người mua hoặc người bảo lãnh nộp và bán tài sản thế chấp, đều nên được miễn giảm. Mong rằng những người nghèo khó đều được hưởng ân huệ lớn, được sống lại cuộc đời còn lại. Huống chi Hoàng đế Bệ hạ và Thái hoàng thái hậu Bệ hạ, cần kiệm nhân từ, xuất phát từ thiên tính, trong cung không có chi phí xa xỉ, bên ngoài không có thưởng công chiến tranh, thu nhập từ bốn biển, quốc khố dồi dào, dù miễn giảm vài triệu quan nợ, cũng như bụi trên núi Thái Sơn, không ảnh hưởng gì đến việc nước. Hơn nữa, việc thiên hạ vốn có đúng sai nặng nhẹ, chỉ có bậc thông minh thánh trí mới có thể cân nhắc mà hành động, đạt được lý lẽ. Nay tha nợ để yên dân, so với việc đòi thu thuế để tăng chi tiêu, cái nào là đúng, cái nào là sai, cái nào là nhẹ, cái nào là nặng, cân nhắc mà làm, chính là lúc này. Hơn nữa, từ mùa đông đến mùa xuân, mưa tuyết không đúng thời, cầu đảo khắp nơi, vẫn chưa nghe thấy đủ, vậy nên miễn giảm nợ nần, để dân khỏi đói rét[34], cũng có thể cảm động đến sự phù hộ của trời đất, triệu tập âm dương hòa hợp, khiến mưa thuận gió hòa.
[86] Thần lại nghe rằng, Hoàng đế Chân Tông từng ngự ở điện tiện, tự xem xét các khoản nợ đọng của Tam ty, tha cho 80 vạn 3 nghìn số. Bởi vì Chân Tông thấy rằng mỗi lần ban chiếu tha nợ, phần lớn đều bị các quan bỏ qua không thi hành, hoặc truy xét bắt giữ[35], càng thêm phiền nhiễu[36], nên mới tra sổ sách, dẫn đối chất rồi tha cho. Thần mong Bệ hạ noi theo lòng thương dân của Chân Miếu xưa, gần thì học theo việc ban ân huệ của Thần Tông, quyết định từ ý Thánh, đặc biệt tha cho các khoản nợ tiền phường trường, thiên hạ sẽ vô cùng may mắn.
[87] Lại tâu: “Nay những điều tấu trình, chỉ là xin triều đình đặc biệt tha nợ phường trường, được hay không, xin tuân theo ý Thánh minh, không phải là thay đổi điều lệ của Hộ bộ, cần phải lập pháp. Kính xin lưu lại trong cung để xem xét, sớm ban hành thi hành.”
[88] Lại tâu rằng: “Thần mỗi khi thấy lệnh xá tha nợ, thường bị các cơ quan trăm phương ngăn trở[37], truy cứu tận gốc, may mắn nếu có chút vi phạm pháp luật, liền không tha nợ, khiến ân trạch của thánh triều không đến được với kẻ khốn cùng. Đại để, bậc nhân quân ban bố hiệu lệnh, nên như sấm sét mưa rào, bất ngờ mà đến, thì thiên hạ biết ơn từ trên ban xuống. Nếu phải giao cho các cơ quan phân tích xem xét[38], lập thành điều khoản, rồi mới thi hành, thì tệ nạn sinh ra từ dưới, làm tổn hại đến thể chế trị nước. Kính mong thánh từ nếu thấy lời thần có chút khả thi, xin hãy lưu lại bản tấu này trong cung, coi như ý chỉ của triều đình, ban chiếu tha nợ, không cần giao cho các cơ quan xử lý.”
