"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 378: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)

Bắt đầu từ tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông, ngày Mậu Thìn đến hết tháng.

[1] Tháng 5, ngày Mậu Thìn, ban chiếu cho Cấp sự trung kiêm Thị giảng Tôn Giác, Bí thư thiếu giám Cố Lâm, Thông trực lang sung chức Sùng Chính điện thuyết thư Trình Di, cùng với các quan trưởng và phó của Quốc Tử Giám xem xét và tu chỉnh các điều lệ về Thái học sinh của Quốc Tử Giám.

(Cuối tháng 10, Lã Chí xin bãi bỏ việc thiết lập cục này.)

[2] Khảo công lang trung Vương Tử Thiều được bổ làm Lại bộ lang trung. Sau đó, Ngự sử Lã Đào tâu rằng Tử Thiều có hành vi bất cẩn, nên bị cách chức và đổi làm Chủ khách lang trung. Lấy Chủ khách lang trung Chu Doãn làm Khảo công lang trung.

(Lời tâu của Lã Đào vào ngày 25, nay ghi chép kèm theo đây.)

[3] Ban chiếu rằng các án lớn của Đại Lý tự giảm thời hạn xử lý 10 ngày, các án vừa và nhỏ giảm 5 ngày.

[4] Lại ban chiếu rằng từ nay về sau, Lễ bộ không được nhận đơn xin thi đồng tử tụng thư.

[5] Trung thư tỉnh xin rằng từ nay, nếu các bộ tộc ngoại biên phạm tội, ngoài những trường hợp được giảm án theo luật, đều do địa phương xử lý theo quy định, không được tùy tiện tâu lên. Triều đình chấp thuận.

[6] Ban chiếu cho Trứ tác lang Phạm Tổ Vũ, Tuyên đức lang Du Sư Hùng, Triều thỉnh lang Trương Thục, Thừa nghị lang Chu Bột, đều được Trung thư tỉnh ghi tên. Đây là do Đồng tri Xu mật viện sự Phạm Thuần Nhân tiến cử.

[7] Ban chiếu cho Phụng nghị lang Quách Tri Chương được Trung thư tỉnh ghi tên. Đây là do Giang Hoài đẳng lộ phát vận sứ Trương Nhữ Hiền tiến cử.

(Quách Tri Chương, người Long Tuyền, năm Chính Hòa thứ nhất có truyện.)

[8] Ban chiếu bãi bỏ chức Thái quan lệnh, giao nhiệm vụ kiêm nhiệm cho Thái chúc và Phụng lễ. Đây là theo đề nghị của Lễ bộ.

(Trong truyện của Tiên Vu Sân có ghi: Sân làm Thái thường thiếu khanh, khi bãi bỏ chức Thái chúc của Thái thường tự, Sân tâu rằng: “Thần khảo đã định lại chế độ quan chế, Thái thường thiết lập chức Phụng lễ và Thái chúc mỗi chức một người, việc này hợp với chế độ cổ, khó có thể bãi bỏ, xin khôi phục lại, và xin triều đình chọn người có học hạnh.” Chiếu theo lời tâu. Ngày 22 tháng 7, khôi phục chức Thái chúc.)

[9] Hoàng thành sứ, Khâm Châu phòng ngự sứ Ngô Thuấn Thần được bổ làm Vĩnh Dụ lăng sứ.

[10] Hôm đó, Tả bộc xạ Tư Mã Quang lần đầu vào chầu ở điện Diên Hòa, con trai là Phụng nghị lang, Chính tự Tư Mã Khang đi theo hầu. Vua ban cho Tư Mã Khang áo mặc màu đỏ tía.

(Sách 《Vương Nham Tẩu triều luận》 chép: Ngày 12, Tư Mã Quang vào chầu ở điện Diên Hòa. Ban đầu, Vua cho phép con trai ông là Tư Mã Khang đỡ ông. Khi đến gần, có chiếu miễn lạy, nhưng Tư Mã Quang cố lạy, Tư Mã Khang đứng bên cạnh không dám đỡ. Lại có chiếu truyền rằng: “Cho Tư Mã Khang đỡ tướng công.” Sau khi lạy xong, Tư Mã Khang hơi đỡ ông. Khi lên điện, Tư Mã Khang lui ra. Tư Mã Quang tiến lên, cúi xuống dưới rèm tạ ơn, Vua lại sai đặt ghế trong điện để phòng khi Tư Mã Quang không đứng được thì ban ngồi. Lạy xong, không thể chịu đựng được nữa, bèn sai Ngự dược đưa vào cửa Môn hạ tỉnh.)

[11] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ Phạm Thuần Túy tâu: “Theo bản tấu của tướng thứ hai của bản lộ, theo lời báo của Đề cử Tuần phòng Thị cấm Đái Vinh, ngày mồng 3 tháng này, theo lệ chọn sai quan người Hồ là Lãng Y cùng những người khác đi thám thính xem quân địch ở phía tây giới đóng trại, dựng lều, xa gần thế nào. Đến ngày mồng 4, theo lời Lãng Y và những người khác báo lại, thám thính được ở phía tây trại lớn của giới tây có quân địch đóng trại. Lãng Y và những người khác chỉ ẩn nấp trong khe nước, thám thính động tĩnh của quân địch, thấy ba người trong trại hoang đi lấy nước ở trại nước, Lãng Y và những người khác lập tức bắt ba người đi lấy nước, lại gặp quân thám thính của giới tây, bắt được hai người, bốn con ngựa. Tổng cộng năm người, bốn con ngựa, không dám tự tiện thả đi, liền giám sát đưa về báo lên. Bản ty xét thấy từ trước đến nay vẫn thường xuyên chỉ huy các tướng sở tại dọc biên giới, các thành trại, cùng các sứ thần, thủ lĩnh người Hán, người Hồ đi tuần phòng, kiềm chế quân lính dưới quyền, mỗi người giữ vững biên giới. Nếu quân địch xâm phạm vào đất Hán, phải ra tay đánh mạnh, tức thì không được để quân lính tự tiện vào giới tây bắt giết người, gây ra việc biên giới. Nay những người đi thám thính này lại tự tiện bắt người ở biên giới, rõ ràng là vô cớ. Những người bị bắt này vốn muốn tâu lên, chờ chỉ thị của triều đình, nhưng vì việc gấp rút, khó lòng chờ đợi. Bởi người Tây gần đây gây chuyện ở Kinh Nguyên, đến nay vẫn chưa giải tán, hiện nay ở bản lộ cũng có quân địch đóng trại, nay lại vô cớ bắt được năm người, bốn con ngựa của giới tây, nếu không kịp thời trả lại, chờ chỉ dụ của triều đình, kéo dài nhiều ngày, lo ngại quân địch đóng trại ở đối diện bỗng nhiên trả đũa, đêm khuya xông tới, gây ra việc biên giới khác, tăng thêm hận thù, không bao giờ dứt.

Bản ty đã kịp thời đem những người đi bắt kia, đối mặt với những người Tây bị bắt, trách hỏi, giải thích ý của triều đình hiện nay là muốn yên ổn, nếu người Tây xâm phạm, tức thì phải đánh mạnh, họ không xâm phạm, sao lại tự tiện bắt người? Rồi đối với những người Tây, đem những người đi bắt kia đều gông cổ, giải thích ý không thể dung thứ, lại sai sứ thần có năng lực, giám sát đưa những người và ngựa bị bắt đến tướng thứ ba, lại lệnh mang theo một số quân lính đến con đường nơi bắt được, đứng cao chắc chắn, đưa trả về giới tây xong. Còn những người đi bắt kia, bản ty đang xử lý một mặt.”

[12] Thiếp hoàng: Thần từ khi nhậm chức đến nay, đã nghiêm khắc răn dạy các hộ người Hán và người Phiên ở biên giới, cấm tuyệt các tệ nạn xâm phạm, bắt bớ và gây hấn. Nghe nói người phương Tây đã phần nào tin phục, họ cũng không gây ra việc gì nghiêm trọng. Nay những người này lại bắt giữ người của ta, nếu không nhanh chóng trả lại để tỏ rõ ý của thần là thuần khiết[1], e rằng sẽ làm tổn hại đến đại nghĩa, dẫn đến báo thù, từ đó dần dần sinh ra chuyện. Kính mong triều đình xem xét.

(Tấu vào ngày 13 tháng 5 năm thứ 2, nên chọn lấy ý chính để ghi lại.)

[13] Kỷ Tỵ, Dương vương Triệu Hạo và Kinh vương Triệu Quần dời đến phủ đệ bên ngoài, Thái hoàng thái hậu và hoàng đế đến thăm phủ đệ của họ. Chiếu chỉ phong cho hai con của Dương vương và bảy con của Kinh vương mỗi người thăng một chức.

(Theo gia truyền của Lã Công Trước, các cận thần chia nhau theo hầu hai cung, có thể ghi thêm. Theo 《Truyền tín ký》 của Tiên Vu Xước: Hai vương ban đầu dời đến Thân Hiền trạch. Trước khi dời đi, Xa giá của Triết Tông đã đến thăm, xem xét phủ đệ mới. Sau khi dời đi, các con trai như Hiếu Di đều được thăng một chức. Trong chiếu chỉ có viết: “Tiên hoàng đế coi trọng tình huynh đệ, lấy ân nghĩa thắng lý, không cho hai người chú ra ngoài ở, đó là ý của Vũ Vương đối với Chu Công và Thiệu Công. Thái hoàng thái hậu nghiêm khắc với phép tắc triều đình, lấy lý nghĩa chế ngự ân tình, mới chấp thuận lời thỉnh cầu, cho ra ngoài ở, hợp với đạo lý của Khổng Tử là xa cách con cái. Hai Thánh nhân tuy khác nhau, nhưng cùng quy về đạo lý, có thể làm khuôn mẫu cho muôn đời.” Lời này do Tô Tử Chiêm soạn.)

