VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 384: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)
Từ ngày Đinh Hợi tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết ngày Tân Mão cùng tháng.
[1] Tháng 8, ngày Đinh Hợi, Hình bộ tâu: Bảo Văn các Đãi chế Chương Hoành, tri phủ Chân Định, vì phạm tội bị cách chức, theo pháp luật nên xét lại. Chiếu chỉ rằng hãy đợi thêm hai kỳ nữa rồi mới xin chỉ dụ.
[2] Lại bộ Thượng thư Tôn Vĩnh tâu: “Cố Thiên Chương các Đãi chế Chu Mạnh Dương từng phụng sự ở phủ đệ của Vua Anh Tông, đến đời Vua Thần Tông từng giữ chức Thị tòng, mất tại kinh sư, nghèo không thể đưa thi hài về quê an táng. Con trai là Chu Định Dân đỗ tiến sĩ, nhưng chưa được bổ nhiệm chức vụ kịp thời.” Chiếu chỉ cho dùng thuyền đưa thi hài về Dương Châu, lệnh cho bản châu tùy việc mà chu cấp. Lại lệnh Lại bộ trước hết xét bổ nhiệm Chu Định Dân vào chức vụ thích hợp tại bản châu.
[3] Chiếu chỉ rằng từ nay về sau, quan người phiên không được nhận chức vụ của quan người Hán.
[4] Trước đó, Phạm Tử Lượng, Đề hình lộ Hà Đông kiêm quyền Quản câu Kinh lược ty Công sự, tâu: “Triều đình đặt ra chức quan người phiên, nhất định phải ở những nơi trọng yếu biên giới, ban cho ruộng đất để họ tự lo liệu. Dù quan chức cao, nhưng khi gặp quan người Hán vẫn phải hành lễ cung kính, chức vụ chỉ là Tuần kiểm trong bộ mình. Khi bình thường, họ khuất phục, nên lúc cấp bách dễ sai khiến. Gần đây, có quan người phiên được đổi sang chức quan người Hán, nhậm chức ở vùng nội địa hoặc gần biên giới, thậm chí được thăng làm Phó tướng, gặp quan người Hán thì hành lễ ngang hàng, điều này không hợp lễ nghi.” Vì thế mới có chiếu chỉ này.
(Trước đó Phạm Thuần Túy đã có tấu trình, cần xét lại.)
[5] Tư Mã Quang dâng trát tử:
[6] Khảo xét phép thường bình thương[1], vì năm được mùa, lúa rẻ làm hại nông dân, nên nhà nước so với giá chợ tăng thêm tiền mua lúa, khiến những nhà tích trữ không thể ngăn cản nông dân phải bán rẻ. Năm mất mùa, lúa đắt làm hại dân, nên nhà nước so với giá chợ giảm giá bán lúa, khiến những nhà tích trữ không thể ép người nghèo phải mua đắt. Giá cả luôn ổn định, lợi cả công lẫn tư, đó là phép tốt của ba đời xưa.
Trước đây, có nơi vì châu huyện thiếu tiền mua lúa thường bình, dù gặp năm được mùa cũng không có tiền mua. Lại có quan lại lười biếng, chán việc mua bán lúa, dù gặp năm được mùa cũng không chịu mua. Lại có quan lại không biết giá thực tế của lúa ở chợ, chỉ tin theo những người buôn và nhà tích trữ thông đồng làm bậy. Khi mới thu hoạch, nông dân cần tiền gấp phải bán lúa, họ cố ý hạ giá, khiến nhà nước không mua được, lúa đều vào tay nhà tích trữ. Đến khi quá thời vụ, kho đầy, họ mới tăng giá, bán cho nhà nước. Vì vậy, nông dân bán lúa chỉ được giá rẻ, nhà nước mua lúa thường phải trả giá cao, lợi lớn đều về tay nhà tích trữ.