(Chiếu ngày 28 tháng 2 nhuận: “Các hộ dân trong phủ giới và các lộ mua bán phường trường, nợ thuế khóa lợi và thuế quán cùng tiền thuế phạt quá hạn, cho phép Hộ bộ dùng tiền phạt lãi để bù vào vốn quan, nếu đã nộp đủ vốn quan thì tha nợ. Còn tiền lãi ròng của phường trường, nếu hiện nay có hộ cô bần khốn khó, tạm ngừng thu nợ tích lũy. Tiền miễn dịch, giảm một nửa và cho nộp dần. Các phường trường đã đóng cửa, nếu thực sự không còn hoạt động, quan phủ không nhận đơn kiện, mà vẫn bắt nộp thuế khóa lợi và lãi ròng, hãy nhanh chóng điều tra xác minh, nợ thuế khóa lợi, đặc biệt tha bổng và báo lên.” Chiếu này chỉ cho phép dùng tiền phạt lãi để bù vốn quan, tạm ngừng thu nợ với hộ cô bần khốn khó, tha nợ thuế khóa lợi của phường trường đã đóng cửa. Điều Lý Đào xin, là muốn tha nợ tích lũy[39], không chỉ là tiền phạt lãi và hộ cô bần, phường trường đóng cửa. Nên bàn luận sau chiếu này[40]. Lý Đào nói “từ đông xuân đến nay, mưa tuyết không đúng thời”, có lẽ bản tấu này chắc chắn viết vào mùa xuân, cần xem xét kỹ hơn. Cuối tháng giêng năm thứ hai, lại có tấu xin tha nợ tích lũy của các giới phường trường, có lẽ là để làm rõ yêu cầu này, nhưng cuối cùng vẫn chưa được chấp thuận. Ngày 7 tháng 6, bãi bỏ việc mua phường trường bằng trạng thực phong, có lẽ là theo yêu cầu của Lý Đào. Lưu Chí ngày 9 tháng giêng đã có lời tâu trước, có thể tham khảo thêm.)
[89] Lại tâu rằng: “Thần thấy rằng ở phủ Thành Đô và lộ Tử Châu, từ trước đến nay chỉ dựa vào số tiền thuế ruộng đất của dân để phân chia các bậc phục dịch. Khi mới thi hành phép dịch vào đầu niên hiệu Hi Ninh, đã định riêng mười bậc hộ dân ở phường quách, bắt nộp tiền doanh vận để giúp đỡ chi phí miễn dịch. Ý của triều đình vốn là vì có những hộ dân chuyên làm nghề buôn bán mà không có ruộng đất nộp thuế, hoặc có ruộng đất nộp thuế mà kiêm cả buôn bán, nên mới xếp loại các hộ buôn bán ở phường quách, ngoài tiền thuế ruộng đất, lại bắt họ nhận thêm số tiền doanh vận để giúp đỡ các hộ nộp thuế, thật là một phép công bằng. Tuy nhiên, khi mới thi hành, các cơ quan hữu ty không thể hiểu được ý định ban đầu của triều đình, chỉ biết ra sức thúc ép các quận huyện, sai quan đến giải thích, chỉ cốt sao định được nhiều tiền phường quách, lấy đó làm thành tích. Các châu huyện nghe theo ý chỉ, không hỏi thực hư, có buôn bán hay không, chỉ cần có nhà ở trong thành thị, đều ước tính giá trị, nhất loạt xếp vào các bậc phường quách. Tuy nói là xếp loại, nhưng thực chất là ép buộc họ nhận, lập thành mức thu hàng năm, năm này qua năm khác, đến nay vẫn không giảm. Thần nghe nói rằng ở Châu Gia, dân phường quách thậm chí phải đóng cửa nhà, dời đi trốn tránh về sống ở nông thôn, nhưng tiền doanh vận vẫn không được giảm miễn. Dù muốn bán nhà cửa, cũng không thể bán được. Tệ hại đến mức này, thật là cùng cực.
Nay triều đình bàn định phép dịch tốt, các bậc phường quách vốn không thể bỏ hẳn, nhưng cần phải xem xét thực hư, định lại, không nên theo mức cũ, cốt sao cho vừa phải. Những hộ chỉ có nhà cửa mà không buôn bán, hoặc có buôn bán nhưng tài sản không nhiều, đều nên miễn thuế, để giảm bớt gánh nặng cho dân. Thần lo rằng các lộ khác cũng có tình trạng tương tự, mong bệ hạ hạ lệnh cho các cơ quan hữu ty bàn bạc kỹ, đặt ra phép tắc để thi hành.”