[14] Hôm sau, vợ của Lã Đại Phòng và Phạm Thuần Nhân vào yết kiến, Thái hoàng thái hậu nói: “Hôm qua cùng hoàng đế đến phủ của hai vương, hai vương đứng hầu rất cung kính, hoàng đế đối đãi cũng hết lễ. Ta già rồi, rất vui vì điều này.” Lại nói: “Nhân Tông đối đãi với Yến Vương hết lễ của con cháu, Vương cũng rất tự trọng, chỉ gọi Nhân Tông bằng thứ bậc, dù là đồ dùng trong cung, Vương cũng lấy dùng, Nhân Tông không dám nói gì, hai con ta đâu dám như vậy!”

[15] Canh Ngọ, Long đồ các trực học sĩ, Thông nghị đại phu, Tri ứng thiên phủ Vương Ích Nhu qua đời.

[16] Ngày Nhâm Thân, Văn Ngạn Bác tâu: “Việc khôi phục lại phép sai dịch cũ, trong số các quan bàn nghị, ít người am hiểu sâu sắc về chính sự dân chính, nên ý kiến bất đồng. Chức Thứ sử, Huyện lệnh là những quan chức gần dân nhất, xin giao cho các quan thủ lệnh chuyên trách việc định người đi dịch, biên thành sổ sách, liệt kê các thể lệ, điều khoản từ trước đến nay, trình lên Chuyển vận ty. Nếu thấy hợp lý, xin tâu lên triều đình, đồng thời nới rộng thời hạn để xem xét kỹ lưỡng lợi hại. Việc xét định phép dịch chỉ căn cứ vào các bản tâu của các lộ để quyết định.” Chiếu giao cho Sở Tường định phép dịch xử lý.

[17] Chuyển vận ty lộ Thiểm Tây tâu: “Xin chi tiền trong kho phong trang để chi thưởng cho lễ giao sắp tới.” Chiếu cấp cho lộ này 10 vạn quan tiền thường bình.

[18] Thượng thư tỉnh tâu: “Năm Nguyên Phong thứ 6, Phát vận ty các lộ Giang Hoài tâu xin mua 50 vạn thạch lương thực từ kho phong trang ở kinh đô để bù vào số thiếu hụt lương thực của quân cấm, giá tiền phải nộp trong vòng nửa năm. Nay Hoài Nam bị thiên tai, việc cứu tế e rằng sẽ thiếu hụt.” Chiếu: “Lệnh cho Chuyển vận ty Hoài Nam xem xét, nếu lộ này thiếu lương thực, thì theo lệ năm Nguyên Phong thứ 6 mà thi hành.”

[19] Giám sát ngự sử Hàn Xuyên tâu: “Xin từ nay những người được tuyển chọn, nếu đã thi đỗ thì cho phép ra làm quan mà không cần thi lại.” Chiếu giao Lại bộ lập pháp tâu lên.

(Tân lục không ghi.)

[20] Ngày Quý Dậu, khôi phục lại hai Thiên cứu phường Tả và Hữu.

[21] Chuyển vận ty lộ Quảng Nam Đông tâu: “Châu Thiều phát hiện tiền mua đồng ở trường đồng Thái Hưng, xin theo lệ trường đồng Sầm Thủy, chi tiền từ giám Vĩnh Thông để cấp phát. Nếu có mỏ đồng nào được khai thác, đều theo điều khoản mua đồng của trường Sầm Thủy, dùng tiền của giám Vĩnh Thông để mua.” Được chấp thuận.

[22] Sở Tường định trùng tu sắc lệnh tâu: “Nếu quan lại, dân chúng thấy các điều khoản hiện hành có chỗ chưa đầy đủ, chưa tiện lợi cần sửa đổi, hoặc có lợi hại khác chưa được quy định, đều cho phép tâu trình.” Được chấp thuận.

[23] Ngày Giáp Tuất, chiếu cho ba kinh đô vẫn đặt các quan phân ty như cũ.

[24] Sở Tường định dịch pháp tâu rằng: Theo lệnh năm Nguyên Phong, tiền trường vụ hàng năm từ các lộ chuyển về một triệu quan để gửi vào kho Nội tàng, ghi sổ và niêm phong[2]. Xin từ nay lưu lại số tiền này để chiêu mộ nha tiền, chi trả cho những việc khó khăn nặng nề và các chi phí liên quan đến dịch vụ. Được chấp thuận.

[25] Trung thư xá nhân Tô Thức và Phạm Bách Lộc tấu rằng: “Hình phòng đưa đến từ đầu, vâng theo thánh chỉ: Trương Thành Nhất tà hiểm hại chính, có lỗi về hiếu hạnh, truất chức Quan sát sứ, Dao quận Phòng ngự Đoàn luyện sứ, Thứ sử, vẫn giữ chức Khách tỉnh sứ, đề cử chức Giang Châu Thái Bình Quan, phái về nhiệm sở cũ. Thần xem xét kỹ, Trương Thành Nhất vô cớ nhiều năm không chôn cất mẹ ruột, không phải vì ở xa làm quan, cũng không phải vì không đủ khả năng. Lợi dụng ân sủng mà quên thân, bị dư luận chê trách, vẫn được đề cử chức cung quan, đã làm kinh động dư luận, huống chi gián quan vốn tâu rằng Thành Nhất mở quan tài cha, cướp đoạt tài sản. Nếu quả thật có việc đó, dù xử tử nơi chợ cũng chưa đủ; nếu không có, cũng nên minh oan cho Thành Nhất. Việc này liên quan đến tội ác nghịch bất đạo, không phải tội phạm thông thường[3], không thể không điều tra tận gốc. Nay việc thể lượng chưa rõ ràng, nên lập ty xét hỏi, xử lý triệt để. Còn cáo mệnh, thần chưa dám soạn lời.”

[26] Tờ thiếp hoàng tâu rằng: “Theo văn bản điều tra của Đề hình ty Kinh Tây, Thành Nhất đã lấy chiếc đai lưng bằng sừng tê giác của cha mình, vì đã chôn cất lâu năm nên phải cho thợ đóng lại. Lúc đó, Thành Nhất đang giữ chức Đô thừa chỉ ở Viện Mật, những người hầu cận đều có thể xác minh. Lại lo trong quan tài còn có vật phẩm mà kẻ trộm chưa lấy hết, Thành Nhất và những người khác đã lén lút cất giấu, người trong tộc hẳn có kẻ biết chuyện. Thần xin được xem xét kỹ lưỡng, căn cứ vào sự việc trên để điều tra và thi hành.”

(Cựu lục chép: Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu: “Thành Nhất trộm lấy đai lưng bằng sừng tê giác trong mộ cha.” Xét: Lời tâu của Nham Tẩu đã ghi ngày 26 tháng 4, nay không chép lại. Chỉ ghi lại lời bàn của Tô Thức và những người khác. Ngày 12 tháng 6, Thành Nhất bị giáng làm Tả vũ vệ tướng quân, phân ty ở Nam Kinh.)

[27] Tô Thức và Bách Lộc lại tâu: “Hình phòng đưa đến từ đầu, vâng theo thánh chỉ: Lý Định giữ chức thị tòng, suốt thời gian không nói mẹ mình là ai, mặt dày giấu chí, mạo nhận vinh hoa tự lừa dối, bị cách chức Long đồ các trực học sĩ, giữ nguyên chức cũ, phân ty ở Nam Kinh, cho phép cư trú ở Dương Châu. Thần xem xét tội của Lý Định, nếu ban đầu không ai nói, thì chỉ là bản thân mang tội lớn. Nay đã có người tố cáo như vậy, triều đình điều tra xác thực, mà vẫn để kẻ bất hiếu không có mẹ được làm Thông nghị đại phu phân ty ở Nam Kinh, tức là triều đình cũng cho phép những kẻ như vậy giữ chức cao, làm tổn hại phong hóa, gây hại không nhỏ. Lại xét thời điểm Lý Định xin phụng dưỡng, cha ông đã 89 tuổi, theo lễ không nên tham chính. Nếu Lý Định không xin, ắt sẽ bị người đời chê trách, tội không nhẹ, sao có thể lấy việc phụng dưỡng để thay thế tang chế? Xét theo lễ pháp, cần phải bắt buộc ông ta để tang. Còn tờ cáo mệnh, thần chưa dám soạn lời.”

[28] Tờ thiếp hoàng nói: “Theo luật: Những ai có cha mẹ mất mà giấu không báo tang, thì bị lưu đày hai ngàn dặm. Nay xét tội phạm, không chỉ giấu không báo tang, lại còn vì người khác nói mà không nhận cha mẹ mình, nếu xét nhẹ mà rõ nặng, thì khó có thể định tội trong phạm vi lưu đày hai ngàn dặm trở xuống.”

(Vương Nham Tẩu và những người khác hặc tội Lý Định và Trương Thành Nhất, cùng xem ngày 26 tháng 4. Cựu lục chép việc của Lý Định rất sơ lược, và biện hộ rằng: “Lý Định không biết cha mẹ mình, khi cha mất, mới từ chức để giữ tang, Lưu Chí nói rằng ông không giữ tang.” Tân lục dựa vào cựu lục sửa đổi chút ít rằng: “Lý Định khi cha mất, mới từ chức để giữ tang mẹ đẻ, Lưu Chí nói rằng ông không giữ tang.” Xét cựu lục là do đảng của Lý Định làm, nên không dám nói thẳng tội của ông. Tân lục cũng dùng lời lẽ sai trái, thật khó hiểu. Nay lấy lời tấu của Tô Thức và những người khác chép đầy đủ, cần phải kèm theo bản chương của Lưu Chí, như lời bàn của Tô Thức và những người khác, cha 89 tuổi mới xin về phụng dưỡng, chắc chắn là chỉ trong bản chương của Lưu Chí. Tập tấu và di cảo của Lưu Chí nay đều không còn, lại không biết sau khi Tô Thức và những người khác dâng lời tấu thì xử lý thế nào. Ngày 28 tháng 6 lại tấu, vẫn dựa vào chương của Vương Nham Tẩu.)

