"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 377: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)

Từ ngày Đinh Sửu tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết ngày Đinh Mão cùng tháng.

[1] Tháng 5, ngày Đinh Tỵ, mùng một, Kim tử Quang lộc đại phu, Môn hạ Thị lang Lữ Công Trứ được giữ chức cũ, giữ chức Thượng thư Hữu bộc xạ kiêm Trung thư Thị lang. Từ khi Thái Xác, Chương Đôn bị bãi chức, Tư Mã Quang đã nằm bệnh, và Hàn Chẩn rời khỏi chức vụ, Công Trứ thường đảm nhiệm việc của Tể tướng. Trước đây, các quan chấp chính thường họp tại Đô đường mỗi ba đến năm ngày một lần, các viên lại trong đường mỗi ngày ôm văn thư đi qua các sảnh trình bày, vì vậy người đứng đầu có thể quyết định một mình, các đồng liêu khó tranh luận hết. Quang từng khẩn thiết yêu cầu Xác muốn họp nhiều lần, để mỗi người có thể trình bày hết ý kiến, nhưng Xác cuối cùng không đồng ý. Công Trứ sau khi nắm quyền chính, bèn họp tại Đô đường mỗi ngày, từ đó thành lệ.

[2] Hà Đông Tiết độ sứ, giữ chức Thái sư, Khai phủ Nghi đồng Tam ty trí sĩ, Lộ quốc công Văn Ngạn Bác được đặc cách phong làm Thái sư, Bình chương Quân quốc Trọng sự.

(Việc bổ nhiệm Công Trứ và Ngạn Bác, cả sử cũ và sử mới đều ghi vào ngày 15 tháng 4, Nhâm Dần. Nhưng gia truyền của Công Trứ lại ghi vào ngày 1 tháng 5, Đinh Tỵ. Lại cùng ngày với việc Hàn Duy được bái làm Môn hạ Thị lang. Theo thực lục, việc Duy được bái làm Môn hạ Thị lang vào ngày 1 tháng 5, Đinh Tỵ, cách thời điểm bổ nhiệm Công Trứ và Ngạn Bác nửa tháng. Căn cứ vào tờ trát của Tư Mã Quang, việc bổ nhiệm ba người này thực ra cùng được thảo luận trong một tờ trát, không rõ vì sao mệnh lệnh của Duy lại chậm nửa tháng. Thực lục ghi chép việc thăng chức của các tể phụ không nên có sai sót, hay là gia truyền ghi chép sự việc đã lộn thứ tự? Nhưng Ngạn Bác đã được phong làm Thái sư, thì không nên ghi là giữ chức Thái sư. Nay chiếu ngày 19 tháng 4 vẫn ghi là giữ chức Thái sư, ngày 22 cũng ghi là giữ chức Thái sư, ngày 24 tiến đối, lại ghi là Hà Đông Tiết độ sứ, Khai phủ Nghi đồng Tam ty trí sĩ. Nếu đã được phong nhưng chưa nhận chức, cũng nên như trường hợp Tư Mã Quang, ghi là tân trừ Tả bộc xạ, không nên đều ghi là chức cũ. Gia truyền ghi chép có lẽ đúng sự thật, nay theo đó. Chính mục của Lã Đại Phòng: Ngạn Bác làm Trọng sự, Công Trứ làm Hữu bộc xạ, Duy làm Môn hạ Thị lang cùng vào ngày 1 tháng 5, như vậy thực lục quả thật không đáng tin.)

[3] Lại có chiếu ban cho Văn Ngạn Bác rằng: “Trẫm nối tiếp ngôi Vua, lên ngôi cai trị, chưa thông hiểu đạo lý, không biết làm sao để cứu giúp dân. Nhớ đến bậc nguyên lão, đã phò tá ba triều, công lao che chở dân chúng, danh tiếng lẫy lừng đương thời. Trời ban cho tuổi thọ, đã già mà còn khỏe mạnh, nên trở lại làm bậc thầy của bề tôi, giúp đỡ chính sự lớn của ta. Đã ban chế thụ chức Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự. Có thể mỗi tháng hai lần đến kinh diên, sáu ngày một lần vào triều, nhân đó đến đô đường bàn bạc việc với các quan chấp chính, nếu gặp việc cơ yếu quân quốc thì không hạn thời gian, đều cho vào tham gia quyết định. Các việc công khác, chỉ giao cho chức Bộc xạ trở xuống ký tên phát đi, bổng lộc theo lệ của các quan tể thần.”

[4] Tư chính điện Đại học sĩ, Chính nghị đại phu kiêm Thị giảng Hàn Duy giữ chức Môn hạ Thị lang.

[5] Thượng thư tỉnh tâu: “Theo chế độ cũ, tội nhận hối lộ có mức nặng nhẹ khác nhau. Nay lại đặt ra luật nặng, khiến tội như nhau mà hình phạt khác biệt, không hợp với ý thương xót của triều đình. Xin bãi bỏ luật trọng lộc ở các lộ, người phạm tội sẽ xử theo luật thường, và khôi phục lại chế độ lương bổng của quan lại trước thời Hi Ninh.” Triều đình nghe theo.

(Sách cũ chép: Trước thời Gia Hựu, quan lại không được cấp lương, việc nhận hối lộ và thỉnh thác công khai diễn ra, dùng số tiền nhiều ít để quyết định việc đúng sai. Tiên đế thương xót [Nguyên bản chép “Quang thường thương xót”, bản hoạt tự chép “Tiên thường thương xót”, bản các bản chép “Tiên đế thương xót”. Xét chú thích trong sách này gọi là thực lục, tức là sách chép về các đời Vua, chú thích này gọi là cựu lục, tức là sách cựu lục đời Triết Tông; Thần Tông thời Hi Ninh thi hành luật trọng lộc, nên cựu lục đời Triết Tông gọi là tiên đế, nay theo các bản mà sửa]. Người làm quan mà nhận hối lộ một đồng cũng bị tội. Vì thế hình phạt không bị lạm dụng, dân được hưởng ơn, đến nay lại thay đổi. Sách mới biện luận rằng: Đã khôi phục lại chế độ lương bổng của quan lại trước thời Hi Ninh, thì việc thay đổi luật lương bổng sau thời Hi Ninh tự nhiên đã rõ, không cần chép thêm, nay xóa bỏ.)

[6] Ngày Mậu Ngọ, Hoàng thành sứ, Khang Châu đoàn luyện sứ Ngô Tĩnh Phương làm Vĩnh Dụ lăng sứ.

[7] Chính tự Lý Đức Sô, Tư Mã Khang, Khổng Vũ Trọng đều được bổ làm Hiệu thư lang.

(Ba người được bổ chức Chính tự, Đức Sô vào tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 7, Khang vào tháng 4 năm thứ 8 do Hàn Giáng tiến cử, Vũ Trọng vào tháng 12 năm thứ 8.)

[8] Chiếu rằng: Thượng thư Tả bộc xạ Tư Mã Quang bệnh tình đã ổn định, chỉ còn vết thương ở chân gây trở ngại khi lạy quỳ, không cần chờ hết thời gian nghỉ phép, đặc cách miễn lễ tạ ơn chính thức, tạm miễn tham dự các buổi chầu sớm tối ở tiền điện và hậu điện, cho phép ngồi kiệu ba ngày một lần đến Đô đường để họp bàn việc, hoặc đến Môn hạ tỉnh, Thượng thư tỉnh xử lý công vụ. Quang tâu: “Thần suy nghĩ rằng, tuy nội tạng đã ổn định, ăn uống như thường, nhưng hai chân vẫn yếu, vết thương chưa lành, đi lại khó khăn, không thể lạy quỳ, vì thế chưa thể vào chầu. Còn việc vài ngày một lần đến Chính sự đường, từ đời Đường trở đi, chỉ dành cho các bậc nguyên lão đức cao tuổi tác có bệnh, triều đình tôn kính, đặc cách ban mệnh này, thần nhỏ mọn đâu dám sánh ví? Hơn nữa, thần từ ngày 21 tháng giêng xin nghỉ chầu, đến nay đã hơn 130 ngày, lẽ nào chưa gặp mặt quân phụ mà đã vội đến tỉnh nhận việc? Huống chi, thần được bổ làm Tả bộc xạ khi đang bệnh, dù nhiều lần dâng sớ từ chối, chưa được chấp thuận, lại được ban cáo thân tại nhà, thần chưa dám nhận, đang đợi vào chầu diện kiến thiên nhan, tâu bày lòng thành, sao có thể vội vàng xử lý việc Thượng thư tỉnh? Kính mong thánh từ đợi khi thần đi lại đỡ hơn, lạy quỳ được, hết thời gian nghỉ phép, sẽ cùng các chấp chính khác nhận việc như thường lệ, để thân thể nhỏ bé này được yên ổn phần nào.”

[9] Lại có chiếu rằng: Bổng lộc của Phán Đại Danh phủ Hàn Giáng được chiếu theo mức của Văn Ngạn Bác.

[10] Lại có chiếu: “Các châu huyện vùng Hoài Nam bị thiên tai, lệnh cho các quan Chuyển vận, Đề hình ngục khảo sát thực tế, không cần chờ kiểm tra lại khi có đơn kêu cứu, miễn thuế ruộng ngay lập tức.”

[11] Hộ bộ Thượng thư Lý Thường tâu: “Hà Bắc trước đây có Ty Địch Tiện, chuyên đặt chức Đề cử quan để lo việc biên phòng, sau chỉ lệnh cho Chuyển vận ty kiêm quản, lấy tên là Thố trí. Xét tiền gốc mua lương, không dự vào kế hoạch vận chuyển, khó bắt kiêm quản, xin khôi phục lại Ty Đề cử Địch tiện.” Chiếu chuẩn, các việc của Ty Thố trí, lệnh cho Ty Đề cử Địch tiện cùng Chuyển vận ty cùng quản lý.

(Ngọc điệp ghi ngày Đinh Tỵ, Chính mục ghi ngày Cao Đán Hà Bắc Địch tiện, cần xét lại. Ngày 24 tháng 9 năm thứ 5 đặt chức Đề cử kiêm Thố trí, ngày 27 tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ 2 khôi phục lại, ngày 13 tháng 4 năm thứ 3 đặt chức Đề cử.)