[90] Lại tâu rằng: “Các bậc phường quách không thể bỏ hẳn, vì có thể giúp đỡ chi phí nha tiền của các hộ nông thôn, cùng tiền đón tiếp, tiễn đưa của những người phục dịch, chỉ cần thu đúng mức, thì không thành phiền nhiễu.” Chiếu đều giao cho sở Tường định dịch pháp.
[91] Trước đó, Thái hoàng thái hậu sai trung sứ Trần Diễn mang chiếu chỉ đến ban cho Tư Mã Quang, nói: “Phạm Thuần Nhân tấu xin lấy Văn Ngạn Bác làm sư thần, để tham vấn, có thể tôn trọng triều đình, khiến bốn phương nể phục. Chu Quang Đình dâng trát tử xin tôn kính Ngạn Bác làm đế sư, không bắt làm việc tể tướng. Có ba đạo trát tử của Chu Quang Đình, giao cho khanh xem xét, có thể tự tay viết điều trần tâu lên.” Quang tâu: “Thần trước được ơn đề bạt làm thủ tướng, tự biết trí lực nông cạn, kinh nghiệm chưa nhiều, nên xin bệ hạ dùng Văn Ngạn Bác làm Thái sư kiêm Thị trung, hành Tả bộc xạ, còn thần phụ tá, may ra không mắc lỗi. Nay Phạm Thuần Nhân, Chu Quang Đình cho rằng Ngạn Bác là bậc nguyên lão sư thần, không nên bận việc quan, việc này xin bệ hạ quyết định. Nếu cho làm chính Thái sư bình chương quân quốc trọng sự (Ngạn Bác hiện làm Tiết độ sứ giữ chức Thái sư, vẫn là sứ tướng, nếu bỏ tiết trấn, thì thành chính Thái sư, đứng đầu trăm quan, trên cả tể tướng), lệnh năm hoặc sáu ngày (nay vì ngày chẵn buông rèm, nên có đến sáu ngày) vào triều một lần, nhân đó đến Môn hạ, Trung thư đô đường, bàn bạc với các chấp chính, việc trọng đại thì chấp chính đến nhà tham vấn, còn văn thư thường lệ chỉ giao Bộc xạ trở xuống ký tên phát đi. Như vậy cũng đủ tôn trọng đại thần, ưu đãi lão thần. Quang Đình lại nói Phạm Thuần Nhân, Lữ Công Trước, Hàn Duy đều có thể làm Hữu tướng. Thần ngu nghĩ Phạm Thuần Nhân, Hàn Duy đều có tài đức, nhưng mới được dùng gần đây, kinh nghiệm chưa sâu, sợ thăng tiến quá nhanh, lòng người chưa phục. Chỉ có Lữ Công Trước từng trải qua hai phủ, nay thứ bậc cao nhất, nếu dùng làm Hữu tướng, Hàn Duy làm Môn hạ thị lang, Phạm Thuần Nhân giữ nguyên, là hợp lý nhất, thỏa lòng mọi người. Xin bệ hạ xem xét, ba đạo trát tử của Quang Đình, xin dâng kèm theo.”
