"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 383: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)

Bắt đầu từ ngày Bính Tý tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Ngày Bính Tý tháng 7, Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Thần trộm thấy sắc lệnh ban ra vào tháng 2 năm nay, quy định tiền vật của kho thường bình vẫn thi hành theo lệ cũ. Chiếu lệnh đã ban ra, trong ngoài đều rõ. Đến tháng 4 lại có chỉ thị, nhắc lại lệnh trước, nhưng phép thanh miêu vẫn thi hành như cũ. Gần đây, trong chiếu lệnh giáng chức Lữ Huệ Khanh lại có lời nói về việc đầu tiên đề xuất phép thanh miêu, khiến lòng người nghi ngờ. Thần gần đây đã từng dâng sớ trình bày, nhưng chưa được xử lý. Thần nghĩ rằng, hiệu lệnh ban ra trong thiên hạ phải lấy chữ tín làm gốc. Ban đầu nói phép thanh miêu không có lợi cho dân, bãi bỏ theo lệ cũ, chưa được mấy tháng lại thi hành. Nay lại trách tội người đầu tiên đề xuất, nhưng phép ấy vẫn còn, chưa sửa đổi gì. Thần ngu muội không biết đại ý của triều đình là gì. Nếu cho rằng phép này nên giữ, thì sắc lệnh theo lệ cũ và lời trách tội người đề xuất đã ban ra khắp trong ngoài; nếu cho rằng người đề xuất có tội, thì việc thu gom, phân phát và lấy lãi vẫn thi hành đến nay. Giữa hai điều này, không có điều nào hợp lý, bên ngoài không thể lấy chữ tín với dân, bên trong không thể làm yên lòng người bị trách tội, việc này gây tổn hại không nhỏ cho quốc thể. Hơn nữa, việc thanh miêu từ thời Hi Ninh đến nay, các ý kiến bàn luận rất nhiều, lợi hại đã rõ ràng, thần không cần nói thêm. Mong triều đình xem xét lại tờ tấu trước của thần, ban chỉ thị đặc biệt, dùng chiếu lệnh tháng 2 năm nay, các việc liên quan đến thường bình đều thi hành theo lệ cũ.”

[2] Tờ thiếp vàng nói: “Chỉ thị ban ra trước đây, thi hành theo lệ cũ của thường bình, về lý là lệ cũ của Ty đề hình trước thời Hi Ninh, nhưng những người có ý kiến khác vẫn cho rằng lệ cũ là lệ sau thời Hi Ninh, nên muốn nhân đó khôi phục việc thu gom và phân phát. Nay cần ban chỉ thị rõ ràng, thi hành theo lệ cũ thời Gia Hựu.”

(Tờ tấu này dâng ngày 21 tháng 7, nay phụ vào đây. Tờ tấu trước dâng ngày 26 tháng 6, đã dời đến ngày tháng này.)

[3] Thành Đô phủ, Lợi Châu lộ Kiềm hạt ty tấu: “Đề cử Thiểm Tây đẳng lộ Mãi mã Giám mục công sự Lục Sư Mẫn tấu: ‘Khám hội Thành Đô phủ, Lợi Châu lộ Kinh chế Mãi mã ty chuẩn triều chỉ, tại Nhã Châu Linh Quan, Gia Châu Trung Trấn đẳng trại đặt trường mua ngựa. Trong đó, Nhã Châu Linh Quan trại không có ngựa của người Phiên, người Man, trước đây chưa từng đặt trường. Còn Gia Châu Trung Trấn trại tuy đã đặt trường nhưng cũng không mua được ngựa. Nay chưa dám bãi bỏ.’ Phụng chỉ lệnh Thành Đô phủ, Lợi Châu lộ Kiềm hạt ty xem xét tâu lên. Bản ty nay xem xét, việc đặt trường mua ngựa tại Nhã Châu Linh Quan, Gia Châu Trung Trấn đẳng trại đều nên bãi bỏ.” Theo đó.

(Việc này căn cứ theo sách biên lục của Gia Châu, là thánh chỉ ngày 21 tháng 7, nay theo ngày tháng đó thêm vào. Lần đầu đặt trường là vào ngày 29 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 7.)

[4] Ngày Đinh Sửu, chiếu Thái Thường tự vẫn đặt một chức Thái Chúc, lấy Tuyên Đức lang Lã Hối là Lã Do Canh làm chức này. Theo lời thỉnh cầu của Thượng thư Hữu thừa Lã Đại Phòng và Đồng tri Xu mật viện sự Phạm Thuần Nhân.

(Ngày 12 tháng 5, chiếu Thái Chúc kiêm chức Phụng Lễ, lúc đầu bãi bỏ chức Thái Chúc của Thái Thường tự. Thiếu khanh Tiên Vu Sân tâu: Thần Khảo định lại chế độ quan chế, Thái Thường đặt hai chức Phụng Lễ và Thái Chúc, việc này hợp với chế độ cổ, lý khó bãi bỏ, xin khôi phục, và xin triều đình chọn người có học hạnh. Chiếu theo đó. Việc ghi chép ngày 12 tháng 5 chỉ nói Thái Chúc kiêm Phụng Lễ, không nói bãi bỏ Thái Chúc. Ở đây nói khôi phục Thái Chúc, khác với ghi chép trước, cần xem xét. Lời thỉnh cầu của Lã, Phạm vào ngày 22 tháng 5.)

[5] Giám sát Ngự sử Tôn Thăng tâu: Tri Bộc Châu Thịnh Nam Trọng vừa được bổ nhiệm làm Quảng Nam Đông lộ Chuyển vận phó sứ. Nam Trọng hành xử vô liêm sỉ, không thể quản lý gia đình, xin truy thu hồi mệnh lệnh bổ nhiệm để hợp với công luận. Chiếu lệnh Hoài Nam Chuyển vận ty điều tra, tâu lên sự thật.

(Nam Trọng được bổ nhiệm làm Chuyển vận sứ vào ngày 28 tháng 6, cần xem xét kết quả sau đó.)

[6] Chiếu phong Hoài Hóa tướng quân, quản câu phiên phường công sự Tân Nhã Thác Lặc thăng làm Quy Đức tướng quân, vì Quảng Đông chuyển vận ty tâu xin, nhân dịp đăng cực xá đặc biệt ban ân.

[7] Thượng thư tỉnh tâu: “Các sảnh đường của Giám ty và các châu huyện thuộc quyền, ngoài việc kiểm tra theo điều lệ, không được để các quan lại phụ trách điều tra nhận chỉ thị xét hỏi, lập thành lệnh.” Được chấp thuận.

(Bản mới bỏ đi.)

[8] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu: “Thần nghĩ rằng việc đáng thương nhất trong thiên hạ không gì bằng người già không có con cháu nương tựa, nên bậc vương giả nhân từ trong việc ban ơn và rộng lượng trong việc thi hành. Pháp lệnh di chúc cũ quy định tài sản không hạn chế nhiều ít, đều cho phép người đó tự do định đoạt; hoặc người thân trong tông tộc, hoặc người thân khác họ, vì họ có thể giữ trọn tình nghĩa với người già cô đơn, nên tài sản không hạn chế nhiều ít, đều cho phép họ nhận. Nếu vì thế mà lấy đi, thì thật không đành lòng. Tuy nhiên, sau này có những bề tôi hiến kế lợi ích, không hiểu ý này, mà đặt ra pháp lệnh hạn chế, khiến lòng người không khỏi đau xót. Tài sản dưới 300 quan thì mới được nhận toàn bộ, dưới 1.000 quan thì được nhận 300 quan, trên 1.000 quan thì chỉ được nhận một phần ba. Quốc gia với bốn biển rộng lớn, chín châu giàu có, há lại lấy đi những thứ này sao? Chỉ là những kẻ đặt ra pháp luật làm tổn hại nhân từ của triều đình mà thôi. Kính mong Thánh từ đặc biệt cho khôi phục lại pháp lệnh di chúc thời Gia Hựu, để an ủi lòng người già cô đơn trong thiên hạ, khuyến khích ý nguyện nuôi dưỡng người già cô đơn, và làm phong tục dân gian thêm thuần hậu. Nếu được chấp thuận, xin cho thi hành trước.” Được chấp thuận.

(Cả bản mới và bản cũ đều ghi là thần liêu tâu, nhưng đây là tấu của Vương Nham Tẩu, nay ghi đầy đủ.)

[9] Cơ quan kinh chế tài dụng Hi Hà Lan Hội lộ tâu: “Năm châu quân trong lộ này giá lương thực rất đắt, vì từ sau khi quân sự phát triển, ruộng cũ bị bỏ hoang, ruộng mới chưa khai khẩn, sản vật địa phương rất ít. Xin trừng phạt những thương nhân đòi lợi lớn và giá bạc, lụa, muối, công cứ phải được ổn định, kinh phí dần tiết kiệm, và lập thành lệnh.” Được chấp thuận.

(Hai bản đều giống nhau, chắc có sai sót.)

[10] Chiếu rằng: Đô tỉnh mỗi quý sai một viên lang trung thuộc tỉnh tào không liên quan, đến ty Giác hóa vụ để kiểm tra số tiền, vật hiện có và số lượng giao dẫn, rồi tâu lên tỉnh; đồng thời lệnh cho Hộ bộ sai một viên giám quan của khố Nguyên Phong, không ảnh hưởng đến chức vụ chính, kiêm quản việc phong trang gạo, muối, tiền, vật, lệnh rằng ngoài việc chi trả theo chức vụ, mỗi tuần căn cứ vào số hiện có để giao bát phong trang.

(Bản mới đã bỏ đi.)

[11] Chiếu ban bố các điều luật trước đây về việc ràng buộc quan lại không được xâm phạm, quấy nhiễu người làm việc cho các lộ, theo lời tâu của Tô Triệt.

(Tô Triệt đã tâu vào ngày 26 tháng 5 và 17 tháng 6.)

[12] Hình bộ tâu: “Quyền tri châu Từ Châu là Mã Mặc tâu rằng: ‘Trước đây, đô chuyển vận ty chỉ huy rằng, nếu quân nhân nào trộm cắp vật phẩm của ty này, đều phải tâu lên ty này và gửi điệp cho an phủ ty để xử lý việc thích phối, mong xem xét những người phạm tội nhẹ, đều cấp công cứ cho về.’ Nay xin theo lời tâu, giao cho đề hình ty xem xét, đồng thời báo cáo số người được tha và nguyên nhân phạm tội.” Được chấp thuận.

