VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 382: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)
Bắt đầu từ ngày Bính Thìn tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Triết Tông đến hết ngày Giáp Tuất cùng tháng.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Bính Thìn (mùng một), Thượng thư tỉnh tâu: “Theo chế độ cũ: Các chức học quan trong và ngoài kinh đều phải qua thi tuyển để bổ nhiệm. Gần đây có chiếu cho Thượng thư, Thị lang, Tả Hữu ty Lang trung, Học sĩ, Đãi chế, hai tỉnh, quan Ngự sử đài, Quốc tử Tư nghiệp mỗi người tiến cử hai người, nên bãi bỏ phép thi.” Trước đó, Vương Nham Tẩu tâu: “Thần trộm nghĩ rằng, việc rèn luyện danh tiết, tu dưỡng đạo đức để chờ đợi được trọng dụng là điều mà kẻ sĩ tự đặt ra cho mình; còn việc nuôi dưỡng khí tiết của kẻ sĩ để giúp họ thành tựu điều tốt đẹp, từ đó làm thay đổi phong tục trong thiên hạ, là điều mà triều đình nên làm đối với kẻ sĩ. Thần thấy rằng, từ Thái học trong kinh đến các chức học quan ở các quận, đều bắt họ phải qua thi tuyển. Kẻ sĩ bốn phương, vất vả với việc nộp quyển, tỉ mỉ với văn chương, không ngại đường xa vất vả, lưu lại lâu ngày, há phải là lòng họ muốn vậy sao? Chỉ vì bị bổng lộc thúc ép, nên bất đắc dĩ mà làm thôi. Điều này rất không phù hợp với việc coi trọng đạo thầy trò, đề cao nho phong, và tiếc nuối khí tiết của kẻ sĩ. Kinh Lễ nói: ‘Đạo được tôn trọng thì dân mới biết kính trọng việc học.’ Mạnh Tử nói: ‘Cái họa của người ta là ở chỗ thích làm thầy người khác.’ Nay lập pháp như vậy, khiến ai cũng tự tìm cách làm thầy, muốn dân trong thiên hạ biết kính trọng việc học, e rằng không thể được. Thần ngu muội, kính mong Thánh từ ra lệnh bãi bỏ phép thi này, chỉ dùng những người được tiến cử theo chiếu để làm học quan trong và ngoài kinh, nhằm coi trọng việc tuyển chọn người dạy dỗ, để khuyến khích thiên hạ.”
Tờ thiếp vàng viết: “Nếu được đặc ân bãi bỏ phép thi dùng tiến cử, xin hàng năm cho các quan cận thần và các Giám ty ở các lộ tiến cử người họ biết, triều đình sẽ xem xét và sử dụng. Các chức học quan ở Vũ học cũng xin theo đó mà bãi bỏ phép thi dùng tiến cử.” Do đó, triều đình nghe theo lời của Vương Nham Tẩu.
(Cựu lục chép rằng, lúc đó pháp luật dù lớn nhỏ đều bị bãi bỏ. Tân lục biện rằng: Trước đây có chiếu tiến cử học quan, nay số người được tiến cử đã nhiều, tự nhiên không cần phải thi tuyển riêng. Nay lại nói “pháp luật dù lớn nhỏ đều bị bãi bỏ”, là không đúng. Nay xóa bỏ. Xét việc bãi bỏ phép thi học quan, thực sự là theo nghị của Vương Nham Tẩu, Tân lục có vẻ chưa xét kỹ.)
[2] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu cho Ty Đề điểm hình ngục phủ Khai Phong đặt một chức Kiểm chính quan.
[3] Trung thư xá nhân Tô Thức tâu: “Thần trước đây từng tâu bàn về việc sai dịch nha tiền, chỉ nên chiêu mộ, không nên định sai. Các quan chấp chính không cho là phải, thần bèn tâu xin miễn cho thần việc tường định pháp lệnh. Vâng thánh chỉ không cho phép. Đến nay đã hơn một tháng, những điều thần tâu bàn trước đây đều không được thi hành. Mà thần ngu muội, vẫn cố chấp ý kiến của mình. Gần đây lại thấy Lại bộ thượng thư Tôn Vĩnh tâu, bác bỏ ý kiến của thần. Đó là do thần ngu muội không ra gì, trên thì bất đồng với các quan chấp chính, dưới thì có ý kiến khác với bản cục, nếu không được miễn nhiệm, thì những điều các quan chấp chính muốn lập pháp, không thể nào thành được. Huống chi nay kỳ hạn quý đã mãn, các văn bản lập pháp của các lộ lần lượt gửi đến cục, đều cần những người thông hiểu và đồng tâm hiệp lực để cùng quyết định. Như thần trái ngược, ắt sẽ hại đến thành pháp, xin sớm ban chỉ miễn nhiệm. Tội cố ý trái thánh chỉ của thần, cũng xin được xử lý.”
[4] Lại dâng trạng lên Trung thư tỉnh rằng: “Thức gần đây tâu xin miễn việc tường định pháp lệnh, đã vâng thánh chỉ chuẩn tấu. Thấy Tôn cấp sự dâng tấu xin lấy thánh chỉ trước đây, xin lấy ý kiến của Thượng thư Tôn và Thức giao cho Đài gián, Cấp xá, Lang quan, định xem đúng sai, rồi bãi bỏ những điều không thể thi hành. Cần phải dâng trạng xin chỉ thị. Những điều Thức tâu bàn về pháp lệnh trước sau, Thức đã tự biết là sơ suất, quyết khó thi hành, việc đúng sai không cần phải định đoạt nữa. Xin chỉ theo chỉ thị trước đây mà thi hành. Từ nay về sau, Thức không dám đến nha tường định ký tên công vụ nữa, kính xin sớm ban chỉ thi hành.” Vua theo lời.
[5] Tô Thức cho rằng pháp miễn dịch có nhiều tệ nạn cần phải cải cách, nhưng không nên thu thêm tiền của dân ngoài chi phí thực tế của việc thuê mướn. Nếu căn cứ vào chi tiêu để thu thuế, không thu quá nhiều tiền của dân, thì cũng đủ để làm lợi cho dân. Ông từng trình bày ý kiến này với Tư Mã Quang, nhưng Quang không đồng ý. Tô Thức nói: “Ngày xưa Hàn Ngụy công bắt dân Thiểm Tây làm nghĩa dũng, ông làm quan gián, tranh luận rất gay gắt, Ngụy công không vui, nhưng ông cũng không quan tâm. Tôi từng nghe ông kể lại chuyện này rất chi tiết, lẽ nào nay làm tể tướng lại không cho tôi nói hết ý kiến sao?” Quang không vui rồi bỏ đi.
(Chính mục: Tô Thức tâu rằng việc định lại pháp dịch của ông khác với chấp chính và các quan cùng cục, xin được miễn nhiệm. Triều đình đồng ý. Tô Triệt trong bài chí mộ Tô Thức viết: Khi ông được thăng làm Trung thư xá nhân, lúc đó Tư Mã Quang đang bàn việc đổi pháp miễn dịch thành sai dịch. Sai dịch đã được thực hiện từ thời tổ tông[1], pháp lệnh lâu ngày sinh nhiều tệ nạn. Dân đăng ký hộ tịch phải đi làm dịch, không quen việc quan, lại nhũng nhiễu, khiến nhiều người phá sản, dân ở những nơi đất hẹp không được nghỉ ngơi. Tiên đế biết rõ điều đó nên đặt ra pháp thuê dịch, bắt dân nộp tiền theo hạng hộ, tránh được nạn bị bắt đi làm dịch. Nhưng người thi hành pháp không tuân theo ý trên, thu thêm tiền ngoài chi phí thực tế của việc thuê dịch, khiến dân chúng khổ sở. Nếu căn cứ vào chi tiêu để thu thuế, không thu quá nhiều tiền của dân, thì cũng đủ rồi. Tư Mã Quang là người trung tín nhưng thiếu tài trí, chỉ biết cái hại của pháp miễn dịch mà không biết cái lợi, muốn dùng sai dịch thay thế hoàn toàn. Khi sai quan lập cục, ông cũng được chọn vào, nhưng vì bệnh nên xin nghỉ, khiến Quang không vui. Ông thường gặp Quang ở chính sự đường, trình bày những điều không thể làm, Quang tức giận. Ông nói: “Ngày xưa Hàn Ngụy công bắt dân Thiểm Tây làm nghĩa dũng, ông làm quan gián, tranh luận rất gay gắt, Ngụy công không vui, nhưng ông cũng không quan tâm. Tôi từng nghe ông kể lại chuyện này rất chi tiết, lẽ nào nay làm tể tướng lại không cho tôi nói hết ý kiến sao?” Quang tức giận rồi thôi.
Ông biết lời mình không được dùng, xin ra ngoài làm quan, nhưng không được chấp thuận. Quang bắt đầu tức giận, có ý đuổi ông, nhưng vì ông bệnh mất nên thôi. Lúc đó các quan đài gián đều là người của Quang, đều xu nịnh để cầu tiến, ghét ông vì thẳng thắn làm lộ khuyết điểm của mình, tranh nhau tìm tì vết của ông, nhưng không tìm được, bèn dựa vào những lời gièm pha để hãm hại ông. Từ đó ông không yên ổn trong triều. Xét bài chí mộ do Tô Triệt viết, e rằng có ý riêng, khó tin hoàn toàn, nay lược bớt mà chép lại.)
[6] Ngày Kỷ Mùi, châu Bảo tâu: Nước sông tràn ngập, ngập đến đất phần mộ của tiên hoàng, xin được sử dụng phu xuân năm sau trong địa giới châu này để tu sửa. Được chấp thuận.
[7] Ty Điện tiền Mã bộ quân tâu: “Các quân nội ngoại về việc bắn cung ngựa và bộ binh đều có quy tắc giáo duyệt, đã dạy tập thành tựu. Việc giảm bớt quy định về bệnh sắc bắn cung ban hành năm Nguyên Phong thứ 7 nếu được thực hiện hoàn toàn thì không gây hại đến pháp giáo.” Được chấp thuận.
[8] Giả Thừa vụ lang Cao Anh tâu: “Xin xử tội cướp mạnh ngang với tội quan lại tham nhũng và tội tự đạo của giám thủ, không được ân xá, đồng thời bỏ phép đổi ngạch, để bọn cướp có chỗ sợ hãi. Lệnh cho Binh bộ xem xét những quân phạm tội cướp mạnh, từ nay không được đổi sang quân khác.” Được chấp thuận.