(Trát tử này thấy trong 《Tạp lục》 quyển 4, đầu ghi ngày 16 tháng này. Xét 《Tân cựu thực lục》 đều chép Văn Ngạn Bác ngày 2 tháng 4 được triệu, ngày 15 tháng 4 bái Thái sư, đây ghi ngày 16, có lẽ chữ có sai. Lại xét 《Lữ Công Trước gia truyền》, thì Ngạn Bác bái Thái sư là ngày 1 tháng 5, đây ghi ngày 16, cũng chưa hẳn không sai. Nay đã dùng gia truyền, nên phụ trát tử này vào cuối tháng 4, trước tháng 5. Tư Mã Quang trước tâu xin dùng Ngạn Bác làm Thị trung, hành Tả bộc xạ, không rõ ngày nào, hẳn là trước khi triệu Ngạn Bác. Cả tấu này đều không chép trong bản tập, có lẽ Quang tự xóa đi. Phạm Tổ Vũ chép mộ chí Chu Quang Đình nói: “Thăng giáng đại thần, thêm bớt chính sự, Quang Đình kín đáo góp ý, nhiều việc được thi hành.” Chỉ việc này. Nên tìm tấu của Quang Đình và Phạm Thuần Nhân phụ thêm mới tốt. Tấu trước của Quang đã phụ ngày 3 tháng 2 nhuận Canh Dần, lại ngày 2 tháng 4 Kỷ Sửu tìm được bản thảo của Quang từ cháu Phạm Xung là Hoa, quả nhiên dâng ngày 16 tháng 4. Lại có trát tử đáp chấp chính đến nhà tham vấn, dâng ngày 20 tháng 4, nay đều phụ kèm.)
[92] Quang lại tâu: “Thần trước đây nhận được tờ chiếu của bệ hạ, nói rằng Phạm Thuần Nhân, Chu Quang Đình dâng tấu xin Văn Ngạn Bác không nên bận rộn với chức vụ tể tướng, xin bàn riêng về lễ đãi ngộ ưu ái. Thần lúc đó sợ chậm trễ thánh vấn, không kịp xem xét kỹ lưỡng điển cố, chỉ nghe nói Thái phó nhà Tấn là Trịnh Xung xin nghỉ hưu, được chiếu phong làm Thọ Quang công, cho ở tại phủ đệ, các việc chính sự lớn của quốc gia đều đến thỉnh ý. Lại thấy gần đây những người như thần, địa vị thấp kém, vì bệnh tật lâu ngày, các chấp chính vẫn tâu xin đến nhà thần bàn bạc việc công huống chi Văn Ngạn Bác là bậc nguyên lão đức cao, lẽ nào không được. Thần liền vội tâu rằng nếu có việc trọng đại không kịp thời, xin cho chấp chính đến nhà tham vấn. Nay lại nhận được tờ chiếu của bệ hạ hỏi thần có điển cố nào không, thần thực sự không có căn cứ nào khác, tội sơ suất ngạo mạn, xin chịu tội nặng. Nếu bệ hạ cho rằng việc chấp chính đến nhà tham vấn là quá trọng, thần xin xét theo chuyện cũ của tể tướng Vương Đán giữ chức Thái úy kiêm Thị trung, được phép năm ngày vào triều một lần, mỗi lần vào triều thì vào Trung thư, nếu gặp việc quân quốc trọng đại thì không kể ngày giờ, đều được vào tham gia quyết định. Nay nếu cho Văn Ngạn Bác theo lệ cũ của Vương Đán, chưa biết có được không, xin bệ hạ xét quyết.”