[12] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu: “Điều lệ Thái học quy định, học sinh phải học nghe giảng một năm mới được ứng thí ở Thái học. Thần cho rằng đã hạn định thời gian như vậy, thì những người vì hoàn cảnh khó khăn đều không được kể đến, khiến nơi nuôi dưỡng nhân tài lại trở thành chỗ áp dụng pháp luật khắc nghiệt, thần thật lấy làm tiếc cho nền giáo dục. Có những người nghèo khó, chịu đựng gian khổ tích lũy từng giờ từng phút để mong đạt tiêu chuẩn, nhưng cuối cùng chỉ vì thiếu một ngày mà phải chậm trễ ba năm; lại có những người đã từng được bổ sung, nhưng vì xin nghỉ mà lỡ hạn, phải theo người mới để thi lại, một khi không đạt chuẩn thì không được ứng thí: những điều này đều làm tổn thương tình người, không có lợi cho quốc gia. Kính mong bệ hạ đặc biệt cho phép, từ nay về sau mỗi khi có khoa cử, những người đã từng được bổ sung làm Giám sinh đều được phép ứng thí, bỏ hẳn quy định một năm, thật là may mắn cho sĩ tử nghèo ở phương xa.” Chiếu cho Quốc tử giám lập pháp, xin lần khoa cử này, những người từ năm Nguyên Phong thứ ba khi bắt đầu hưng học đến nay, đã học trước sau cộng lại đủ một năm, đều được phép ứng thí. Vua theo lời tâu.

(Lời xin được chấp thuận vào ngày 10 tháng 7, nay ghi chung. Cựu lục chép: Tiên đế hưng học dưỡng sĩ[1], giáo dưỡng chưa đủ một năm thì không được dự thi, khiến sĩ tử dần dần hưng thịnh ở trường học, để theo kịp chế độ tuyển chọn ở làng xã, Nham Tẩu hết sức tâu xin bãi bỏ. Tân lục biện rằng: Chiếu bãi bỏ quy định một năm tại học, những người đã được bổ sung đều được phép ứng thí, tức là đã sửa đổi chế độ giáo dục. Từ chữ “tiên đế hưng học” đến chữ “bãi chi” gồm 35 chữ đều bỏ đi.)

[13] Xu mật viện tâu: Các châu, quân ở Hà Bắc chiêu mộ bảo giáp để bổ sung vào số quân thiếu ở kinh thành, trong đó có người muốn nhập ngũ tại địa phương. Chiếu cho chiêu mộ theo lệ hiện hành của các châu, quân để bổ sung vào quân đội địa phương, ngoài tiền lương thường lệ được tăng thêm một nghìn đồng, trừ quân mã, đặc biệt cho phép chiêu mộ thêm ngoài định số, mỗi chỉ huy không được quá 50 người, khi đủ số thì báo lên.

[14] Ba tỉnh tâu: “Trước đây đặt ty Củ sát tại kinh hình ngục, vốn muốn các ty khác tổng lĩnh xem xét việc vi phạm và chậm trễ, để thận trọng trong việc ngục tụng. Nay đã bãi bỏ và giao về Hình bộ, không còn chế độ củ sát và tâu báo, xin từ nay giao hết chức vụ củ sát cho Ngự sử đài kiêm lĩnh việc hình sát[2], Hình bộ không được can thiệp. Còn việc hình ngục ở Ngự sử đài[3], lệnh cho Thượng thư tỉnh Hữu ty củ sát.” Được chấp thuận.

(《Chính mục》 chép: Việc hình ngục tại kinh giao cho Đài sát, theo lệ cũ thi hành pháp sát, Lã Đào xin khôi phục ty Củ sát và Viện Thẩm hình, cần xem xét.)

[15] Ngày Kỷ Mùi, Môn hạ tỉnh tâu: “Khai Phong phủ và Đại Lý tự tâu xét các án từ, đều giao xuống bản tỉnh lần lượt xét xử, rồi mới giao Đại Lý tự định đoán, thành ra chậm trễ. Xin từ nay lệnh cho các cơ quan trong tấu án dán thêm: ‘Xin giao xuống Đại Lý tự và án từ của Khai Phong phủ, Đại Lý tự.’ Đợi đến khi định đoán xong hình danh về tỉnh[4], mới tiến hành phong bác.” Được chấp thuận.

[16] Ngày Canh Thân, sứ giả Hạ quốc là Đỉnh Lí, Vượng Dụ Lặc Ninh đến chầu ở điện Diên Hòa, dâng cống phẩm mừng lên ngôi.

[17] Khởi cư xá nhân Lâm Hi làm Khởi cư lang, Hữu ty lang trung kiêm Trứ tác tá lang Tằng Triệu làm Khởi cư xá nhân, Thừa nghị lang, Trực Long đồ các Văn Cập làm Hữu ty viên ngoại lang[5], Triều phụng đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung Hàn Tông Sư làm Trực bí các.

(Ngày 23 tháng 5, Mậu Dần, Tông Sư bị bãi chức, ngày 8 tháng 6, Giáp Ngọ, Cập bị bãi chức[6].)

[18] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu:

[19] Thần trộm thấy trong chiếu chỉ bổ nhiệm có việc phong cho Hữu ty Lang quan Hàn Tông Sư làm Trực bí các. Khi mệnh lệnh vừa ban ra, các bậc sĩ đại phu đều bàn tán xì xào, nhìn nhau mà chê trách. Họ cho rằng bệ hạ tôn kính bậc lão thành, ưu đãi cựu tướng, thật là việc đức lớn, nhưng không thể không coi trọng danh khí, không thể không kiêng sợ dư luận. Nay dư luận đều nói: “Đô ty là chức vụ trọng yếu trong thiên hạ, không phải để dành cho con em thân tín; Bí các là chức vụ thanh cao trong thiên hạ, không phải để sủng ái con cái của bậc đại thần đang ở nhà.” Điều này chắc chắn là do các đại thần chấp chính nắm bắt được tấm lòng quý trọng người già của bệ hạ, nên đã tiến cử trước mặt, cho rằng việc này trên là để làm vui lòng bệ hạ, dưới là để kết thân với bậc lão thần. Nếu không phải là dụng ý gian tà, sao lại có thể làm như vậy?

Bệ hạ đã mời Ngạn Bác vào triều, đối đãi bằng lễ nghi tột bậc, giao phó việc trọng đại của thiên hạ, nhưng ông ta chưa nhận chức mà các đại thần chấp chính đã tiến cử con ông ta giữ chức vụ trọng yếu. Thiên hạ nghe tin này, đều cho rằng triều đình dùng tình cảm cá nhân để phân phát chức vụ, nương nhẹ đối với bậc nguyên thần, làm tổn hại đến uy danh của thánh quân, không làm rạng rỡ cho bậc đại thần, mà tấm lòng vì nước của bậc lão thần cũng chắc chắn không yên. Bệ hạ đã giao cho Giáng, vốn là cựu tướng, trấn giữ Bắc môn, Tông Sư mặc áo gấm hầu hạ cha, không ra khỏi nhà riêng, mà lại được ngồi xử lý công việc của chuyển vận sứ, ân sủng của quốc gia sâu dày không ai sánh kịp, sao lại còn vô cớ phong thêm chức vụ trong quán các? Đối với cha con họ Giáng, ân sủng đã quá lớn, nhưng không biết rằng những người tài giỏi đang cống hiến khắp bốn phương sẽ nghĩ sao? Sủng ái một người mà khiến nhiều người chán nản, đó không phải là mưu kế trung thành với bệ hạ. Thần thật không nỡ nhìn bọn gian thần lợi dụng ân sủng của chúa thượng để lập phe đảng, mượn thế lực của triều đình để mua chuộc lòng người, khiến thiên hạ nghi ngờ đức Vua của chúng ta. Nếu lời bàn này xuất phát từ Công Trước, thì Công Trước đã thay đổi tiết tháo; nếu xuất phát từ Tảo, thì Tảo đã dung túng kẻ gian. Thanh Thần nhu nhược không quyết đoán, nên không đáng trông cậy. Nhưng Đại Phòng cũng đã sai lầm khi không tranh luận. Thần vốn là quan gián, lấy việc can gián làm trách nhiệm, đã nghe dư luận, không dám không tâu lên bệ hạ, mong bệ hạ sáng suốt xem xét.

[20] Thiếp hoàng tâu rằng: “Thời tổ tông, cha anh ở hai phủ thì con em chưa từng giữ chức vụ quan trọng, để tỏ ra công bằng với thiên hạ. Từ khi Vương An Thạch chuyên quyền, không đoái hoài đến công luận mà tiến cử con em mình, bố trí vào những vị trí then chốt. Lúc ấy, những người nói lời can gián đều là thuộc hạ của ông ta, nên công luận không đến được tai trên. Nay Bệ hạ mở rộng con đường công đạo để khích lệ triều đình, tất phải dẹp bỏ tệ này thì mới thành chính sự sáng suốt. Người trong thiên hạ thấy Bệ hạ dùng lễ phi thường triệu vị nguyên lão vào triều, ai cũng ngóng cổ xem động tĩnh. Nay chưa thấy việc gì khác mà đã dùng con của ông ấy vào chức thanh yếu, người trong thiên hạ không biết đó là mưu kế của gian thần, ắt sẽ có lời bàn tán về vị nguyên lão. Gian thần đối với nguyên lão, vừa muốn lấy lòng để kết thân, lại muốn làm nhục để bịt miệng, đều nhằm dựa vào uy thế của ông ấy để chuyên quyền. Điều này Bệ hạ không thể không xem xét. Vả lại, tông sư e ngại dư luận của sĩ phu, ắt không dám nhận mệnh mới ngay, sẽ đến từ chối. Bệ hạ nhân đó khen ngợi ý tốt của ông ấy, thuận theo để thành toàn việc tốt, thì trên dưới đều được trọn vẹn.”

[21] Nham Tẩu lại tâu: “Thần gần đây tâu việc chấp chính bổ nhiệm Văn Cập làm Hữu ty lang quan, Hàn Tông Sư làm Trực bí các không hợp với công luận. Nay xét thấy việc bổ nhiệm ngày mồng 4 hoàn toàn do Trương Tảo quyết định, thần vốn nghi ngờ người này, quả nhiên đúng như vậy, gian tà khó phòng ngừa đến thế sao! Đây là lý do mà các minh vương xưa không lấy việc phòng gian tà làm điều tốt, mà lấy việc xa lánh gian tà làm điều tốt. Bề tôi trung thành không lấy việc đánh đuổi gian tà làm tài năng, mà lấy việc loại bỏ gian tà làm hiệu quả. Kẻ gian tà đều xuất phát từ tư ý, thừa cơ hội gây rối, việc gây rối không phải vô cớ, ắt có mục đích. Sau Thái Xác, Chương Đôn thì không ai bằng Trương Tảo. Gian tà trong triều đình giống như trộm cướp, binh lửa trong nhà, nếu không loại bỏ chúng thì không thể yên giấc. Thời Đường Mục Tông, phiên trấn Hà Bắc ngang ngược, là mối lo của triều đình, Vua sai tể tướng hiền tài là Bùi Độ đi đánh dẹp, nhưng Hàn lâm học sĩ Nguyên Chẩn ngày ngày ở bên cạnh, cản trở việc này, Bùi Độ bất đắc dĩ tâu rằng: ‘Dẹp giặc Hà Bắc dễ, dẹp giặc trong cung mới khó.’ Mục Tông bèn cách chức Nguyên Chẩn, Hà Bắc liền yên. Thần nghĩ rằng Trương Tảo cũng là giặc trong cung hiện nay, mong bệ hạ sớm loại bỏ hắn, để triều đình sớm được thanh tịnh.”