[9] Ngày Tân Dậu, Tể thần Tư Mã Quang tâu: “Thần trộm nghĩ rằng, yếu lĩnh của việc trị nước không gì bằng việc được người tài, trăm quan đều xứng chức thì muôn việc đều được trị. Tuy nhiên, tài năng và tính cách của mỗi người đều có sở trường riêng, có người đức hạnh hơn người nhưng tài năng lại kém, có người giỏi việc này nhưng lại yếu việc khác. Dù là Cao, Quỳ, Tắc, Khế cũng chỉ có thể đảm nhiệm một chức vụ, huống chi là người bình thường, sao có thể đòi hỏi họ toàn diện? Vì thế, Khổng môn dùng bốn khoa để bàn luận về sĩ tử, nhà Hán dùng nhiều cách để thu nhận nhân tài. Nếu chỉ nhìn vào khuyết điểm mà bỏ qua ưu điểm, thì triều đình sẽ không có người tài để dùng; nếu tùy theo khả năng mà bổ nhiệm, thì thiên hạ sẽ không có người tài bị bỏ phí.
Thần được triều đình tin dùng, giữ chức Tể tướng, việc tuyển chọn trăm quan là trách nhiệm của thần, nhưng trí tuệ hạn hẹp, kiến thức nông cạn. Việc hiểu người là điều khó, ngay cả thánh hiền cũng coi trọng, huống chi thiên hạ rộng lớn, nhân tài đông đảo, có người vì khiêm nhường mà bị chìm lấp, có người vì cô độc nghèo khó mà bị bỏ quên, mặc áo vải mà ôm ngọc quý, làm sao có thể biết hết được? Nếu chỉ dựa vào người quen biết, thì sẽ bị nghi ngờ là thiên vị, khó lòng thuyết phục được lòng người; nếu chỉ căn cứ vào thứ bậc, thì sẽ bổ nhiệm người không xứng đáng, làm sao đạt được sự trị yên? Chi bằng để các quan đại thần tại chức tiến cử người mà họ biết, như vậy mới có thể hợp lòng công bằng, không để sót nhân tài nơi thôn dã.
Thần dám xin triều đình thiết lập mười khoa để tiến cử nhân tài: Một là khoa Hành nghĩa thuần cố có thể làm gương mẫu (cả người có chức và không có chức đều có thể tiến cử); Hai là khoa Tiết tháo phương chính có thể đảm nhiệm việc hiến kế (tiến cử người có chức); Ba là khoa Trí dũng hơn người có thể đảm nhiệm chức tướng súy (tiến cử quan văn võ có chức, khoa này cũng cho phép các võ thần từ chức Kiềm hạt trở lên tiến cử); Bốn là khoa Công chính thông minh có thể đảm nhiệm chức giám sát (tiến cử người có thứ bậc từ Tri châu trở lên); Năm là khoa Kinh thuật tinh thông có thể đảm nhiệm việc giảng dạy (cả người có chức và không có chức đều có thể tiến cử); Sáu là khoa Học vấn uyên bác có thể đảm nhiệm việc cố vấn (cả người có chức và không có chức đều có thể tiến cử); Bảy là khoa Văn chương điển lệ có thể đảm nhiệm việc trước tác (cả người có chức và không có chức đều có thể tiến cử); Tám là khoa Giỏi xử án công minh, đạt được sự thật (tiến cử người có chức); Chín là khoa Giỏi quản lý tài chính, có lợi cho cả công và tư (tiến cử người có chức); Mười là khoa Thông thạo pháp luật, có thể xử lý các vụ án (tiến cử người có chức).
Các quan chức từ Thượng thư đến Cấp, Xá, Gián nghị, các quan hưởng lộc từ Khai phủ nghi đồng tam ty đến Thái trung đại phu, các chức từ Quan văn điện đại học sĩ đến Đãi chế, mỗi năm phải tiến cử ba người trong mười khoa này (không phải mỗi khoa tiến cử ba người, mà là tùy theo biết người nào có thể đảm nhiệm khoa nào, tổng cộng ba người). Tờ trình viết: ‘Thần trộm thấy người nào có tài năng gì (phải nêu rõ sự việc, không được dùng lời hoa mỹ, người ở cấp trên có thể tiến cử người ở cấp dưới, người ở cấp dưới không được tiến cử người ở cấp trên). Thần nay xin bảo đảm người này có thể đảm nhiệm khoa nào[2]. Nếu được triều đình trọng dụng, sau này không như lời tiến cử (ví dụ như tiến cử người có hành nghĩa thuần cố nhưng lại vi phạm danh giáo; tiết tháo phương chính nhưng lại nịnh hót, gian trá; trí dũng hơn người nhưng lại ngu muội, nhút nhát dẫn đến thất bại; công chính thông minh nhưng lại thiên vị, mờ ám; kinh thuật tinh thông nhưng không thể giảng dạy; học vấn uyên bác nhưng lại rỗng tuếch, không biết gì; văn chương điển lệ nhưng lại thô kệch, sai lầm; giỏi xử án nhưng lại để oan khuất, không đúng sự thật[3]; giỏi quản lý tài chính nhưng lại làm hại dân, hao tổn quốc khố; thông thạo pháp luật nhưng lại thường xuyên xử sai). Và nếu phạm tội tham nhũng, thần xin chịu tội theo pháp luật triều đình, không từ chối.'”
Khi nhận được tấu chương, giao cho Trung thư tỉnh chọn những viên chức cần cẩn, chuyên trách thu nhận và quản lý. Mỗi khoa đều lập sổ sách, ghi chép đầy đủ ngày tháng năm[4], tên họ của quan viên, và tên họ của người được tiến cử. Lập riêng sổ sách ghi chép các quan viên thần liêu được tiến cử, cuối năm nếu không tiến cử hoặc số người không đủ, sẽ xét xử và thi hành. Nếu gặp việc trong kinh hoặc ngoài phương cần phải cử quan viên đi khảo sát, đánh giá, kiểm tra, thúc giục, xét xử và quyết định, thì giao cho các quan chấp chính thân kiểm tra từng sổ sách, tùy theo khoa được tiến cử mà chọn người, giao cho họ thử quản lý công việc đó. Nếu họ hoàn thành tốt, thì lập sổ riêng ghi chép thành tích.
Khi có chức vụ trong khoa đó khuyết, (ví dụ như chức kinh diên hoặc học quan khuyết, thì dùng người thuộc khoa hành nghĩa thuần cố, kinh thuật tinh thông, học vấn uyên bác; chức đài gián khuyết, thì dùng người thuộc khoa tiết tháo phương chính), giao cho các quan chấp chính thân kiểm tra từng sổ sách, chọn người có danh thực tương xứng, hoặc được nhiều người tiến cử, hoặc có thành tích để bổ nhiệm. Trước khi ban sắc phong cho người đó, phải ghi rõ tên họ của người tiến cử, nếu sau này người được tiến cử không xứng đáng, người tiến cử sẽ bị xử theo luật “cống cử phi kỳ nhân”, nếu phạm tội tham nhũng, người tiến cử sẽ bị giảm ba bậc tội. Nếu vì nhận hối lộ hoặc thiên vị mà tiến cử, tội danh nặng thì xử theo luật nặng, nhất định phải thi hành, không thể khoan dung. Dù là quan chấp chính đương nhiệm, triều đình không thể bãi chức, cũng phải giáng chức để răn đe. Nếu triều đình tùy thời vì việc mà đặc biệt chiếu chỉ tiến cử quan viên, (ví dụ như tiến cử người biết về sông ngòi, chăn nuôi ngựa), không thuộc trong mười khoa, nếu người được tiến cử không xứng đáng, cũng xử theo cách này. Mong rằng mọi người đều thận trọng khi tiến cử, để quan chức đều là người tài.” Triều đình đồng ý.
(Cựu lục chép: Tư Mã Quang được lòng dân, nhưng khi làm tướng, bỏ pháp luật để trả thù, không làm gì cả. Chỉ xin lấy mười khoa để tuyển chọn nhân tài, cuối cùng chỉ là văn bản suông, không có ai ứng tuyển. Người đời bắt đầu chê cười. Tân lục biện rằng: Nói Tư Mã Quang “được lòng dân”, “bỏ pháp luật để trả thù, không làm gì cả”, lời này không thể truyền lại cho hậu thế. Từ chữ “Quang” đến “chê cười” gồm 36 chữ đều bị xóa bỏ. Ngày 12 tháng 12 năm thứ hai, các lộ lập số lượng định mức, cần tra cứu thêm.)
[10] Lễ bộ tâu rằng: Các quan lo việc tế tự khi trai giới, ở trong ty mình và trong cung tế, nếu gặp các quan cùng ty hoặc cùng làm việc thì không nên áp dụng lệnh cấm yết kiến. Vua nghe theo.
[11] Thông nghị đại phu Trương Vấn được bổ làm Bí thư giám, Thái thường thiếu khanh Tiên Vu Sân được bổ làm Đại Lý khanh. Sân từ chối, sau đó lại được phục chức cũ.
(Chính mục và Thực lục giống nhau, ngày 12 tháng 9, Sân từ chức Thái thường thiếu khanh được thăng làm Tả gián đại phu, đến ngày 14 tháng này Sân bị bãi chức Đại Lý khanh, phục chức cũ. Chính mục có ghi chép. Xét ngày 27 tháng 8, Lưu Chí nói Sân vì già bệnh từ chối chức Đại Lý khanh. Thực lục thiếu chỗ này.)
[12] Chủ khách viên ngoại lang Vương Tử Thiều được bổ làm Tri châu Thọ Châu. (Truyền rằng xin bổ ngoại, được Thọ Châu. E rằng có nguyên do.) Triều nghị đại phu, Trực Long đồ các Phạm Tử Kỳ được bổ làm Tướng tác giám. (Năm Nguyên Phong thứ 8, tháng 4, từ chức Trực Long đồ được bổ làm Chuyển vận sứ Hà Bắc.) Phó chuyển vận sứ Hà Nam Lý Nam Công được bổ làm Tri châu Thương Châu.
(Tháng 2 nhuận, từ Hà Bắc chuyển sang Hà Đông.)
[13] Trước đó, Bí thư thiếu giám Lưu Ban và các quan tâu rằng: “Trước đây cùng với cố Bí thư thừa Lưu Thứ cùng biên soạn sách 《Tư trị thông giám》, Thứ đóng góp nhiều nhất cho sách này; khi sách hoàn thành, các quan tham gia biên soạn đều được ban thưởng, chỉ có Thứ đã mất, gia đình ông không được hưởng ân điển, con cháu không ai được hưởng bổng lộc. Xin theo lệ của Hoàng Giám và Mai Nghiêu Thần, bổ một người con của Thứ làm quan.” Lúc đó, Tư Mã Quang cũng vì việc này mà tâu xin. Vua ban chiếu cho một người con của Thứ làm Giao xã trai lang.