- 'Triều trước' nguyên là 'trước đây', theo các bản và 《Loan Thành tập》 quyển 37 'Khất cấm quân nhật nhất giáo trạng' sửa. Xem văn dưới cũng viết 'triều trước'. ↵
- lộ lệnh Vũ Hạo sung bảo đinh 'lộ lệnh', bản các làm 'chỉ lệnh'. ↵
- Khoa trường năm tới tạm thời vẫn thi hành theo phép cũ, chữ 'tạm' nguyên bản là 'ngày', căn cứ theo các bản, bản in hoạt tự và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Tập》 quyển 52, tờ 'Khất Tiên Hành Kinh Minh Hành Tu Khoa Tráp Tử' mà sửa ↵
- Kính xét nguyên là Lại bộ thượng thư tặng Vương Đào cùng Trần Tiến đều là cung liêu, 'Cung liêu' nguyên bản là 'Quan liêu', xét câu trên nói 'phụ tá tiên đế khi còn ở Đông cung', trong 《Tống sử·Chức quan chí》 phần Đông cung quan, Thái tử sư phó có ghi 'Tể tướng kiêm cung liêu', Thái tử thị độc, thị giảng có ghi 'Cung liêu giảng độc', phù hợp với cách gọi cổ xưa là thuộc quan Đông cung là cung liêu, nên sửa lại. ↵
- Vân vân nguyên chỉ có một chữ 'Vân', theo bản trong các kho sách bổ sung. ↵
- Chữ 'quan' nguyên bản viết là 'cung', căn cứ vào các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Hồ Nhĩ Tây đạo, các bản và chú thích phía dưới đều ghi là 'Tây đạo'. ↵
- 'dung' trong 'dung hữu vị tận', bản các các làm 'Nghi', 《Loan Thành tập》 quyển 38 《Khất sai quan đồng Hoàng Liêm thể lượng trà pháp trạng》 làm 'lí'. ↵
- Từ 'Tự' nguyên bản là 'Đẳng', theo bản trong các bản khác mà sửa. Xét văn trên có nói 'ở các Tự, Giám, đặt chức Trưởng, Nhị, Thừa, Bạ', 《Tống sử·Chức quan chí》 chép 'Năm Nguyên Phong thứ 5, pháp chế của tỉnh, đài, tự, giám được hoàn thiện'. ↵
- Cứu tế nguyên là 'phiến hoá', theo 《Tục thông giám》 quyển 79 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 110 về Thường bình thương sửa lại. ↵
- chữ 'huynh' vốn bị thiếu, theo bản khác bổ sung ↵
- Xin đối với các sứ thần quản hạt ở quân doanh Trí Viễn vụ cùng Đông Tây Sằn vụ, căn cứ vào số lượng binh sĩ dưới quyền phạm tội nhiều hay ít để lập ra phép xếp hạng. 'Dĩ sở' nguyên bản là 'Sở dĩ', 'tác tặc' nguyên bản là 'Tróc tặc', căn cứ vào các bản khác và ý nghĩa đoạn văn sau mà sửa lại. ↵
- Các châu huyện khác chỉ bán muối của hai giám Đông, Tây Vĩnh Lợi, chữ 'bán' nguyên là chữ 'mua', theo ý văn trên dưới mà sửa ↵
- Bộ Ngu là Lý Khang cố tình gây khó dễ, chữ 'Khang' trong sách 《Loan Thành tập》 quyển 37, tờ tâu xin bỏ hồ muối Mã Trì châu Hãn viết là chữ 'Hoành' ↵
- Ngoài việc đã lệnh cho các phố hộ thu mua, chữ 'thu' trong bản các là 'tán'. ↵
- Ở đây chữ 'Trung' nguyên bản bị thiếu, căn cứ vào các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 97 phần 'Trục tiểu nhân' bổ sung. ↵
- Không dám tố cáo 'chi', các bản khác chép là 'nhĩ'. ↵
- Chân Tông hoàng đế ban cho cha hắn chiếc đai tê giác quý hiếm, trên văn có câu 'Nhân trong huyệt lấy chiếc đai tê giác đen của cha đem về', 'tê giác quý hiếm' nghi là nên viết 'tê giác đen'. ↵
- Sửa chữ 'tiền' thành 'tiện' theo 《Loan Thành tập》 quyển 37, bài 'Khất dĩ Phát vận ty mễ cứu Hoài Nam cơ dân trạng'. ↵