(Bản mới đã bỏ đi.)

[13] Chiếu rằng: “Những người thay thế việc dạy và duyệt bảo giáp, nếu muốn gia nhập quân đội, nếu bắn cung nỏ đạt hạng nhất trong bảo giáp, thì cho phép chiêu mộ; số tiền, vật tăng thêm, cấp cho chính thân bảo giáp và gia đình. Nếu gia nhập quân đội từ 26 tuổi trở lên, bắn cung nỏ đạt hạng trung, thì giảm một bậc chiêu mộ. Từ 25 tuổi trở xuống, không cần xét đến tài nghệ, giảm dần. Phủ Khai Phong cũng áp dụng theo.”

(Bản mới đã bỏ đi.)

[14] Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân tấu: “Thần trộm thấy mấy ngày trước có sắc lệnh, các chức Thái trung đại phu, Gián nghị, Đãi chị trở lên, mỗi năm lấy mười khoa tiến cử người tài, điều này cho thấy ý của bệ hạ là muốn thu nhận rộng rãi nhân tài, dựa vào năng lực để bổ nhiệm quan chức. Từ thời Tam đại trở lại đây, việc thiết lập quan chức và phân chia chức vụ tuy có khác nhau về số lượng, nhưng cốt lõi của việc tuyển chọn người tài, không ngoài việc dựa vào đức hạnh, sự nghiệp, hoặc lời nói mà tiến cử. Ngay cả trong môn đồ của Khổng Tử, khi bàn về người tài, cũng chỉ nói đến đức hạnh, ngôn ngữ, chính sự và văn học mà thôi. Nay lấy mười khoa để tuyển chọn người tài, đã bao gồm cả đức hạnh, ngôn ngữ, chính sự và văn học; nhưng khi bàn về việc tuyển chọn người tài, lại chỉ dừng lại ở ba việc là quản lý tài chính, xử lý kiện tụng và phán quyết án lệnh, thần e rằng danh mục tuyển chọn người tài vẫn chưa đầy đủ.

Tại sao vậy? Người giỏi quản lý tài chính chưa chắc đã giỏi xử lý kiện tụng, người giỏi xử lý kiện tụng chưa chắc đã giỏi phán quyết án lệnh, người giỏi cả ba việc này chưa chắc đã trung thực, nhanh nhẹn và nhân từ, đủ để lãnh đạo người khác. Nay những người được gọi là quan chức lãnh đạo, chính là Thái thú và Huyện lệnh. Hiện nay, Thái thú và Huyện lệnh tuy có quy định tiến cử và thăng chức qua nhiều năm, nhưng đối với những nơi quan trọng và lớn, nếu chỉ dựa vào thâm niên mà không có sự lựa chọn kỹ càng, e rằng sẽ không chọn được người tài, dẫn đến tình trạng như gấm vóc mà không biết cắt may. Không chỉ vậy, từ mấy năm gần đây, phép khảo khóa ở các quận huyện chỉ là hình thức, chưa từng nghe nói đến việc đề bạt một vị Thái thú giỏi, tiến cử một vị Huyện lệnh hiền tài để khuyến khích thiên hạ. Do đó, quan lại ở các quận huyện cũng chỉ lo làm những việc vụn vặt, tuân thủ quy tắc, quản lý sổ sách và thu thuế mà thôi, chưa từng nghe nói đến việc họ tận tâm nhân từ, lấy việc trị dân làm trọng.

Nếu không phải là những bậc hào kiệt tự tin, thì chẳng ai không cần sự khen thưởng để được khuyến khích. Nếu không có sự khen thưởng, không có sự tiến cử, thì những Thái thú và Huyện lệnh giỏi xử lý việc khó ở thiên hạ, há còn có tâm hăng hái tiến thủ nữa sao? Thần xin đề nghị ngoài mười khoa, hãy thêm một khoa riêng cho những người có tài trị dân, có khả năng giải quyết việc khó, khi có chỗ trống ở các quận lớn, huyện lớn, thì bổ nhiệm họ vào. Như vậy, sẽ không bỏ sót nhân tài, và các Thái thú, Huyện lệnh trong thiên hạ đều sẽ được khuyến khích. Thái thú và Huyện lệnh được khuyến khích, thì chính sự ở các quận huyện sẽ được chỉnh đốn, dân chúng trong thiên hạ sẽ được hưởng ân đức của triều đình, và công cuộc thái bình sẽ được thiết lập.”

(Quân dâng tấu này vào ngày 22 tháng 7.) Không được trả lời. Quân lại dâng tấu lần nữa, sau một thời gian, mới ban hành quy định về việc bảo cử và khảo sát năng lực của Tri huyện và Huyện lệnh trong việc xử lý việc khó.

(Quân dâng tấu vào ngày 22 tháng 7, lần tấu thứ hai không ghi rõ ngày tháng. Nội dung lần tấu thứ hai giống với lần đầu, chỉ có phần luận thuyết thêm chi tiết. Đến ngày 22 tháng 11, mới ban hành quy định về việc bảo cử và khảo sát năng lực của Tri huyện và Huyện lệnh trong việc xử lý việc khó, có lẽ là dựa theo lời tấu của Quân. Sách 《Cựu lục》 trước đó đã ghi chép về quy định bảo cử người có năng lực xử lý việc khó vào ngày 6 tháng 5, sau đó lại ghi chép lại quy định này vào ngày 22 tháng 11, đồng thời ban hành quy định khảo sát, 《Tân lục》 cũng theo đó mà ghi, đều là sai lầm. Ngày 1 tháng 7 mới thi hành mười khoa, ngày 22 tháng 7 Quân mới xin thêm khoa xử lý việc khó, nếu ngày 6 tháng 5 đã có chỉ thị về việc bảo cử người có năng lực xử lý việc khó, thì Quân không nên đến ngày 22 tháng 7 mới lại tâu xin, hơn nữa khi thi hành mười khoa, chưa có chỉ thị riêng về việc bảo cử người có năng lực xử lý việc khó, sai lầm này rất rõ ràng, nên bỏ phần ghi chép ngày 6 tháng 5, chỉ giữ lại phần ghi chép ngày 22 tháng 11. Vẫn ghi kèm tấu sớ của Quân vào ngày 22 tháng 7.)

[15] Ngày Mậu Dần, Tô Tụng, nguyên là Thị lang Lại bộ, được bổ nhiệm làm Thượng thư Hình bộ. Tô Tụng vừa mãn tang.

[16] Ngày Kỷ Mão, Vua phê: “Gần đây nước Hạ nhiều lần cử sứ giả đến, tuy tỏ ra cung thuận, nhưng tình ý khó lường. Cần răn dạy các tướng biên cương cùng các quận biên giới Thiểm Tây, Hà Đông, ngầm chuẩn bị phòng ngự. Mỗi nơi cần xác định số lượng tướng lĩnh, binh mã, cỏ khô, lương thảo cần thiết để ứng phó lúc cấp bách, đồng thời phối hợp với Ty Chuyển vận tính toán sắp xếp lương thảo, đảm bảo không thiếu sót, rồi tâu lên.”

[17] Tả bộc xạ Tư Mã Quang và các quan tâu rằng: “Thần nghe rằng bậc vương giả đặt ra chức quan, phân chia nhiệm vụ, người ở trên thì quản lý nhiều việc nên chỉ nắm đại cương; người ở dưới thì phụ trách ít việc nên xử lý chi tiết. Đó là lẽ tự nhiên, là cơ sở để thiết lập kỷ cương. Vì thế, trong chế độ nhà Chu, chức Tiểu tể quản lục thuộc của quan phủ, việc lớn thì theo lệnh cấp trên, việc nhỏ thì tự quyết định. Phàm là tể tướng, trên thì giúp Vua bàn luận đạo lý, trị quốc an dân; giữa thì tuyển dụng trăm quan, thưởng công phạt tội; dưới thì làm cho dân giàu yên, hưng lợi trừ hại. Đó là chức trách của tể tướng. Còn như những sai sót trong sổ sách, việc trễ nải hội họp, việc kiện tụng đúng sai, việc thăng bổ lại viên, đều là việc của các quan lang, không phải việc tể tướng nên trực tiếp xử lý. Người xưa có câu: ‘Người nhìn thấy lông mi thì không thấy được trăm bước, người nhìn thấy trăm bước thì không thấy được lông mi.’ Ý nói người quá chú trọng chi tiết thì ắt bỏ qua đại cục. Nay ở Thượng thư tỉnh, việc lớn nhỏ đều do bộc xạ quyết định, từ sáng đến tối xem xét văn thư, tiếp nhận đơn từ, không lúc nào nghỉ ngơi. Tinh lực hao tổn vào những việc vụn vặt như gạo muối, không còn thời gian suy nghĩ kỹ lưỡng về đại cục trị quốc, kế sách an dân lâu dài. E rằng đó không phải là việc triều đình giao phó cho tể tướng.

Thần nghĩ rằng các trưởng quan lục tào, tức lục khanh thời xưa, việc nhỏ lẽ nào không thể tự quyết định? Thần xin đề nghị từ nay về sau, mọi chiếu lệnh ban xuống Thượng thư tỉnh, sau khi bộc xạ và tả hữu thừa ký duyệt, giao cho lục tào sao chép, ấn dấu, truyền xuống các ty và các lộ, châu thi hành. Còn các văn thư do thần dân dâng lên, sau khi bộc xạ và tả hữu thừa ký duyệt, cũng giao cho lục tào, thượng thư, thị lang và các quan lang trong sảnh ký duyệt, giao cho quan lang trong sảnh tra cứu hồ sơ, hỏi han sự việc, cân nhắc đạo lý, xem xét điều lệ, viết lời phê ‘Nay muốn thi hành như thế nào’, rồi trình lên thị lang, thượng thư. Nếu lời phê của quan lang đã thỏa đáng, thì thị lang ký duyệt, thượng thư phê chuẩn, việc cần tâu lên thì tâu lên, việc cần ban xuống thì ban xuống; nếu chưa thỏa đáng, thì giao cho thị lang, thượng thư sửa lại. Việc được hay không đều do trưởng quan lục tào quyết định. Khi giao văn thư cho quan lang trong sảnh, giao cho trưởng quan lục tào tùy việc lớn nhỏ mà ấn định thời hạn, nếu có trễ nải thì xử lý ngay. Nếu có việc chưa xử lý xong, thì báo lên trưởng quan gia hạn, không cần qua bộc xạ và tả hữu thừa.