Lại có quan lại dù muốn kịp thời mua lúa, nhưng huyện báo lên châu, châu báo lên đề điểm hình ngục, đề điểm hình ngục báo lên Tư Nông Tự chờ chỉ thị, đợi đến khi có hồi âm, thường mất nhiều tháng, đã lỡ thời vụ, giá lúa tăng gấp đôi. Do đó, lúa trong kho thường bình thương của châu huyện có khi để qua nhiều năm, giá ở chợ không bằng giá mua ban đầu, không bán được, chất đống hư hỏng, đó là vì người làm hỏng phép, chứ không phải phép không tốt. Đầu thời Hi Ninh, chấp chính cho rằng phép thường bình thương cũ không tốt, bèn lấy tiền mua lúa làm tiền thanh miêu phát cho dân, bắt họ trả lãi hai phần, đặt quan đề cử để đốc thúc. Năm được mùa, nông dân bán lúa chỉ được bốn năm phần giá, năm mất mùa thì giết trâu bán thịt, chặt dâu bán củi để nộp tiền cho nhà nước. Tiền tệ càng nặng, giá lúa càng rẻ. Triều đình biết rõ tệ hại đó, nên bãi bỏ quan đề cử, lệnh đem hết tiền lúa tích trữ nhiều năm làm tiền của kho thường bình thương, giao cho đề điểm hình ngục quản lý, thi hành theo phép thường bình thương cũ.
Năm nay, các lộ trừ những châu quân bị lụt, còn lại nhiều nơi được mùa, nay muốn đặc cách ban chỉ thị xuống các lộ đề điểm hình ngục ty, nhân lúc có tiền mua lúa, giao cho quan lại các châu huyện được mùa xem xét giá thực tế của lúa ở chợ, tăng thêm tiền, mua rộng rãi. Nơi nào thiếu kho, dùng tiền kho thường bình thương xây thêm, lại lệnh mua ít lúa mạch, đậu, mua nhiều lúa gạo. Những nơi phương nam và vùng thấp ẩm ở Xuyên giới, lúa khó để lâu, thì giao cho đề điểm hình ngục xem xét số lượng cần dùng của từng châu huyện, hạ lệnh mua, đợi khi giá hàng hóa ở chợ tăng hơn giá mua ban đầu một chút thì bán ra, không để tích đọng hư hỏng. Lại lệnh các châu huyện bắt những người buôn so sánh giá lúa ở chợ trong mười năm qua, định ra giá trung bình giữa đắt và rẻ, rồi chia giá các loại thành ba bậc. Từ mấy tiền đến mấy tiền là giá bậc trung, mấy tiền trở lên là giá bậc trên, mấy tiền trở xuống là giá bậc dưới, lệnh các nơi tùy lúc cân nhắc tăng giảm, sao cho hợp lý. Đã định ra ba bậc giá[2], từ nay về sau, các châu huyện mỗi khi gặp năm được mùa, giá lúa rẻ đến bậc dưới, thì so với giá chợ, tăng thêm tiền, mở trường mua. Năm mất mùa, giá lúa đắt đến bậc trên, thì so với giá chợ, giảm giá, mở trường bán. Nếu giá ở chợ chỉ ở mức bậc trung, thì không mua bán. Không cần báo lên châu và cấp trên xin chỉ thị, tránh tình trạng chậm trễ lỡ thời, lại giao cho đề điểm hình ngục thường xuyên đốc thúc giám sát[3].
Nếu các châu huyện khi giá thóc gạo ở mức thấp mà không thu mua, giá ở mức cao mà không bán ra, hoặc thu trữ không đúng phép, chuyển đổi không kịp thời, dẫn đến hư hỏng, cùng với việc quan giám sát không vào trường hàng ngày, khiến việc mua bán của dân bị ách tắc, đều sẽ bị điều tra xử lý. Nếu quan chức trưởng lại các châu huyện và quan giám sát biết chú tâm kịp thời mua bán, đến khi thay thế, so sánh giá tiền và thóc gạo ở mức trung bình, so với lúc mới nhậm chức tăng thêm từ một phần mười trở lên, sẽ được ghi vào sổ lịch, khi đến Lại bộ sẽ được thăng thêm nửa năm thứ bậc. Nếu tăng thêm từ hai phần mười trở lên, sẽ được chỉ định một lần sai phái về gần nhà. Nhờ đó, quan lại đều chú tâm, các châu huyện đều có dự trữ, dù gặp nạn đói, dân chúng cũng không đến nỗi đói khổ. Lại có thể đưa tiền tích trữ trong quan phủ phân tán dần trong dân gian, khiến hàng hóa lưu thông. Các châu huyện ở Hà Bắc có thóc gạo của ty mua bán tiện lợi, thấy nhiều ở các châu huyện ven biên giới, nơi ty chuyển vận đang mua lương thực quân đội thì không mua thêm thóc gạo của kho thường bình. Nếu trong chỉ thị lần này có việc chưa đầy đủ hoặc chưa tiện, giao cho ty đề điểm hình ngục tùy thời bàn bạc, tâu lên thi hành. Được chấp thuận.