(Ngày 22, Lã Đào cũng tâu việc này, nay hợp lại vào đây.)

[22] Điện trung thị ngự sử Lã Đào tâu: “Thần thấy Văn Ngạn Bác sau khi được giáng chức, con trai ông là Văn Cập được bổ làm Hữu ty lang trung; Hàn Duy được bổ làm Môn hạ thị lang nhưng chưa nhận chức, cháu ông là Hàn Tông Sư được bổ làm Trực bí các. Dư luận sĩ phu xôn xao, đều cho rằng Trương Tảo nịnh hót xảo trá, không biết tiếc trọng danh khí của bệ hạ, muốn kết thân với Văn Ngạn Bác nên bổ nhiệm Văn Cập vào chức vụ quan trọng, muốn a dua Hàn Duy nên thăng chức Hàn Tông Sư lên chức vụ tốt. Thần cũng rất nghi ngờ việc này. Nếu việc bổ nhiệm hai người này hoàn toàn do ý chỉ của bệ hạ, thì chỉ vì Văn Ngạn Bác là bậc nguyên lão có công lao, nay đã giao trọng trách nên triệu Văn Cập vào chức thị tòng để tỏ lòng ưu đãi; còn Hàn Duy là cựu thần phụ tá Hàn Giáng, nay đã giao việc nặng nề nên thăng chức Hàn Tông Sư để an ủi lòng ông. Tuy nhiên, cả hai việc này đều không hợp lý. Văn Cập tuổi trẻ, không học hành, còn tính trẻ con, kinh nghiệm ít ỏi, chưa có thành tích gì, chức vụ Hữu ty là chức vụ trọng yếu của Đô tỉnh, quyền hành lớn, đường lối nghiêm ngặt, nên chọn người tài cao, đòi hỏi hiệu quả, không nên vì ân sủng mà tùy tiện trao chức. Hàn Tông Sư tuy sinh ra trong gia đình danh giá, nhưng vốn thiếu thanh danh, chỉ có thứ bậc đề hình, ngày ngày phụng dưỡng cha mẹ, không tham gia việc quan, ân lộc đã đủ, không thiếu thốn gì, huống chi chưa từng làm việc ở văn quán, sao cần phải thăng chức Trực các để sủng ái?

Nếu việc bổ nhiệm này thực sự do ý của Trương Tảo, thì đó là hành vi tư lợi, không còn kiêng dè gì, mượn quan tước của bệ hạ để kết thân với cha con đại thần, thật đáng sợ. Huống chi Vua còn nhỏ, thái hậu phụ chính, việc ngoài triều có nhiều điều không biết, mà chấp chính lại vun vén ân tư, bỏ qua công luận, đến mức như vậy. Thần mong bệ hạ xem xét kỹ lưỡng sự gian trá, xét rõ danh thực, nhân việc Văn Cập và Hàn Tông Sư từ chối chức mới, hãy thuận theo lời thỉnh cầu của họ, để thỏa lòng dư luận.”

[23] Lại nói: “Triều đình bổ nhiệm tuy nói là ba tỉnh cùng phụng mệnh thánh chỉ, nhưng căn bản thứ tự nghị bàn tiến trình đều xuất phát từ Trung thư, nên sĩ luận đổ lỗi cho Trương Tảo. Người truyền lại còn nói hai người này là Lữ Công Trước không vào mà chỉ có Trương Tảo bổ nhiệm. Nếu quả đúng như vậy, thì dấu vết a dua càng rõ ràng, không thể không xem xét. Lại như gần đây đặc biệt khởi dụng Trương Sân làm Tri châu Tô Châu, lại điều chàng rể của Hàn Duy là Dương Cảnh Lược làm Tri châu Dương Châu, cũng thuộc loại này. Thần không dám lải nhải tấu trình, sợ làm phiền thánh thính. Việc bổ nhiệm Hàn Tông Sư vào Bí các nếu xuất phát từ thánh ý, thì việc bãi hay không bãi xin được thánh đoán, còn mệnh lệnh về Văn và Hữu ty thì không thể không bãi, vì không phải người thích hợp, khó đảm đương vị trí này, xin hãy bổ nhiệm một Thiếu khanh, để hầu hạ cha mình, ân lễ cũng không phải là mỏng.”

[24] Chiếu cho Hình bộ Lang trung Đỗ Hoành cùng Hoàng Liêm điều tra việc trà ở Thành Đô phủ và các lộ.

(Ngày 25 tháng 4, Tô Triệt có nghị.)

[25] Lại chiếu cho Ty đề cử Thiểm Tây các lộ mua ngựa và giám mục, dùng ngựa mua ở Xuyên để chi viện cho quân ngựa Thiểm Tây, căn cứ số lượng đổi ngựa mua ở Thiểm Tây nộp về kinh sư.

[26] Cho con trai của Chức phương Viên ngoại lang Trương Thuật là Thân Bá làm Thái miếu Trai lang, vì Thuật từng dâng sớ về việc lập thái tử dưới thời Nhân Tông.

(Chính mục ghi việc ban quan cho một con trai của Thuật vào ngày 2 tháng 2.)

[27] Chiếu ban cho Dương vương và Kinh vương mỗi người một bản sách giám ở ngoại đệ. [7]

[28] Lệnh huyện Mân Thanh, Phúc Châu là Từ Thọ được cải làm Tuyên Nghĩa lang, vì Trương Nhữ Hiền nói Thọ khi thi hành pháp luật về muối, không để dân chịu nhiều thiệt hại.

[29] Ngày Tân Dậu, Tư Mã Quang tâu: “Thần vào ngày mồng 2 tháng này nghe có thánh chỉ, lệnh thần không cần đợi đến ngày nghỉ phép, đặc cách miễn lễ tạ chính thức, lại tạm miễn việc vào chầu ở các điện trước sau, cho phép thần ba ngày một lần được ngồi kiệu đến Đô đường họp bàn việc, hoặc đến Môn hạ Thượng thư tỉnh làm việc. Thần cho rằng ân lễ quá hậu, không dám nhận, liền làm tờ tâu xin từ chối. Đến ngày mồng 4, lại thấy Trung thư tỉnh có bản lục hoàng[8], phụng thánh chỉ theo lệnh trước không cho từ chối, lại lệnh Cáp môn thông báo, cho phép thần ngồi kiệu đến ngoài cửa Nội Đông môn, cho con trai là Khang đỡ thần vào Tiểu điện để dẫn vào chầu, đặc cách miễn lễ khởi cư, lệnh báo trước một ngày trước khi dẫn vào chầu. Như thế thì lễ nghi càng nặng, thần càng không dám nhận. Thần nghĩ Phú Bật là bề tôi phụ tá ba đời, đức cao vọng trọng, Thần Tông hoàng đế muốn gặp người, nên đặc cách ban lễ này, từ xưa chưa từng có, thần là ai mà dám so sánh? Huống chi bệ hạ tự mình ngự giá, đặc cách ngự ở Tiểu điện, để thần làm phiền bệ hạ, tội ấy rất lớn. Dù bệ hạ thương xót, nhưng thiên uy gần kề, e rằng thần sẽ không tránh khỏi lỗi lầm. Ân điển đặc biệt như thế, thần quyết không dám nhận. Xin chỉ đợi đến ngày bệ hạ buông rèm ở điện Diên Hòa để dẫn vào chầu, và xin được vào chầu[9].

Tuy nhiên, có việc bất đắc dĩ, dù biết là vượt quá phận, thần cũng không thể không tuân theo thánh ân. Hiện thần chưa thể lên xuống ngựa, lại có vết thương ở chân, rất sợ mồ hôi ngựa, xin theo thánh chỉ vừa ban, tạm cho phép thần ngồi kiệu vào trong, đến chỗ thường xuống ngựa thì xuống kiệu. Lại nữa, hai chân thần yếu, nếu không có người đỡ, thật sự không thể quỳ lạy, xin cho phép con trai thần là Khang vào điện, khi lạy thì đỡ thần, đợi khi khỏi bệnh sẽ theo lệ cũ. Như thế thì ơn trời đất đã quá lớn, thần dù chết cũng không đền đáp được. Còn các ân lễ khác, xin đều bãi bỏ.”

Chiếu lệnh cho phép ngồi kiệu đến ngoài cửa điện Sùng Chính, vào ngày buông rèm ở điện Diên Hòa thì dẫn vào chầu, còn lại đều theo lệnh trước.

(Sách 《Lữ Công Trước Gia Truyền》 chép: Tư Mã Quang bị bệnh chân lâu ngày, chưa thể vào tạ. Đến đây có chiếu đặc cách miễn lễ tạ chính thức và khởi cư, ba đến năm ngày một lần đến Đô đường hoặc Môn hạ Thượng thư tỉnh làm việc. Ngày Kỷ Mùi mồng 3, Công Trước tâu: “Quang bị bệnh lâu ngày, chưa thể vào chầu, dù được ân lễ, e rằng cũng không dám nhận. Lại nghe Quang cũng muốn có người đỡ vào chầu rồi mới nhận chức. Huống chi năm Hi Ninh đầu, Tả bộc xạ Phú Bật được điều làm Phán quan ở Nhữ Châu, vẫn được chiếu vào chầu, vì bệnh chân nên cho phép ngồi kiệu đến cửa Sùng Chính, cho con trai là Thiệu Long đỡ vào chầu. Lại vì từ cửa điện đến Diên Hòa còn xa, Tiên đế đặc cách ngự ở Tiểu điện Nội Đông môn để gặp, đó là theo lệ cũ, xin bệ hạ xem xét kỹ.” Thượng hoàng nghe theo lời tâu của Công Trước, nhưng Quang không muốn đến Tiểu điện. Ngày Mậu Thìn 12, cho con trai là Khang đỡ vào chầu ở điện Diên Hòa.)

[30] Ngày Nhâm Tuất, Thượng thư Tả bộc xạ kiêm Môn hạ Thị lang Tư Mã Quang làm Minh đường Đại lễ sứ, Thượng thư Hữu bộc xạ kiêm Trung thư Thị lang Lữ Công Trước làm Lễ nghi sứ, Môn hạ Thị lang Hàn Duy làm Nghi trượng sứ, Trung thư Thị lang Trương Tảo làm Lỗ bạ sứ, Đồng tri Xu mật viện sự An Đào làm Kiều đạo Đốn đệ sứ.

[31] Chiếu rằng: Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự Văn Ngạn Bác, lệnh đến dự đại triều hội để chúc mừng, còn yến tiệc thì tùy lúc có quan chức xin chỉ dụ, các việc quốc kỵ, lục tham, hành hương, phụng uỷ, tuyên đức âm ma chế, theo hầu đều được miễn.