Còn như việc sửa đổi điều lệ, hoặc xin chỉ đặc biệt, hoặc việc lớn, hoặc lý lẽ khó xử, không thuộc thẩm quyền của lục tào, thì cho phép báo lên bộc xạ và tả hữu thừa, hoặc làm tờ trình lên đô tỉnh, giao cho bộc xạ và tả hữu thừa bàn bạc, hoặc vào chầu xin chỉ, hoặc ký tên vào tờ tấu, hoặc làm tờ trình, hoặc phê chuẩn chỉ huy. Còn các đơn từ của dân, chỉ cần qua trưởng quan lục tào trình lên thượng thư, thị lang, quan lang trong sảnh ký duyệt, xử lý như việc triều đình phê chuẩn đơn từ của thần dân, rồi thi hành. Nếu lục tào không tiếp nhận hoặc lâu không xử lý xong, hoặc xử lý không đúng, thì cho phép người dân đến Đăng văn cổ viện dâng đơn, triều đình giao xuống Thượng thư tỉnh, giao cho bộc xạ và tả hữu thừa phê chuẩn, giao cho quan viên không liên quan xem xét, quyết định. Nếu lục tào có sai phạm rõ ràng, thì xử lý ngay. Như vậy thì trên dưới phân minh, mỗi người có chức phận riêng, việc xử lý đơn giản, công việc được giải quyết nhanh chóng.”

Sau khi dâng tấu xin hợp hai tỉnh làm một, liệt kê tên họ của Tả, Hữu bộc xạ, Môn hạ, Trung thư thị lang, lệnh cho các trưởng quan Lục tào chuyên đạt tấu chương, liệt kê tên họ của Tả, Hữu bộc xạ, Tả, Hữu thừa, đều thấy trong tập của Tư Mã Quang. Hai tấu chương này có lẽ được soạn cùng thời. Xét theo bài chí mộ Tư Mã Khang của Phạm Tổ Vũ, nói rằng tấu chương xin hợp hai tỉnh làm một, Tư Mã Quang chưa kịp dâng lên thì đã mất, còn Tư Mã Khang khi chưa làm Gián quan đã dâng lên. Tháng 10 năm thứ 4 mới được bổ làm Hữu chánh ngôn, không rõ tấu chương lệnh cho các trưởng quan Lục tào chuyên đạt đã từng dâng lên hay chưa. Lại xét theo sách 《Thực lục》 ghi ngày 24 tháng 7, thì việc các trưởng quan Lục tào chuyên đạt thực sự đã được thi hành. Tập của Tư Mã Quang cũng chép đầy đủ tấu chương thỉnh cầu của Thượng Quan Quân, nói rằng ngày 28 tháng 7, Tam tỉnh cùng tiến trình, được chỉ “Y”. Việc này không khác với sách 《Thực lục》 ghi ngày 24, chỉ khác ngày mà thôi. Nội dung tấu chương này bàn luận, cùng với việc ghi ngày 24 và tiến trình ngày 28, sự việc cũng không khác gì, không rõ vì sao lại xuất hiện hai lần, có lẽ Tư Mã Quang trước đó đã có thỉnh cầu này, Thượng Quan Quân cũng đề cập, cùng tiến trình và được chỉ. Ngày khác nhau, có lẽ do chữ viết có sai sót. Nay ghi chép cả hai. Ngày 8 tháng 8 năm thứ 4, Tư Mã Khang dâng hai bài di tấu của Tư Mã Quang, việc các trưởng quan Lục tào chuyên đạt là một trong số đó. Việc này thực chất giống với tấu chương ngày 24 tháng 7 năm nguyên niên, không rõ vì sao Tư Mã Khang lại dâng lên, có lẽ do tấu chương hôm đó tình cờ còn bản khác, tuy đã thi hành nhưng Tư Mã Khang chưa biết, nên mới đem tâu lên chăng?

[18] Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân cũng dâng tấu xin phân loại việc của Thượng thư tỉnh theo mức độ quan trọng, việc nào thuộc Thượng thư, việc nào thuộc hai Thừa, việc nào thuộc Bộc xạ. Do đó, ba tỉnh cùng tiến trình, nay muốn ứng dụng các điều lệ cũ của Thượng thư tỉnh[1], việc không quá lớn thì giao cho các trưởng quan Lục tào quyết định. Việc mà Lục tào không thể quyết định, thì báo lên Đô tỉnh, giao cho Bộc xạ, Tả Hữu Thừa cùng bàn bạc, hoặc gửi lên Trung thư xin chỉ thị, hoặc trực tiếp phê phán chỉ huy. Các văn bản thường lệ và đơn kiện, chỉ giao cho Tả Hữu Thừa thi hành. Nếu việc của Lục tào hơi lớn hoặc có nghi ngờ, thì mới bàn bạc với Bộc xạ. Nếu Lục tào thi hành không đúng hoặc bị trì trệ, thì giao cho quan không liên quan định đoạt, truy cứu. Mong rằng trên dưới đều xứng chức, công việc được giải quyết. Theo đó.

(Tấu của Thượng Quan Quân và việc ba tỉnh cùng tiến trình, đều căn cứ vào 《Tư Mã Quang Tập》, nay thực lục chỉ ghi lời của ba tỉnh, không nêu tấu của Thượng Quan Quân, lại ghi vào ngày 24. Nay ngày thì theo thực lục, việc thì theo 《Quang Tập》. 《Quân Gia Truyện》 ghi tấu nghị của Quân rất chi tiết, nhưng không ngoài ý của Quang, hoặc có lược bớt và thêm vào.)

[19] Hộ bộ tâu: Các châu, quân ở phủ giới và các lộ, sổ sách tiền lương trước đây gửi lên Tam ty, trước đây giao cho các lộ Chuyển vận ty kiểm tra; các sổ sách thường lệ trước đây gửi lên Tư nông tự giám, trước đây giao cho các lộ Đề cử ty kiểm tra; và các sổ sách của khố vụ ở kinh đô hiện phân thuộc Lễ, Binh, Công tào, đều thu về Hộ bộ. Theo đó, dùng pháp lệnh mà Tư Mã Quang đã tấu trong tháng nhuận.

(Tô Triệt tấu luận ngày 17 tháng 8[2], nay phụ vào đây.)

[20] Hữu ty gián Tô Triệt tâu:

[21] Thần nghe rằng trước niên hiệu Hi Ninh, các sổ sách tài chính trong thiên hạ đều được gửi lên Tam ty đúng thời hạn. Đến năm Hi Ninh thứ 5, triều đình lo ngại về sự rườm rà, bèn sai Tăng Bố soạn định pháp thức. Bố nhân đó tâu rằng: “Các lại viên ở ba bộ đảm nhiệm nhiều việc, không thể chuyên tâm kiểm tra sổ sách, gần đây cứ theo lệ cũ mà không xem xét lại. Xin chọn 200 lại viên từ Tam ty, lập riêng một ty, giao cho việc kiểm tra.” Lúc đó, triều đình nghe theo lời Bố, lấy các sổ sách từ Tam ty để xem, thậm chí có những sổ đã đến bộ từ 20-30 năm mà chưa mở niêm phong. Bởi vì các châu, quận gửi sổ sách đều kèm theo hối lộ, hối lộ có mức nhất định, nếu đủ thì không mở niêm phong. Nếu thiếu, liền trăm phương ngàn kế chất vấn, đòi cho đủ mới thôi. Triều đình tin lời Bố, việc lập Trướng ty bắt đầu từ đó. Bố trí quan lại, chi phí tiền của, đến năm Nguyên Phong thứ 8, trong khoảng 7-8 năm, Trướng ty quản lý gần 600 lại viên, tiêu tốn 39 vạn quan tiền, nhưng chỉ phát hiện được hơn 1 vạn quan tiền thất thoát. Triều đình biết việc này vô ích, bèn bãi bỏ Trướng ty, yêu cầu các châu, quận nộp sổ sách lên bộ, đều nộp lên Chuyển vận ty. Các sổ về tiền bạc, lương thảo, rượu, thuế thương mại, vườn tược, thuế hạ thu, thuế muối, vật liệu đúc tiền, lúa nếp, bản ty phải làm sổ kế toán riêng để nộp lên bộ. Các sổ về dịch trạm, xưởng, nợ nần, sửa chữa, vật liệu đóng thuyền, củi than, vật liệu đắp đê, cầu cống, xe ngựa, cỏ khô, sau khi kiểm tra xong thì lưu trữ.

Bởi vì các sổ về tiền bạc, Tam ty tổng quản quốc kế, cần biết số lượng thực hư, nên sổ tuy giao về Chuyển vận ty, nhưng vẫn yêu cầu làm sổ kế toán riêng để nộp lên bộ. Còn các sổ về dịch trạm, không liên quan đến quốc kế, nên chỉ yêu cầu kiểm tra và lưu trữ. Hơn nữa, các Chuyển vận ty ở các lộ và bộ châu quân gần nhau, việc lấy tài liệu dễ dàng, số lượng sổ sách không nhiều, dễ kiểm tra kỹ lưỡng. Từ đó, việc nội ngoại đều thuận tiện, được coi là hợp lý. Nay Hộ bộ xin thu các sổ sách trong thiên hạ[3], thần không rõ là thu các sổ về tiền bạc hay cả các sổ về dịch trạm? Nếu thu hết các sổ, thì có theo lệ trước Hi Ninh, không lập Trướng ty, không thêm lại viên không? Hay theo lệ từ Hi Ninh, lập lại Trướng ty, thêm lại viên? Nếu theo lệ trước Hi Ninh, thì tình trạng sổ sách 20-30 năm không mở niêm phong sẽ lại xảy ra; nếu theo lệ từ Hi Ninh, thì dùng 600 lại viên, phát hiện hơn 1 vạn quan tiền thất thoát mà tiêu tốn 39 vạn quan, cũng sẽ lại xảy ra. Thần xin triều đình hạ lệnh cho Hộ bộ, yêu cầu phân tích kỹ lưỡng rồi tâu lên.