[14] Tôn Lộ, quan phụ trách kinh tế tài chính của Hi Hà Lan Hội lộ, tâu rằng: “Vùng đất biên giới mới thuộc khu vực Định Tây thành, Lan Châu[5], ngoài việc đã chiêu mộ được các tay cung tên, còn có hơn một vạn khoảnh đất hoang chưa xây dựng đồn lũy, có nguy cơ bị giặc cướp ngựa quấy nhiễu. Xin từ phía đông Đông Quan bảo, Lan Châu, tu sửa hai đồn Chất Cô và Thắng Như Hộ Canh[6], cùng với việc xây dựng các đồn bảo vệ canh tác tại khu vực Sâm Ma Cán Than thuộc sáu tộc Vũ Chức, phía đông Định Tây thành và Ngọc Lâu sơn, phân công người làm việc cùng với các tay cung tên địa phương phối hợp phòng thủ.” Chiếu cho Lưu Thuấn Khanh xem xét, nếu thấy hợp lý thì tiến hành xây dựng dần dần. (Ngày 24 tháng 9).
[15] Ngày Nhâm Tuất, Triệu Tiết, Long đồ các trực học sĩ, Triều phụng đại phu, Kinh lược an phủ sứ Phu Diên lộ, được thăng làm Triều nghị đại phu.
(Cựu lục chép là do có công ở biên giới, Tân lục theo đó. Xét Triệu Tiết được thăng Triều nghị đại phu qua khảo xét, Tô Thức viết lời phong rằng: “Xét thời gian để thăng chức, tạm theo điển cũ; thu công danh nơi đời không thường, cố gắng theo người trước.” Không rõ Cựu lục vì sao lại chép là thưởng công biên giới? Tân lục không xét kỹ, dùng lại văn cũ, cũng quá sơ lược. Thời đầu Nguyên Hựu, Tư Mã Quang chủ trương không thưởng công biên giới, hơn nữa lúc này Triệu Tiết chưa từng xuất binh đánh giặc, có công gì để thưởng? Đây là do sử quan thời Thiệu Thánh bịa đặt vu khống. Sơ lược như vậy, thật đáng tiếc! Hơn nữa, ngày 22 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8 bắt được người Hạ là Dịch Quyết Ngôi Danh, đều đã từ Đãi chế thăng lên Long đồ trực học sĩ rồi. Truyện về Triệu Tiết còn chép thêm, cần xem xét kỹ hơn.)
[16] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần gần đây vào ngày 28 tháng 6 đã tấu rằng, vì sứ giả phương Tây vào cõi, e rằng có việc bàn hòa xin đất, xin nhân lúc này bỏ đất Lan Châu cùng An Cương, Mễ Chi và năm trại khác mà trao cho họ. Yên biên cương, nghỉ sức dân, là kế sách cho xã tắc. Nay sứ giả phương Tây đã đến, thần nghe nói các đại thần chấp chính bàn về việc bỏ hay giữ vẫn chưa quyết đoán. Thần thấy từ khi bệ hạ lên ngôi, nước Hạ tuy nhiều lần sai sứ đến, nhưng việc biên giới ban đầu họ không tự nói ra. Đoán lòng dạ xảo quyệt của họ, hẳn là biết triều đình chán ghét chiến tranh, nên kiên quyết không xin, muốn để việc này phát xuất từ triều đình, để được coi là trọng đại.
Triều đình thấu hiểu ý họ, nhẫn nhịn không cho. Đến khi tình thế cùng quẫn, họ mới đến xin mệnh, nay nếu lại không chấp thuận, để sứ giả của họ trở về tay không, một khi đã bỏ lỡ cơ hội này, ắt sẽ hối hận. Nếu họ tập hợp binh mã, đóng quân ở biên giới, mà ta chấp thuận, thì là vì sợ binh lực mà cho, không còn là ân huệ; nếu không chấp thuận, thì một khi biên giới nổ ra xung đột, họa loạn sẽ không dứt. Khoảng cách mong manh như sợi tóc, chính là lúc này, không thể bỏ lỡ.
Thần lại nghe rằng, trước đây lấy đất Lan Châu và năm trại, vốn không phải là ý của Tiên đế. Tiên đế ban đầu bàn việc lấy Linh Vũ, nhưng nội thần Lý Hiến nhút nhát, không dám tiến quân, nên mới dùng binh lấy Lan Châu. Tiên đế ban đầu bàn việc lấy Hoành Sơn, nhưng các tướng Thẩm Quát, Chủng Ngạc không tuân theo kế sách của Tiên đế, nên mới dùng binh lấy năm trại. Hai việc này đều do tướng lại không làm tròn chức trách, muốn lập công để tránh tội, còn ý của Tiên đế vốn không phải vậy. Sau đó, vào năm Nguyên Phong thứ 6, nước Hạ sai sứ đến xin tội, Tiên đế khen ngợi sự cung thuận của họ, ra lệnh cho quan lại biên giới cấm chỉ việc xâm lấn. Sau đó họ lại sai sứ đến tạ ơn, xin trả lại đất đai, Tiên đế vẫn chỉ huy quân Bảo An cùng Châu Hựu bàn việc định biên giới, nhưng việc này kéo dài chưa xong, thì Tiên đế băng hà, nên đến nay vẫn chưa định đoạt.
Như vậy mà nói, việc lấy Lan Châu và năm trại, vốn không phải là ý của Tiên đế, mà việc bỏ đi lại là ý nguyện của Tiên đế. Nay những người bàn luận không xét kỹ đầu đuôi, vội vàng lập ra kế sách kiên thủ, chỉ để tránh tiếng bỏ đất, không xét đến sức dân, không lo cho quốc kế, ý họ chỉ muốn thuận tiện cho bản thân, chứ không phải là lợi ích của xã tắc. Thần lại nghe rằng, có người bàn rằng dù bỏ hay giữ đều không tránh khỏi dùng binh, bỏ thì dùng binh chậm, giữ thì dùng binh nhanh, trong khoảng chậm nhanh, lợi hại không xa; nếu vội vàng trao đất cho họ, e rằng không phải là kế sách hay.
Thần nghe rằng thánh nhân ứng biến, chính là ở khoảng chậm nhanh, chỉ cần việc biến chậm lại một chút, thì ta đã có nhiều kế sách. Xưa vào thời Hán Văn Đế, Cảnh Đế, Ngô vương Tị trong lòng nuôi dưỡng mưu đồ bất chính, giả bệnh không vào triều, tích trữ của cải nuôi dưỡng kẻ sĩ, mưu đồ làm loạn thiên hạ. Văn Đế chuyên tâm nuôi dưỡng, bỏ qua không hỏi, lại ban thêm ghế gậy, ân lễ ngày càng lớn. Tị tuy trong lòng chứa họa tâm, nhưng nhờ ân trạch thấm nhuần, cuối cùng không thể phát động.
Đến khi Cảnh Đế dùng mưu của Triều Thác, muốn nhân lúc họ có tội mà cắt bớt quận huyện của họ, cho rằng cắt cũng phản, không cắt cũng phản, cắt thì phản nhanh mà họa nhỏ, không cắt thì phản chậm mà họa lớn, lệnh cắt vừa ban ra, bảy nước đều nổi loạn. Đến nỗi Cảnh Đế phải huy động binh lực cả nước, sai ba mươi sáu tướng, mới vừa đủ dẹp loạn. Những người bàn luận nếu không xét kỹ lợi hại nông sâu, so sánh họa phúc nặng nhẹ, thì Văn Đế nhẫn nhịn không quyết đoán, gần như là nhu nhược; Cảnh Đế quyết đoán cứng rắn, gần như là cương nghị. Nhưng nếu theo kế của Văn Đế, họa phát chậm, có thể từ từ chuẩn bị phòng ngự. Qua một thời gian, biến cố tự sinh, dần dần kiểm soát, thế nào cũng được, dù có mười Ngô vương Tị cũng không làm gì được. Nếu theo kế của Cảnh Đế, họa phát nhanh, chưa kịp quay đầu đã phải giao chiến, một khi gươm giáo đã chạm nhau, thắng bại khó lường, vận mệnh xã tắc quyết định trong một ngày, dù có ăn thịt Triều Thác cũng chẳng ích gì.
Nay kế sách muốn bỏ, giống với Văn Đế; còn mưu đồ muốn giữ[7], lại giống với Cảnh Đế. Thần xin tuyên dụ các đại thần chấp chính, rằng muốn bỏ thì lý thẳng mà họa chậm, muốn giữ thì lý cong mà họa nhanh, cong thẳng chậm nhanh, cái nào lợi hại hơn? Huống chi việc hiện nay, chúa thượng còn trẻ, mẫu hậu nghe chính sự, tướng súy lại sĩ, ân tình chưa gắn kết, một khi giao chiến, ai sẽ liều mạng? Nếu như thư từ dồn dập, thắng bại rối ren, lâm cơ quyết đoán, ai sẽ gánh vác trách nhiệm? Chỉ mong bệ hạ suy nghĩ thấu đáo[8], sớm ban quyết đoán, đừng để phương Tây thêm phần ngang ngược, mà kế sách bỏ hay giữ đều thuận tiện, thì thiên hạ may mắn lắm thay.”
[17] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu:
(Sớ của Nham Tẩu không rõ thời gian, nay phụ theo sau sớ của Tô Triệt.)
[18] Thần trước đây từng dâng sớ, bàn về mối họa lớn của thiên hạ, cho rằng không gì bằng việc đóng quân ở Lan Hội làm hao tổn Trung Quốc, mong bệ hạ sớm lo liệu. Nay nghe tin người phương Tây vào triều, xin đất làm việc, bệ hạ nghĩ đến kế hoạch an lạc lâu dài của dân chúng, đem việc này giao cho các đại thần mưu quốc, nhưng nghe các đại thần bàn luận bất nhất, không có chính sách rõ ràng, thần e rằng thánh tâm còn do dự, chưa có cách xử lý. Thần cho rằng cách nghe lời nói phải xem xét qua sự việc, thì một lời có thể quyết định.
Trước khi quốc gia mở mang bờ cõi, chỉ coi trọng tín nghĩa, lòng man di không dám khinh nhờn, nên biên hoạn ít; biên hoạn ít nên sức dân nhẹ nhàng; sức dân nhẹ nhàng nên lòng người yên ổn; lòng người yên ổn nên uy vũ quân đội mạnh mẽ; vì thế có thể ngồi yên kiểm soát biên giới mà không tự hao tổn. Từ khi mở mang bờ cõi, lấy tài sản hữu hạn cung ứng chi phí vô cùng, tham đất vô dụng, sức dân đã kiệt quệ không thể chống đỡ, lòng người đã nguy hiểm không thể bảo toàn, uy vũ quân đội đã suy yếu không thể dựa vào, không nhân lúc này tu phục tín nghĩa, vì kế hoạch nghỉ ngơi của thiên hạ, còn có thể cố chấp, tăng thêm mối họa ngày sau sao?