[29] Tư Mã Quang nói: “Thần gần đây vâng thánh chỉ, cho phép thần ba ngày một lần được ngồi kiệu đến đô đường để họp bàn. Vì ba tỉnh và Xu mật viện đều có công việc, khó vì thần mà bắt ba ngày họp một lần. Xét năm ngoái từng có chỉ huy, gặp ngày nghỉ có việc công, cho phép họp bàn ở đông tây phủ. Đông tây phủ gần phía bắc, vốn có cửa nhỏ, thần xin mở thêm một cửa nhỏ ở phía nam. Thần gần đây vì bệnh chân chưa khỏi, xin gặp ngày nghỉ hoặc buổi tối sau khi các chấp chính ra khỏi tỉnh có việc công cần bàn, cho phép ngồi kiệu nhỏ đến các vị để bàn bạc. Các chấp chính có việc công cần bàn, cũng cho phép đến chỗ thần, không cần tâu báo từng việc, để việc bàn bạc được kỹ càng, công việc không bị trì trệ.” Được chấp thuận.

[30] Chiếu: Sai Tư Mã Quang làm Đề cử biên tu 《Thần Tông thực lục》 kiêm Minh đường đại lễ sứ, được phép miễn tạ ơn. Có hai đạo sắc, sai quan Cáp môn đến ban tặng.

(Ngự tập ngày 18.)

[31] Điện tiền đô mã bộ quân ty Thừa chỉ ty tâu việc thi thử 18 người đô giáo đầu tập giáo bảo giáp ở Thiểm Tây về kỹ năng cưỡi ngựa bắn cung. Chiếu cho đô giáo đầu dẫn vào yết kiến để trình diễn thử, đặc chỉ đổi ban hàng chỉ huy không thi hành, những người đã qua dạy, chỉ cho thăng chức, ban tặng lụa theo thứ bậc.

[32] Lại bộ tâu: “Xét duyệt việc bảo giáp đoàn giáo ở lộ Hà Đông, đề cử quan Đông thượng các môn sứ Vương Sùng Chửng, Câu đương công sự Hữu kỳ kỵ phó sứ Tống Tuyên[4], Nội điện thừa chế các môn chi hậu Trịnh Thắng, Nội điện sùng ban Trần Duật đều đã nhậm chức được nửa năm[5], hai lần xét số người đạt chuẩn kỹ năng, theo quy định đều được thăng chức, giảm năm khảo xét.” Chiếu: “Giảm một nửa thưởng. Riêng Vương Sùng Chửng nhiều lần tham gia tập giáo được thăng chức, và là hoành hành sứ, việc giảm năm đặc cách ban cho con trai có chức tước.”

[33] Chiếu cho con cháu Triệu Phổ là Triệu Trữ, Triệu Khốc, mỗi người được cấp một nửa bổng lộc của chức quan mới.

(Vương Nham Tẩu ba việc này thuộc sau ngày 10 tháng 4 năm thứ hai, lúc này chưa có lời tâu.)

[34] Ngày Ất Hợi, Hữu ty gián Tô Triệt tâu:

[35] Thần nghe rằng vào thời Hán Vũ Đế, Ngự sử đại phu Trương Thang dùng mưu mẹo xảo trá để chiều theo ý Vua, làm rối loạn tiền tệ, đề cao hình ngục, khiến thiên hạ đứng nép sợ hãi, suýt nữa dẫn đến loạn lạc. Hán Vũ Đế tỉnh ngộ, giết Trương Thang rồi thiên hạ mới yên ổn. Thời Đường Đức Tông, Tể tướng Lô (Mộc Tỵ) ghen ghét người hiền tài, hãm hại người lương thiện[6], ra sức khuyên Vua chinh phạt, giúp thúc đẩy việc thu thuế bạo ngược, khiến thiên hạ nổi dậy chống lại, đến nỗi Vua phải chạy loạn. Đức Tông tỉnh ngộ, đuổi Lô (Mộc Tỵ) đi rồi xã tắc mới được bảo toàn. Kẻ tiểu nhân vốn có tính tà vạy, thích làm điều bất nghĩa, bản chất độc ác, lại càng thích hại người. Nếu không chết sớm, cuối cùng ắt sẽ gây họa.

[36] Thần trộm thấy tiền Tham tri chính sự Lữ Huệ Khanh, mang trong mình sự xảo trá như Trương Thang, lại thêm sự gian ác hung hãn của Lô (Mộc Tỵ), quỷ quyệt biến hóa nhiều mưu kế, dám làm những việc trái phép, thấy lợi quên nghĩa, tham lam vô độ. Vương An Thạch lúc mới nhậm chức chấp chính, dùng Huệ Khanh làm tâm phúc. An Thạch vốn là người núi rừng, cố chấp kiêu ngạo, đối với việc quan lại, mù mờ không biết gì. Huệ Khanh chỉ bảo dạy dỗ, giúp An Thạch làm điều ác, các chính sách như thanh miêu, trợ dịch đều do Huệ Khanh đề xuất. Hàn Kỳ lúc đầu nói về tác hại của thanh miêu, tiên đế biết Kỳ trung thực chất phác, chợt tỉnh ngộ, muốn cách chức An Thạch và nghe theo lời Kỳ. Lúc đó các quan chấp chính đều nghe lời đức âm, An Thạch hoảng hốt mất hồn, cũng nhiều lần dâng biểu xin từ chức, thiên hạ vui mừng có hy vọng được nghỉ ngơi. Huệ Khanh lúc đó chỉ là một tiểu quan, tự biết mình thất thế, dâng chương xin được đối đáp, ra sức tiến cử những lời tà thuyết, mê hoặc thánh thính, khéo léo thay đổi ý trời. Thân làm quan ở điện các, kiêm nhiệm chức vụ của nội thị, tự mình đi truyền tuyên, khôi phục An Thạch, tung ra những lời biện luận giả dối, phá bỏ lời nói của Kỳ, lại vạch ra kế sách khống chế trên dưới cho An Thạch, đại để dùng nhiều hình ngục để rung động thiên hạ. Từ đó các quan can gián im lặng, người có học chán nản, thiên hạ đều theo xuôi. Đến việc bài xích trung lương, dùng bè đảng gian tà, phần lớn đều do Huệ Khanh.

Sau đó lại đặt ra phép sổ tay thực, từng tấc đất, từng cây cột đều bị khám xét không sót, gà lợn chó heo đều bị ghi chép hết, chuyên dùng việc tố cáo, xét nét từng li từng tí, roi vọt đánh đập khắp nơi, giấy bút đắt đỏ, dân chúng oán hận khổ sở, còn hơn cả thuế thanh miêu. Lại nhân việc bảo giáp chính trưởng phát thanh miêu, kết hợp thành giáp đến quan, không bỏ sót một hộ nào, trên dưới đều xáo động, không yên ổn sinh sống, khiến dân chúng Hà Bắc phải lưu lạc, dù là nhà giàu có cũng phải dắt xe trâu, mang theo vàng bạc, chạy đến Tương, Đặng. Lại còn dấy lên những vụ án lớn, uy hiếp sĩ nhân, như Trịnh Hiệp, Vương An Quốc, chỉ còn giữ được mạng mà đi. Xét tâm hại người của Huệ Khanh, vốn muốn liên lụy kéo dài, làm nhục các công khanh, không chỉ dừng lại ở đó. May nhờ tiên đế có tư chất nhân thánh, mỗi việc đều ngăn chặn, nên Huệ Khanh không thể làm hết điều ác, nếu không thì những kẻ giữ đạo thường an, không còn ai sống sót!

[37] Sau đó, Huệ Khanh vì tội tham nhũng bị cách chức, bèn ra sức trình bày việc biên cương để lấy lòng Vua. Khi ở Diên An, ông ta bắt đầu thay đổi chế độ quân đội, dùng lẫn người Phiên và người Hán. Vua bất đồng ý kiến với Phùng Kinh, dưới thì tranh cãi kịch liệt với Thái Diên Khánh và những người khác. Chỉ có đảng viên Từ Hi ủng hộ ông ta, nên kế hoạch được thực hiện. Việc này trái với tình hình thực tế, làm rối loạn chính sách biên cương, đến nay vẫn còn là mối lo. Không có biến động gì ở Tây Nhung, nhưng ông ta dám tâu báo tình hình khẩn cấp, tự ý dẫn đại quân tiến vào đất giặc, cuối cùng không gặp địch, kéo dài thời gian rồi rút về, hao tốn lương thảo, vứt bỏ vũ khí, thiệt hại hàng vạn. Ông ta ngang nhiên lừa dối, coi như không có ai. Dựng bia ghi công, khiến Tây Nhung biết rõ triều đình có ý định thôn tính Linh Châu và Hạ Châu. Từ đó, người Nhung oán hận nổi loạn, biên giới náo động, Hà Châu và Lũng Châu kiệt quệ, cả nước mệt mỏi. Trận thua ở Vĩnh Lạc, đại tướng Từ Hi vốn là người được Huệ Khanh từ thân phận thường dân tiến cử lên, hai người luôn bàn bạc thống nhất, nên giao phó việc biên cương. Tin thua trận vừa đến, làm chấn động hoàng đế, dẫn đến việc ngài không được yên ổn, nguyên nhân ban đầu thực sự là từ đây. Mầm mống biên giới nảy sinh, đến nay vẫn còn là trở ngại.