Tuy nhiên, thần xem kỹ bản tấu của Tư Mã Quang: “Từ khi cải cách quan chế, các việc trước đây do Tam ty quản lý đã phân tán về Lục tào và các tự, giám, Hộ bộ không thể tổng quản tài chính thiên hạ, sổ sách không đều nộp lên Hộ bộ, Hộ bộ không thể biết hết số tiền lương thực trong thiên hạ, xin cho Thượng thư Hộ bộ kiêm quản Tả Hữu tào; các việc về tiền lương, tài chính trước đây do Tam ty quản lý, nay phân tán về Ngũ tào và các tự, giám, xin thu về Hộ bộ.” Suy ý ban đầu, là muốn quyền quản lý thu chi tài chính thiên hạ về một mối là Hộ bộ, để Hộ bộ nắm rõ số lượng. Nay Hộ bộ đã chuyên quản tài chính, mà pháp lệnh sổ sách từ Nguyên Phong, Chuyển vận ty thường nộp sổ kế toán lên bộ, không phải là không biết số lượng. Dù có thu hết các sổ, cũng chỉ thêm rắc rối, không có ích gì. Thần cho rằng pháp lệnh sổ sách cứ giữ như cũ là rất thuận tiện, xin hạ lệnh cho Tam tỉnh bàn bạc, rồi giao Hộ bộ thi hành.

(Ngày 22 tháng 8, Hộ bộ tâu, lời của Triệt không được thực hiện.)

[22] Tô Triệt lại tâu: “Thần gần đây đã dâng tấu xin bãi bỏ việc chi tiền thanh miêu, đồng thời nghe nói các quan đài gián đều có văn bản bàn luận, nhưng đến nay vẫn chưa được ban ra thi hành. Thần thấy rằng vào đầu niên hiệu Hi Ninh, Vương An Thạch và Lữ Huệ Khanh nắm quyền, đầu tiên đề ra pháp thanh miêu, thực chất là cho vay lấy lãi, lại dẫn lời trong 《Chu Lễ》 về chức Tuyền phủ để che đậy việc làm của mình, khiến công luận trong thiên hạ đều cho là sai trái. Lúc đó, Hàn Kỳ, Phú Bật, Tư Mã Quang, Phạm Trấn đều công khai chỉ trích sai lầm này, tiếc rằng không thể cứu vãn. Nay hai Thánh thượng đang trị vì, thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, đã bỏ hết các phép tệ hại; gần đây lại giáng chức Lữ Huệ Khanh, kể tội ác của y, cũng lấy việc khởi xướng thanh miêu làm đầu; nhưng việc phân phát thanh miêu trong thiên hạ thực chất đến nay vẫn chưa dừng. Dân chúng nghi ngờ, cho rằng triều đình vẫn còn ý tham lợi. Thần đã thu thập nhiều ý kiến[4], nói rằng: ‘Gần đây có quan viên dâng lời, lấy cớ quốc dụng không đủ, khiến Thánh ý còn do dự chưa quyết.’ Thần tuy ngu muội, nhưng thầm tiếc cho kế sách này của bệ hạ.

Vì sao? Từ xưa đến nay, trị quốc đều là cấp lộc nuôi quan lại, cung cấp lương thực cho binh lính[5], tôn kính tế lễ ở giao miếu, vỗ yên bốn phương, nhưng thu thuế ăn mặc chưa từng thiếu hụt[6]. Nay bệ hạ ra sức thực hành cần kiệm, những khoản chi tiêu xa xỉ của các đế vương đời trước đều không làm. Kế sách hiện nay, chỉ nên răn dạy các quan lại trong thiên hạ, khiến họ an định dân chúng, nếu có thể giảm bớt thiên tai hạn hán, lại không có nạn lưu vong, thì công lao an định sẽ tự hiển lộ sau vài năm, lương thực vải vóc dồi dào, sẽ dùng không hết, sao phải lại thi hành thanh miêu để tranh lợi với dân? Chỉ vì bệ hạ có tính nhân hậu, mọi việc lợi dân đều làm hết sức, nếu không phải do tả hữu tạo ra lời nguy hiểm, lay động Thánh thính, thì sao đến nỗi bỏ qua lời bàn của mọi người, để thành tà thuyết? Nhưng thần e rằng trong ngoài không rõ đầu đuôi, chỉ thấy lời tâu của đài gián đều bị giữ lại không ban ra, ngờ rằng bệ hạ ham cầu lợi, không thương xót dân chúng, tin đồn xa gần, tổn hại không nhỏ. Thần muốn xin bệ hạ đem hết các chương tấu trước sau của quan viên giao cho Tam tỉnh bàn bạc thi hành, để dẹp điều gièm pha này.”

[23] Ngày Canh Thìn, ban chiếu cho quân Lương Sơn chuyển thuế ruộng sang châu Vạn, lệnh cho ty Chuyển vận hàng năm tính toán và chiết khấu, chỉ nộp tại châu mình.

[24] Ban chiếu rằng các quan được bổ nhiệm tại triều đình phải tránh người thân, sau khi nhậm chức trong vòng một tháng phải tự tâu trình.

[25] Trong chiếu có phê: “Gần đây nghe nói Phùng Cảnh cùng chủ viện Thủy Lục là Thủ Trí xử lý việc đất đai, vốn là đất cha ông ta là Đức Thành từng dâng lên phu nhân Tần Tấn Quốc để làm việc công đức vào năm Hi Ninh, nghe nói Đức Thành cũng đã nhận bạc lụa, việc đúng sai rõ ràng. Từ nay về sau nếu Phùng Cảnh còn có đơn từ, Thượng thư Hình bộ không được nhận.”

(Ngự tập ngày 25 tháng 7.)

[26] Môn hạ tỉnh tâu: “Hình bộ sửa đổi điều khoản về việc không được miễn tội dù đã bãi chức hoặc được ân xá, xét thấy quan chức tại chức nếu vì công việc mà phạm lỗi, dù bãi chức cũng không được miễn, điều này còn có thể nói; còn như ân xá là đại ân, cùng với mọi vật đổi mới, dù là kẻ cướp giết người cũng được khoan hồng, há có thể vì một việc sai lầm mà mang tội suốt đời? Thần cho rằng trong điều khoản không được miễn tội dù bãi chức hoặc ân xá, phần còn lại quá nhiều, phần sửa đổi quá ít, nay muốn sửa đổi thêm để giữ lại.” Được chấp thuận.

(Có thể tham khảo bản tự biện của Tô Thức.)

[27] Hữu chánh ngôn Vương Địch tâu:

[28] Thần trộm thấy gần đây có chiếu thư, (Địch tự chú rằng ngày 25 tháng 7 tấu, thần trộm thấy chiếu thư ngày 8 tháng này. Nay đã lấy chiếu thư ngày 28 tháng 6, nên đổi gọi là gần đây.) xóa bỏ những lỗi lầm kín đáo, bỏ qua những việc nhỏ nhặt, để mở đường cho những người lầm lỗi được tự đổi mới. Thiên hạ thật may mắn! Tuy nhiên, thần trộm xét từ xưa đến nay, các bậc Vua hiền thánh không ai vượt qua được Nghiêu, Thuấn, mà cái cốt yếu trong việc trị nước của Nghiêu là ở chỗ sáng suốt và nhân từ; cái việc trước tiên trong việc trị nước của Thuấn là ở chỗ khó khăn với kẻ gian tà. Chính vì sáng suốt và nhân từ nên những kẻ khéo nói ngon ngọt không thể thực hiện được ý đồ riêng tư; chính vì khó khăn với kẻ gian tà nên những kẻ mang lòng gian dối không thể thực hiện được điều ác. Nhờ đó, Nghiêu mới khiến dân chúng yêu mến, và Thuấn mới khiến man di quy phục. Kính nghĩ Hoàng đế bệ hạ, Thái hoàng thái hậu bệ hạ từ khi lâm chính đến nay, tiến cử người trung hiền, loại bỏ kẻ tà ác, có thể nói là sáng suốt và nhân từ, có thể nói là khó khăn với kẻ gian tà, chỉ cần không mệt mỏi mà kiên trì đến cùng, thì dân chúng yêu mến, há kém gì Nghiêu, mà man di quy phục, há thẹn gì Thuấn! Nay ban chiếu thư khoan hồng, ban ân huệ rộng rãi, những người lầm lỗi trong việc phụng sự tiên đế đều không truy cứu, ý thánh cho rằng những kẻ tội ác lớn đã bị loại bỏ, còn những lỗi lầm nhỏ nhặt vẫn xử lý, thì không phải là ý nghĩa bao dung chứa đựng, nên ban ân huệ rộng rãi mà xóa sạch, để an ủi lòng dân. Thần tuy rất ngu, còn nghi ngờ gì nữa, mà lại bàn luận quá mức để rơi vào cơ hội gây oán với mọi người? Thần chỉ thấy chiếu thư trái với sự việc, danh nghĩa khác với thực tế, khiến lòng người đều kinh ngạc. Nên không dám im lặng để mưu cầu sự dung thứ, nay lại xin bệ hạ bàn luận thêm.

[29] Chiếu rằng: “Kẻ tội lỗi rõ ràng đã bị trị tội, kẻ ác độc lớn đã bị trục xuất.” Bệ hạ cũng thường xem xét kỹ lưỡng chăng? Kẻ tội lỗi rõ ràng quả thật đã đều bị trị tội chưa? Kẻ ác độc lớn quả thật đã đều bị trục xuất chưa? Nếu vẫn chưa, thì sự ngưỡng vọng của dân chúng sao có thể lừa dối, luận bàn công khai của thiên hạ sao có thể bị bóp méo được! Những kẻ tầm thường một chức quan, không nắm quyền lực, tội lỗi rõ ràng mà chưa bị trị tội, ác độc lớn mà chưa bị trục xuất, vốn không đáng lo ngại; nhưng kẻ ngồi trên miếu đường, nắm quyền chính sự, hằng ngày bệ hạ cùng bàn bạc, quyết định chính sự lớn nhỏ của thiên hạ, vẫn còn có người như thế, đó là Trương Tảo. Vì vậy, từ khi chiếu chỉ ban xuống, những bậc tri thức, bề tôi trung nghĩa, không ai không phẫn nộ, than thở, cho rằng kẻ tội lỗi rõ ràng, ác độc lớn vẫn còn ở bên cạnh bệ hạ, mà nói rằng tội đã trị, ác đã trừ, thì nỗi lo bị lừa dối, che mắt, có thể thấy rõ. Dù là kẻ ở nơi thôn dã, cũng nên nhăn trán, lo lắng cho triều đình, huống chi như thần đây, đang giữ trách nhiệm can gián, làm tai mắt cho bệ hạ, lại cam tâm ngậm miệng, im lặng mà an nhiên sao?