Xưa kia, Tang Hoằng Dương đời Hán xin khai khẩn đất Luân Đài để uy hiếp Tây Vực, Hán Vũ Đế hạ chiếu, hối hận sâu sắc về việc đã qua rằng: “Trước đây có quan tâu, muốn tăng thuế dân ba mươi để giúp biên phòng, đó là làm khốn khổ lão nhược cô độc. Nay lại xin khai khẩn đất xa Luân Đài, đó là làm phiền nhiễu thiên hạ, không phải là cách ưu đãi dân, nay Trẫm không nỡ nghe.” Bèn phong Thừa tướng Xa Thiên Thu làm Phú Dân Hầu, để tỏ rõ ý nghỉ ngơi, nghĩ đến việc làm giàu nuôi dân. Nay những người bàn luận muốn xin giữ lại Lan Cao để khai khẩn, có gì khác với việc này? Mong bệ hạ lấy bài học hối hận cuối cùng của Hán Vũ Đế mà sớm hối hận, thật may mắn!
Đến thời Hán Tuyên Đế, Ngụy Tương xin bãi bỏ việc khai khẩn đất Xa Sư, thời Hán Nguyên Đế, Giả Quyên Chi xin bỏ quận Chu Nhai, thời Đường, tể tướng Địch Nhân Kiệt cũng xin bỏ Tứ Trấn, lập Hộc Sắt La làm Khả Hãn, lại xin bỏ An Đông[9], lại lập họ Cao, Lý Đức Dụ cũng xin đừng bảo vệ An Tây, những người này đều là hiền tài đương thời, há chẳng phải vì tiếc uy linh của quốc gia, nặng lòng bỏ đất sao? Chỉ vì không muốn tham đất ngoài mà hao tổn trong nước, làm kiệt quệ sinh linh, theo đuổi hư danh, chịu thực họa, để lại mối họa vô cùng cho quốc gia. Nay đất hoang vu xa xôi, đối với thế nước, không lấy được làm mạnh, không mất làm yếu, người hiểu biết đều nói bỏ đại họa để tự toàn, đó mới là cách làm mạnh. Được đất không bằng nuôi dân, phòng người không bằng giữ mình, nay nhân họ có yêu cầu mà cho họ, đủ để tỏ ân huệ khoan dung, kết tín nghĩa hòa bình. Nếu bỏ lỡ thời cơ này, ngày sau binh đao liên miên, Trung Quốc chán ghét khổ cực, mà mối họa từ trong lòng sinh ra, bệ hạ dù muốn vứt bỏ cũng không thể được.
Thần đoán những người bàn luận chỉ nói rằng: hơn mười năm hao tổn sức lực thiên hạ mà được, nỡ nào một sớm bỏ đi sao? Đó là lời bàn của người không biết lo xa. Tài sản dân đã hao tổn, sinh mạng dân đã tổn thương, đã không thể hối hận được, mà mối họa ngày sau, còn không lo liệu từ bây giờ, thì đến khi nào mới thôi? Lại có người nói: sợ mở đầu cho yêu cầu không biết chán, sinh thêm biên hoạn, không bằng không cho. Đó là nỗi lo của người không biết tự xử. Họ yêu cầu vô cớ, thì ta có lý lẽ để từ chối, yêu cầu vô cớ, thế tất tự lui. Hơn nữa, họ tuy là ngoại di, đã được cho, há không biết ơn, còn có yêu cầu không biết chán sao? Nếu có ân huệ để kết nối, còn sợ họ đến, thì không có ân huệ mà cho họ, sẽ ra sao? Thần nghe nói lúc đầu mở mang bờ cõi, chi phí không thể kể xiết; sau khi bãi binh, năm nào cũng tốn không dưới vài trăm vạn, một khi có biến động, biết làm sao đây? Bệ hạ nên nghĩ rằng đây đều là máu mỡ của sinh linh Trung Nguyên! Trung Nguyên là nơi bệ hạ dựa vào để kiểm soát biên giới. Mà lấy máu mỡ sinh linh bôi vào đất hoang vu không sinh sôi, muốn làm kế lâu dài truyền đời, há chẳng nguy hiểm sao! Mong bệ hạ lưu tâm, sớm ban quyết đoán sáng suốt, thiên hạ may mắn biết bao!
[19] Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu rằng:
(Lời tâu của Chí không rõ thời điểm, có lẽ là trước khi sứ giả Hạ chưa vào triều kiến, nay phụ theo sau lần tâu thứ hai của Tô Triệt về việc Lan Châu.)
[20] Thần thấy rằng từ năm Nguyên Phong, triều đình xuất binh sang phía tây, xây thêm thành lũy, các nghị sự đã bàn luận về lợi hại từ lâu. Thần cũng từng dâng ba kế sách (ba kế sách chưa thấy) lên triều đình. Nay người Hạ phái sứ giả đến, đã ở tại dịch quán nhiều ngày, tình thế chắc chắn sẽ có yêu cầu. Dù triều đình đã âm thầm quyết định, nhưng thần vẫn không thể yên lòng, xin trình bày thêm một hai điều để bổ sung cho lời tâu trước, mong được xem xét. Thần đã từng hỏi han kỹ càng về các ý kiến bàn luận, hiểu rõ đầu đuôi.
Những người chủ trương bỏ đất nói rằng: Trước đây xuất binh vốn là để cứu dân trừ tội, nhưng sau khi chiếm đất lại tự lợi, tất sẽ dẫn đến tranh chấp; hao tổn tài lực, hại dân, tranh giành đất đai không phải của mình, tình thế buộc phải bỏ; đợi đến lúc khốn cùng mới bỏ, chi bằng sớm dâng tặng một tòa thành trống để tỏ lòng nhân từ. Lời này đúng. Nhưng người phản bác lại nói: Dâng đất để ngừng tranh chấp, nhưng nếu kẻ tham lam như hổ lang không biết đủ, đòi hỏi mãi, chiếm đất giữ hiểm, càng quấy nhiễu các quận lân cận, liệu có thể đảm bảo không gây họa hay không? Những người chủ trương giữ đất nói rằng: Tích trữ lương thực, đặt chướng ngại, tăng thêm binh lính địa phương, phòng xa cứu gần, đất nào mà không giữ được. Hơn nữa, đất đai mà tiên đế giành được, nay lại đem cho người khác, là không đúng. Lời này cũng đúng. Nhưng người phản bác lại nói: Giặc không được đất, chiến tranh khó chấm dứt, ngày kéo dài tháng, biên giới càng thêm rối ren, liệu có thể đảm bảo giữ được đất này mãi mãi hay không? Vì thế, các ý kiến bàn luận tuy đều phân tích sâu sắc, nhưng đến việc ngăn ngừa mối họa chưa xảy ra, như điều mà người phản bác lo lắng, thì dù là người giỏi mưu lược cũng không dám đảm đương. Thần nghĩ rằng triều đình tính toán sâu xa, chưa muốn quyết định ngay, cũng vì lý do này. Thần ngu muội, chỉ cho rằng dùng binh để giữ đất mãi mãi, thật khó đảm bảo. Bỏ đất mà khiến không gây họa, thần dù già rồi, cũng nguyện suốt đời không thấy lo lắng nơi biên giới. Mong bệ hạ tha thứ cho sự ngu muội của thần, để thần được trình bày hết ý kiến.
[21] Thần nghe nói những vùng đất vừa chiếm được, ở Hi Hà là Lan Châu, ở Phu Diên là năm trại. Lan Châu vốn là đất cũ của Tây Phiên, còn năm trại vốn là đất của Hạ Nhung. Địa thế những vùng đất này quanh co hay thẳng tắp, lợi ích sản xuất nhiều hay ít, số quân cần để phòng thủ nhiều hay ít, việc vận chuyển lương thực vất vả hay nhàn nhã, đều là những điều triều đình đã xem xét kỹ, thần không cần nói thêm. Nhưng từ góc nhìn của người Hạ, đây là những vùng đất tất phải tranh giành, họ sẽ lấy hiệp ước làm lý do để đòi lại. Nếu kiên quyết không trả, họ sẽ như thú dữ bị dồn vào đường cùng mà phản kháng, mượn quân Bắc Nhung để thỏa cơn giận, triều đình sẽ phải lo lắng về phía tây. Dù quân ta mỗi trận đều thắng, thần vẫn cho rằng đó không phải là lợi ích của quốc gia, huống chi thương vong ngang nhau, thành bại chưa thể biết trước. Hoàng đế bệ hạ đang trong thời kỳ để tang, Thái hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính, đang nghĩ đến việc cho dân nghỉ ngơi, mà lại muốn dốc sức chiến đấu đẫm máu để tranh giành những vùng đất vô dụng nhỏ bé, đó gọi là dùng ngọc của Tùy Hầu để bắn chim trên ngàn dặm. Từ đó mà nói, việc kiên quyết giữ những vùng đất ấy, thần không dám đảm bảo.
Từ thời tổ tiên của triều đình ta đến nay, hàng năm bỏ ra vàng lụa hàng chục vạn, cử sứ giả tu sửa hiệp ước, mà Hạ Nhung đã cúi đầu tuân mệnh, đã được hàng trăm năm. Ngoại quốc thích tranh giành không biết chán, vốn là bản tính của họ, nhưng vẫn như vậy, là vì ân sâu lợi lớn đủ để ràng buộc lòng họ. Nay nhân uy thế đánh dẹp của tiên đế, dựa vào thế khuất phục của họ, rộng lượng ban ân huệ, trả lại đất xâm chiếm, khôi phục lễ vật hàng năm, dặn dò nghiêm khắc, bỏ hết hiềm khích trước, tuân thủ hiệp ước cũ, dù họ có ý kiêu ngạo hiểm ác, đã bị ngăn chặn dục vọng, khiến không có chỗ phát tiết, thì cũng sẽ cảm kích mà nghe theo, như trước kia. Cần gì phải động binh phạm vào lẽ thuận, tự làm hại dân mình, dù là nước họ, chẳng lẽ chỉ có lợi sao? Người xưa nuôi hổ, biết lúc đói no, điều chỉnh cơn giận, hổ còn có thể nuôi được, huống chi là người? Từ đó mà nói, dẹp loạn ngừng tranh chấp, không chỉ thần lấy chết để đảm bảo, mà từ thời tổ tiên đến nay, việc trị Hạ Nhung đều dùng đạo này. Thần mong xem xét ý kiến của các nghị giả, quan sát tình thế ngày sau, mà quyết định theo ý này. Đại kế đã quyết, những việc sắp xếp chi tiết, thứ tự thi hành, là do triều đình quyết định. Tuy nhiên, thần vẫn có lời khuyên chân thành, không dám không nói hết.
[22] Nay việc xin đất ở bên kia, cho đất ở bên ta, là thế lấy chủ chế khách, lấy nhàn đợi mệt. Vì kế của họ thì không thể không gấp, vì kế của ta thì nên thong thả nhàn hạ, giữ yên không việc. Thần lấy làm lạ rằng gần đây những người bàn luận vội vàng hấp tấp, coi đất này như thành vàng hào nước sôi, chỉ sợ không giữ được; không thì như cục thịt thừa, chỉ mong vứt đi cho nhanh. Ý kiến khác nhau nổi lên, trước hết tự làm rối loạn, sao lại gấp gáp không có đại thể như vậy? Nay sứ giả tuy ở nhà khách, thần mong tạm đừng vội cho đất, mà đáp lại bằng lễ hậu, dùng lời hay để đưa đi. Hoặc trước hết khôi phục lễ vật hàng năm, mà khéo léo tỏ ý không tiếc đất, đoán họ sẽ thuận theo kiên quyết, đến hai, đến ba lần, rồi sau mới cho đất theo thời gian, đó gọi là cho mà không phải một lần là đủ, há có muộn sao? Thần ngu không biết đại kế, xin bệ hạ xét chọn[10].