[32] Chiếu rằng: Từ nay các chức Giám ty bỏ chữ “Quyền”“Quyền phát khiển”, không cấp cáo thư. Theo lời tâu của Trung thư tỉnh.

[33] Thái thường tự tâu: “Mùa thu chọn ngày làm lễ ở Minh đường, việc triều hiến ở Cảnh Linh cung, thân hưởng ở Thái miếu, nên dùng lễ ba năm không tế, cử đại thần thay làm việc.” Lễ bộ tâu: “Cảnh Linh cung và Thiên Hưng điện đều dùng lễ trời đất, không phải là lễ tế miếu, không trái với điển lễ.” Chiếu rằng: “Kính theo. Hai ngày trước lễ Minh đường, triều hưởng ở Thiên Hưng điện, Cảnh Linh cung.”

[34] Điện trung thị ngự sử Lâm Đán tâu: “Gần đây đã tấu hạch Vương Trung Chính cùng Lý Hiến, Tống Dụng Thần, Thạch Đắc Nhất, muốn trình bày lại, đã bị xử phạt nhẹ. Thần cho rằng kẻ ác lớn, thực là người mà thiên hạ đều bỏ. Nay dù chưa bị xử tử, cũng nên đày đi nơi xa. Lý Hiến, Tống Dụng Thần đã được ban thưởng vườn nhà, cũng nên thu hồi. Những người thân cận của Thạch Đắc Nhất như Trạch Kình, Quách Kình, có kẻ từ chức quan nhỏ nhờ công lao vu cáo mà lên đến chức Ngự tiền trung tá, xin truy đoạt chức tước và đày đi.” Lâm Đán lại tâu: “Trước đây việc thám báo công sự, Đại Lý, Khai Phong liên tiếp có tù nhân, từ năm ngoái đến nay, ngục tù đột nhiên sạch sẽ. Có thể thấy việc bịa đặt vu cáo đã đến mức tột cùng. Như Trạch Kình, Quách Kình, xin truy đoạt chức tước và đày đi.” Chiếu rằng Trạch Kình, Quách Kình, Quách Giám đều bị giáng chức sung vào quân bản thành, Trạch Kình làm Bộ quân phó đô chỉ huy sứ, Quách Kình làm Bộ quân phó chỉ huy sứ, Quách Giám giữ nguyên chức danh.

(Việc Quách Giám giữ nguyên chức danh cần xem xét. 《Cựu lục》 chép: Lâm Đán vu cáo tiên đế, phỉ báng không kiêng sợ, đã để yên việc phỉ báng, lại thi hành lời nói của y. 《Tân lục》 biện rằng: Trạch Kình, Quách Kình phạm tội, là do thám báo sai sự thật, không thể gọi là phỉ báng, nay xóa bỏ từ “Lâm Đán vu cáo tiên đế” đến “thi hành lời nói” hai mươi chữ. 《Cựu lục》 vào ngày 6 tháng này chép, Tam tỉnh tâu: Thượng thư thị lang, nội ngoại học sĩ, đãi chế, lưỡng tỉnh đài quan, tả hữu ty lang trung, các lộ giám ty hạn trong một tháng tiến cử người công minh liêm chính, có tài trị lý khó khăn, thuộc diện hợp lệ làm tri huyện hoặc huyện lệnh một người, lệnh Lại bộ không theo thứ tự, sai đến các huyện thuộc vùng trọng pháp, sau đó đến các huyện có nhiều trộm cướp trên một vạn hộ.” Theo đó. 《Tân lục》 theo 《Cựu lục》. Xét việc này nên ở ngày 22 tháng 11, hai lục đều sai, nay không lấy. Vẫn chú thích ở đây, chi tiết xem ngày 22 tháng 7.)

[35] Chuyển vận phó sứ Tử Châu lộ Lý Tông làm Tri châu Cát Châu.

[36] Trước đó, Giám sát ngự sử Tôn Thăng tâu rằng: “Thần trộm nghĩ rằng việc chú trọng gốc nông nghiệp là điều cần thiết hàng đầu trong việc trị nước. Triều đình thánh minh của chúng ta đặc biệt quan tâm đến các mệnh lệnh khuyến khích nông nghiệp. Những năm gần đây, các quan lại tham lam chỉ biết bóc lột, vơ vét để mong được thăng tiến, mà không hề quan tâm đến các biện pháp khuyến khích và thương xót dân chúng. Tệ nạn ngày càng nặng, giá lương thực ngày càng rẻ, nông nghiệp ngày càng suy yếu, trong khi đó, việc buôn bán ngày càng phát triển. Sự bóc lột của các quan lại gây hại đặc biệt nghiêm trọng đối với nông dân, ngoài các khoản thuế thông thường, họ còn đòi hỏi những khoản thuế vô danh. Vì vậy, vào năm được mùa, nông dân không đủ sức để trả nợ cũ, còn vào năm mất mùa, họ không thể tránh khỏi bị đánh đập, thật đáng thương. Bệ hạ đang lấy việc nuôi dưỡng và làm yên lòng dân chúng, thuận tiện cho cả công và tư làm mục đích, vì vậy đã bãi bỏ tất cả các khoản thuế vô danh, ân đức nhân hậu của Bệ hạ khiến cả nước đều hướng về.

[37] Thần thấy rằng Phó chuyển vận sứ Lý Tông của Lộ Tử Châu, trước đây ở Giang Nam, Lưỡng Chiết, Hoài Nam, lấy cớ điều tra những hộ bỏ trốn hoặc tuyệt tự, đã tăng thêm hàng vạn quan tiền và thạch gạo ngoài các khoản thuế thông thường, khiến dân chúng ba lộ này thực sự chịu khổ. Lúc đó, các quan được cử đến các huyện đều lập mức thưởng dựa trên số lượng quan tiền và thạch gạo, những quan này chỉ mong được thưởng, hoặc nhân cơ hội làm điều gian ác, việc tăng thuế chủ yếu rơi vào các hộ thuộc ba đẳng trở xuống, vốn có tài sản ít ỏi, thuế má lại nặng nề, gặp năm mất mùa thì lại bỏ trốn, khiến những gì thu được không đủ bù đắp những gì mất đi. Tại sao vậy? Vì những người mua được đất màu mỡ đều là những gia đình có thế lực, còn những người giữ đất cằn cỗi đều là hộ dân nghèo. Lý Tông vừa xin lập thưởng dựa trên số lượng quan tiền và thạch gạo, lại muốn lấy đó làm công lao để mong được thăng tiến, những người được cử không phải là người thích hợp, nên tệ nạn gian lận nảy sinh, vừa mong được thưởng, vừa nhân cơ hội làm điều gian ác. Những gia đình có đất màu mỡ thường may mắn được miễn thuế, còn những hộ dân nghèo có đất cằn cỗi thì đều bị tăng thuế thông thường, sức lực không đủ, nợ nần chất chồng, thân thể bị đánh đập, gia đình buồn phiền oán hận, đây là điều mà chính sách thánh minh cần đặc biệt quan tâm.

[38] Thần ngu muội mong Bệ hạ ban đặc chỉ, xuống cho các Ty đề cử ở các lộ đến các châu huyện, tự mình điều tra và xác nhận số thuế tăng thêm của các hộ thuộc ba đẳng trở xuống do Lý Tông điều tra trước đây, bảo đảm sự thật và tâu lên, đồng thời miễn trừ tất cả, để thể hiện ý nguyện nuôi dưỡng dân chúng của Bệ hạ.”

[39] Đến lúc này, các lộ đều tâu rằng Tông thường lấy số thuế đã khai từ những năm xa xưa, bắt dân chúng phải nhận nộp, vì thế có mệnh lệnh này.

[40] Điện trung thị ngự sử Lã Đào tâu rằng: “Tông tài nông cạn, không hiểu đạo trị nước, chỉ thích mưu lợi nhỏ, cầu công gần. Khi mới làm Chuyển vận phó sứ lộ Tử Châu, đã xin cho dân gian tìm kiếm lợi nhỏ để sung vào việc tu sửa, trong tờ tấu có câu: ‘Có thể làm rạng rỡ thời thái bình, tỏa sáng cảnh thịnh trị.’ Lời lẽ thô thiển, đáng cười lắm. Triều đình vừa giao cho Công bộ soạn điều lệ, Tông đến nhiệm sở liền ra sức thi hành ý kiến ấy, các quận huyện vâng theo ý chỉ, tìm đủ cách thu góp. Hoặc ở nơi hoang vắng dựng nhà cửa, bắt dân thuê mướn; hoặc ở đất không thể cày cấy, sai người trồng trọt; hoặc trước nhà dân, dựng thêm gian nhà; hoặc ở chợ quê nơi họp chợ buổi sáng, dựng lều tre vải[10], thu tiền, gọi là lợi nhỏ. Đến khi lời xin của Tông được lập thành pháp lệnh, các châu huyện trong thiên hạ liền đo đạc đường phố, chia cống rãnh, dù là đất đã nộp thuế, nhưng hễ lấn chiếm một tấc một thước, đều bắt nộp thêm tiền thuê. Nếu không chịu nộp, thì phá nhà, cắt mái, mới được miễn. Ở các châu quận Tây Xuyên, có nơi mỗi năm thu được tám trăm quan, suy ra cả nước, thu góp rất nhiều, đều do Tông bòn rút từng chút mà thành. Huống chi việc tu sửa vốn do Chuyển vận, Đề cử ty chia nhau đảm nhiệm, là phép thông thường, mong bệ hạ xét bãi bỏ, để ban ơn rộng rãi.

Lại nữa, thuế hai kỳ đổi vật trong thiên hạ, không đâu nặng bằng Thục. Một tấm lụa đổi ba trăm hai mươi đồng, một tấm lĩnh đổi ba trăm đồng, mỗi lạng tơ đổi mười đồng. Hộ thuế hạng dưới, hoặc lụa lĩnh không đủ một thước, hoặc tơ không đủ một lạng, hoặc gạo đậu không đủ một thăng, lại theo thể thức sổ sách, vải lụa phải ghi thước, lúa thóc phải ghi thăng, vì thế hộ nghèo phải cùng người trong làng gom số lẻ thành số chẵn, hợp thành một khoản để nộp, nhằm giảm ba loại hao hụt. Ví như tám hộ, mỗi hộ có một đồng tiền thuế, đổi lụa, thì hợp thành một khoản, cùng nộp một thước. Hoặc bảy hộ, mỗi hộ có một đồng tiền thuế, đổi lĩnh, thì hợp thành một khoản, cùng nộp một thước. Hoặc mười hộ, mỗi hộ có một đồng tiền thuế, đổi tơ hoặc bông, thì hợp thành một khoản, cùng nộp một lạng, và hao hụt cân một lạng. Hoặc mười hộ, mỗi hộ có một thăng gạo, thì hợp thành một khoản, cùng nộp một đấu, và hao hụt kho, hao hụt cân mỗi thứ một thăng. Từ trước đến nay phong tục như vậy, gom số lẻ thành số chẵn để nộp, đã quen thuận tiện, số thuế lớn cũng không thiếu hụt.