Khi ông ta được điều đến Hà Đông, huy động nhiều người và trâu bò cày cấy đất mới ở hai trại Gia Lô và Ngô Bảo, dựa vào quân đội hùng hậu mới dám gieo hạt, gieo xong rồi về, không dám trở lại xem. Đến mùa thu thu hoạch, lại dùng quân đội hùng hậu bảo vệ, nhưng thu được toàn là thóc lép. Thu hoạch trong mưa, lập tức bị thối rữa. Huệ Khanh phóng đại số lượng, gửi văn thư cho Chuyển vận ty để bàn giao, nói dối rằng có thể bỏ việc vận chuyển lương thực, nhưng thực tế chi phí rất lớn mà không thu được chút lợi ích nào. Các quan ở biên giới sợ hãi, đều không dám nói. Đây là một vài việc làm của Huệ Khanh khi tại chức, dù có đem ra xử ở chợ cũng không quá đáng.

[38] Nếu như kẻ kia hành xử gian trá, không phải là việc người ta làm, dù là kẻ hèn hạ nơi thôn dã cũng không ai chịu ăn của hắn. An Thạch đối với Huệ Khanh, có ơn che chở như chim ấp trứng, có nghĩa thầy trò như cha con. Khi hắn cầu tiến, thì kết chặt làm một, cùng nhau tiến cử, để lừa dối triều đình. Đến khi quyền vị ngang nhau, thế lực đối địch, liền quay mặt cắn xé, trở thành kẻ thù không đội trời chung. Ban đầu, An Thạch bãi chức tể tướng, dùng quyền chấp chính tiến cử Huệ Khanh, sau khi Huệ Khanh đã được địa vị, sợ An Thạch được dùng lại, bèn dựng lên vụ án của Vương An Quốc và Lý Sĩ Ninh, để ngăn cản An Thạch trở về. An Thạch phát hiện ra, được triệu liền lên đường, hai bên đánh nhau kịch liệt, muốn đẩy nhau đến chỗ chết. Đảng của An Thạch nói rằng Huệ Khanh sai tri huyện Hoa Đình là Trương Nhược Tế mượn tiền của hào dân Chu Hoa để mua ruộng đất, sai cậu là Trịnh Ưng xin đoạt ruộng dân, sai nhà sư Văn Thê xin đoạt chùa Thiên Trúc. Triều đình sai Kiển Chu Phụ điều tra việc này, vụ án sắp kết thúc thì An Thạch bị bãi chức, nên việc không truy cứu nữa, hồ sơ vẫn còn ở Ngự sử, có thể xem lại.

Huệ Khanh nói An Thạch cùng nhau làm việc gian trá, đưa ra thư riêng của An Thạch, trong đó có câu “đừng để Tề Niên biết”, Tề Niên là Phùng Kinh. Kinh và An Thạch đều sinh năm Tân Dậu, nên gọi là Tề Niên. Tiên đế vẫn coi nhẹ tội ấy, Huệ Khanh lại đưa ra một bức thư khác viết “đừng để trên biết”, An Thạch vì thế mà phạm tội. Huệ Khanh với An Thạch, từng coi nhau như gan ruột, gửi gắm vợ con, lúc bình thường kết giao, chỉ sợ không thân thiết, nên dù lời lừa dối Vua có trong thư từ, cũng không nghi ngờ gì. Huệ Khanh lúc chưa có chuyện gì, đã thu thập từng thứ một, để phòng khi cần dùng, một khi tranh lợi, liền vạch tội nhau, không tiếc sức, nhất định phải đẩy nhau đến chỗ chết, việc này chó lợn cũng không làm, mà Huệ Khanh làm, chẳng biết xấu hổ sao? Kẻ sĩ trong thiên hạ, thấy hắn tại chức, đều nghiêng mắt sợ hãi.

[39] Bậc quân chủ dùng người, muốn họ trung tín với mình, ắt phải chọn người có lòng nhân từ với cha anh, tin cậy với thầy bạn, rồi sau mới giao việc cho họ. Vì thế, việc thả con nai là trái mệnh lệnh, nhưng suy ra lòng nhân từ thì có thể giao phó việc nước; việc ăn thịt con là vì vâng lệnh Vua, nhưng suy ra sự nhẫn tâm thì có thể dẫn đến giết Vua. Loan Bố chỉ vì không bỏ mệnh lệnh của Bành Việt, nên Cao Tổ biết ông là người hiền; Lý Tích chỉ vì không mưu lợi từ đất đai của Lý Mật, nên Thái Tông khen ngợi nghĩa khí của ông. Hai người này cuối cùng đều phụng sự hai chủ, đều trở thành danh thần. Vì sao vậy? Lòng nhân từ tồn tại, không việc gì không thể làm, dù công tư có khác nhau, nhưng lòng trung hậu không khác. Đến như Lã Bố phụng sự Đinh Nguyên thì giết Đinh Nguyên, phụng sự Đổng Trác thì giết Đổng Trác; Lưu Lao Chi phụng sự Vương Cung thì phản Vương Cung, phụng sự Tư Mã Nguyên Hiển thì phản Nguyên Hiển. Họ đều trái nghịch thiên lý, khiến thiên hạ nghi ngờ. Vì thế, Lã Bố bị Tào Công giết, còn Lao Chi bị họ Hoàn giết, đều vì tính cách phản phúc cả đời, không thể tồn tại được. Tào, Hoàn là kẻ gian hùng thời xưa, thao túng anh hùng hào kiệt, có gì mà không làm được? Nhưng xét đến lợi hại, cuối cùng vẫn sợ những kẻ như vậy. Nay triều đình chọn dùng người trung tín, chỉ sợ không kịp, nhưng lại đặt Huệ Khanh vào giữa, ví như cỏ thơm cỏ hôi lẫn lộn, chim cú chim loan cùng đậu, không chỉ thế lực không thể cùng tồn tại, mà kẻ ác ắt sẽ thắng.

Huống chi từ năm ngoái đến nay, triều đình bãi chức Ngô Cư Hậu, Lữ Gia Vấn, Kiển Chu Phụ, Tống Dụng Thần, Lý Hiến, Vương Trung Chính, hoặc vì mưu lợi, hoặc vì lạm dụng binh quyền, một việc hại dân, đều không thể tránh khỏi sự trừng phạt. Nay Huệ Khanh thân mang nhiều tội ác, tự biết tội lớn, lại muốn dùng chức vụ nhàn hạ để tự thoát, công luận thiên hạ, chưa chịu tha thứ. Nhưng gần đây, các quan giám sát khi luận tội gian tà, đến cả Đặng Oản, Lý Định cũng không bỏ sót, nhưng lại không nhắc đến Huệ Khanh, vì tính cách hung hãn, đa nghi, nhẫn tâm như rắn độc, bọ cạp, nếu vạn nhất được dùng lại, ắt sẽ báo thù từng li từng tí, nên người nói chưa dám dễ dàng phát ngôn. Thần ngu muội, ít suy nghĩ, cho rằng đang giữ chức vụ giám sát, cùng thời với kẻ đại ác, mà lại sợ hãi, trốn tránh, nhẫn nhục, phụ lòng triều đình. Vì thế, không ngại chết, dâng lời ngu trực này. Kính mong bệ hạ quyết đoán theo ý mình, sửa đổi chút ít hình phạt, dù chưa đến mức phải chém đầu, cũng nên truy tước quan chức, đày ra bốn phương xa, để trừng trị kẻ gian ác.

[40] Bản dán vàng tâu rằng: “Lữ Huệ Khanh nắm quyền trong triều, đầu đuôi hơn mười năm, nắm giữ quyền uy, hung hãn hơn cả Vương An Thạch, dùng bọn gian tà, bố trí khắp triều đình. Thần trình bày tội ác của hắn, ắt có kẻ ngầm giúp hắn biện bạch để phá lời thần, mong bệ hạ soi xét, đừng để lòng trung cô độc của thần bị bè đảng hãm hại.”

[41] Ngày Đinh Sửu, xuống chiếu: Các ty Kinh lược an phủ và Thường bình thương của năm lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng, Hà Đông đều bãi chức quan coi giữ.

[42] Ngày Mậu Dần, Triệu Tế, chức Trực Long đồ các, quyền phát khiển Hi Châu, được bổ làm Tri giải Châu. Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu: “Tế trước đây vì tham ô phạm pháp bị bãi chức về nhà, sau nhờ lời của Lý Hiến mà lại được làm tướng. Chưa từng lo việc chức vụ, ngày ngày chỉ cùng tướng sĩ đánh bạc làm trò, không xứng làm tướng, xin giáng chức cho về nơi thanh nhàn.” Bèn xuống chiếu bãi chức Trực Long đồ các, sai coi giữ miếu Trung Nhạc.

(Việc bãi chức coi miếu và lời tâu của Vương Nham Tẩu ghi ngày 27 Quý Mùi, nay gộp lại viết.)

[43] Phạm Thuần Lễ, Lại bộ lang trung, sau năm ngày định xong phép dịch thì bãi chức.

(Thuần Lễ vội bãi việc định phép dịch, ắt có nguyên do, cần xét lại.)

[44] Hàn Giáng, Phán Đại Danh phủ, xin bãi mệnh cho con là Tông Sư làm Trực bí các, Vua theo.