[23] Quang châu Đoàn luyện sứ Cao Công Hội làm Tú châu Phòng ngự sứ, Ninh châu Đoàn luyện sứ Cao Công Kỷ làm Vĩnh châu Phòng ngự sứ. Chiếu rằng cha của Công Hội, Công Kỷ là Cao Sĩ Lâm, tuy từng trải qua việc Anh Tông lên ngôi, Thái hoàng thái hậu lúc đó lập làm Hoàng thái hậu, Sĩ Lâm chưa kịp được triều đình phong thật, đã vội qua đời, thật đáng thương tiếc, nên hôm nay ban ơn đến hai con.
[24] Hoài Nam Chuyển vận phó sứ Triệu Xưng xin lại lấy huyện Linh Bích, châu Túc làm trấn, theo lời xin.
[25] Ngày Quý Hợi, nước Hạ vì việc biên giới phái sứ giả Xuân Ước Ngoa La Duật, phó sứ Lã Tắc Điền Hoài Vinh đến yết kiến ở điện Diên Hòa, liền dám tâu bậy rằng: “Thần Tông tự biết mình sai.” Vua đứng dậy, sắc mặt biến đổi, nổi giận. Một lúc sau, nội thị Trương Mậu Tắc nói: “Xin cùng với người áp giải bàn bạc.” Một lúc sau mới lui.
(Đoạn này căn cứ theo 《Cựu lục》. 《Cựu lục》 lại chép: “Triều trước dấy binh hỏi tội, kinh lược biên cương, người Khương sợ uy. Đến nay, bọn gian thần nhận sự khinh nhờn, mọi việc đều nhân nhượng, dám ngạo mạn như vậy.” 《Tân lục》 cho rằng lời này không đáng chép, từ chữ “liền dám tâu bậy” đến chữ “như vậy” tổng cộng 62 chữ đều bị xóa bỏ[11]. Xét rằng nếu người Hạ quả có lời này, chép lại có hại gì, e rằng không cần xóa bỏ vậy.)
[26] Đồng tri Xu mật viện Phạm Thuần Nhân tâu rằng: “Thần trộm thấy hôm trước ở trước rèm, Văn Ngạn Bác cùng các quan chấp chính bàn việc biên giới, lúc ấy vì các quan đã tâu đối nhiều, thần tuy có ý kiến riêng, nhưng không dám làm phiền Thánh thượng lâu, muốn đợi ngày khác tâu trình. Nay thần đang nghỉ bệnh ở nhà, nhưng không thể quên được. Thần lo rằng việc bàn luận với người Hạ ở triều đình ngày càng gấp, nên kính cẩn dâng lên trước các điều trình bày. Nếu lấy đất đai thu được từ nước Hạ để đổi lấy dân bị bắt, như vậy có thể ngừng chiến tranh, yên dân, đức nhân huệ của Bệ hạ được lưu truyền lâu dài, việc trị nước như Nghiêu Thuấn có thể nhanh chóng thành tựu, đây là thượng sách. Lại nữa, thành Định Tây ở Lan Châu vốn là đất của người Tây Phiên, sau này mới thuộc về nước Hạ, đã có biểu thệ ước từ thời Cảnh Đức, không cướp bóc người Tây Phiên nữa. Họ tuy kiên quyết muốn lấy lại, nhưng ta giữ lại cũng có lý. Từ từ giao cho tướng biên thương lượng khéo léo, tuy chưa thể ngừng chiến ngay, nhưng họ cũng khó mà hoành hành, đây là trung sách.
Còn nếu giữ lại Tắc Môn, Ngô Bảo, Nghĩa Hợp, mà chỉ bỏ hai ba thành trại xa xôi khó giữ, thì triều đình cho họ cũng không đủ để tỏ đại ân, họ dù được cũng không thỏa mãn được lòng tham. Như vậy thì chiến tranh chắc chắn không dứt, người Hạ và người Hoa khó yên, đức nhân huệ của Bệ hạ làm sao thi thố được? Cơ hội thắng bại an nguy, xa vời không thể đoán trước. Đất đai thu được không bằng một phần vạn thời Tần Hán, lại cản trở việc trị nước như Nghiêu Thuấn của Bệ hạ, và còn để lại mối lo về sau, đây là hạ sách. Kính mong Bệ hạ sâu xa xem xét lựa chọn, để làm phúc lớn vô cùng cho quốc gia thiên hạ. Thần nếu khá hơn, sẽ đích thân vào chầu tâu trình. Thần chưa từng thấy biểu chương của người Hạ, nếu họ yêu cầu quá đáng, thì dù có cho đất cũng không ngừng được chiến tranh, không phải điều thần dự liệu lúc này, đợi thần sẽ tâu trình riêng. Xin hãy nghiêm khắc răn dạy tướng biên, tăng cường phòng bị, nếu có thiếu sót gì, đều cho phép tâu xin, triều đình sẽ đáp ứng đầy đủ. Mong rằng trách nhiệm có chỗ quy về, không đến nỗi sai lầm.
Chỉ có trung sách, An Đào khá hợp với thần, gần đây từng đưa ý chỉ định hạ chiếu cho thần xem, trong đó có đoạn không cho lại các trại cũ của Trung Quốc, thần từng dán giấy ghi chú, muốn bỏ đi. Nhưng An Đào chưa sửa lại, đợi ý chỉ của Thánh thượng quyết định.”
[27] Lại tâu: “Trước đây thần từng kiến nghị, lấy đất đai thu được từ nước Hạ để đổi lấy dân số bị bắt sang Thổ Phồn, nhưng vẫn lo họ gian trá, chỉ cử ba năm mươi người ứng mệnh để nhận đất ban của triều đình. Thần muốn xin đặc cách cho phép nước Hạ, mỗi khi trả về một người Hán, ngoài việc ban đất, lại thêm ban mười xấp lụa, thì người Hạ tham lợi, ắt sẽ đồng ý đổi hết. Chỉ cần bỏ ra vài vạn xấp lụa của Trung Quốc, có thể đổi được mấy nghìn nhân khẩu, thì đức hiếu sinh của bệ hạ sẽ vượt xưa nay, đủ để cảm động cả Hoa lẫn Di, trở thành phép tắc muôn đời. Nếu lời thần có thể dùng được, xin khi người Hạ về nước, hạ lệnh cho người áp tải truyền đạt ý này. Nếu chấp thuận lời tâu của thần, xin bệ hạ hạ chiếu báo cho dân biên giới biết ý định dùng đất và lụa để đổi lấy nhân khẩu, khiến kẻ sống người chết đều mang ơn, thấm vào xương tủy, cũng khiến dân biên giới cảm hóa, tự nhiên quy phục. Kính mong thánh từ lưu tâm xét nhận.”
[28] Cuối năm Nguyên Phong, người Hạ đến cửa ải xin hòa, cầu trả lại đất đã xâm chiếm. An Đào, Đồng tri Xu mật viện, tâu với Thần Tông rằng những vùng đất mà họ chiếm được không phải là nơi yếu hại, nên nhân đó ban ơn để tỏ lòng nhân từ. Tuy nhiên, tính người Khương tham lam không biết chán, nên phải khiến họ biết rằng ta tha thứ lỗi lầm và ngừng chiến tranh, chứ không nên tỏ ra ta chán ghét chiến tranh. Đến lúc này, hai phủ họp bàn, An Đào nói: “Trước đây, dưới triều tiên đế, đã từng bàn việc này, nhưng chưa muốn vội vàng đồng ý. Nay bệ hạ mới lên ngôi, ban ơn khắp thiên hạ, nhân đó có thể đáp ứng nguyện vọng của họ.” Có người muốn bỏ cả vùng Hi Hà, An Đào kiên quyết phản đối. Người chủ trương bỏ đất còn ví von như kẻ trộm bị bắt quả tang mà vẫn không chịu trả lại của cải. An Đào giận dữ nói: “Từ Linh Vũ về phía đông, đều là đất cũ của Trung Quốc, tiên đế dấy binh hỏi tội mà thu phục lại, sao có thể ví von như thế được!” Cuối cùng, quyết định chỉ trả lại bốn trại.
(Theo hành trạng của An Đào. Nay truyện An Đào cũng dùng toàn bộ hành trạng, không rõ ai là người đầu tiên chủ trương bỏ Hi Hà. Căn cứ vào chiếu chỉ ngày 29 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ 4, giáng chức Văn Ngạn Bác từ chức Tể tướng xuống Thái tử Thiếu bảo, và ngày 27 tháng nhuận, Diệp Đào dâng tấu xin giáng An Đào xuống Tư chính, thì người chủ trương bỏ Hi Hà chính là Văn Ngạn Bác. Tấu nghị của Ngạn Bác đã được chép vào cuối tháng 6, cần tra cứu thêm.
Trương Thuấn Dân trong bài chí về mộ Mục Diễn chép: Năm Nguyên Hựu thứ nhất, cùng Tôn Lộ đến Hi Hà xem xét việc biên phòng và tài chính, lúc đó có đại thần muốn bỏ Hi Hà, bàn cãi chưa ngã ngũ. Đồng liêu đã tin theo ý kiến đó, nói với ông rằng: “Việc này có thể tự quyết, nếu không, sẽ thành gánh nặng.” Ông từ tốn đáp: “Chỉ xem xét lợi hại thế nào thôi. Việc Vua không thể lơ là, sao lại lo cho thân mình?” Khi về triều, xin giao việc kinh chế lại cho Tào ty, liệt kê 27 việc hại công tư do bãi binh, giảm được hơn 1.900.000 quan tiền chi phí mỗi năm. Cùng Tôn Lộ bàn lại việc biên giới, đại ý nói: “Bỏ Lan Châu thì Hi Châu nguy, bỏ Hi Hà thì Quan Trung dao động. Nhà Đường từ khi mất Hà Hoàng, hễ Thổ Phồn, Hồi Cốt có chút bất thuận là quân địch đã đến cửa khẩu, đến nay hơn 200 năm, nếu không phải nhờ tiên đế anh minh võ lược, ai có thể thu phục được? Nay một sớm một chiều bỏ đi, chỉ thỏa mãn dục vọng vô độ của họ, e rằng không đủ để ngăn giặc, chỉ thêm hậu họa mà thôi.” Cuối cùng, Hi Hà và Lan Châu không bị bỏ, đều nhờ sức của ông. Thực lục truyện cũ về Mục Diễn chép: Năm Nguyên Hựu đầu, cùng Tôn Lộ xem xét việc biên phòng và tài chính ở Hi Hà, lúc đó có đại thần muốn bỏ Hi Hà, bàn cãi chưa ngã ngũ, hy vọng Diễn đồng tình để củng cố ý kiến. Thực lục mới bàn rằng: Đây đều là lời vu khống vô căn cứ, nên xóa 21 chữ. Việc của Mục Diễn đã chép vào ngày 12 tháng giêng, thực lục mới có chỗ chưa rõ, đã chú thích ở đó. Vì thực lục cũ dùng toàn bộ bài chí mộ Mục Diễn do Trương Thuấn Dân soạn, nay cần đối chiếu với Thuấn Dân để làm rõ.)