Tội gian tà, lừa dối của Trương Tảo, thần từ tháng hai năm nay đã nhiều lần dâng sớ tâu bày tình hình, và nghe nói các quan khác cũng không ít lần luận tội, thế mà bệ hạ không những bỏ qua không xét, lại còn ban chiếu rõ ràng trong ngoài, nói rằng đã không còn kẻ tội lỗi rõ ràng, ác độc lớn, còn lại đều không truy cứu nữa; Tảo nhân đó tự phụ, củng cố bè đảng gian tà. Thần e rằng từ nay về sau, bè đảng gian tà không còn lo sợ bị trừng trị, mà triều đình sẽ gặp họa nuôi hổ. Không chỉ vậy, còn khiến thiên hạ có thể nhìn thấu triều đình, cho rằng đại thần bên cạnh bệ hạ tội lỗi rõ ràng, ác độc lớn như Trương Tảo, mà bệ hạ vẫn không biết, thì bốn phương xa xôi, trăm quan đông đảo, làm sao có thể thấy rõ, nghe rộng, mà soi chiếu được gian tà? Thần cho rằng bệ hạ không nhanh chóng cách chức Trương Tảo, thì không thể giải tỏa nghi ngờ của thiên hạ, không thể phá tan bè đảng gian tà, không thể củng cố thế lực của triều đình. Mong bệ hạ xem xét kỹ lưỡng và lựa chọn cẩn thận, thiên hạ may mắn biết bao!

(Vương Địch tự chú trong tấu chương, nói rằng ngày 25 tháng 7 dâng lên. 《Tân lục》 cho rằng chương này do Lâm Đán viết, thấy sơ lược vào ngày 24 tháng 9 khi Trương Tảo bị cách chức, là sai. 《Nguyên Hựu tạp lục》 cũng ghi là của Vương Địch. Trước ngày 14 tháng 9, Lâm Đán đã bị đàn hặc rồi, từ tháng hai đến nay, nhiều lần dâng sớ luận tội, nên xem xét.)

[30] Ngày Nhâm Ngọ, Hữu ty gián Tô Triệt tâu:

[31] Thần trước đây từng dâng lời, xin đối với những hộ dân nợ tiền thị dịch, tính tổng số tiền lãi và tiền phạt đã nộp, nếu đã nộp đủ số tiền vốn ban đầu xin từ quan, thì xin được miễn trừ. Được thánh ân chấp thuận thi hành, ân đức rộng khắp, ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, thần nghe nói ở kinh sư, các hộ nợ là những gia đình nghèo khó từ đầu thường dùng tên giả, xin đổi mới trả cũ[7], do đó không thể tính tổng số tiền lãi và tiền phạt, nên ân điển miễn trừ phần lớn chỉ đến được các hộ giàu. Thần gần đây lại điều tra thêm, theo lời của Thông trực lang, Giám tại kinh Thị dịch vụ Tống Triệu nói với thần: “Nếu xét những hộ nợ dưới hai trăm quan, đều được miễn trừ, thì số hộ được miễn sẽ rất nhiều, việc cũng công bằng.” Ông ấy còn chuẩn bị một bản tóm tắt các điều khoản và văn bản liên quan đến lợi hại của việc này, xin thần tâu lên. Thần xem xét kỹ lời nói đó, thấy có năm việc nên làm.

[32] Vốn liếng của việc buôn bán, trước sau các nơi chuyển đến, tổng cộng một nghìn hai trăm hai mươi sáu vạn quan[8]; trong đó chuyển trả lại kho nội tàng và các nơi khác, tổng cộng năm trăm ba mươi vạn quan; triều đình chi tiêu qua, tổng cộng ba trăm tám mươi bốn vạn quan; hiện nay các trường vụ còn lại[9], tổng cộng ba trăm năm mươi ba vạn quan. Tính toán ba khoản đã chi và hiện còn, đã đủ trả lại vốn. Vậy nên những khoản nợ của dân hiện nay đều là lãi, nếu tha cho những hộ nợ dưới ba trăm quan[10], số tiền tha không nhiều, đây là việc nên làm thứ nhất.

Hiện nay số người nợ tổng cộng hai mươi bảy nghìn một trăm năm mươi lăm hộ, nợ tổng cộng hai trăm hai mươi bảy vạn quan. Trong đó có ba mươi lăm họ lớn, hai mươi bảy hộ buôn rượu, nợ tổng cộng một trăm năm mươi bốn vạn quan; hai mươi bảy nghìn chín mươi ba hộ nhỏ, nợ tổng cộng tám mươi ba vạn quan[11]. Nếu tha cho những hộ nợ dưới hai trăm quan, tổng cộng tha cho hai mươi lăm nghìn ba trăm năm mươi lăm hộ[12], tha bốn mươi sáu nghìn sáu trăm hai mươi quan. Số hộ được tha chiếm hơn chín phần mười, nhưng số tiền tha chỉ chiếm hai phần, đây là việc nên làm thứ hai.

Thời Nguyên Phong, triều đình thúc giục thu nợ rất gấp, nhưng một năm thu được không quá ba vạn quan. Gần đây triều đình khoan hồng cho dân nghèo, thu nhỏ lại, từ tháng giêng năm nay đến nay, chỉ thu được sáu bảy nghìn quan. Nay lấy ba vạn quan làm mức, vẫn cần hơn bảy mươi năm mới thu đủ. Như vậy, những hộ nhỏ sẽ chết đói, lưu lạc, không còn biết đến. Mà nhà nước mỗi năm được mất sáu nghìn quan[13], (thần xin tha cho những hộ nợ dưới hai trăm quan, trong tổng số nợ hiện tại chỉ chiếm một phần chín[14]. Tức là mỗi năm thúc giục thu ba vạn quan, chỉ thu được sáu nghìn quan mà thôi[15].) Như một sợi lông trong chín con bò, không ảnh hưởng gì, nhưng hai mươi nghìn hộ khốn khổ, tác hại rất lớn. Đây là việc nên làm thứ ba. Việc thúc giục thu tiền buôn bán, dùng bảy mươi người, mỗi người đặt tên riêng không dưới mười người. Quản lý sổ sách và làm văn thư, dùng hơn ba mươi người, mỗi người đặt người viết phụ không dưới năm người, tổng cộng khoảng hơn một nghìn người. Với hơn một nghìn người này, ngày đêm quấy nhiễu hai mươi bảy nghìn hộ nợ. Trong kinh thành, nuôi dưỡng bọn sâu mọt này, bình thản mà không lạ. Đây là việc nên làm thứ tư. Phép buôn bán, những hộ nợ kéo dài lâu ngày, hoặc chưa thấy trả, và những người không có gia nghiệp, đều sai người giám sát, ban đêm giam giữ. Đã có phép này, thì cứ thế mà giam giữ công khai, nhưng lại tốt gian xảo, có tiền thì tha, không tiền thì giam, đánh đập trói buộc, có gì mà không làm? Nếu không có biện pháp khác, thì ngày nào cũng có người chịu khổ này, không biết bao nhiêu mà kể. Đây là việc nên làm thứ năm.

[33] Kính xin Thánh thượng từ bi, lấy năm việc này để so sánh lợi hại, quyết định theo ý Thánh, đặc biệt cho miễn trừ. Hoặc nhân dịp sắc lệnh đại xá minh đường sắp ban hành, hoặc mở rộng thi hành khắp các lộ, thì dân chúng sẽ mang ơn đức, thấm sâu vào xương tủy, lợi ích cho xã tắc không thể kể xiết[16]. Tuy nhiên, thần thấy Thái phủ tự lệnh cuối năm tính toán chi tiết, lấy vốn sinh lãi, nếu trên một phần, phải trình báo rõ ràng các quan viên theo thứ bậc để tâu lên[17]. Từ trước, các quan Thị dịch nhờ đó được thưởng thăng chức và xin tiền thưởng, thu được không kể xiết. Nay thấy Thị dịch đã chi tiêu số thực tế hiện có, chỉ đủ trả lại vốn[18], thì việc lấy vốn sinh lãi đều là lừa dối. Các quan lại trước đây được thăng chức, xin thưởng, đều nên truy thu lại quan tước và tiền thưởng, xin triều đình điều tra những người trước sau nhờ Thị dịch mà thăng chức, xin thưởng, xử lý theo lý. Trong đó có Lữ Gia Vấn, là người khởi xướng Thị dịch, hại dân rất sâu, tuy đã bị giáng chức, nhưng vẫn còn giữ chức vụ dân sự, chưa thoả đáng công luận, xin lại trọng tội lưu đày, để tạ lỗi với thiên hạ. Các tờ trát của Tống Triệu ba đạo, thần Triệt sao chép đầy đủ, trình lên như bên trái.

[34] Thiếp hoàng nói: “Những điều thần nói về việc miễn trừ nợ, liên quan đến ân đức của hai Thánh, chỉ nên xuất chỉ trực tiếp từ trung ương, không nên nêu rõ tên người tâu trình. Nếu cần đến việc ba tỉnh xem xét thi hành, xin chỉ thị cho chấp chính đừng để công bố.”

(Sắc lệnh đại xá minh đường, những người trong và ngoài nước còn nợ Ty Thị dịch, hiện nợ dưới hai trăm quan, đều được đặc biệt miễn trừ. Đó là theo lời thỉnh cầu của Triệt. Cuối tháng 4 năm thứ ba[19], Lý Thường tấu nghị xem xét kỹ hơn.)

[35] Ngày Quý Mùi, Chính nghị đại phu, Thiên Chương các đãi chế trí sĩ Sở Kiến Trung được bãi chức trí sĩ, bổ nhiệm làm Hộ bộ Thị lang. Trung thư xá nhân Tô Thức dâng sớ xin thu hồi mệnh lệnh, tâu rằng: “Thần nghĩ rằng bảy mươi tuổi về hưu là đạo lý chung từ xưa đến nay, không chỉ là để phân định sự tiến thoái của bề tôi, mà còn là để duy trì phong khí lễ nghĩa liêm sỉ trong triều đình. Nếu khởi dụng người đã về hưu, đối đãi họ với chức vụ không theo thứ tự, thì ắt là quốc gia có chính sách đặc biệt, và người đó phải có tài năng xuất chúng, danh tiếng lừng lẫy, khiến trong ngoài đều kính phục. Gần đây khởi dụng Văn Ngạn Bác, thiên hạ đều chú ý, bốn phương đều kính nể. Há lại có kẻ tầm thường mà cũng dám làm việc thịnh đức như vậy? Như Kiến Trung chẳng phải là người như thế. Thần e rằng một khi mệnh lệnh ban ra, ắt sẽ khiến dư luận xôn xao, may mà chưa công bố, có thể thu hồi lại. Vì thế, thần không dám soạn mệnh lệnh này.” Sau đó, Hữu chánh ngôn Chu Quang Đình cũng tấu rằng Kiến Trung là người tài năng tầm thường, đã suy yếu, không thể dùng được. Triều đình bèn hạ chiếu không thi hành mệnh lệnh bổ nhiệm Kiến Trung.