[45] Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu rằng: “Thần trộm thấy ngày mồng 4 tháng 5 có chiếu chỉ bổ nhiệm Văn Cập làm Hữu ty lang trung, Hàn Tông Sư làm Trực bí các. Sau đó nghe các quan đàn hặc, cùng với việc cha của Tông Sư là Hàn Tương từ chối, nên bãi bỏ chỉ bổ nhiệm Trực bí các. Còn mệnh lệnh bổ nhiệm Văn Cập thì chưa có chỉ đạo. Thần nghĩ rằng chức vụ Đô ty, trên phụ giúp việc quản lý, dưới quản lý công việc của 24 ty. Còn việc thiết lập chức quan ở Quán các, lấy văn học làm danh chức, đều được coi là những người được chọn lựa thanh danh, vốn nên không phân biệt người tài nghèo hèn, không nên chỉ dùng con em, điều này dẫn đến việc bị người ta bàn tán mà không thể làm yên lòng mọi người. Việc bổ nhiệm Văn Cập và Hàn Tông Sư xảy ra đúng vào lúc Văn Ngạn Bác vào triều, Hàn Duy được trọng dụng, nên những người bàn luận đều cho rằng các quan chấp chính thấy hai người này được thăng chức nên đã đề bạt con cháu của họ để làm vui lòng họ, lập ân riêng, điều này cũng là việc Bệ hạ nên xem xét. Danh khí của quốc gia vốn dành cho người có tài đức, chỉ cần dùng công minh thì người ta không ai không phục. Nay Hàn Tông Sư đã bị bãi chức, thì mệnh lệnh bổ nhiệm Văn Cập cũng mong được thu hồi, không cần đợi ông ta từ chối, để có thể phần nào giữ được công đạo, làm yên lòng mọi người. Nếu vì cha ông là Văn Ngạn Bác đang ở triều, muốn Văn Cập tiện việc phụng dưỡng, thì ở kinh thành cũng có nhiều chức vụ có thể đảm nhiệm. Hơn nữa, chức Bình chương sự là chức chấp chính của triều đình, vốn liên quan đến Đô ty, cũng nên tránh. Vì thế mà bãi chức, cũng không làm tổn hại đến ân lễ của Bệ hạ.”

(Ngày mồng 8 tháng 6, Văn Cập được đổi làm Thiếu vệ úy. Tập của Lưu Chí có bản tấu nghị này, nhưng bản tấu nghị hiện nay lại không có, còn trong tạp lục lại ghi là của Vương Nham Tẩu, e rằng tạp lục có sai. Nay theo tập của Lưu Chí.)

[46] Trước đó, Lưu Chí tâu rằng: “Thần trộm nghĩ, việc nhận biết kẻ gian lớn để ngăn ngừa từ khi chưa manh nha, là sự nhận thức sớm của bề tôi; việc khen ngợi người trung còn sót lại và phát huy đức tốt tiềm ẩn, là điển chế tốt đẹp của quốc gia. Thần từng xem xét thời kỳ đầu niên hiệu Hi Ninh, Vương An Thạch dùng đạo nghĩa văn học mà đứng ra phụ chính, Tiên đế đem cả thiên hạ giao phó cho ông ta. Sĩ dân trong thiên hạ cũng đều trông đợi thái bình, trên dưới đều hướng về mà không có lời dị nghị. Lúc bấy giờ, cố Gián nghị đại phu Lã Hối làm Ngự sử trung thừa, chỉ một mình cho là không phải, nhiều lần dâng tấu luận, đại lược nói rằng: ‘An Thạch ở chốn miếu đường, thiên hạ tất không có lý do yên ổn.’ Lại nói: ‘Kẻ làm lầm lạc sinh dân thiên hạ ắt là người này.’ Hối vì thế bị giáng chức ra ngoài, chẳng bao lâu thì qua đời. Sau đó, An Thạch cùng bè đảng thay đổi loạn lạc pháp độ của tổ tông, chuyên việc tụ thuế, đảo lộn tà chính, thăng giáng không đúng. Bỏ điều mà dân cùng muốn, làm điều mà dân cùng ghét. Lừa dối triều đình, thiên hạ chịu họa suốt mười bảy mười tám năm. Trong khoảng thời gian đó, tuy có người tiếp tục làm việc tăng thêm tàn ngược, nhưng cốt yếu mở đầu gây nên, thực sự là từ An Thạch mà ra. Bốn biển khốn đốn, đều như lời Hối nói, Hối có thể nói là người biết trước sáng suốt vậy!

Hối là con cháu danh thần, làm người trung tín cương trực, lập triều hành xử, có tiết tháo của người xưa, phong độ của đại thần. Ở chức ngôn quan, trước sau ba lần bị cách chức, đều vì đả kích gian tà, trái ý quyền thế, cuối cùng vẫn lấy đạo thẳng nghĩa lớn, được công luận đề cao. Hối chết ở nơi đất lạ, vào năm Hi Ninh thứ tư, làm quan đến chức Thị tòng, mà triều đình chưa từng có sự ban thưởng tuất nào. Vợ của Hối hiện còn sống, cuộc sống nghèo khó, các con đều làm quan nhỏ tầm thường. Kính nghĩ Bệ hạ lên ngôi đến nay, ban ơn yên dân, sửa sang chính sự, để hoàn thành ý chỉ cầu trị của Tiên đế, tỏ rõ ra đời. Mà mở rộng khuyến khích người nói, chăm chỉ nghe lời, phàm bề tôi trước đây dâng lòng trung hiến thẳng[7], từng có một lời nói ở triều, không ai là không được thu nhận khen dùng. Mà Hối không may đã mất, không được gặp gỡ ngày nay, đây là điều khiến kẻ sĩ có chí trong thiên hạ than tiếc không thôi. Thần không kham nỗi lo nghĩ ngu muội, mong Thánh từ khen ngợi Hối có nhận thức dám nói, lời nói không được dùng, lợi ích không đến được với đời, thương xót chí tiết của ông, đặc biệt ban tặng và ban thụy hiệu để biểu dương. Lục dụng các con côi của ông, ban cho chức vụ, không chỉ để an ủi nơi chín suối, mà cũng để khuyến khích trung nghĩa trong thiên hạ, và làm hổ thẹn cho kẻ bề tôi làm việc gian nịnh, không phải là việc nhỏ vậy.”

Do đó, Thượng thư hữu thừa Lã Đại Phòng, Đồng tri Xu mật viện sự Phạm Thuần Nhân tâu rằng: “Cố Ngự sử trung thừa Lã Hối, trung thành với triều trước, hết lòng trình bày lời nói thẳng, đến nỗi trái ý tể tướng đương thời, bị đày chết nơi biên ngoài. Nay nhà ông rất nghèo, các con làm quan ở chức thường, xin ban thêm điển tặng, lục dụng những người con có tài, để tôn vinh con cháu danh thần.” Chiếu ban cho Hối đặc biệt tặng chức Thông nghị đại phu, con trai là Do Canh được ban chức đường trừ hợp nhập sai khiển.

(Lưu Chí trước đó vào ngày 20 tháng 4 bàn về Lã Hối, Lã Đại Phòng, Phạm Thuần Nhân nói giống với Chí, ắt là do tiến trình chương tấu của Chí, nên có mệnh lệnh này. 《Cựu lục》 chỉ nêu Đại Phòng, Thuần Nhân, 《Tân lục》 theo đó, có vẻ quá sơ lược. Nay ghi lại lời bàn của Chí ở trước.)

[47] Khôi phục các huyện Định Tương thuộc châu Hãn, các huyện Du Xã, Bình Thành, Hòa Thuận thuộc châu Liêu, huyện Ninh Hóa thuộc quân Ninh Hóa, huyện Hiếu Nghĩa thuộc châu Phần, huyện Lê Thành thuộc châu Lộ.

[48] Ngày Kỷ Mão, Thượng thư tỉnh xin đổi việc tấu sự hằng tuần của Lục sát thành tấu sự hằng quý, được chấp thuận.

[49] Cơ quan Tường định dịch pháp tâu: “Theo chiếu mới, bãi bỏ tiền miễn dịch trong thiên hạ. Vì theo lệnh thời Nguyên Phong, tiền thặng dư từ miễn dịch được dùng để tu sửa doanh phòng, thuê ngựa trạm và phu dịch, đến cuối năm lại cùng với Ty Chuyển vận phân nhận các khoản dưới 30 quan để tu sửa và các khoản bồi thường, thặng dư trước đây do người làm dịch vụ chịu trách nhiệm, cùng với tiền lương của người làm sổ sách ở các châu, giấy bút dùng cho các ty Tào, Mã, Đệ phố thuộc Tuần kiểm ty thay thế người làm dịch vụ, đều lấy từ tiền miễn dịch. Nay xin lấy tiền thặng dư miễn dịch hiện có, đợi khi sách dịch hoàn thành, sẽ xem xét quy định riêng.” Được chấp thuận. Đối với những nơi thiếu hụt tiền thặng dư miễn dịch, theo chiếu thời Gia Hựu trở về trước, nếu điều khoản không quy định thì tâu lên.

(Vương Nham Tẩu nói về tiền thặng dư miễn dịch ở Phúc Kiến có thể phụ vào đây, đã phụ vào ngày 6 tháng 2. Lại có chiếu ngày 24 tháng 12 cho phép các lộ giữ lại một nửa tiền thặng dư miễn dịch từ phường trường, ngoại trừ ba lộ, có thể tham khảo.)

[50] Ngày Tân Tỵ, Trung thư xá nhân Tô Thức tâu: “Thần gần đây tấu trình về việc bàn luận lợi hại của việc chiêu sai nha tiền, do kiến giải thiên lệch nên xin được miễn nhiệm khỏi việc tường định dịch pháp, vừa được phụng thánh chỉ theo lời xin. Nay Cấp sự trung Hồ Tông Dũ lại phong hoàn thánh chỉ đó. Thần nghĩ rằng thánh chỉ vốn do thần tự biết mình thiên chấp nên xin miễn nhiệm, chứ không phải triều đình vì thần có ý kiến khác mà miễn nhiệm thần. Hồ Tông Dũ không biết, nên đã tâu trình nhầm. Thần suy nghĩ lại, những điều thần bàn luận trước đây quả thực sơ suất. Hơn nữa, việc chiêu hay sai nha tiền liên quan đến lợi hại rất lớn, không chỉ là một việc trong dịch pháp. Thần đã không đồng ý, thì khó lòng theo đa số ký tên. Kính xin theo chỉ dụ trước, sớm cho thần được miễn nhiệm.”