[29] Hữu bộc xạ Lữ Công Trước cũng cho rằng những vùng đất mà triều trước chiếm được đều là lãnh thổ cũ của Trung Quốc, còn Lan Châu vốn là đất của Tây Phiên, không phải vốn thuộc về người Hạ. Nay thiên tử kế thừa giữ gìn lãnh thổ của tiên đế, há nên dễ dàng giao cho người khác? Huống chi người Hạ tham lam không chán, nếu cho họ thì chỉ khiến họ nảy sinh lòng xâm lấn. Hơn nữa, Trung Quốc nghiêm ngặt phòng bị để đối phó, họ cũng khó lòng gây họa ngay được.
(Đoạn này căn cứ theo 《Lữ Công Trước gia truyền》, vào ngày 29 tháng 8 năm thứ hai, khi bách quan chúc mừng việc bắt được Quỷ Chương, mới chép việc này, nay dời phụ vào dưới phần nghị luận của Phạm Thuần Nhân.)
[30] Hai phủ đã định nghị, cho phép trả lại đất xâm chiếm của người Hạ, bèn hạ chiếu đáp lại. Đại ý nói: “Từ trước đến nay, sau các cuộc dùng binh, những thành trại chiếm được, hai bên đều chưa từng trao trả cho nhau. Nay ngươi xin trả đất, không chỉ vì tiền lệ đã rõ ràng, lý khó đột ngột thay đổi; thêm nữa, xét theo ý kiến trong triều, đều cho rằng nghĩa không thể theo. Nhưng Trẫm riêng nghĩ đến việc quân Vĩnh Lạc bị thất bại, nhiều người bị bắt, mỗi khi nghĩ đến, lòng thường đau xót. Nếu ngươi có thể đưa hết những người Hán hiện còn sống về Trung Quốc, lại tuân theo chức cống, phụng sự trên càng cung kính, vẫn kiềm chế các thủ lĩnh biên giới[12], không xâm phạm biên cương, thì Trẫm ắt sẽ vui lòng, đối với đất đai nhỏ bé, còn tiếc gì. Sẽ bàn việc đặc biệt hạ chỉ huy, căn cứ vào đất đai chiếm được từ sau các cuộc dùng binh, trừ những nơi vốn là trại cũ của Trung Quốc và đất đai của Tây Phiên thuộc Hán, còn lại giao cho quan biên thương lượng, tùy nghi chia cắt ban cấp.” Lại hạ chiếu cho người Hạ rằng: “Các tướng lại, binh sĩ ở thành Vĩnh Lạc, trước đây vì hết lòng giữ vững, sức cùng bị bắt, nhiều người bị lưu lạc sang nơi khác. Nghĩ đến cảnh lưu lạc của họ, lòng thường đau xót. Tuy đã hạ chiếu cho ngươi đưa về, sẽ ban cấp đất có thể trả lại, nhưng nghĩ rằng khi thành mới thất thủ, mọi người đã tản mác, hoặc bị các bộ lạc giấu giếm, hoặc bị chủ nhân bán đi, nếu không đặt ra phần thưởng để mua chuộc, e rằng sẽ có người bị bỏ sót. Ngươi hãy thấu hiểu ý Trẫm, tìm kiếm kỹ lưỡng rồi đưa về, sẽ căn cứ vào số người được đưa đến, mỗi người ban thêm mười tấm lụa, quan chức trở lên, ban thêm phần thưởng hậu hĩnh cho gia đình nhận được.”
(Hai chiếu này đều căn cứ vào gia truyền của Lữ Công Trước, không rõ ngày tháng, thực lục đều không ghi. Gia truyền nói là chiếu ban cho Càn Thuận, e là sai. Xét lời Tô Triệt ngày 19 nói: nghe triều đình đã hạ chiếu cho phép. Tức là chiếu này vậy. Bỉnh Thường mất ngày 10 tháng này, triều đình làm sao biết được ngay. Dù biết, cũng chắc chắn không vội hạ chiếu ban cho Càn Thuận. Nay bỏ tên Càn Thuận, cũng không gọi Bỉnh Thường để tỏ ý nghi ngờ. Sách biên niên của họ Dương chép: Hạ chiếu trả lại bốn trại Phù Đồ, An Cương, Gia Lô, Định Viễn cho người Hạ. Trước đây, Môn thị Hàn Duy tâu: “Tiên đế đánh nước Hạ để hỏi tội và thu đất, khiến người Hạ có cớ, quốc lực dần hồi phục, ắt sẽ đến đánh chiếm. Nay Lương thị chết, Bỉnh Thường lên ngôi, nhân lúc này trả lại đất, thì danh nghĩa hỏi tội của Thần Tông không phải là lời nói suông, ý ban đất của tân hoàng thực hiện chí nguyện của tiên đế.” Vì thế có việc này. Sách biên niên ghi việc này vào cuối năm Nguyên Hựu thứ nhất, nhưng thực lục không chép, sách biên niên sai vậy. Vì năm thứ nhất, hai phủ định nghị, ban đầu chỉ hứa trả lại đất có thể trả, chưa từng chỉ rõ là đất nào, đến ngày 9 tháng 6 năm thứ tư, mới nêu rõ bốn trại trả lại là Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương. Sách biên niên căn cứ vào chiếu cho phép, nên kết thúc bằng việc này. Ngày 7 tháng 8 năm Thiệu Thánh thứ hai, bãi bỏ chiếu phân chia. Cựu lục chép: Mùa xuân năm Nguyên Hựu thứ hai hạ chiếu, ban cấp bốn trại cho nước Hạ. Sai vậy. Ngày 23 tháng 10 năm Thiệu Thánh thứ hai, Tôn Lộ cũng nói trại An Cương thuộc năm Nguyên Hựu thứ tư ban cấp, nên lấy ngày 9 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ tư hạ chiếu làm thời điểm ban cấp.
Lại nữa, Trương Thuấn Dân trong bài chí về mộ Du Sư Hùng chép: Năm Nguyên Hựu thứ nhất, đổi làm Tuyên Đức lang, giữ chức Chủ bạ Tông chính tự. Triều đình vì người Hạ lâu nay gây họa biên giới, muốn yên ổn tương lai, định trả lại bốn trại, chưa quyết. Chấp chính vì ông am hiểu việc biên giới phía tây, triệu hỏi, ông nói: “Bốn trại là nơi tiên đế đánh chiếm, dùng để khống chế người Hạ, triều đình nên giữ lấy chứ không nên mất, sao lại dễ dàng trao cho người khác? Huống chi cắt đất để giảm họa biên giới, không chỉ tỏ ra Trung Quốc yếu đuối, còn khiến người biên giới sinh lòng tham không đáy. Bốn trại đã cho, nếu Lộ Nam, Kinh, Việt có xin, cũng sẽ cho chăng? Không chỉ thế, người Yên phái một sứ giả, dâng một bức thư, xin mười huyện ở Quan Nam, cũng sẽ cho chăng? Chư hầu sáu nước cắt đất cho Tần, thời đó còn cho là nhục, huống chi với sức mạnh của thiên hạ, lại bỏ đất để làm vừa lòng ngoại quốc sao?” Bèn dâng hai quyển 《Phân Cương Ngữ Lục》, nhưng các đại thần chủ trương không nghe, cuối cùng bỏ bốn trại. Người Hạ được đất mà không giữ, vẫn ngạo mạn như trước. Căn cứ vào đây, thì việc bỏ bốn trại nên là năm Nguyên Hựu thứ nhất, nhưng xét kỹ đều không hợp.
Lại nữa, gia truyền của Lữ Công Trước, “vào tháng 8 năm thứ hai chép việc Quỷ Chương bị bắt, người Hạ từ Trấn Nhung rút lui”, rồi nói sau đó Càn Thuận vào cống, và trả lại một số người Hán bị bắt ở Vĩnh Lạc, triều đình mới trả lại bốn trại. Khác với bài chí về mộ Sư Hùng của Thuấn Dân và sách biên niên. Sách biên niên phần lớn căn cứ vào bài chí của Thuấn Dân, không đáng tin. Ngày 9 tháng 6 và ngày 20 tháng 10 năm thứ tư có thể tra cứu[13], cuối tháng 10 năm thứ nhất, chính mục chép như vậy, có thể tra cứu.)
[31] Ngày Giáp Tý, Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần trộm thấy vào triều Nhân Tông, hai lộ Hà Bắc, Hà Đông mới đặt ra nghĩa dũng, đến triều Anh Tông, thi hành phép ấy, dần dần lan đến Thiểm Tây. Đều vì đất tiếp giáp biên giới, cần phải phòng thủ. Mỗi năm mùa đông tập luyện một tháng, tuy là vất vả, nhưng kế hoạch phòng thủ biên cương là việc bất đắc dĩ. Đến niên hiệu Hi Ninh, lại đặt ra phép bảo giáp, khiến dân ở kinh kỳ và ba lộ ngày đêm tập luyện. Hai vị thánh đế lên ngôi, biết việc ấy bất tiện, đều bãi bỏ. Dân được cầm cày cuốc, trộm cướp vì thế suy yếu, ca ngợi đức thánh, không bao giờ dứt. Chỉ còn phép tập luyện một tháng mùa đông, ba lộ vì ở gần biên giới, dân quen thành lệ, không dám kêu ca. Còn các huyện ở kinh kỳ, từ các triều trước vốn là nơi đế đô, vẫn được ưu đãi, nay lại so sánh với các quận biên giới ở ba lộ, cùng tập luyện mùa đông, tình cảnh thật không yên ổn. Kính xin bệ hạ thương xót nơi căn bản, nên khoan hồng, đặc biệt miễn trừ. Lại nghe nói kinh kỳ và ba lộ hiện nay đều sửa chữa nhà cửa trường tập mùa đông, các châu, huyện đều cho là vất vả. Thần trước đây làm quan ở Hà Bắc, trộm thấy nghĩa dũng tập luyện mùa đông, chưa từng xây dựng nhà cửa trường tập, mỗi khi đến ngày tập, đều tạm thời ở nhà cửa của quan phủ và chùa chiền, không có gì thiếu sót. Triều đình nếu chấp thuận lời tâu của thần, miễn tập luyện mùa đông trong kinh kỳ, thì nhà cửa trường tập tự nhiên không cần sửa chữa. Còn việc tập luyện mùa đông ở ba lộ, xin hạ lệnh cho các giám ty ở từng lộ xem xét, chỉ như trước đây tạm thời ở nhà cửa của quan phủ và chùa chiền[14], có gì bất tiện không, nếu không có gì bất tiện, cũng xin bãi bỏ việc sửa chữa, để giảm bớt sức dân.”