(Lời tâu của Quang Đình, theo chương sớ tháng 8 năm Nguyên Hựu, được chỉ vào ngày mùng 2. Nay ghi chung vào đây.)

[36] Hình bộ Lang trung Đỗ Hoành được bổ làm Hữu ty Lang trung, Phụng nghị lang Đỗ Thuần làm Hình bộ Viên ngoại lang.

(Ngày 14 tháng 8, Chu Quang Đình nói: Thuần nên tạm để ở Hà Bắc.)

[37] Hữu ty gián Tô Triệt tâu rằng: “Khi mệnh lệnh bổ nhiệm Đỗ Hoành ban ra, trong ngoài đều nghi ngờ, vì triều đình dùng người tất phải phân biệt phẩm chất cao thấp. Các quan lang tả hữu ty của Thượng thư tổng đốc công việc của mười hai ty, khi được thăng chức, người cao thì làm tả hữu sử, người thấp thì làm trực các, tu soạn, lĩnh chức đô tào ba lộ, phát vận sứ, không quá một hai năm liền được làm thị tòng, nếu không phải là người có thanh danh chính trực thì không được chọn vào chức này. Xét Đỗ Hoành nhân phẩm tầm thường, không thông kinh thuật, chỉ nhờ học thuộc luật mà tiến thân, từ thời Hi Ninh, Nguyên Phong đến nay làm quan ở Hình bộ, nịnh hót tể tướng Vương An Thạch, Vương Khuê, Thái Xác trở xuống, khéo léo xu nịnh, không ai là không được lòng ông ta. Dù là em ruột của Đỗ Thuần, nhưng Thuần nổi tiếng vì sự ngay thẳng, còn Hoành nổi tiếng vì sự nịnh hót, hai anh em khác lòng, mọi người đều biết. Khi mới biên soạn sách lệnh thời Hi Ninh, Hoành tham gia bàn bạc, những pháp luật hại dân đều qua tay ông ta. Nay lại làm quan tường định, cầm bút sửa đổi, chê cười sách cũ, không chút hổ thẹn, thay đổi tùy thời, đã đến mức này.

Lại cùng với Dương Cấp, Thôi Đài Phù làm việc lâu ngày, những việc công mà Đại Lý tự điều tra báo cáo, liên quan đến quan viên, đều do Hình bộ xử lý. Gần đây triều đình thấy nhiều vụ án oan sai, sai quan xét lại, những vụ được minh oan chiếm đến bảy tám phần mười. Cấp, Đài Phù đã bị tội vì là quan trưởng, còn Hoành là thuộc quan của họ, triều đình tuy không hỏi đến, nhưng việc thăng chức bất thường, sao có thể vội vàng dùng Hoành? Thần e rằng thưởng phạt không đúng, khiến thiên hạ không phục, mà Cấp, Đài Phù cũng có cớ để nói, tổn hại không nhỏ. Có người nói gần đây Hoành tiếp đón sứ Tây, triều đình giao cho ông ta chỉ đạo, để Hoành bàn bạc với sứ Tây, việc xong xuôi, mệnh lệnh bổ nhiệm làm Hữu ty là để thưởng công. Thần cho rằng đây là việc thường của cơ quan, không đáng kể là công lao, huống chi chọn người làm quan, nên lấy phẩm chất làm trọng, nếu lấy chức Hữu ty làm phần thưởng, e rằng không hợp với đạo lý của Khổng Tử không lấy danh khí cho người. Xin hãy thu hồi mệnh lệnh trước, để thỏa lòng công luận.”

(Tô Triệt bàn về Đỗ Hoành vào ngày mùng một tháng 8, nay ghi chung. Ngày mồng 7 tháng 8 lại tấu. Ngày 13 tháng 5 năm thứ 2, Hoành từ Hữu ty lang trung được chọn làm Đại Lý khanh, thì lời tâu của Triệt ban đầu không được nghe theo.)

[38] Bí thư thiếu giám Cố Lâm, chức Trực Long đồ các, làm Chuyển vận sứ Hà Đông lộ.

(Lâm xuất sứ, cần xét lại.)

[39] Đề cử Sùng Phúc cung Hàn Tông Sư được tái nhiệm, xếp theo thứ tự Đề hình, vì Tông Sư tự trình bày cha già, nên theo lời xin của ông.

[40] Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân tâu rằng gần đây bổ nhiệm Trương Công Tường làm Chuyển vận phó sứ Quảng Đông, không nên từ chối vì bệnh. Chiếu cho Công Tường đưa về Lại bộ và bổ nhiệm chức hợp lệ.

(Triều thỉnh đại phu Trương Công Tường tạm quyền Chuyển vận phó sứ Quảng Tây, vào ngày 8 tháng 6.)

[41] Trung thư tỉnh tâu rằng, Tả bộc xạ Tư Mã Quang vì bệnh chân được miễn chức Minh đường đại lễ sứ. Chiếu đổi bổ nhiệm Hữu bộc xạ Lữ Công Trước làm Đại lễ sứ, Môn hạ thị lang Hàn Duy làm Lễ nghi sứ, Trung thư thị lang Trương Tảo làm Nghi trượng sứ, Đồng tri Xu mật viện sự An Đào làm Lỗ bạ sứ, Thượng thư tả thừa Lý Thanh Thần làm Kiều đạo đốn đệ sứ.

[42] Cung bị khố sứ Trương Mậu được cử mang lễ vật sinh thần tặng Hạ quốc chủ, Nội điện sùng ban An Dũ được cử mang tặng quần áo mùa đông, tạm giữ chức Cáp môn chi hậu.

[43] Hộ bộ tâu xin bãi bỏ việc đặt trường bán muối của Thị dịch sở. Được chấp thuận.

[44] Lại tâu rằng: Hiện nay tiền bạc của các tào, tự, giám đều thu về Hộ bộ[20], chỉ có tiền lương của Phủ giới trước đây do Tam ty quản lý, nay về Phủ giới đề điểm ty, chưa được sửa đổi, cũng xin thu về bộ này. Được chấp thuận.

[45] Cơ quan kinh chế tài dụng Hi Hà Lan Hội lộ tâu rằng: “Năm châu, quân của bản lộ đều ở biên giới xa, khó khăn trong việc mua bán, thường bị khách thương ép giá. Xin chiếu cho Trà trường ty không được mua bán thóc gạo ở các châu, quân biên giới, và số tiền 90 vạn quan mà Trà trường ty ứng phó cho Hi Hà lộ, xin cho phép chi trả tại năm châu của bản lộ.” Được chấp thuận.

[46] Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Đặng Ôn Bá tâu: “Học sĩ nếu chỉ có một người, xin miễn trực một đêm trong hai ngày, đợi khi có đủ hai người thì theo lệ cũ.” Được chấp thuận.

[47] Chiếu rằng: “Bảo giáp ở ba lộ thuộc phủ giới, nếu hộ đó bị thiên tai mất mùa từ bảy phần trở lên, đều được miễn tập luyện mùa đông năm đó, tâu lên sau khi hoàn thành.”

(Tô Triệt tâu ngày mồng 9.)

[48] Hình bộ tâu: “Các vụ án hình sự có thể xử hai cách, không cần tham khảo ý kiến, chỉ cần đơn trạng, lập thành lệnh.” Được chấp thuận.

[49] Ngày Giáp Thân, chiếu rằng: “Sinh viên thượng xá của Vũ học, nếu đã bổ nhiệm được một năm, trong hai kỳ thi công về cung mã và sách nghĩa đều đạt loại ưu, chưa từng phạm năm mức phạt, cho bảo đảm tâu lên, tùy tài mà bổ dụng. Mỗi năm không quá một người, giao cho xem xét pháp chế của Quốc tử giám và Thái phủ.”

[50] Chiếu rằng: “Sa Uyển giám chuyển về quản lý của Hữu sương đề điểm ty.”

(Ngày 29 tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ nhất.)

[51] Thái bộc tự tâu: “Sa Uyển giám trước thuộc Hà Nam giám mục ty, sau khi bãi bỏ giám, chuyển về Quần mục ty, rồi lại chuyển về Quần mục hành ty. Hành ty sau đổi thành Đề cử giám mục ty, nay theo chiếu chỉ, chuyển về Hữu sương đề điểm ty, nên Mãi mã giám mục ty không quản lý nữa. Tên Đề cử Thiểm Tây đẳng lộ mãi mã giám mục ty nên bỏ hai chữ ‘giám mục’.” Được chấp thuận.

(Mật tráp ngày 16 tháng 2 năm Pháp Sách thứ hai, việc này có lẽ không cần ghi chép.)

[52] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần thấy Hoài Nam mùa xuân và hạ bị hạn lớn, dân chúng thiếu lương thực, phải bỏ xứ đi tha phương, triều đình thương xót nạn đói kém, đã phát kho thường bình và nghĩa thương, cùng cắt giữ số gạo cung cấp cho triều đình để cứu giúp dân. Dân Hoài Nam nhờ ơn lớn của triều đình, không đến nỗi chết đói. Nhưng từ tháng sáu mưa lớn, nước sông Hoài tràn ngập, ba châu Tứ, Túc, Bạc bị lụt lớn, ruộng mùa hạ đã không thu hoạch được, ruộng mùa thu cũng bị cuốn trôi hết, trông chờ vào vụ lúa mùa hạ năm sau thì còn xa, không kịp nối tiếp, rất đáng lo ngại. Nghe nói hiện nay quan phủ bán gạo vẫn chưa hết, nhưng chắc chắn không thể duy trì lâu dài. Thần xin triều đình trong lúc chưa đến mức tuyệt lương, nhanh chóng hỏi han Ty chuyển vận của bản lộ, bảo họ trình bày thứ tự mức độ thiệt hại của các châu, hiện nay mỗi châu còn bao nhiêu lương thực, có thể cứu tế được bao nhiêu tháng ngày, nếu tương lai thiếu hụt, nên làm thế nào để xử lý, lập thời hạn báo cáo. Mong triều đình có thể chuẩn bị trước, dân chúng không đến nỗi mất chỗ nương thân.”