Tông đã nảy lòng bòn rút, không có cớ để khởi xướng, bèn kiểm tra sổ thuế năm Nguyên Phong thứ năm, rồi ra lệnh cả lộ không được gom số lẻ thành khoản, mà phải nộp riêng từng khoản. Ví như tám hộ, mỗi hộ có một đồng tiền thuế, vốn cùng nộp một thước lụa, nay mỗi hộ nộp một thước, thành tám thước. Hoặc bảy hộ, mỗi hộ có một đồng tiền thuế, vốn cùng nộp một thước lĩnh, nay mỗi hộ nộp một thước, thành bảy thước. Hoặc mười hộ, mỗi hộ có một đồng tiền thuế, vốn cùng nộp một lạng tơ hoặc bông, hao hụt cân một lạng, tổng cộng hai lạng, nay mỗi hộ nộp một lạng chính sắc, hao hụt cân một lạng, tổng cộng hai mươi lạng. Hoặc mười hộ, mỗi hộ có một thăng gạo, vốn cùng nộp một đấu, và hao hụt kho, hao hụt cân mỗi thứ một thăng, tổng cộng một đấu hai thăng, nay mỗi hộ nộp một thăng chính sắc, hao hụt kho, hao hụt cân mỗi thứ một thăng, tổng cộng ba thăng, vì thế hộ nghèo rất khổ sở.

Huống chi năm ấy thuế hai kỳ đã xong, lại bắt nộp bổ sung năm này, cả lộ thu được cũng đến mấy chục vạn tấm, lạng, lập thành định lệ, dân sao chịu nổi? Lại tăng tiền đầu tử nộp thuế của lộ này, dưới mười đồng đều tăng lên mười đồng. Cách làm như vậy, đủ thấy nông cạn sai lầm, mong bệ hạ ra lệnh cho lộ Tử Châu, tiền đầu tử nên gom số lẻ thành khoản, thi hành như cũ.”

[41] Lại nói: “Những lợi ích còn sót lại mà Tông đề xuất, chính giống như tiền xâm phạm đường phố ở Thiểm Tây, tiền xâm phạm đường phố đã được miễn, nhưng tác hại của lợi ích còn sót lại vẫn chưa được dẹp bỏ.”

[42] Lại nói: “Tông đã vi phạm điều lệ, không cho phép các hộ thuế gộp các khoản lẻ thành một, triều đình chưa trừng phạt, mà dám tự tiện lừa dối, lại vào ngày 15 tháng 8 năm ngoái, cùng với phán quan chuyển vận Tống Cấu liên danh trình lên Hộ bộ rằng, các hộ dân trong khu vực quản hạt không theo quy định gộp các khoản lẻ thành một để nộp, làm thiệt hại không ít thuế của triều đình. Do đó, lại muốn tăng thêm tỷ lệ hao hụt trên từng loại thuế, điều này càng cho thấy dấu vết lố bịch và hà khắc của hắn. Hơn nữa, các khoản thuế lẻ, đã có lệnh chỉ rõ ràng, cho phép các hộ dân gộp lại để nộp, chỉ cần tổng số lớn trên sổ sách đủ, thì không phải là thiệt hại thuế của triều đình, không vi phạm điều lệ. Tông và những người khác không cho phép các hộ dân gộp lại, ngầm tăng thuế lên gấp nhiều lần, lại còn muốn tăng thêm số lượng trong phần hao hụt nhỏ nhặt. Đây chính là việc dân chúng vốn không vi phạm điều lệ, mà Tông và những người khác tự mình không tuân thủ pháp luật, thu gom đến mức này, dân chúng làm sao chịu nổi! Hộ bộ thấy tờ trình của Tông, hoàn toàn không ngăn chặn, lại ban hành khắp các lộ để xem xét, kéo dài đến nay, vẫn chưa quyết định, các lộ cho rằng lời nói của Tông là đúng, thì thuế của dân chúng lại tăng thêm mấy lần nữa.”

[43] Lại tâu rằng: “Tông dâng thỉnh thu lợi còn sót để sung vào việc tu tạo, thu thuế hà khắc tỉ mỉ, gây hại khắp nơi, cùng với việc không cho phép dân chúng hợp các khoản lẻ thành tròn để nộp thuế, trái với chế sắc, ngoài thuế thường còn tăng thêm gấp mấy lần. Từ năm Nguyên Phong thứ 5 thi hành, đến nay đã được 6 năm, dân một lộ phải nộp thuế ngang ngược, gần đến hơn hai trăm vạn tấm lụa và lượng bạc. Thần tuy nhiều lần dâng sớ phân tích tâu bày, nhưng chưa được nghe theo. Gần đây nghe Tông vì việc tra xét thuế ở Giang, Hoài, bị giáng làm Tri châu Cát. Thần trộm nghĩ chưa hiểu ý triều đình, việc tra xét thuế vô danh cùng với việc tăng thêm các khoản lẻ, đều là thuế bạo ngược, gây hại thực sự như nhau. Nay dân Giang, Hoài được hưởng ân trạch của thánh thượng, đều được miễn giảm, còn phong tục Ba Thục chưa được hưởng ân huệ lớn, e rằng không phải là ý nhân từ không phân biệt xa gần. Huống chi nỗi khổ nơi xa xôi, triều đình thường lo không biết, đã biết rồi, lại không được cứu giúp? Đại để dân ở đó sợ quan phủ, nạn thuế lẻ đã thi hành nhiều năm, nay Tông tuy rời bộ, nhưng các quận huyện vẫn theo lệ cũ, không dám thay đổi, mọi người đều ôm hận, biết kêu ai? Thì thuế ngang ngược sẽ không bao giờ chấm dứt. Thần ngu muội kính mong thánh thượng đặc biệt ban chỉ huy xuống Chuyển vận ty lộ Tử Châu, hiểu dụ dân chúng, cho phép theo điều lệ hợp các khoản lẻ thành tròn, hợp sao nộp thuế. Để ân đức được ban bố đều khắp nơi xa xôi. Điều lệ thu lợi còn sót để sung vào việc tu tạo, cũng xin xét lại các bản tấu của thần giao cho Tu sắc sửa đổi thi hành.”

(Cựu lục chép: Trước đây, có quan lại tâu rằng Tông ở Giang Nam, Lưỡng Chiết, Hoài Nam lấy cớ tra xét dân di chuyển trốn thuế, ngoài thuế thường còn tăng thêm gấp mấy lần, bắt dân phải nhận nộp, nên mới có mệnh lệnh này, nay xét lời tâu hợp vào đây. Lời tâu của Đào cuối cùng không biết có được thi hành không.)

[44] Đông Lộ đề điểm hình ngục ty tâu: “Đề cử ty có sổ sách riêng, nay chiếu theo pháp thường bình thương thời Gia Hựu, xét theo biên sắc thương sắc thời Gia Hựu, qua bản xứ khảo xét, tâu lên Ty Nông tự làm tờ trình, Tam ty gửi đi khảo xét. Nay nghĩa thương, miễn dịch tuy đã bãi bỏ, nhưng vì có quan vật ra vào, thuộc quản lý của Trướng ty, văn bản sổ sách cần lại nhân khảo xét, xin lệnh cho Đề hình ty đợi đến hai năm nữa sẽ tâu lên việc cắt giảm.” Theo lời tâu.

(Phần mới bị cắt bỏ.)

[45] Miễn thuế rượu và tiền dẫn khúc cho dân hộ mười huyện Nhữ Dương thuộc Thái châu và trấn Dĩnh Kiều thuộc Nhữ châu, theo lời thỉnh cầu của Kinh Tây Lộ chuyển vận ty.

(Phần mới bị cắt bỏ.)

[46] Chiếu rằng những người dân đất Thiểm Tây, Hà Đông nhờ chiến công được bổ làm Điện thị, Quân đại tướng mà không muốn lên kinh đô, cho phép ở lại bản lộ.

[47] Hùng châu tâu: “Nhận được công văn của Trác châu, từ nay nếu ủy thác cho cơ quan phụ trách việc ghi chép trong mục sinh hi, viết rõ sứ, phó Quốc tín Bắc triều cùng ba tiết nhân tòng, lâu dài sẽ thuận tiện, cơ quan bản triều không bỏ trống chữ Nam triều, cũng bàn việc thay đổi riêng.” Chiếu rằng: “Lệnh cho Hùng châu gửi công văn sang Trác quận Bắc triều, từ nay khi ban tứ sinh hi cho sứ Quốc tín, mục tử Khách tỉnh đều chiết chi, trong mục đều ghi rõ sứ, phó Quốc tín Bắc triều cùng ba tiết nhân tòng.”

[48] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần nghe rằng thời Tam đại, mỗi năm có chín lần tế trời, hai lần tế đất, đều do thiên tử đích thân chủ trì. Vì vậy, trong các buổi tế lễ, có khi tế Hạo Thiên, có khi tế Ngũ Thiên, có khi tế Nhất Thiên, có khi tế Hoàng Địa Kỳ, có khi tế Thần Châu Địa Kỳ, nhưng đều đảm bảo trong một năm thiên tử đích thân tế lễ đủ các nghi thức. Đến thời cận đại, các lễ tế thường niên đều do quan lại đảm nhiệm, ba năm mới có một lần thiên tử đích thân tế lễ. Sự thưa thớt của việc thiên tử đích thân tế lễ[11], sự thay đổi giữa cổ đại và hiện đại, cách biệt lớn như vậy! Nhưng lý do khác nhau[12], cũng là do tình thế như vậy. Thần xin xét theo điển chế cũ của triều đình, ngày Đông chí tế ở Viên Khâu, đều kiêm tế trời đất, cùng tế bách thần. Nếu vì lý do gì không tế ở Viên Khâu, thì thực hiện nghi lễ khác, hoặc đại lễ Vu ở Nam Giao, hoặc đại lễ Hưởng ở Minh Đường, hoặc lễ Cung Tạ ở Thiên Khánh, đều dùng lễ nhạc và thần vị của Viên Khâu, ý nghĩa là vì hoàng đế không thể ba năm mà không đích thân tế trời đất và bách thần. Thần thấy rằng lễ Minh Đường năm Hoàng Hựu tuân theo phép này, là hợp lễ nhất. Từ sau năm Hoàng Hựu, mỗi khi tế Minh Đường, có khi dùng thuyết của họ Trịnh, chỉ tế Ngũ Thiên Đế, có khi dùng thuyết của họ Vương, chỉ tế Hạo Thiên Thượng Đế, tuy đều có căn cứ từ học thuyết cổ đại, nhưng xét theo điển chế cũ của triều đình, thì không thích hợp. Bởi vì các nho gia câu nệ cổ đại mà không hiểu hiện đại, lấy nghi thức thiên tử mỗi năm đích thân tế lễ để bàn về lễ đích thân tế lễ ba năm một lần của hoàng đế, nên mới có sự thưa thớt như vậy.