[32] Ngự sử Thượng Quan Quân tâu: (Lời tâu của Quân căn cứ vào tấu nghị của Quân, không rõ tháng ngày, phụ theo lời Tô Triệt sau việc dạy dỗ mùa đông về nhà cửa.) “Thần nghe việc thiên hạ, lớn nhỏ đều phải xét thực, thì làm mới có thành tựu, tạo nên công lao, không có hại đến dân và hao tốn tiền của. Thần trộm thấy ở Phúc Kiến lộ những năm trước do Lộ Ân làm giặc, các nơi đều chiêu mộ những người có võ nghệ làm nghĩa dũng, sai họ đi truy bắt. Họ đều là những kẻ vô lại trong làng xóm, vốn không có kỷ luật, đi đến thôn xóm nào cũng thường ỷ vào đông người mà cướp đoạt, mua bán cưỡng ép, chưa đánh nhau với giặc đã gây ra nạn quấy nhiễu. Sau đó các huyện đều lập sổ những người đã chiêu mộ trước đây, gọi là thương trượng thủ, nhiều thì đến vài trăm người, ít cũng không dưới một hai trăm người. Mỗi năm các quan giám sát đích thân đến khảo thí, cấp phát tiền gạo và các loại bạc lụa. Thần vào năm Nguyên Phong thứ nhất, từng làm tri huyện Quang Trạch thuộc quân Thiệu Vũ, nhân khi quan giám sát đến khảo thí, triệu tập thương trượng thủ, đến khi xem xét, thì thấy những người già yếu không thạo võ nghệ chiếm đến bảy tám phần mười. Hỏi thăm thì biết đều do các bảo chính và những người cùng loại tùy tiện cử ra, thực ra không phải là dân chúng quen tập luyện dũng cảm, hỏi các huyện khác cũng nhiều như vậy. Những thương trượng thủ ở xa huyện có khi đến một hai trăm dặm, quan giám sát đến, thường gọi tập trước. Đến nơi, thường mượn tên người khác để đủ số, nhận tiền thưởng một cách gian lận, chỉ có việc gọi tập vất vả mà không có thực chất khảo thí. Triều đình gần đây đã biết rõ tác hại quấy nhiễu dân, chỉ lệnh các huyện do tri huyện mỗi năm tập trung khảo thí gần đó, nhưng việc gọi tập vất vả, hao tốn tiền của và cản trở công việc vẫn như trước.
Thần trộm tính ở Phúc Kiến lộ số thương trượng thủ không dưới vài nghìn người, phần lớn là dân vô lại, không được huấn luyện, một khi có biến, đuổi họ đi bắt giặc, thường tan rã, làm suy yếu khí thế quân đội. Lúc không có việc, gọi tập khảo thí, trên thì có nỗi lo hao tốn tiền của, dưới thì có tệ cản trở công việc, thực ra chẳng ích gì. Chi bằng bãi bỏ việc tập trung, để dân làng xóm được an cư lạc nghiệp, cả công và tư đều tiện lợi. Nếu triều đình chưa muốn bãi bỏ hoàn toàn, cũng xin hạ lệnh cho lộ này, lệnh các huyện xét lại kỹ càng, không cần đủ số cũ, may ra được thực chất, khỏi phải hao phí vô ích.”
[33] Lại bộ tâu: “Cựu Triều tán lang trí sĩ Lý Tiếu, con trai là Tiến sĩ Mạnh Hồi trình bày rằng cha là Tiếu, sắc lệnh trí sĩ gửi theo đường trạm bị lưu trệ, gây trở ngại cho việc tiến cử. Chiếu ban cho Lý Tiếu đặc ân trí sĩ.”
(Bản mới bỏ đi.)
[34] Chiếu cho Kinh lược ty lộ Hà Đông, xem xét các tướng phó trong lộ, ai có thể hay không thể đảm nhiệm việc phòng thủ, tâu lên sự thật.
(Bản mới bỏ đi.)
[35] Ngày Ất Sửu, Hạ quốc chủ Bỉnh Thường mất.
(Theo truyện Bỉnh Thường trong Cựu lục, ngày mất là 10 tháng 7. Chính mục ngày 16 tháng 10 chép: Hạ quốc chủ Bỉnh Thường, con là Càn Thuận tâu rằng cha mất ngày 10 tháng 7. Bản mới do việc Xuân ước lặc A Lạp Nhã Trại vào chầu, nên chép nhầm là ngày 8, nay không theo.)
[36] Ngày Bính Dần, nước Liêu cử sứ là Bảo An quân Tiết độ sứ Da Luật Thuần Hỗ, Phó sứ là Thái trung đại phu, Thủ Sùng Lộc khanh, sung chức Càn Văn các Đãi chế Lã Tự Lập, đến chúc mừng lễ Khôn Thành.
[37] Ngày này (11 tháng 7), bắt đầu ban chiếu thư Giáp Dần, bỏ sáu chữ “người tâu không được đàn hặc”, do các quan Đài gián nhiều lần bàn luận.
(Ngày 28 tháng 6, Hồ Tông Dũ có nói, có thể tham khảo.)
[38] Ngày Đinh Mão, Trung đại phu, Trực Long đồ các Lý Chi Thuần được bổ làm Hộ bộ Thị lang, sau đó đổi làm Tập hiền điện Tu soạn, Hà Bắc lộ Đô chuyển vận sứ. (Ngày 28 tháng này, Quý Mùi, đổi làm Tập soạn, Đô tào, chắc có lý do, cần xem xét. Bản truyện cũng không ghi việc trước đó được bổ làm Hộ thị.) Đề điểm Hà Bắc lộ Hình ngục Đường Nghĩa Vấn được bổ làm Chuyển vận phó sứ của lộ này, Triều phụng đại phu Mục Diễn làm Kim bộ Viên ngoại lang. (Ngày 12 tháng giêng, Diễn lo việc tài lợi ở Hi Hà.) Triều thỉnh đại phu Tôn Lộ làm Thiểm Tây Chuyển vận phán quan.
(Ngày 12 tháng giêng, cùng Mục Diễn lo việc tài dụng. Lý Công Dụ chép trong mộ chí của Tôn Lộ rằng: “Người Hạ xâm phạm đất Trấn Nhung, cướp bóc nhiều, nhưng các trại tránh tội không dám báo thực. Triều đình nghi ngờ, giao việc này cho Lộ. Lộ thay đổi các quan trại, tự mình điều tra, phát hiện được hai nghìn người bị giấu giếm. Xin ban ơn hậu, phủ dụ gia đình họ, để họ biết ơn triều đình, người biên giới rất vui mừng.”)
[39] Hộ bộ tâu: “Các quan bàn về việc Lý Tông ở Giang Nam, Lưỡng Chiết, Hoài Nam tự ý tăng thuế thường. Xét Tông đã bị giáng chức, và số thuế đã được điều chỉnh. Việc xét thưởng cho các quan thuế trước đây gặp khó khăn[15]. Những người đã được thưởng, lệnh cho Lại bộ thu hồi.” Triều đình đồng ý.
(Ngày 28 tháng 10, Vương Địch tâu.)
[40] Ngày Mậu Thìn, Lại bộ Thị lang Lục Điền được bổ làm Lễ bộ Thị lang, Cấp sự trung Tôn Giác được bổ làm Lại bộ Thị lang.
[41] Chiếu miễn thuế muối đổi thành thóc cho dân huyện Hà Tây, phủ Hà Trung. Trước đây, huyện này có hơn bốn nghìn cân muối của quan, bắt dân đều phải nộp tiền mặt. Sau đó lại bắt đổi thành thóc, đến nay vì dân kêu ca nên bãi bỏ.
[42] Chiếu cho cựu tướng Phú Bật được phối hưởng ở miếu thờ Thần Tông, con ông là Thiệu Đình được đặc cách bổ làm Thông phán phủ Hà Nam, và ban cho con cháu một ân điển. Do Thái sư Văn Ngạn Bác và Đồng tri Xu mật viện Phạm Thuần Nhân tâu rằng con cháu của Bật xin được ưu đãi bổ dụng, nên có chiếu này.
[43] Lại chiếu cho huyện lệnh Long Du, châu Cù là Vương Phỉ làm Bác sĩ môn Xuân Thu. Theo lời tiến cử của Quốc tử tế tửu Trịnh Mục và Tư nghiệp Hoàng Ẩn.
[44] Triều phụng đại phu Trương Thục làm Chuyển vận phán quan lộ Kinh Đông.
(Ngày 12 tháng 5 lệnh cho Trung thư tịch ký giả, cuối tháng Thượng Quan Quân nói…, ngày 2 tháng 8 Tô Triệt nói…)
[45] Chính nghị đại phu trí sĩ Hàn Thục mất.
[46] Ngày Canh Ngọ, nước Hạ sai sứ đến chúc mừng lễ Khôn Thành.
[47] Ngày Tân Mùi, lễ Khôn Thành, quần thần và sứ Liêu dâng biểu chúc mừng ở cửa Nội Đông.
[48] Ngày Quý Dậu, Định Quốc quân Lưu hậu Trọng Dục mất, được truy tặng chức Bảo Ninh quân Tiết độ sứ, truy phong tước Đông Dương quận vương, thụy là Vinh Thuận.
[49] Ngày Giáp Tuất, Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần gần đây dâng tấu xin nhân dịp nước Hạ sai sứ vào cống, trả lại đất xâm chiếm, nghe nói triều đình đã ban chiếu cho phép. Kính nghĩ đức bao dung rộng lớn, sánh ngang trời đất, khiến người dân biên giới phía Tây từ nay được thoát khỏi nỗi vất vả cung cấp lương thực, tránh được tai họa chiến tranh, thiên hạ vô cùng may mắn. Tuy nhiên, thần nghe binh pháp nói rằng, tiếp nhận hàng giống như tiếp nhận kẻ địch, người biên giới thấy lợi quên nghĩa, dù dùng ân tín kết giao sâu sắc, nhưng phòng bị bất ngờ không thể lơ là.
Huống chi triều đình mấy năm nay, phát binh đánh dẹp, tiến sâu vào đất địch, chiếm đoạt lãnh thổ của họ. Nay dù tiếp đãi bằng ân lễ, nhưng ý oán hận của họ chắc chắn chưa thể quên ngay. Nếu nhân lúc ban tặng thành trại, định ra biên giới, thừa cơ ta không phòng bị, liền ngang ngược hoành hành, thì sẽ bị bốn phương chê cười, hối hận không kịp. Thần cho rằng nên rõ ràng thêm điều ước, những thành trại ban tặng phải đợi các vị tướng lĩnh các lộ xử lý, vận chuyển khí giới, điều động binh mã, mọi việc xong xuôi, định rõ ngày tháng, sau đó mới cho phép giao nhận. Trong lúc chưa xong, không được cho một người một ngựa đi trước do thám.