[53] Tháng đó, Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu:

[54] Thần nghe rằng, dây cương không điều hòa, dù là Tạo Phụ cũng không thể cưỡi ngựa giỏi; pháp lệnh không thống nhất, dù có tài cũng không thể trị nước tốt[21]. Vì thế nói: “Hãy thận trọng khi ban bố mệnh lệnh.” Đó là nói về sự thận trọng từ đầu. Lại nói: “Mệnh lệnh ban ra thì phải thi hành, không được phản lại lời nói.” Đó là thận trọng đến cuối cùng. Thánh nhân đặt ra pháp lệnh ở nơi cao quý, suy đi nghĩ lại lo lắng như không thể không làm, nên khi ban ra thì thiên hạ tin tưởng. Dùng mệnh lệnh thì thi hành, dùng cấm lệnh thì dừng lại, đó gọi là tin như bốn mùa, vững như vàng đá. Nếu ban đầu không thận trọng, đã ban ra rồi lại phản lại, thì làm sao thể hiện được sự tin tưởng? Ban ra mà không phản lại, thì sẽ có người chịu hậu quả. Từ đó mà nói, ban đầu đã không thận trọng, dù muốn thận trọng đến cuối cùng cũng không thể được. Kính nghĩ Bệ hạ lên ngôi đã hơn một năm, ban ân huệ khắp thiên hạ, sửa sang chính sự, chủ yếu là để thuận tiện cho dân, thiên hạ rất may mắn. Nhưng mấy tháng gần đây, pháp lệnh thiếu sự tin tưởng, người bàn luận đều có chút nghi ngờ. Pháp lệnh không phải là không tốt, nhưng khi thi hành lại khiến người bàn luận sinh nghi, điều này cũng không thể không xem xét. Thần xin liệt kê một hai điều, để thấy được phần còn lại.

[55] Trước đây, triều đình lo ngại về tệ nạn của chế độ miễn dịch, đã ban chiếu cải cách, khôi phục lại chế độ sai dịch, thiên hạ biết việc này đã lâu; lập cục, đặt quan để bàn bạc về thứ tự thi hành, thiên hạ mong đợi việc này cũng đã lâu; việc tạo ra pháp chế không cẩn thận ngay từ đầu, thi hành một cách vội vàng, nên đổi thành chế độ thuê mướn, lại đặt ra chế độ chiêu mộ, nhưng pháp chế đến nay vẫn chưa thể hoàn thiện. Triều đình lo ngại về tệ nạn của chế độ thường bình, áp dụng lại chế độ cũ, chưa được bao lâu, lại đổi thành chế độ thanh miêu, sau đó lại ban chiếu trách cứ nặng nề những quan viên đầu tiên đề xuất, nhưng việc thu mua và phân phối vẫn được thực hiện như cũ. Hai việc này đều là việc lớn.

Bốn phương đều lắng nghe, chăm chú theo dõi để xem những hành động đức lớn của triều đình, nhưng lại thay đổi liên tục, ngay cả những quan viên gần gũi, tham gia bàn luận cũng không dám chắc pháp chế sẽ đi theo hướng nào, thì làm sao khiến thiên hạ tin tưởng được! Lệnh cấm đồng ở Thiểm Tây chưa thực hiện được bao lâu, lại hạn chế chỉ cấm trên năm cân, một khi mở ra lỗ hổng, thì nặng nhẹ nhiều ít, ai còn có thể phân biệt được? Quan phủ vốn không thể đến từng nhà để kiểm đếm, cấm mà không thể ngăn chặn được, thì cũng như không cấm. Việc sông lớn, nếu Khu mật viện Hà Bắc nói thì thuộc về Khu mật viện, nếu Đô Thủy nói thì thuộc về Đô Thủy, hai bên ắt có một bên đúng, thì cũng ắt có một bên sai. Đây là việc nhỏ, nhưng suy rộng ra, thì những lời bàn luận của các quan, sao có thể không xem xét kỹ? Huống chi, nếu việc thay đổi, sửa đổi là đúng, thì người quân tử còn cho là trái lệnh, huống chi thay đổi mà chưa chắc đã đúng, chỉ làm lộ ra những sai lầm trước thiên hạ, thì sao bằng cẩn thận ngay từ đầu?

Nay triều đình lập ra một việc, bổ nhiệm một chức quan, mệnh lệnh đã ban ra rồi, các quan bàn luận ắt nói: “Việc này chưa ổn, sẽ còn thay đổi.” Chưa được bao lâu, lời bàn luận của các quan quả nhiên ứng nghiệm. Thần ngu muội không hiểu, triều đình biết việc đó không thể làm mà vẫn tạm làm để chờ thay đổi chăng? Hay không biết mà vô tình làm vậy chăng? Khi bàn luận ban đầu đã sơ sài, thi hành ắt sẽ có mâu thuẫn, những quan viên có trách nhiệm bổ khuyết sai sót, lấy việc can gián làm chức trách, biết mà không nói là bỏ bê chức trách, nói rồi lại thay đổi là trái lệnh. Vì vậy, thần mong bệ hạ hãy ban chiếu sâu sắc cho các đại thần chấp chính, suy nghĩ xa, tính toán kỹ, cân nhắc thận trọng khi ban bố mệnh lệnh. Nếu ngay từ đầu đã cẩn thận, xem xét kỹ có thể thực hiện được rồi mới thi hành, thì đến cuối cùng, sẽ không thể thay đổi được nữa. Mong bệ hạ hãy chú ý lưu tâm, suy nghĩ kỹ, đừng xem nhẹ, trên là để nghiêm minh chính lệnh, dưới là để tỏ rõ sự tín nhiệm với bốn phương, lại để ngăn chặn những ý kiến khác, khiến họ không thể vin vào sai sót mà làm loạn. Việc trị nước hiện nay, nên coi đây là việc cần làm trước tiên.

(Tấu chương của Lý Chí không rõ thời điểm, xét việc Lữ Huệ Khanh là người đầu tiên đề xuất chế độ thanh miêu, bị an trí vào ngày 25 tháng 6, tấu chương này hẳn là sau khi Huệ Khanh bị an trí. Lại xét việc Lý Chí nói đến lệnh cấm đồng, việc sông lớn, lệnh cấm đồng ban ra trước đó vào ngày 18 tháng 4, sau đó không thấy ghi chép. Việc sông lớn giao cho Khu mật viện là vào ngày 8 tháng 5, sau đó lại giao về Đô Thủy thì không thấy ghi chép. Tấu chương của Lý Chí nói rằng bệ hạ lên ngôi đã hơn một năm, có lẽ là vào khoảng tháng 4, tháng 5, nhưng e rằng hơi sớm, tạm phụ chép vào cuối tháng 7, đợi sau này khảo cứu kỹ hơn.)

[56] Điện trung thị ngự sử Lã Đào tâu:

(Lã Đào tâu về việc cải cách pháp lệnh dịch, đến nay đã nửa năm, từ tháng hai đến tháng bảy, tính cả tháng nhuận là nửa năm. Ghi chép thêm vào cuối tháng bảy.)

[57] Thần thấy từ khi triều đình cải cách pháp dịch đến nay, đã được nửa năm, dân gian đã quen việc, người bị sai phái không có tranh chấp, phần lớn đều là chính thân, xét theo tình hình, thực sự thấy thuận tiện. Chỉ có các quan lại tự nghi ngờ lẫn nhau, có kẻ mong pháp dịch không thành để thỏa chí mình, có kẻ ngó nghiêng đợi thời, chờ xem thế lực ở đâu mà không xét đến lợi hại, có kẻ thiên lệch không thông suốt mà thích lập dị kỳ, châu huyện không dám quyết định, phải xin ý kiến của cơ quan tường định, cơ quan tường định lại chờ xin ý kiến của giám ty rồi mới quyết định[22]. Tấu chương dâng lên nhiều lần, phần lớn không đúng trọng điểm, mệnh lệnh ban xuống nhiều lần, nhưng rất ít được tuân theo.

Thần nghĩ rằng pháp dịch của triều đình, trách nhiệm là thu sức dân chứ không thu tiền, muốn công bằng chứ không để kẻ may mắn, điều khoản dù biến đổi vạn lần, đại khái cũng không ngoài hai điểm này. Dù triều đình cho thời hạn rộng rãi để thiên hạ xem xét kỹ lợi hại, nhưng quan lại tại chức thấy không giống nhau, có kẻ muốn đơn đinh, nữ hộ, quan hộ, tự quan xuất tiền để giúp chi phí cho người đi dịch, có kẻ muốn bỏ hộ trưởng, chỉ sai giáp đầu thúc thuế, có kẻ muốn giữ lại tán tòng quan, vẫn thuê mướn như cũ, trên dưới rối ren, biết bao giờ mới xong? Riêng Thiểm Tây một lộ, vẫn chưa ổn định, vì Lữ Đại Trung đã có ý kiến như vậy truyền xuống châu huyện, thuộc quan nhân đó mà bàn luận khác nhau. Hơn nữa, nữ hộ, quan hộ không được xuất tiền, và bỏ giáp đầu, sai hộ trưởng, đã có lệnh rõ ràng. Ngoại trừ chiêu mộ nha tiền và những người đã đăng ký từ lâu, còn lại đều phải theo pháp dịch đến ngày, ngừng cấp tiền thuê. Dù giám ty có xin ý kiến, nhưng chưa được chấp thuận, mà châu huyện đã có chiếu chỉ, tự nhiên phải tuân theo. Sao có thể vừa sai hộ trưởng, lại đặt giáp đầu, còn giữ tán tòng quan, vẫn cấp tiền thuê? Những kẻ vô trách nhiệm, vi phạm như vậy. Thần sợ ngày tháng trôi qua, đại pháp chưa định, dân chúng nghi ngờ, sẽ gây tổn hại lớn đến thể chế trị nước. Kính mong Thánh từ đặc biệt ban chỉ thị, từ ngày tháng nào đó trở đi, người đi dịch ngoại trừ nha tiền được chiêu mộ, và chức cấp sứ viện, tiết cấp cung thủ được giữ lại tào ty, khố tử, lan đầu để sung vào danh sách đăng ký, còn lại nếu ai dám cấp tiền thuê, đều bị xử tội vi phạm điều lệ, để thiên hạ thấy ý chí quyết tâm thực hiện, mong rằng pháp dịch sớm hoàn thành, không để tiểu nhân may mắn vì nó không thành. Lại tâu:

[58] Thần nghe nói rằng các quan tán tòng ở phủ Phượng Tường, tháng 5 phân phát tiền thuê mướn, nhưng vốn chưa được chi trả, và huyện Bảo Kê đã theo chỉ dụ triều đình cử hộ trưởng xong, lại theo chỉ huy của chuyển vận ty, sai giáp đầu thúc thuế, rõ ràng là vi pháp gây nhiễu. Kính xin hạ lệnh cho đề hình ty điều tra kỹ lưỡng, nếu thực có việc này, xin xem xét kỹ rồi thi hành. Gần đây triều đình lấy thanh miêu làm điều lệ thường bình, có chỉ huy thu lợi tức, mọi người đều cho rằng vẫn theo lệ cũ phát thanh miêu để thu lợi. Nay pháp dịch chậm chạp chưa định, trên dưới bàn luận khác nhau, mọi người đều nghi ngờ vẫn theo lệ cũ thu tiền để mộ dịch. Hai việc này là cấp thiết nhất, mà mệnh lệnh như vậy, trong tình thế hiện nay, không phải là sai lầm nhỏ, Bệ hạ không thể không lưu ý, chấp chính không thể không quyết định.