[51] Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Nghe nói Trung thư xá nhân Tô Thức từ chối việc xét định phép dịch, có chỉ không cho phép, lại tiếp tục từ chối. Thần nghĩ rằng phép sai dịch là việc trọng yếu nhất hiện nay, bệ hạ muốn cho lợi hại được xét kỹ, đặt cục để bàn bạc, đó là đức lớn. Nhưng từ khi đặt cục đến nay, đã lâu ngày mà chưa thấy xong xuôi, các quan bàn pháp lại đã thay đổi nhiều lần. Nay nghe Thức vì bàn luận có ý kiến khác nhau, cố sức từ chối, nếu ai cũng như vậy thì phép độ thành tựu biết đến bao giờ? Thần nghe nói năm vị khác nhau mà hợp với miệng thì vị đủ; năm thanh khác nhau mà vui tai thì thanh đủ. Một người nói phải, một người nói trái, một người nói đúng, một người nói sai, lẫn lộn cùng làm, đó là lý do bàn luận cùng hướng đến điều tốt. Một người nói phải thì mọi người đều nói phải, một người nói đúng thì mọi người đều nói đúng, nếu tin như vậy thì cần gì phải bàn luận? Bàn luận có ý kiến khác nhau, chính nên xem xét kỹ lưỡng, đủ đầy, để hướng đến sự đúng đắn. Nếu vội vàng tránh né thì không chỉ việc bàn pháp khó thành, mà còn khiến kẻ gian thừa cơ hội, lay động ý pháp, đó không phải là kế sách của quốc gia. Thần mong bệ hạ sâu sắc răn bảo người phụ trách, đừng vì lợi nhỏ mà hại đại thể, khiến lợi hại được xét kỹ, để xứng với ý triều đình. Xin cho Tô Thức vẫn tiếp tục xét định, lại xin thúc giục hoàn thành, kịp thời ban bố, để yên lòng mong mỏi của thiên hạ.” Lại tâu: “Lã Đại Phòng, Phạm Thuần Nhân, Hàn Duy đều do triều đình thăng chức, kiêm chức làm chấp chính, việc gì cũng đảm nhiệm, tuy rời khỏi cục này, trách nhiệm vẫn còn; nếu Thức xin được miễn thì không còn can dự, không thể so với Đại Phòng, không thể không bàn luận.”

(Ngự tập ngày 26, Thức vẫn xét định phép dịch, không rõ sau đó thế nào.)

[52] Lại tâu rằng: “Thần thấy rằng việc sử dụng nhân lực trong thiên hạ đã theo phép sai dịch cũ, từ khi lập cục đến nay, chưa thấy tu chỉnh và thiết lập một quy chế thống nhất. Trước đây tuy có chỉ thị, lệnh theo phép cũ trước năm Hi Ninh thứ nhất để thi hành, nhưng trong các điều khoản sắc lệnh trước năm Hi Ninh, cũng có những điều không thể thực hiện được. Hơn nữa, theo sắc lệnh mới ban hành ngày 4 tháng 2, có những điều mâu thuẫn với các quy định trước năm Hi Ninh. Ví dụ như việc người được sai dịch không muốn đi, nay lại cho phép thuê người thay thế. Nhưng theo quy chế cũ thời Gia Hựu, như chức Kỳ trưởng, Cung thủ, đều phải do chính người đó đảm nhiệm. Thần không biết hiện nay các châu huyện thi hành như thế nào. Vả lại, trong các loại dịch vụ lớn, không gì bằng Nha tiền, ban đầu cải cách phép tắc, đều sai người từ làng xã, sau đó lại dùng tiền từ phường trường để thuê mướn, chẳng bao lâu lại đổi từ thuê mướn sang chiêu mộ. Trong vòng hai ba tháng, mệnh lệnh thay đổi liên tục, thần e rằng thiên hạ tuân theo có thể có chỗ nghi ngờ sai lầm, mà những người có ý khác sẽ nhân cơ hội này mà dòm ngó. Thần nghĩ rằng triều đình muốn đợi các lộ trình bày, rồi mới lập pháp. Như vậy chỉ là việc của một lộ. Thần xin chỉ thị, trước hết hãy lập ra quy chế chung về phép dịch, lấy ý chính của các sắc lệnh mới ban gần đây làm cơ sở, thiết lập một quy chế thống nhất, ban hành trước. Nếu các lộ có chỗ chưa tiện, mới nghe trình bày, tùy việc mà ban chỉ thị riêng, để thiên hạ trước hết có đại pháp để tuân theo, không đến nỗi sai lệch.”

[53] Ngày Nhâm Ngọ, Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu rằng: “Thần trộm thấy nội thần Lý Hiến xin được cư trú ở Tây Kinh hoặc Trịnh Châu. Trước đây, thần đã từng đàn hặc tội của Hiến cùng Trung Chính, Dụng Thần, Đắc Nhất, bốn người này đều là những kẻ gian ác lớn khiến thiên hạ căm phẫn. Thế mà bệ hạ lấy lòng khoan dung của trời đất, đặc biệt tha cho họ khỏi án tử, chỉ cách chức một hai bậc, giao cho chức vụ nhàn hạ, khiến công luận bất bình, không hề thỏa mãn. Thần ngu muội thực không muốn làm tổn thương ân điển bao dung bảo toàn của bệ hạ, nên chưa dám nhiều lần luận tội. Nhưng tính cách tiểu nhân, dò xét ý trên, thấy bệ hạ nhân từ, khoan dung tha thứ, liền cho rằng mình không có tội lớn, nên may mắn được tha, bèn dám xin xỏ[8]. Theo đạo làm tôi, một khi bị giáng chức, phải vội vã lên đường, tự xét lại mình. Há lại dám ngang ngược không chịu, tự tìm lợi riêng? Xét tội của Hiến, trong bốn người là nặng nhất. Nay lại dám khinh nhờn bỏ mệnh Vua, giả bệnh để trốn việc, ngang nhiên kiêu ngạo lừa dối, không còn kiêng sợ gì. Trong ngoài đều phẫn nộ, càng thêm bất bình. Kính mong bệ hạ quyết đoán, phơi bày tội ác của Hiến, đày đi nơi khác. Mong rằng phép nước được chỉnh đốn, uy lệnh của bệ hạ được thi hành, để răn đe những kẻ dám lừa dối Vua trên.”

[54] Tờ tấu dán vàng nói: Thần tâu rằng việc làm của Hiến so với Cam Thừa Lập, tội càng nặng hơn, nhưng cách xử phạt lại khác nhau, bởi vì pháp luật của quốc gia chỉ áp dụng với quan nhỏ mà không áp dụng với quyền thần, đó là chính lệnh không thống nhất, thì làm sao khiến thiên hạ phục? Nay Hiến lại dám ngạo mạn tự tiện, khinh nhờn mệnh lệnh của bệ hạ, kính xin chiếu theo việc của Thừa Lập mà thi hành.

(Ngày 26 tháng 6, ngày 14 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ nhất, Tô Triệt nói Hiến được làm Tuyên sát Minh đạo ở nơi tốt. Không biết chương tấu này của Chí có được chấp thuận hay không? Cần tra cứu. Ngày 4 tháng 4, Hiến được lấy chức Vũ Tín lưu hậu, Phó tổng quản Vĩnh Hưng, sai làm Đề cử Sùng Phúc cung, vẫn lệnh ở Tây Kinh. Ngày 19 lại giáng một chức, đổi làm Minh đạo, không biết lại ở nơi nào, nay lại xin ở Tây Kinh hoặc Trịnh Châu.)

[55] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần nghe rằng đời không có pháp luật nào không có tệ nạn, dù là chính sách của thánh nhân thời Tam Đại cũng không tránh khỏi có hại. Vì vậy, cần phải thần thánh và sáng suốt, tùy thuộc vào người thực hiện. Thần thấy gần đây triều đình bãi bỏ chế độ miễn dịch, lại thi hành chế độ sai dịch. Dân chúng vừa được miễn đóng tiền, vui mừng khích lệ nhau, các sĩ đại phu nhân đó cho rằng một khi sai dịch được thực hiện, có thể ngồi yên mà không lo gì nữa. Thần nghĩ rằng dù tệ hại của miễn dịch đã được loại bỏ, nhưng tệ nạn của sai dịch cũng không thể không biết. Dám suy xét nguyên nhân, xin bệ hạ xem xét.

Quốc triều theo lệ cũ của Tùy Đường, các châu huyện trăm việc đều sai dân trong làng, mỗi người đóng góp sức lực để phục vụ trên. Năm tháng thay phiên nghỉ ngơi, lao động và nghỉ ngơi thay nhau. Nếu quan lại tuân theo lẽ phải, không dùng pháp luật bất chính để áp bức dân, thì người bị sai phái vốn không có gì khổ sở lắm. Tuy nhiên, người làm dịch vụ vốn là hộ đóng thuế[9], nhà có ruộng đất, bị đòi hỏi nhất định phải đóng, quan lại ít liêm chính, hễ có nhu cầu gì thì không tránh khỏi xâm phạm.