Lại chỉ thị cho tướng lại biên giới thường xuyên phòng bị nghiêm ngặt. Nhân lúc nước Hạ vừa khôi phục đất xâm chiếm, cẩn thận giữ lời thề, chiêu mộ binh mã, làm đầy kho lương, vỗ về dân quen, luôn như có giặc đến, không được vì hòa hiếu mà lơ là chút nào. Như vậy mấy năm, triều đình thường lo việc vỗ về, để thay đổi ý muốn báo thù của họ, tướng biên giới thường làm phòng bị, để chặn ý xâm lấn của họ. Thần cho rằng mấy năm sau, ắt không còn lo lắng, dù họ trái ước, nhưng kế sách biên giới đã chuẩn bị, khí thế binh sĩ đã hồi phục, xét tình thế, cũng không đáng lo ngại sâu xa. Huống chi phản bội ân nghĩa, phạm vào lẽ phải, họ sai ta đúng, dù là người Khương, cũng nên biết lỗi, khiến dân ta ngồi mà mua dũng khí[16], đạo thắng lợi, bắt đầu từ hôm nay.
Chỉ mong bệ hạ sâu sắc chỉ thị đại thần, yên không quên nguy, luôn lấy việc răn dạy dân biên giới làm lòng, đó là phúc của xã tắc vậy.”
(Triều đình ban chiếu, cho phép trả lại đất xâm chiếm của người Hạ, đây là việc lớn, nhưng cựu lục, tân lục đều không ghi chép sơ lược, cũng quá sơ sài. Xét tấu của Tô Triệt ngày 19, thì chiếu ban ra nên là trước ngày 19, sau khi Phạm Thuần Nhân kiến nghị ngày mồng 8. Gia truyền của Lữ Công Trước ghi hai chiếu, chính là chiếu cho phép trả lại đất xâm chiếm, nhưng gia truyền không ghi ngày tháng. Đã phụ vào ngày mồng 8.)
[50] Điện trung thị ngự sử Lâm Đán tâu: “Thần trước đây dâng lời ngu muội, bàn bậy việc biên giới phía Tây, cho rằng bỏ đất có mười điều không nên, không biết ý kiến của triều đình có chút nào chấp nhận lời thần không? Thần nghe rằng vào năm Hi Ninh, Chủng Ngạc đánh chiếm thành Tuy Đức, các quan bàn rằng không thể giữ được, cả triều đình đều muốn bỏ, chỉ có Hàn Kỳ ở Thiểm Tây kiên quyết chủ trương không bỏ. Tiên đế sai cận thần bàn với các quan biên giới về việc bỏ thành, nhưng Kỳ vẫn dùng quân pháp răn dạy các quan biên giới, bắt phải đợi lệnh. Do đó, Tiên đế nghe theo lời Kỳ, và thành cuối cùng không bỏ, đến nay mọi người đều khen Kỳ có chủ kiến, và phục Tiên đế biết quyết đoán.
Người Tây Nhung tham lam xảo quyệt, may mắn được yêu cầu, cần phải dùng nghĩa lý để bẻ gãy, khiến họ không còn lý lẽ, tâm phục, sau đó mới sợ hãi, không dám ngạo mạn; há nên tự mình tỏ ra yếu thế, mà chỉ muốn thỏa mãn lòng họ sao? Lấy sự giàu có của thiên hạ, mà lo sợ không đủ cung cấp cho hai ba thành trại, thần cho rằng đó là nỗi lo riêng và kế hoạch quá mức của các quan bàn luận. Xưa kia, các nước địch tranh giành từng tấc đất, đến mức kiệt quệ kho tàng, đánh nhau ác liệt mà không hối hận, việc này tuy không đáng để noi theo, nhưng so sánh cổ kim, lý lẽ cũng rõ ràng. Huống chi, công sức kinh doanh nhiều năm, chỉ vì một lời yêu cầu mà trao cho họ, dường như cũng quá dễ dãi.
Nay các luận điệu thế tục thường lấy việc Giả Quyên Chi bỏ Chu Nhai làm cớ. Chu Nhai cách biệt bởi biển lớn, nhiều lần phải đánh xa, đã hàng rồi lại phản, lại bị man di chiếm cứ, làm hao tổn Trung Quốc, nên Quyên Chi cho rằng không đánh là tiện. Nay đất mà người Tây yêu cầu, vốn là đất của ta, không cách biệt bởi biển lớn, không phải khó khăn đánh chiếm, mà lại lấy Chu Nhai để so sánh, chẳng phải là sai lầm sao? Chỉ sợ các quan biên giới nhu nhược, cầu an tạm thời, mong giải quyết nỗi lo trước mắt, may mắn không có lo gần, không nghĩ đến hậu họa; lại có người xa xôi, ngờ vực triều đình buông lỏng phòng bị biên giới, bèn cho rằng nhất định phải bỏ. Lời nói này truyền vào trước, làm lầm lạc thánh thính, khiến Tây Nhung được thể, dân biên giới mất chỗ ở, há không đáng lo sao? Huống chi, giữ đất để làm khó địch, trao đất để giúp địch, một mất một được, lợi hại rõ ràng, điều này thực sự không thể không xem xét. Nay sứ Tây đã về, có cho đất hay không, thần không được biết, nhưng đã được triều đình nghe lời, cho thần đứng ở chức gián quan, việc lớn nhỏ đều được bàn luận. Nay việc liên quan đến quốc thể, nếu có ý kiến, há dám im lặng? Kính mong Thánh từ khi quyết định, lại xem xét kỹ. Chỉ cần chọn tướng biên giới cẩn thận, chọn giám ty tinh nhuệ, bỏ quan chức không cần thiết, giảm chi phí vô ích, tuyển tướng luyện binh, bình giá dự trữ lương thực, ổn định dân thục hộ[17], khai khẩn ruộng đất, nghiêm cấm việc sinh sự, làm trong sạch phần thưởng may mắn, lo gì hai ba thành trại không đủ cung cấp? Lời yêu cầu may mắn, nên dùng lý lẽ bẻ gãy, để mọi người không còn dám nhòm ngó.”
(Tờ tấu của Lâm Đán đính kèm sau Tô Triệt, Đán nói sứ Tây đã về, không biết có cho đất hay không, mà Triệt nói đã có chiếu cho trả lại đất xâm chiếm, có lẽ tờ tấu của Đán viết trước ngày 19, triều đình chưa ban chiếu. Nếu không, gián quan đã biết mà ngự sử lại không biết, có được không? Cần xem xét.)
- Hai chữ 'sai dịch' trong câu 'Sai dịch hành ư tổ tông chi thế' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào 《Loan thành hậu tập》 quyển 22, bài 'Vong huynh tử chiêm đoan minh mộ chí minh' mà bổ sung. ↵
- Thần nay xin bảo đảm người này có thể đảm nhiệm khoa nào, chữ 'Kham' dưới nguyên có thêm chữ 'Cử', theo các bản và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 53, 《Khất Dĩ Thập Khoa Cử Sĩ Trát Tử》 mà sửa. ↵
- Giỏi xử án nhưng lại để oan khuất, không đúng sự thật, chữ 'Trệ' nguyên là 'Lạm', theo các bản, bản in hoạt tự và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 mà sửa. ↵
- ghi chép đầy đủ ngày tháng năm 'đầy đủ', trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 ghi là 'kịp thời'. ↵
- Vùng đất biên giới mới thuộc khu vực Định Tây thành, Lan Châu: chữ 'thành' nguyên bản là 'tặc', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 86, phần 'Thủ Đào Hà Lan Hội' sửa lại; chữ 'biên' nguyên bản là 'cương', căn cứ theo bản trong các kho và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại. ↵
- Xin từ phía đông Đông Quan bảo, Lan Châu, tu sửa hai đồn Chất Cô và Thắng Như Hộ Canh: 'Thắng Như' nguyên bản là 'Thắng Linh', căn cứ theo bản trong các kho, 《Tống sử》 quyển 332, truyện Mục Diễn, quyển 486, truyện Hạ Quốc và 《Loan Thành tập》 quyển 42, phần 'Khất bãi Hi Hà tu Chất Cô Thắng Như đẳng trại tráp tử' sửa lại; 'hai' nguyên bản là 'ba', căn cứ theo 《Tống sử》 truyện Hạ Quốc và 《Loan Thành tập》 sửa lại. ↵
- mưu đồ muốn giữ 'Mưu' nguyên là 'Sách', theo các bản, Loan Thành tập quyển 38, bài 'Tái luận Lan Châu đẳng địa trạng' sửa lại. ↵
- Chỉ mong bệ hạ suy nghĩ thấu đáo 'Chỉ' nguyên là 'Phục', theo sách trên sửa lại. ↵
- lại xin bỏ An Đông 'An Đông' nguyên bản là 'An Xa', theo các bản và 《Cựu Đường Thư》 quyển 89 truyện Địch Nhân Kiệt sửa lại. ↵
- Xin bệ hạ xét chọn 'chọn' nguyên là 'hạnh', theo 《Trung túc tập》 quyển 6 bài 《Luận ứng Tây Hạ tấu》 và văn nghĩa mà sửa ↵
- Từ chữ 'liền dám tâu bậy' đến chữ 'như vậy' tổng cộng 62 chữ đều bị xóa bỏ, chữ 'như' nguyên bản là 'ư', căn cứ theo câu trên 'dám ngạo mạn như vậy' mà sửa; thực tế là 61 chữ, nghi ngờ chữ 'nhị' là chữ 'nhất' viết nhầm. ↵
- vẫn kiềm chế các thủ lĩnh biên giới 'thủ lĩnh', bản các bản viết là 'góc'. ↵
- ngày 20 tháng 10 có thể tra cứu '20', bản các bản viết là '23'. ↵
- chỉ như trước đây tạm thời ở nhà cửa của quan phủ và chùa chiền 'ở' nguyên bản là 'như', theo các bản và ý văn sửa. ↵
- Việc xét thưởng cho các quan thuế trước đây gặp khó khăn, các bản đều giống nhau, nhưng nguyên văn không rõ nghĩa. Theo 《Tống sử》 quyển 174, 《Thực hóa chí》 phần 2, Lý Tông 'điều tra thuế dịch của những người bỏ trốn hoặc tuyệt tự,... dùng số tiền lớn để thưởng, nhằm khuyến khích các quan được giao việc', nghi ngờ chữ 'nghị' là sai của chữ 'nghĩa'. ↵
- Khiến dân ta ngồi mà mua dũng khí 'khiến', bản các bản tác 'đủ'. ↵
- ổn định dân thục hộ 'Tập' nguyên là 'Tập', theo các bản và nghĩa văn sửa. ↵