[59] Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân tâu:

[60] Thần trộm thấy từ khi bệ hạ lên ngôi đến nay, chăm lo tu sửa chính sự, hưng lợi bỏ hại, đại khái đã làm được, chỉ có phép sai dịch hiện đang xem xét định đoạt, vẫn chưa hoàn thành. Thần nghĩ rằng trong các chính sự hiện nay, việc bao quát rộng nhất và hệ trọng nhất không gì bằng sai dịch. Hơn nữa, tình hình nhân tình bốn phương, nặng nhẹ khác nhau, càng cần phải xem xét kỹ lưỡng, định ra điều luật cho từng địa phương, để dân lực được nhẹ nhàng, có thể duy trì lâu dài mà không sinh tệ.

Thần trộm thấy trước đây các điều ước do Cục Sai dịch đặt ra, ban hành xuống châu, quận, trước sau không thống nhất, khiến quan lại các quận huyện hoang mang, không biết tuân theo thế nào, nguyên nhân là do lúc đó xem xét chưa kỹ, thi hành quá vội vàng. Huống chi việc sai dịch bao quát rộng nhất, hệ trọng nhất, mà quan lại Cục Sai dịch thường chỉ đợi văn bản từ các lộ gửi đủ, liền lập tức định đoạt; còn các Ty Chuyển vận ở các lộ phần nhiều không chịu dốc lòng thân hành tìm hiểu tình hình châu, huyện, thậm chí có người còn phái người đến kinh đô dò xét ý chỉ của quan lại Cục Sai dịch, thần e rằng những sách vở về sai dịch dâng lên không thể bao quát hết lợi hại trong dân gian.

Chỉ như các thuộc quan được Cục Sai dịch tuyển dụng trước đây, vốn được chọn vì tài năng, ắt phải hiểu sâu về việc sai dịch, lẽ ra phải đợi sách sai dịch hoàn thành, mới nên bổ nhiệm đi nơi khác; như thuộc quan Trương Thục đến Cục chưa được mấy tháng, đã được bổ làm Phán quan Kinh Đông Chuyển vận, thần e rằng quan lại Cục Sai dịch chỉ mượn việc này làm bước đệm để thăng tiến, không chịu nghiên cứu kỹ lợi hại, hoàn thành phép tắc lâu dài, không xứng với ý bệ hạ thương dân.

Thần nghe nói cách trị thiên hạ là ở chỗ được lòng dân, mà điều dân coi trọng là của cải và sức lực, của cải sức lực dư dả thì no đủ, mà biết ơn ân huệ của bề trên, của cải sức lực thiếu thốn thì nghèo khó, mà sinh lòng oán hận. Nay sai dịch thực là nơi tập trung của cải sức lực trong thiên hạ, là chỗ dồn tụ ân oán của lòng dân, đặt ra phép tắc không thể không thận trọng. Triều đình trước đây bỏ tiền dịch mà khôi phục sai dịch, là vì thấy phép cũ không tiện. Vậy nên nay đặt ra phép tắc, càng phải xem xét kỹ lưỡng, để dân gian bỏ ra của cải sức lực nhẹ nhàng hơn trước, khiến dân trong thiên hạ cày ruộng đào giếng, sống yên ổn no đủ, ngưỡng mộ ân đức của bệ hạ, thực là cái lợi vô cùng cho muôn đời, đâu chỉ là tiện lợi nhất thời!

Thần nghe nói năm Hi Ninh, Vương An Thạch nắm quyền, lúc bàn luận pháp lệnh, không chịu xem xét kỹ lợi hại, chỉ cốt cho nhanh, tự cho mình là đúng, quan lại ai có ý kiến khác, liền chỉ trích là cản trở phá hoại. Phép mới thi hành mới được hai mươi năm, dân gian đã thấy là bất tiện, bệ hạ lên ngôi, bãi bỏ phép cũ, đã được tám chín phần. Thần cho rằng đặt ra phép tắc cho thiên hạ, phải thuận theo lòng dân, mà thuận theo lòng dân thì phải thu thập ý kiến trong thiên hạ, rồi mới có thể hiểu rõ lợi hại, không bị thiên lệch che lấp. Thần xin đợi khi sách sai dịch hoàn thành, tạm gửi cho các quan Thị tòng, Thượng thư Thị lang và các quan Đài gián trở lên, mỗi người trong một tháng xem xét kỹ, nếu có ý kiến khác nhau, liền trình bày đầu đuôi lên Đô tỉnh, Tam tỉnh tham định xem được hay không rồi tâu lên, sau đó mới ban hành, để có thể xem xét hết lợi hại, có thể thi hành lâu dài. Nếu chỉ căn cứ vào việc quan lại Cục Sai dịch định đoạt, liền ban hành xuống, thần e rằng xem xét chưa hết, khó lòng duy trì lâu dài. Sau khi pháp lệnh ban hành, tuy cho phép quan lại trong ngoài dần dần trình bày ý kiến, nhưng lại lo sửa đổi lộn xộn[23], thời gian chưa thể vội định, không phải là cách coi trọng pháp lệnh triều đình. Việc hệ trọng như vậy, thực là việc cấp bách hiện nay, mong bệ hạ vì thiên hạ, lưu tâm xem xét.

(Trương Thục được bổ làm Phán quan Kinh Đông Chuyển vận vào tháng bảy ngày Mậu Thìn. Nhân đó ghi chép việc này vào cuối tháng.)


  1. Nay muốn ứng dụng các điều lệ cũ của Thượng thư tỉnh, chữ 'tỉnh' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản, 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 54, tấu của Thượng Quan Quân xin phân loại việc của Thượng thư tỉnh theo mức độ quan trọng, việc nào thuộc Thượng thư, việc nào thuộc hai Thừa, việc nào thuộc Bộc xạ, tiến trình bạch tráp tử bổ.
  2. Tô Triệt tấu luận ngày 17 tháng 8, '17 ngày', các bản ghi là '11 ngày'.
  3. Nay Hộ bộ xin thu các sổ sách trong thiên hạ, chữ 'sở' nguyên bản thiếu, theo bản khác và 《Loan Thành tập》 quyển 39, 《Luận Hộ bộ khất thu chư lộ trướng trạng》 bổ sung.
  4. 'Thu thập nhiều ý kiến' trong 《Loan Thành tập》 quyển 38, bài 'Tái luận thanh miêu trạng' chép là 'luận'.
  5. 'Cung cấp lương thực' trong sách trên chép là 'lẫm'.
  6. 'Chưa từng thiếu hụt' nguyên bản chép là 'thiếu', theo bản các các và sách trên sửa lại.
  7. xin đổi mới trả cũ, sách 《Loan Thành tập》 quyển 38, bài 'Khất phóng thị dịch khiếm tiền trạng' không có chữ 'Cải'.
  8. tổng cộng một nghìn hai trăm hai mươi sáu vạn quan, sách trên ghi là 'tổng cộng một nghìn hai trăm sáu mươi bảy vạn quan'.
  9. hiện nay các trường vụ còn lại 'nay' nguyên là 'lệnh', theo sách trên và ý nghĩa văn bản sửa.
  10. nếu tha cho những hộ nợ dưới ba trăm quan 'ba trăm quan', sách trên ghi là 'hai trăm quan', theo văn cảnh thì 'hai trăm quan' là đúng.
  11. nợ tổng cộng tám mươi ba vạn quan, sách trên ghi là 'tám mươi hai vạn quan'.
  12. tổng cộng tha cho hai mươi lăm nghìn ba trăm năm mươi lăm hộ, sách trên ghi là 'hai mươi lăm nghìn ba trăm năm mươi ba hộ'.
  13. mà nhà nước mỗi năm được mất sáu nghìn quan 'được mất', sách trên ghi là 'được tiền'.
  14. trong tổng số nợ hiện tại chỉ chiếm một phần chín, sách trên ghi là 'trong tổng số nợ hiện tại chỉ chiếm hai phần mười'.
  15. chỉ thu được sáu nghìn quan mà thôi 'sáu nghìn quan' nguyên là 'sáu mươi quan', theo bản các và sách trên sửa.
  16. Không thể kể xiết, chữ 'thắng' nguyên là 'thâm', căn cứ theo sách trên và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 110, phần Thị dịch vụ sửa lại
  17. Trình báo rõ ràng các quan viên theo thứ bậc để tâu lên, chữ 'cụ' nguyên là 'kỳ', căn cứ theo sách trên sửa lại
  18. Chỉ đủ trả lại vốn, sách trên đều có chữ 'cận' trước chữ 'năng'
  19. Cuối tháng 4 năm thứ ba, 'năm thứ ba', 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 dẫn trên ghi là 'năm thứ hai'.
  20. 'Tào' nguyên là 'lộ', theo các bản và tham khảo 《Tống sử》 quyển 163, Chức quan chí, Hộ bộ điều, sửa lại.
  21. dù có tài cũng không thể trị nước tốt, chữ 'tài' trong các bản khác ghi là 'Ngu', nghĩa tốt hơn
  22. cơ quan tường định chờ xin ý kiến của giám ty rồi mới quyết định, chữ 'chính' nguyên là 'chỉ', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại.
  23. lại lo sửa đổi lộn xộn 'lo' nguyên là 'phục', theo các bản sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.