Nay hoàng đế bệ hạ kính vâng thiên mệnh, đã hơn một năm lên ngôi, sắp đến tháng chín sẽ cử hành lễ ở Minh Đường, nghĩa lý nên cùng tế trời đất, tế khắp bách thần, đích thân dâng lòng thành, để cảm thông với linh thiêng. Thần e rằng quan lại không hiểu ý nghĩa của lễ, lấy cổ đại phê phán hiện đại, cố chấp theo thuyết thiên lệch của họ Vương, họ Trịnh, làm rối loạn đại điển của triều đình. Lễ theo nhân tình, nhân tình yên ổn, thì thiên ý tất thuận. Nay hoàng đế bệ hạ bắt đầu đích thân tế lễ, trời đất bách thần đều được tế tự, há chẳng phải là hợp với nhân tình, thuận với thiên ý sao? Thần ngu muốn xin ban chiếu rõ ràng cho quan Lễ, lễ Minh Đường mùa thu này dùng điển lễ Minh Đường năm Hoàng Hựu, để lòng thành thấu đến trên dưới.”

(Ngày 16 tháng 6 có thể khảo cứu.)

[49] Ngày Giáp Tí, Hộ bộ Thị lang Triệu Chiêm tường định phép dịch.

[50] Long Đồ các Trực học sĩ, Đề cử Động Tiêu cung Trương Sân làm Tri châu Tô Châu. Sau đó, Ngự sử dâng tấu nói ông già yếu, nên bãi chức, vẫn giữ chức Đề cử Động Tiêu cung.

(Việc Ngự sử dâng tấu xảy ra ngày 21, ghi chung vào đây.)

[51] Cơ quan Tường định Nguyên Phong sắc lệnh Lưu Chí và các quan khác tâu: “Thần nghe rằng Hình bộ Lang trung Đỗ Hoành đã được ban sắc mệnh cùng Hoàng Liêm xem xét phép trà. Thần thấy rằng từ trước đến nay, các quan biên tu thường bị điều động bất định, khó có thể hoàn thành sách. Bởi vì quan trước dù đã tận tâm, nhưng quan sau đâu dám tin tưởng! Lại phải xem xét kỹ càng từ đầu đến cuối, nếu vội vàng biên soạn, lại thêm ý kiến khác nhau, ắt phải thay đổi, không chỉ kéo dài thời gian, mà còn khiến việc thảo luận khó thống nhất. Nay việc trùng tu sắc lệnh, cách thức Nguyên Phong mới bắt đầu thiết lập cơ quan, Đỗ Hoành đang đảm nhiệm việc tường định, triều đình cho phép tạm thôi việc ký thư Hình bộ, là muốn ông chuyên tâm, bỗng nhiên lại sai đi sứ xa đến Tần Thục, thần thấy thật khó hiểu. Huống chi Hoành thông thạo pháp lệnh, ít người sánh kịp, nếu thay đổi người khác, chắc khó tìm được người xứng chức như Hoành. Thần xin triều đình sai người khác xem xét phép trà, để Hoành có thể hoàn thành tốt việc tường định, mong rằng sách biên soạn sớm hoàn thành.” Triều đình đồng ý.

(Hoành cuối cùng không có người thay thế, ngày 26 có thể tra cứu.)

[52] Điện trung Thị ngự sử Lâm Đán tâu: “Năm Hi Ninh đầu tiên, khi sửa đổi phép trợ dịch, Tri huyện Trường Cát châu Hứa là Lạc Kinh, Tri huyện Hồ Dương châu Đường là Lưu Mông, đều vì vào châu họp bàn về phép dịch, nên tự hặc tội, bị xử tội công tội đồ hai năm, mỗi người bị truất một chức, lệnh đình chức, tình cảnh thật đáng thương, mong triều đình cho các cơ quan xem xét sửa lại.” Lại xem xét lời tâu của cơ quan Tố lý sở: “Lạc Kinh nói phép dịch bất tiện, tự hặc tội, bị xử tội công tội đồ hai năm, việc này khác với tội tự ý bỏ chức, nên được xử khoan hồng giảm nhẹ.” Chiếu chỉ cho Kinh được đặc cách xóa tội, bãi chức trí sĩ, thụ chức Thừa nghị lang, triệu về kinh. Mông đã mất, ban cho 50 tấm lụa giao cho gia đình.

(Việc Kinh, Mông bỏ chức xảy ra tháng 12 năm Hi Ninh thứ 4.)

[53] Lễ bộ tâu: “Theo lễ mới đời Nguyên Phong, hoàng đế tế trời mặc áo cừu lớn, cầm ngọc khuê lớn. Nay áo cừu lớn tuy làm bằng da dê đen, nhưng may theo kiểu áo ngắn, mặc bên trong áo cổn, vẫn cùng áo cổn xuất hiện, còn ngọc khuê lớn có đầu tròn, cong về phía trước, e rằng chưa hợp lễ, xin giao Lễ bộ và Thái thường tự bàn bạc sửa đổi. Nay lấy ngọc khuê lớn dùng trong đại lễ trước đây, dài một thước hai tấc, vì ngọc quý khó kiếm, chỉ dùng theo chế độ từ thời Tây Ngụy trở về sau, muốn theo chế độ ngọc hốt thời Tây Ngụy, Tùy, Đường, vuông mà không gãy, trên dưới đều rộng ba tấc, dài một thước hai tấc, độ dày nên theo mẫu ngọc trấn khuê hiện nay. Còn áo cừu lớn sẽ bàn riêng.” Vua nghe theo, và ngọc khuê lớn nhẹ hơn sẽ dùng trong lễ Minh đường sắp tới.

[54] Lễ bộ lại tâu: “Vương An Thạch mất trong thời gian đại tang Thần Tông hoàng đế, hoàng đế không cần cử tang mặc tang phục.” Vua nghe theo.

[55] Hình bộ tâu: “Trước đây Hình bộ xét lại án tử hình có lập ty Xét lại, từ khi thi hành chế độ quan chức mới, án xét lại giao về các lộ Đề hình ty, Hình bộ không xét lại nữa, cũng không đặt lại quan lại. Nay nên khôi phục lại án xét lại, đặt hai viên hành án, hai viên không hành án, chức cấp chỉ dùng người cũ của bộ, không cần đặt riêng.” Vua nghe theo.

[56] Chuyển vận phán quan Hà Bắc là Đỗ Thuần tâu: “Việc phòng chống lũ lụt sông trước đây thuộc bản ty, số lần vỡ đê tính đến nay không tăng thêm, từ khi lập Đô thủy giám, cử thừa chuyên trách trị thủy, số lần vỡ đê so với trước cũng không giảm. Vì số lần vỡ đê nhiều hay ít, thực chất không liên quan đến việc có lập ty riêng hay không. Gần đây thêm một viên Đô thủy sứ giả trị thủy, thần cho rằng dùng vật liệu và huy động dân phòng chống lũ lụt, việc trách nhiệm giống hay khác, đều có chỗ bất tiện, xin Đô thủy giám không cần phân quan chuyên trị, chỉ nên giao trách nhiệm cho bản ty. Đã giảm bớt quan lại ngoại giám, nên đặt hai viên thuộc quan của bản ty, đi lại xử lý công việc. Tùy việc gấp hay không, theo thời gian mà bố trí sứ phó, phán quan thay nhau đi kiểm tra, trách nhiệm tập trung về một mối. Vật liệu xin theo như giám cũ, dùng vật liệu từ các lộ khác cung ứng.” Vua nghe theo.

(Cuối tháng 7, Lưu Chí nói thêm…)

[57] Hồ Bắc đô kiềm hạt, Chuyển vận ty tâu: “Thành Châu, Địa Lâm cùng các động khê khác gồm 1.454 hộ, chỉ có họ Dương được bổ sung vào ban hành, còn các họ lớn khác như Diêu, Thạch, Long, Lô, Ngô đều cảm thấy bất mãn. Hơn nữa, trong họ Dương cũng có người bị bỏ sót chưa được bổ sung đều hoặc nhận lộc không đồng đều. Xin điều chỉnh lại tiền lương, áo mặc cấp phát để mọi việc được công bằng. Nay các động Đại Do, Địa Lâm, Dương Khê, Cổ Thiết, Hồ Nhĩ, Tây Đạo, Tắc Khê cùng các động khê cũ thuộc Nguyên Châu, sau hơn 10 năm chiêu nạp, mới cắt về Thành Châu. Trong đó, Hồ Nhĩ, Tây Đạo, Tắc Khê đã có chiếu không cho chiêu nạp. Nếu các động Đại Do được bổ sung chính danh, thì tiền lương và các khoản khác e rằng sẽ khác biệt với các man Hồ Nhĩ, dẫn đến kiện tụng.” Chiếu cho Hồ Bắc đô kiềm hạt và Chuyển vận ty thi hành theo cách của các động Hồ Nhĩ, Tây Đạo. Nếu có điều gì chưa tiện, hãy tâu lên.

[58] Chiếu cho Thành Châu xây dựng trại La Mông, Thiên Thôn[13], bảo Đại Do. Ban thưởng cho 804 người thuộc hiệu dụng quy minh ban hành đầu thủ, thăng chức, gia cấp, ban tơ lụa theo thứ bậc, vì có công hiến đất, chặt tre gỗ, mở đường.

[59] Ngày Ất Sửu, Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận ty tâu: “Nguyên Châu và Thành Châu nay đã bãi bỏ phép miễn dịch, nếu áp dụng ngay chế độ sai dịch như nội địa, e rằng người man mới quy phụ khó theo kịp. Xin cho Nguyên Châu và Thành Châu vẫn giữ chế độ mộ dịch như cũ, đợi khi người mới quy phụ quen thuộc, sẽ áp dụng chế độ sai dịch như Thần Châu.” Được chấp thuận.

(Không có trong bản mới.)