Vì vậy, thời tổ tông, người làm dịch vụ trong thiên hạ, ngoài việc lao dịch chính và chi phí, từ trên là nha tiền, có nỗi khổ về nhà bếp, kho tàng của công sứ; giữa là tán tòng quan, thủ lực, có việc đốn cỏ, cung cấp củi; dưới là kỳ trưởng, tráng đinh, có chi phí vận chuyển hàng năm. Thói quen thành tục, coi là bình thường. Dân bị sai dịch, như gặp phải cướp bóc. Thần Tông hoàng đế thấy rõ tệ hại này, bắt đầu bàn việc lập ra chế độ miễn dịch. Tệ nạn trước tuy đã giải quyết, nhưng tiền dịch thu được nhiều hơn mức cần thiết, dân chúng khó kiếm được tiền mặt, ngày càng nghèo khổ.

Nay triều đình đã khôi phục chế độ sai dịch, ngoài việc nha tiền sai mộ chưa có quy định cụ thể, còn lại các việc như kỳ tráng, hộ trưởng, cung thủ, tán tòng quan đều định sai. Quan lại tham lam tàn bạo lén lút vui mừng vì điều này. Tại sao? Người ở chợ búa, ứng mộ làm dịch vụ, gia cảnh vốn không giàu có, lớn lên quen thấy quan phủ, quan lại dù muốn lợi dụng cũng không có cách nào. Nay dân làm ruộng, tính tình như hươu nai, một khi vào châu huyện đã sợ hãi. Huống chi nhà có ruộng đất, đòi hỏi gì cũng phải đáp ứng, nếu không phải là quan liêm chính, ai mà không động lòng? Ngờ rằng triều đình đã thi hành sai dịch, mọi sự xâm phạm sẽ lại như xưa. Nghe nói hiện nay các nơi đã xuất hiện tệ nạn này, thần e rằng qua thời gian, tục cũ sẽ phát triển, người làm dịch vụ khổ cực, ắt sẽ có người nghĩ lại đến sự tiện lợi của miễn dịch, điều này sẽ gây tổn hại không nhỏ cho chính sách thánh thiện.

Trước đây, triều đình mới cải cách các tệ nạn, các sĩ phu có ý kiến khác, nhiều người bị đày ải, nhìn chế độ mới với ánh mắt khinh thường, mong nó không thành công không phải là ít. Nếu tệ nạn này không được loại bỏ, khiến dân có lời oán trách, những người có ý kiến khác ngày sau ắt sẽ lấy đó làm căn cứ. Thần xin ban chiếu chỉ rõ ràng, nhắc nhở giám ty và trưởng lại, để họ biết rằng triều đình yêu quý người làm sai dịch trong làng, cũng như Thần Tông triều yêu quý người làm dịch vụ được thuê mướn. Những quy định trước đây về việc ngăn chặn quan lại xâm phạm người làm dịch vụ, xin Hình bộ ghi chép đầy đủ không sót, khắc in ban hành, lệnh cho mọi việc như cũ, dán bảng ở các châu huyện để dân biết, và thường xuyên kiểm tra. Nếu có vi phạm mà không phát hiện[10], để xảy ra sự việc, sẽ bị xử phạt nặng. Như vậy, dân sẽ được hưởng lợi từ sai dịch mà không bị tệ nạn của sai dịch, rồi thiên hạ sẽ được hưởng ân huệ sâu sắc.”

[56] Quyền chức Giang Hoài Kinh Chiết đẳng lộ Chế trí Diêm phàn kiêm Phát vận Phó sứ, Triều nghị đại phu, Trực Long đồ các Tưởng Chi Kì được bổ nhiệm làm Thiên chương các Đãi chế, Tri Đàm châu.

(Hàn Xuyên và Tôn Thăng bàn việc bãi bỏ chức Đãi chế và mệnh lệnh tri Đàm châu của Chi Kì, vào ngày 8 tháng 6.)

[57] Chiếu rằng: “Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự Văn Ngạn Bác đã được ban chỉ lệnh cho phép đứng riêng một hàng khi chầu. Từ nay, khi đến Kinh diên và Đô đường, mọi việc cùng tấu với Tam tỉnh và Xu mật viện, đều xếp vị trí trên các Tể thần.”

[58] Tứ phương quán sứ, Gia châu Phòng ngự sứ Lý Thụ bị bãi chức Đề cử Sùng phúc cung, lệnh giữ nguyên chức vụ.

[59] Lễ bộ tâu: “Thần vị của các Tổ tông đều nên đắp tượng các công thần phối hưởng đứng hầu. Trước thần vị Thái Tổ đắp tượng Triệu Phổ, Tào Bân; trước thần vị Thái Tông đắp tượng Tiết Cư Chính, Thạch Hi Tải, Phan Mỹ; trước thần vị Chân Tông đắp tượng Lý Hãng, Vương Đán, Lý Kế Long; trước thần vị Nhân Tông đắp tượng Vương Tằng, Tào Vĩ, Lữ Di Giản. Trước thần vị Thần Tông, xin trước hết bàn định công thần phối hưởng của bản miếu để tu sửa và đắp tượng. Nếu chưa bàn định xong, xin tạm đắp hai vị thị thần theo lệ.” Được chấp thuận.

(Việc tạm đắp hai vị thị thần cũng cho thấy ý kiến của Tiên Vu Sân lúc đó, còn việc đắp tượng ai thì cần xem xét thêm.)

[60] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Triều đình gần đây sai Đỗ Hoành cùng Hoàng Liêm điều tra việc pháp chế trà ở Thục. Hoành bị Viện Tường định Biên sắc tâu xin giữ lại, muốn sai người khác thay thế, để Liêm không dám vì lợi ích cá nhân mà tăng giảm thuế khóa, từ đó thấy rõ lợi hại của pháp chế trà[11].” Chiếu rằng việc án sát trà sự ở các lộ Thành Đô v.v., lệnh Hoàng Liêm cùng các Chuyển vận ty của từng lộ cùng ký tên tâu lên.

(Triệt sợ Liêm vì lợi ích cá nhân, có lẽ lúc này đã có mệnh lệnh Đề cử Trà mã, ngày 25 tháng 4 và ngày 28 tháng 6, cần xem xét thêm.)

[61] Điện trung thị ngự sử Lã Đào tâu: “Hoàng thành sứ Tô Giam trung nghĩa chết vì tiết nghĩa, con trai ông là Tử Nguyên gần đây được bổ nhiệm làm Triều phụng lang, xin đổi sang chức võ quan. Theo chế độ cũ, những người đổi sang chức võ thần thường được Xu mật viện bổ nhiệm ngay làm Tri châu hoặc Quân sai khiển, xin hạ lệnh cho Xu mật viện bổ nhiệm ông ấy làm sai khiển ở vùng biên giới cực nam của Kinh Nam.” Triều đình đồng ý.

(Tử Nguyên sau đó được bổ nhiệm làm Tri châu Tân Châu, theo 《Ngoại chế》 của Tô Thức.)

[62] Tân sai Phu Diên lộ Mã bộ quân đô tổng quản Lý Hạo được điều làm Hà Đông lộ Mã bộ quân phó tổng quản, vì ông tự xin tránh làm việc cùng Triệu Tiết.

[63] Khôi phục Cát Hương quân thành Từ Châu.

[64] Ngày Giáp Thân, Hoàng thành sứ, Gia Châu thứ sử, Nội thị áp ban Lưu Hữu Phương được bổ nhiệm làm Chiêu tuyên sứ.

[65] Chiếu rằng các Thủ lệnh có kết quả khảo khóa thuộc loại ưu đẳng sẽ được đặc cách ban ân. Đây là theo đề nghị của Ngự sử Thượng Quan Quân.

[66] Chiếu rằng các khoản tiền ứng trước để mua lụa, ngoài các điều khoản đặc biệt, đều phải trả bằng tiền mặt, theo quy định phải chi trả đủ trước ngày 15 tháng giêng. Nếu quá hạn hoặc khấu trừ nợ, hoặc dùng vật khác để chiết khấu, đều bị phạt 100 trượng.

[67] Hữu chánh ngôn Vương Địch tâu rằng Lại bộ viên ngoại lang Lữ Thăng Khanh có đơn dẫn dụng chỉ dụ triều đình và đức âm của tiên đế, xin được xét để làm Tri châu, tham lam cạnh tranh, phản phúc, xin xét hỏi. Chiếu cho Lữ Thăng Khanh làm Thông phán Hải Châu.

[68] Chiếu cho Giá bộ viên ngoại lang Giả Chủng Dân làm Tri Lâm Giang quân. Ngự sử Lâm Đán tâu rằng ông ta có tính cách gian xảo, nên bị cách chức.

(Cựu lục ghi là Hán Dương quân. Xét lại, Hán Dương được khôi phục thành quân vào ngày 8 tháng 6, lúc này chưa phải. Nay theo 《Gia truyền》 của Lữ Công Trước. Chủng Dân sau đó được đổi làm Thông Lợi quân, ngày 26 tháng 6.)

[69] Ghi nhận một người cháu của cố Hàn lâm thị độc học sĩ Giả Ảm, vì Ảm tham gia biên soạn 《Thực lục》 của Anh Tông hoàng đế nhưng chưa kịp được ban ân thì đã mất.

[70] Xu mật viện tâu rằng: “Các tướng phó khi mãn nhiệm kỳ, xét về trình độ võ nghệ của quân binh, phần nhiều là những người đã tái nhiệm theo lệ, bị trì trệ chờ đợi. Xin rằng các tướng phó khi mãn nhiệm kỳ[12], các giám ty cùng cử quan xét thử trình độ võ nghệ của quân binh dưới quyền, đều phải đạt mức yêu cầu theo quy định và trên năm phần; khi đến viện sẽ được ưu tiên bổ nhiệm; nếu sức lực không đạt mức yêu cầu trên hai phần, những người đang ở cấp bậc sáu sẽ bị giáng một bậc; còn lại sẽ gửi về Lại bộ để bổ nhiệm theo quy định.” Được chấp thuận.