- Thư thủ điểm đẳng cấp 'Thư thủ' hai chữ nguyên đảo, theo bản các các sửa lại. ↵
- Hơn nữa, trước đây chưa có quy định như vậy, 'duyên' nguyên văn là 'ngôn', theo bản trong các bản sửa. Xem 《Tống sử·Thực hóa chí thượng ngũ》 và 《Tống hội yếu·Thực hóa lục ngũ chi ngũ○》 ghi chép, đây là lời tấu của Lã Đào, xét theo ý nghĩa văn bản cũng không thể tách rời. ↵
- Và còn có sự xâm phạm, 'cập' nguyên văn là 'phản', theo các bản và bản hoạt tự sửa. ↵
- 'Thuộc' nguyên văn là 'Vị', theo bản khác sửa lại ↵
- Tuy nhiên, bụng dạ trống rỗng 'bụng dạ', trong 《Tịnh Đức Tập》 quyển 2, tấu chương 'Khất phóng phường trường khiếm tiền trạng' viết là 'tạng phúc'. ↵
- Vì vậy, các chính sách như đống đoá, thị dịch, nghĩa thảng, để đương, miễn dịch 'đống đoá' nguyên văn là 'suy đoá', theo 《Tịnh Đức Tập》 sửa lại. Xem thêm trong 《Tống sử·Thực hóa chí》 hạ quyển 6 có ghi về thuế đống đoá. Lại nữa, 'miễn dịch' trong 《Tịnh Đức Tập》 viết là 'miễn hành'. ↵
- Chỉ có việc bán phường trường 'bán' nguyên văn là 'mua', theo bản các và 《Tịnh Đức Tập》 sửa lại. ↵
- các châu quận bắt dân phục dịch 'bắt' nguyên văn là 'tức cần', theo 《Tịnh Đức Tập》 sửa lại. ↵
- dùng để phụng sự công quyền trong 《Tịnh Đức Tập》 không có chữ 'tư'. ↵
- đã tăng giá trị mua lên một cách vô lý 'vô lý' nguyên văn là 'vọng', theo 《Tịnh Đức Tập》 sửa lại, phù hợp với câu 'lại tăng giá trị tài sản thế chấp' ở dưới. ↵
- thuế khóa và tiền thuế không đủ nộp trong 《Tịnh Đức Tập》 có thêm chữ 'tịnh lợi', lại thấy ở dưới có câu 'vì mua phường trường mà nợ thuế khóa và tịnh lợi', nghi ngờ ở đây thiếu chữ 'tịnh lợi'. ↵
- lừa đảo tố tụng 'lừa đảo', trong 《Tịnh Đức Tập》 viết là 'hoành lại'. ↵
- Phường trường trong khu vực Thành Đô, giới thứ nhất bán được hơn bảy mươi hai vạn quan, giới thứ hai sáu mươi sáu vạn quan, giới thứ ba bốn mươi hai vạn quan, đại thể chỉ thu được một nửa vào công quỹ, phần còn lại không thể thu hồi bốn mươi chín chữ này trong 《Tịnh Đức Tập》 viết thành chú thích nhỏ. ↵
- Vì thế, phường trường khắp thiên hạ tích tụ nợ nần trong 《Tịnh Đức Tập》 có thêm chữ 'tiền' sau 'phường trường'. ↵
- 'dân' chữ này nguyên bản thiếu, theo bản các và sách 《Tịnh Đức Tập》 bổ sung. ↵
- hoặc truy xét bắt giữ, 'hoặc' nguyên bản là 'nhi', theo sách trên sửa lại. ↵
- càng thêm phiền nhiễu, 'phiền' nguyên bản là 'phiền', theo sách trên sửa lại. ↵
- Thần mỗi khi thấy lệnh xá tha nợ thường bị các cơ quan trăm phương ngăn trở 'tha nợ thường bị' nguyên bản là 'thường tha nợ bị', căn cứ theo sách trên đã sửa lại. ↵
- Nếu phải giao cho các cơ quan phân tích xem xét 'nếu phải giao cho các cơ quan' nguyên bản là 'nếu thuận giao cho các cơ quan', căn cứ theo các bản khác sửa lại. Xét bản in hoạt tự viết 'nếu thuận giao tự các cơ quan', sách 《Tịnh Đức Tập》 viết 'nếu giao tự các cơ quan'. ↵
- Muốn tha nợ tích lũy 'muốn', các bản và bản in hoạt tự đều viết 'phổ'. ↵
- Nên bàn luận sau chiếu này 'sau', các bản và bản in hoạt tự đều viết 'tại'. ↵