[60] Hữu ty gián Tô Triệt tâu:

[61] Thần nghe rằng từ xưa, phép kinh chế quốc dụng cho rằng lúa gạo và vải lụa là do dân sinh ra, nên thu về mà cất giữ trong kho quan; tiền tệ là do nhà nước tạo ra, nên phát ra mà phân tán cho dân. Ý nghĩa thường là dùng cái mình có để đổi lấy cái mình không có, có và không giao nhau thì quốc dụng sẽ đủ. Vì vậy, trước thời Hi Ninh, dân gian nộp thuế hai lần đều dùng gạo, lúa mì, vải lụa, tuy có các loại tiền tạp nạp khác, nhưng đều được quy đổi bằng lúa gạo và vải lụa, chưa từng nộp bằng tiền. Tiền vào kho quan chỉ có thuế trà, rượu và các lợi tạp mà thôi[14]. Tuy nhiên, lúc đó, các quận phía đông nam vẫn khổ vì thiếu tiền, tiền nặng mà vật nhẹ, có nạn khan hiếm tiền. Từ thời Hi Ninh trở lại đây, dân gian phải nộp tiền để miễn dịch, lại phải nộp tiền lãi thường bình, tiền trong kho quan chất đống đến mục nát mà không thể kiểm đếm, tiền quan trong dân gian bị thu gom gần hết. Trên thị trường, phần lớn dùng tiền tư đúc nhỏ, có và không không giao dịch được, nông phu và phụ nữ làm lụng vất vả mà không bán được hàng, tiền thường bình và tiền dịch chất đống như núi mà không cứu được nạn đói kém, từ hơn mười năm nay tích tụ thành tệ nạn này, đến nay đã đến cực điểm. Triều đình gần đây tuy đã giảm bớt thường bình, bãi bỏ miễn dịch, cho dân nghỉ ngơi, nhưng tiền vẫn tích tụ trong kho quan, không có cách tiêu thụ, dân không có tiền mặt, trăm vật càng rẻ, ví như người đói, tuy đã có thức ăn, nhưng không có gì để uống, khát lâu không chữa, cũng có thể chết.

[62] Thần trộm thấy triều đình ta xây dựng kinh đô, theo quy chế cũ của nhà Chu, không dựa vào thế hiểm yếu của núi sông, mà lấy việc đóng quân làm chỗ phòng thủ. Từ thời tổ tông đến nay, vận chuyển lương thực từ phương Đông Nam, tích trữ nhiều quân lương, bên trong làm vững gốc rễ, bên ngoài uy hiếp bốn phương, lúc thịnh vượng đủ dùng hơn mười năm. Gần đây, việc vận chuyển hàng năm hao tổn, bán ra không tiết chế, kho Thái thương không có lương thực dự trữ đủ năm năm, kế hoạch quốc gia yếu kém, người có thức giả đều lo lắng. Đến như lương thực của các lộ quân đội, đại để đều không có sự chuẩn bị. Trong khoảng thời gian Hi Ninh, phương Đông Nam đại hạn, dân gian thiếu lương thực, quan lại muốn cứu tế nhưng không có cách nào, đành phải bắt ép người giàu, thu gom từng đấu thóc để cứu giúp hàng vạn người, tốn công mà chẳng được gì, chỉ để lại tiếng cười. Hiện nay, các ty chuyển vận ở các lộ đã lâu không có thương nhân hoạt động, nông dân mệt mỏi bệnh tật, nên thuế rượu không thu được; việc mua sắm quân khí, vật dụng tạp nhạp, đóng gói thiếu hụt quần áo lương thực, nên kinh phí không đủ. Triều đình tuy muốn làm vững kinh sư bên trong, làm vững các quận bên ngoài, nhưng các cơ quan thiếu thốn, không có cách nào thực hiện.

Thần xin được chỉ đạo các ty chuyển vận ở phương Đông Nam mượn tiền hiện có từ kho Thường bình của lộ mình, gặp năm được mùa giá lúa vải rẻ, mua trước ba năm lương thực cung ứng và ba năm quần áo lương thực cho châu quân trong lộ, hạn trong ba năm thu mua dần dần, lập lại quy định nghiêm ngặt, không được dùng vào việc khác, và trong vòng năm năm thu gom tiền của trả lại. Ty Thường bình mỗi cuối năm phải báo cáo số tiền mượn ban đầu, số lượng vật phẩm đã mua và số tiền đã trả, ty Đề hình xác minh, trình lên Hộ bộ kiểm tra xem có vi phạm pháp luật hay không, tâu lên triều đình. Mọi việc liên quan đến mượn tiền mua lương thực, nếu có vi phạm pháp luật, đều cho phép ty Đề hình phát hiện và tâu lên. Chỉ cần tiền tệ lưu thông, đủ để khích lệ bốn dân, lưu chuyển hàng hóa; kho tàng đầy đủ, đủ để nuôi dưỡng các quân, phòng chống thiên tai, thì trên dưới đều đủ, công tư đều được lợi. Nếu chấp thuận lời thỉnh cầu của thần, xin hạ lệnh cho Hộ bộ lập pháp thi hành.

[63] Tờ thiếp hoàng nói rằng: Số tiền mượn từ Ty Thường bình không phải là lấy trực tiếp để cung cấp cho quốc dụng, nên chỉ huy Ty Chuyển vận bắt buộc phải hoàn trả đúng hạn, đảm bảo tiền của Ty Thường bình không bị cạn kiệt lâu dài, và Ty Chuyển vận khi cần kíp có thể mượn được, thực sự là lợi ích lâu dài.

[64] Điện trung thị ngự sử Lâm Đán tấu: (Biên loại chương sớ ngày 9 tháng giêng.) “Xin đặc biệt chiếu cho các cơ quan hữu trách, lấy lời thần nói, tham khảo ý kiến trước, lựa chọn các kho tàng, trường vụ trong kinh thành và các cơ quan hình ngục cần áp dụng luật kho, cho phép vẫn giữ như cũ, còn các cơ quan khác, quan lại tùy theo tội phạm mà xử theo luật lệnh, những người được hưởng lộc theo đó cũng giảm bớt, tất cả các ân điển về thăng bổ, xuất chức trước đây vẫn thi hành theo pháp cũ.”

(Việc tuân theo hay không cần xem xét.)

[65] Ngày Đinh Mão, chiếu rằng từ chức Đại Lý bình sự trở lên không được thi lại về hình pháp.

[66] Hữu ty gián Tô Triệt nói:

[67] Thần trước đây đã bốn lần dâng chương nói rằng Thái Kinh làm tri phủ Khai Phong, thi hành phép dịch, rõ biết số người theo phép cũ quá nhiều, gần đây có thánh chỉ cho phép các châu huyện xem xét có gì trở ngại hay không, đến việc niêm yết sổ sách định người đi phục dịch cũng không hạn ngày, nhưng Kinh trái lệnh này, sai người giám sát ép hai huyện Khai Phong và Tường Phong, cứ theo số người cũ, trong mấy ngày phải định xong, ý muốn làm phiền dân để ngăn cản phép tốt, lại còn Kinh bẻ cong phép luật để che chở cho Đoàn Kế Long trong vụ án tham nhũng, xin trước hết bãi chức sai phái của Kinh, thúc giục Đại Lý Tự kết án xử phạt, nhưng triều đình không thi hành. Sau đó vì Kinh xin ra làm quan ngoài, đặc cách bổ làm tri phủ Chân Định, thần lại dâng lời nói, Chân Định là đại phiên, không nên giao cho người mới tiến thân, có tội mà chưa xét xử, triều đình cũng không xem xét. Nay thần thấy phán quan chuyển vận lộ thành đô phủ là Thái Mông, thi hành phép dịch không xem xét có gì trở ngại hay không, thúc ép các châu huyện định người đi phục dịch nha tiền, quan tường định phép dịch là Hàn Duy nói rằng việc này hại dân, ngay hôm đó giáng làm tri quân Quảng Tế. Thần xét rằng Thái Kinh và Thái Mông đều là người thi hành phép dịch, dùng ý khắc nghiệt, muốn làm phiền nhiễu dân chúng, phá hoại phép tốt. Nhưng Kinh làm quan trong hàng thị tòng, trong triều có đảng phái, được thăng làm phiên trấn, còn Mông vì quan nhỏ không có đảng[15], bị giáng làm tri quân, cùng tội mà hình phạt khác nhau, công luận không bằng lòng.

[68] Thần lại thấy Đại Lý tự tra xét việc Lý Ung tố cáo Đoàn Xử Ước, con trai của Đoàn Kế Long, tri châu Tế Châu, đã dùng tờ khai trống danh tiến phụng của cha mình để triệu người mua, đòi ba nghìn quan tiền, và tâu việc nhà họ Trương ở Hình Châu giả làm cháu ngoại. Thần xem xét kỹ lời tố cáo của Lý Ung, tội danh của Đoàn Kế Long không nhẹ, nếu không có bằng chứng thực, thì Lý Ung không thể không bị tội vu cáo, đây là lẽ thường của việc xử lý công vụ, Thái Kinh không thể không biết. Nay đã coi Đoàn Kế Long là vô tội, lại phán tha bổng Lý Ung, tự mâu thuẫn nhau, giống như trò trẻ con, thì việc nhận hối lộ và thay đổi thái độ là rõ ràng, không cần tra xét cũng thấy. Nay Đại Lý tự dám công khai thiên vị, để Thái Kinh tùy tiện phân tích, không tra ra được sự thật. Thần nay nghe được trong vụ án này, bản tự đã dung túng Thái Kinh không làm việc công bằng, không điều tra tận gốc, xin trình bày rõ như sau:

[69] 1. Lý Ung ban đầu đệ đơn tố cáo Đoàn Xử Ước, Thái Kinh cho rằng Xử Ước là chủ sự ở Thượng thư đô tỉnh, là quan nên phải báo lên tỉnh để bắt, liền phán chữ “Thân”. Sau đó lại nói Xử Ước có lẽ không phải là chủ sự, bèn xóa chữ “Thân”, phán bắt người khác, bắt Đoàn Xử Ước phân tích rõ sự thật để tâu. Điều này rõ ràng là có gian lận. Nếu Đoàn Xử Ước là chủ sự, thì phải báo lên để bắt. Nếu không phải chủ sự, thì phải bắt ngay. Sao có thể xóa chữ “Thân” rồi không bắt? Rõ ràng là nhà họ Đoàn chưa đút lót, Thái Kinh liền làm theo lẽ công mà báo lên để bắt Xử Ước, khi đã đút lót rồi thì miễn bắt.

[70] 2. Lý Ung tố cáo Xử Ước bán ân huệ tiến cử, đã có số tiền và tên người mua bán cụ thể, lẽ ra phải đưa đơn tố cáo và người bị tố cùng các nhân chứng đến cơ quan có thẩm quyền điều tra. Nay chỉ bắt được nhân chứng, để họ khai báo gian dối, nói rằng không phải triệu người mua, thủ phân Vương Sự An xin đưa đến cơ quan có thẩm quyền, Thái Kinh cố chấp không chịu, chỉ lấy lời khai gian dối làm bằng chứng, rõ ràng là có gian lận.