[71] Ngày Ất Dậu, Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân tâu rằng: “Thần nghe nói có việc có lợi trước mắt nhưng lại là mối họa cho cả năm; có việc tiện lợi trong một thời nhưng lại là tai hại suốt đời. Dân chúng không hiểu biết, không rõ lợi hại, không thể tự tính toán, thường chỉ thấy lợi trước mắt mà quên mối họa lâu dài. Chỉ có người trên mới cùng họ suy tính kỹ lưỡng, lo liệu từ đầu đến cuối. Vì vậy không chỉ tính toán cho lợi ích trước mắt mà còn có lợi ích cho cả năm; không chỉ có lợi ích cho cả năm mà còn có lợi ích suốt đời. Nhờ đó dân chúng trong thiên hạ được hưởng lợi thực sự từ người trên mà không phải chịu cảnh khốn cùng về sau. Có cái tên là ban ơn cho dân mà không có thực chất; có lợi ích trước mắt nhưng lại là mối họa cho cả năm, đó chính là phép Thanh Miêu.

Từ năm Hi Ninh trở lại đây, bắt đầu thi hành phép Thanh Miêu, lãi suất cho vay và thu nợ chỉ có hai phần. Nhưng dân gian vay tư nhân, lãi suất thường đến năm sáu phần, thậm chí gấp đôi gấp ba. Phép này tưởng như có lợi cho dân. Nhưng từ khi thi hành phép này, tiền tệ ngày càng khan hiếm, dân chúng ngày càng khốn đốn. Dân chúng trong thiên hạ không cho là được ban ơn, thường bàn tán rằng người trên chỉ muốn thu lợi từ dân mà thôi. Tại sao vậy? Dân gian vay tư nhân tuy lãi suất cao, nhưng vay vào mùa xuân chưa chắc đã trả vào mùa đông, dù có trả cũng chưa chắc đủ số, lại có thể tùy ý trả sớm muộn, nhiều ít. Còn vay ở huyện ấp thì không như vậy, có ngày cho vay, có kỳ hạn thu nợ, có phiền phức đòi nợ thúc giục, có chi phí đi lại đường xá. Khi cho vay, thường chỉ thấy lợi trước mắt, hoặc tiêu xài phung phí; đến khi thu nợ, bị thúc ép, tất phải bán rẻ lúa gạo vải vóc để tránh bị trách phạt. Huyện ấp thu lãi tuy chỉ có hai phần, nhưng tính cả chi phí của dân, bán rẻ lúa gạo vải vóc, hao tổn thường đến năm sáu phần, thậm chí có người phá sản, suốt đời không thể gượng dậy. Đó là điều thần gọi là có lợi trước mắt nhưng là mối họa cho cả năm, có cái tên ban ơn cho dân mà không có thực chất.

Nay những người bàn luận, ắt cho rằng trước đây cho vay Thanh Miêu là do ép buộc, nên mới có tệ nạn như trước; nay chiêu mộ những người dân muốn vay rồi mới cho, và quan lại không lấy việc cho vay nhiều làm công trạng, thì dân chúng ắt cho là tiện lợi. Thần cho rằng không phải vậy. Nay dân chúng trong thiên hạ, trong mười nhà thì có sáu bảy nhà thiếu thốn. Dụ dỗ họ bằng lợi ích của Thanh Miêu, dân chúng không hiểu biết không kịp tính toán lâu dài, ắt chỉ thấy lợi trước mắt, đua nhau đến vay. Dù nói là không ép buộc, nhưng với phiền phức đòi nợ thúc giục, chi phí đi lại đường xá, tiêu xài phung phí, bán rẻ lúa gạo vải vóc, tệ nạn vẫn không khác trước. Như vậy là dụ dỗ họ bằng lợi ích trước mắt mà đẩy họ vào mối họa cả năm, thậm chí để lại tai họa suốt đời, đó không phải là phép tốt. Có người cho rằng nay bãi bỏ việc cho vay Thanh Miêu, thì người nghèo ắt phải vay của nhà giàu, với lãi suất gấp đôi gấp ba. Thần cho rằng lãi suất Thanh Miêu nhẹ, thì dân chúng muốn vay, mà tự chuốc lấy họa về sau. Lãi suất vay tư nhân nặng, thì dân chúng ngại vay, mà không có tai họa về sau. Nếu bất đắc dĩ phải vay của nhà giàu, thì có thể tùy ý trả sớm muộn, nhiều ít, không có phiền phức đòi nợ thúc giục, chi phí đi lại đường xá, tệ nạn bán rẻ lúa gạo vải vóc, lợi hại được mất rõ ràng như vậy.

Xưa Tây Môn Báo làm lệnh huyện Nghiệp, huy động dân chúng đào kênh, dẫn nước sông tưới ruộng, người ta cho là phiền phức, Báo nói: ‘Trăm năm sau, mong rằng cha con cháu chắt sẽ nhớ đến ta.’ Sau đó đều được lợi từ thủy lợi, dân chúng no đủ. Tây Môn Báo chỉ là một viên huyện lệnh nhỏ bé, còn nghĩ đến lợi ích cho đời sau, huống chi bậc thánh minh ở trên, vỗ yên bốn biển, ắt phải tính toán lâu dài, lo liệu cho muôn đời, há nên để dân chúng vui với lợi ích trước mắt mà rơi vào mối họa cả năm sao! Thần mong bệ hạ tiết kiệm chi tiêu quốc gia, giảm nhẹ thuế khóa, giảm bớt lao dịch, thanh lọc hình phạt, cấm chỉ trộm cướp, yêu dân mà không làm hại, an dân mà không quấy nhiễu, thì dân chúng trong thiên hạ, cày ruộng đào giếng, yên ổn hưởng phúc thái bình, không cần đợi đến việc cho vay Thanh Miêu mới có thể giàu có.

Vì vậy thần mong thi hành chiếu thư ngày mồng 8 tháng 2 nhuận, bãi bỏ Thanh Miêu, khôi phục lại phép Bình Địch của Thường Bình năm xưa, đó là lợi ích chung cho muôn đời[13]. Mong bệ hạ ban chiếu rõ ràng cho các đại thần tả hữu, tính toán kỹ lưỡng rồi thi hành.”

[72] Thái bộc thiếu khanh Lý Chu tâu: “Theo lệnh sai đến các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông, Kinh Đông, Kinh Tây để xem xét và bố trí việc lập các trại nuôi ngựa. Tất cả các khoản tiền và vật dụng thuộc quản lý của Binh bộ ở các lộ này, xin cho lưu lại tại chỗ để chuẩn bị chi dùng cho việc lập trại nuôi ngựa.” Binh bộ cũng tâu: “Các khoản tiền và vật dụng thuộc quản lý của bộ này, theo quy định được phép triệu tập người để đổi chác và vận chuyển lên kinh đô nộp. Nay muốn theo lời xin của Lý Chu, tất cả đều lưu lại tại chỗ, chuẩn bị chi dùng cho việc lập trại nuôi ngựa, từ nay tạm ngừng việc đổi chác và vận chuyển.” Được chấp thuận.

(Việc trong tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ nhất, theo tờ trình của Binh bộ ngày 20 tháng 4 năm thứ 3 được thêm vào.)


  1. Tỏ rõ ý của thần là thuần khiết, nguyên văn là 'không phải để tỏ rõ ý thuần khiết của thần', theo các bản và bản in hoạt tự đã sửa lại.
  2. tiền trường vụ hàng năm từ các lộ chuyển về một triệu quan để gửi vào kho Nội tàng, ghi sổ và niêm phong, chữ 'ư' nguyên bản là 'dĩ', căn cứ theo bản trong các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 108 về sai dịch sửa lại
  3. không phải tội phạm thông thường, chữ 'tầm' nguyên bản là 'tình', căn cứ theo bản trong các và 《Đông Pha thất tập tấu nghị》 quyển 3, bài 'Chước từ đầu tấu trạng lục thủ' sửa lại
  4. Câu đương công sự Hữu kỳ kỵ phó sứ Tống Tuyên, các bản chép là 'Tống Tuyên'.
  5. Đều đã nhậm chức được nửa năm, chữ 'cập' nguyên chép là 'cấp', theo các bản sửa.
  6. Hãm hại người lương thiện, chữ 'loại' nguyên bản là 'số', theo bản khác sửa lại.
  7. hiến thẳng 'hiến' nguyên là 'Hiển', theo các bản và 《Trung túc tập》 quyển 4 《Truy tụng Lã Hối sớ》 sửa lại.
  8. 'Xin xỏ' nguyên bản là 'tình', theo bản khác sửa lại
  9. Người làm dịch vụ vốn là hộ đóng thuế, chữ 'thị' nguyên là 'đa', theo các bản và 《Loan Thành Tập》 quyển 37, bài 《Tái Ngôn Dịch Pháp Trát Tử》 sửa lại.
  10. Nếu có vi phạm mà không phát hiện, trong 《Loan Thành Tập》 câu này có thêm chín chữ 'có vi phạm không tha, thuộc quyền giám ty'.
  11. chữ 'kiến' trong 'tận kiến trà pháp lợi hại', sách 《Loan thành tập》 quyển 38, bài 《Tái khất sai quan đồng Hoàng Liêm thể lượng trà pháp trạng》 chép là 'cụ'.
  12. bản các bản chép thêm chữ 'lộ' dưới chữ 'chư'
  13. Lợi ích chung cho muôn đời, chữ 'tư' nguyên là 'tư', theo các bản, bản hoạt tự và 《Tục thông giám》 quyển 79 sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.