[71] 1. Kinh đã không chịu tra xét kỹ lưỡng để làm rõ sự thật, lại còn tìm cách tạo điều kiện thuận lợi cho Xử Ước, hỏi quan tiến tấu xem ai đã tâu lên, nhằm phù hợp với phân tích của Xử Ước. Thần chưa từng thấy quan ty tra xét tội nhân mà không cho hai bên đối chất, lại đi tìm chứng cứ bên ngoài để kết luận vụ việc.

[72] 2. Kinh đã dựa vào lời khai hư cấu của mọi người, cho rằng Lý Ung nguyên trạng là vu cáo, đã phê một chữ “Khám”, tức là muốn tra xét tội vu cáo của Lý Ung, nhưng sau đó lại xóa chữ “Khám”, phê một chữ “Phóng”, rõ ràng là biết Lý Ung không phải vu cáo, không dám tra hỏi. Nay Đại Lý tự lại để cho Kinh đổ lỗi rằng Lý Ung tự thú nên phê chữ “Phóng”. Thần xét thấy Lý Ung chỉ tự thú tội đồng lõa bán chức, chứ chưa từng tự thú tội vu cáo Đoàn Xử Ước, sao lại dùng lý do tự thú để phê “Phóng”? Thật là hư cấu, như lừa dối trẻ con. Quan lại Đại Lý tự không thể không biết, rõ ràng là thiên vị bao che.

[73] Xin triều đình xem xét kỹ. Bốn việc trên cho thấy Kinh nhận hối lộ, bao che cho Đoàn Xử Ước, tâu trình gian dối, tội tư lợi phải chịu hai năm tù và tội bán chức hơn ba nghìn quan chưa nhập vào túi riêng, dù không có tình tiết gian lận, nhưng sự ngu muội và bất tài đã đáng bị giáng chức, huống chi còn có bốn việc trên, tình hình rất rõ ràng, lại thêm việc sai phái trước đây không đúng, cùng tội với Thái Mông, tích tụ gian tệ, nên xử phạt nặng. Quan lại Đại Lý tự dám nhìn theo quyền thế, thiên vị tha tội cho Thái Kinh, cũng xin xử phạt nặng. Nếu triều đình chưa tin lời thần, xin giao cho Ngự Sử Đài tra xét lại, sẽ thấy sự thật rốt cuộc thế nào[16].

[74] Ban đầu, Ngự Sử Trung Thừa Lưu Chí tâu:

(Chương này không rõ thời gian, nhân ngày 12 tháng 5 có chiếu cho Tôn Giác đặt ra quy chế học tập, nên phụ chép vào đây. Xét sau đó Chí xin bãi bỏ việc lập cục, là ngày 15 tháng 5 tâu lên.)

[75] Thần trộm nghĩ rằng chế độ nhà trường chủ yếu là để giáo dục nhân tài, không phải là nơi thi hành pháp luật. Khi mọi người tụ tập đông đúc, cần phải có người lãnh đạo để điều chỉnh, vì vậy không thể không có pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật được đặt ra cho nhà trường nên có lễ nghĩa tồn tại. Những năm gần đây, Thái học thường xuyên xảy ra các vụ án lớn, sự việc đều xuất phát từ sự vu oan, do đó các cơ quan hữu trách đã dựa vào đây để tạo ra các luật lệ cấm đoán, phiền phức và nghiêm ngặt, khiến những người học ở đây chỉ cần xoay người nhấc chân là đã vướng vào lưới pháp luật, bị trói buộc hơn cả việc xử án, điều khoản nhiều hơn cả việc phòng trộm cắp, trên dưới nghi ngờ lẫn nhau, chỉ cầu mong thoát khỏi tội lỗi, ý nghĩa của tiên vương, lễ nghĩa và mục đích giáo dục đã mất hết. Có điều rất kỳ lạ trong pháp luật, đó là cấm bác sĩ và các học sinh gặp nhau, khiến việc giảng dạy không thể thực hiện, việc hỏi đáp không có nơi để dựa, chỉ có bác sĩ hàng tháng đi tuần tra các trai phòng mà thôi. Họ cho rằng như vậy thì người hỏi sẽ đối diện với đám đông, đủ để làm chứng cứ, để ngăn chặn việc thỉnh cầu riêng tư[17], để ngăn chặn việc hối lộ. Than ôi, chính lệnh của nhà trường, há chẳng phải là điều trái ngược hoàn toàn với ý của tiên vương sao! Việc thỉnh cầu riêng tư và hối lộ[18], như vậy thực sự có thể ngăn chặn được không? Hơn nữa, số lượng trai phòng không thống nhất, không thể phân chia theo kinh điển, nên bắt họ kiêm nhiệm tuần tra. Ví dụ như bác sĩ 《Chu Dịch》 có khi tuần tra trai phòng 《Trị Lễ》, bác sĩ Lễ học lại tuần tra phòng 《Trị Thi》, thường khi đến nơi thì chuẩn bị lễ nghi hỏi đáp, cùng nhau chào hỏi, thậm chí có khi không nói một lời nào rồi lui.

Xưa kia, việc thiết lập chế độ giáo dục nhà trường, thầy trò hỏi đáp, khai phát tư duy, cùng nhau uốn nắn phản biện, khuyên bảo ân cần, ý nghĩa của nó không hời hợt như vậy, đạo lý của nó không mỏng manh như vậy. (Chú: hộc, nghĩa là mỏng. Nghĩa có thể thông.) Tiên vương đối với thiên hạ, đối xử với người bằng đạo lý của bậc trưởng giả quân tử, thì người ta ắt sẽ có hành vi của bậc trưởng giả quân tử, và báo đáp với bề trên sẽ có lễ nghĩa; đối xử với người bằng đạo lý của kẻ tiểu nhân chó lợn, thì họ sẽ tự coi mình là kẻ tiểu nhân chó lợn, và báo đáp với bề trên sẽ không có nghĩa khí. Huống chi là trong nhà trường!

Thái học tự đặt ra chế độ tam xá, nhưng đến nay vẫn chưa từng đào tạo được một người tài nào, lẽ nào thực sự không có người tài sao? Các quan chức vì sợ hãi tai họa trước đây, sợ tội tránh tiếng, dù có người tài giỏi xuất chúng, ai dám đề bạt, tự nhận trách nhiệm với nhân tài mà đặt họ lên hàng đầu? Đó là do tiên đế có ý tốt muốn phát hiện và đào tạo nhân tài, nhưng các quan chức lại dùng pháp luật để làm hại. Thần ngu muốn mong bệ hạ xem xét kỹ lưỡng, bãi bỏ lệnh cấm bác sĩ và học sinh không được gặp nhau, cho phép họ được hỏi đáp và đi lại trong trường, nếu có việc thỉnh cầu riêng tư hoặc nhận hối lộ, thì tự tuân theo luật lệ, ngoài ra xin trước tiên thi hành các điều lệ hiện hành của Thái học, giao cho các quan chức của bản giám xem xét, giảm bớt những điều phiền phức quá mức, lấy những điều có thể thực hiện thuận tiện hiện nay, có thêm bớt, soạn thành điều lệ, trình lên Lễ bộ xem xét lại, rồi trình lên Tam tỉnh, để nghe lời phán quyết của bệ hạ.


  1. Tiên đế hưng học dưỡng sĩ, xét văn dưới chép 'từ tiên đế hưng học', chữ 'học hiệu' có lẽ nên sửa thành 'hưng học'.
  2. Giao hết chức vụ củ sát cho Ngự sử đài kiêm lĩnh việc hình sát, 'Hình sát' nguyên là 'Củ sát', theo các bản, 《Tống sử》 quyển 163, Chức quan chí và 《Tống hội yếu》 Chức quan 4-20 sửa.
  3. Việc hình ngục ở Ngự sử đài, chữ 'Hình' dưới nguyên có thêm chữ 'bộ', theo sách trên đã xóa.
  4. Đợi đến khi định đoán xong hình danh về tỉnh, chữ 'đáo' nguyên thiếu, theo các bản bổ sung.
  5. Trực Long đồ các Văn Cập làm Hữu ty viên ngoại lang, án Văn Cập tức Văn Cập Phủ, là con thứ sáu của Văn Ngạn Bác, xem 《Tống sử》 quyển 313, truyện Văn Ngạn Bác. Duy theo 《Đông đô sự lược》 quyển 67, truyện Văn Ngạn Bác: 'Ban đầu, Cập Phủ khi Tuyên Nhân thái hậu nhiếp chính, vì kiêng húy của Lỗ vương nên chỉ xưng là Cập, đến khi Tuyên Nhân thái hậu băng, lại đổi tên là Cập Phủ.' Vậy trong thời Nguyên Hựu, nên gọi là Văn Cập mới đúng.
  6. Ngày 8 tháng 6, Giáp Ngọ, Cập bị bãi chức, chữ 'nhật' nguyên là 'nguyệt', theo các bản khác sửa lại.
  7. Chiếu ban cho Dương vương và Kinh vương mỗi người một bản sách giám ở ngoại đệ, các bản khác ghi là 'Chiếu ban cho Dương vương và Kinh vương mỗi người một bản sách giám ở ngoại đệ'.
  8. chữ 'đổ' nguyên bản thiếu, theo các bản khác và sách 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Tập》 quyển 53, tờ tâu 'Từ nhập đối tiểu điện tráp tử' bổ sung.
  9. hai chữ 'tịnh khất' nguyên bản đảo ngược, theo các bản khác và sách 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Tập》 sửa lại.
  10. Lập trúc bố điệm: 'Trúc' nguyên là 'hành', theo bản khác sửa lại.
  11. hai chữ 'thân tự' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Loan Thành tập》 quyển 37, bài 'Luận Minh đường thần vị trạng' bổ sung.
  12. trong sách trên chữ 'lý' viết là 'lễ', có lẽ đúng.
  13. Thiên Thôn nguyên bản là 'Thiên Tài', theo bản hoạt tự và 《Tống sử》 quyển 88, 《Địa lý chí》, quyển 494, 《Man di truyện》 sửa lại.
  14. Chỉ có thuế trà, rượu và các lợi tạp mà thôi, sách 《Loan Thành Tập》 quyển 38, tờ khải xin mượn tiền thường bình để mua lương thực cung cấp và các châu quân, chữ 'trà' dưới có chữ 'diêm'.
  15. Mông vì quan nhỏ không có đảng, các bản chép 'nhỏ' là 'ty', nghĩa tốt hơn.
  16. Cụm 'rốt cuộc thế nào' nguyên là chú thích nhỏ, căn cứ vào các bản và ý nghĩa văn bản, sửa thành chữ lớn.
  17. để ngăn chặn việc thỉnh cầu riêng tư 'thỉnh' nguyên văn là 'tình', theo 《Trung túc tập》 quyển 4 《Khất trùng tu Thái học điều chế sớ》 sửa lại.
  18. việc thỉnh cầu riêng tư và hối lộ 'thỉnh' nguyên văn là 'tình', theo bản các và 《Trung túc tập》 đã dẫn sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.