[7] Sau đó, Vương Nham Tẩu tâu: “Thần trộm thấy chiếu chỉ ban ra gần đây, tuy văn từ chi tiết nhưng chưa thông suốt, người từ bốn phương đến đều nói rằng chưa tiện. Thần xét theo phép thường bình cũ, hễ gặp năm được mùa, vật giá rẻ, liền thêm tiền vào giá thị trường để thu mua. Nếu năm mất mùa, vật giá đắt, liền xem xét giá thực tế trên thị trường mà giảm tiền để bán ra, đó là ý nghĩa của thường bình. Nay đã hạn định rằng giá rẻ đến mức hạ đẳng mới cho phép thu mua, giá đắt đến mức thượng đẳng mới được bán ra, tức là phải đợi đến khi mất mùa hoặc được mùa đến mức cực điểm mới thi hành phép, nếu chưa đạt mức đó, quan phủ sẽ bám vào văn bản, khoanh tay ngồi nhìn mà không dám mua bán. Thần e rằng lâu dần, thiên hạ sẽ thiếu biện pháp cứu tế, nỗi lo tổn hại nông nghiệp sẽ sâu sắc, ý nghĩa ban đầu của thường bình sẽ càng xa rời. Thần xin theo phép cũ, không chia thành ba bậc, ngoài ra không cần xin chỉ đạo từ châu và cấp trên, các quy định mới trong chiếu chỉ xin được tu chỉnh và ban hành lại.”
[8] Tờ thiếp hoàng viết: “Triều đình gần đây cử quan đến Hoài Nam cứu tế, đã ban chỉ đạo, tuy giá trong mười năm hoặc so với giá thường bình hơi cao, cũng tạm thu mua, điều này cho thấy phép chia ba bậc chưa tiện. Thêm nữa, nghe nói các châu huyện ở các lộ từ khi nhận chỉ đạo thường không dám thi hành, mong xem xét kỹ, ban chỉ đạo nhanh chóng.”
(Vương Nham Tẩu tâu luận không rõ thời gian, ghi chép kèm theo, đợi tra cứu. Việc cử quan đến Hoài Nam cứu tế, có thể tra thời gian. Ngày 29 tháng 7, Tô Triệt bàn về thiên tai ở Hoài Nam, ngày 28 tháng 11 và ngày 18 tháng 12, Nham Tẩu lại bàn về việc chỉ cho vay lương thực khi thiên tai đạt trên bảy phần[4], việc miễn lãi cho hạng tứ đẳng trở xuống là không đúng.)
[9] Hộ bộ Thượng thư Lý Thường dâng lời tâu: “Thần thấy hiện nay tiền tích lũy từ chính sách thường bình, phường trường, miễn dịch cộng lại hơn năm nghìn vạn quan, phân tán ở các châu huyện trong thiên hạ, tiền bạc mục nát mà không được sử dụng, lợi ích không đến được với dân chúng. Thần nghĩ rằng tiền tệ lưu thông mới có thể giúp ích cho dân, người dân làm ăn thường khổ vì tiền nặng. Khi mùa hạ tằm kết kén xong, mùa thu thu hoạch lúa mới bắt đầu, tơ lụa, gạo thóc đầy chợ, nhưng các thương nhân ngồi bán và nhà giàu khéo léo mua với giá rẻ[5], không đủ bù đắp cho sự vất vả cả năm của họ, vẫn không tránh khỏi cảnh đói rét, thật đáng thương. Thần ngu muội xin đề nghị cho các cơ quan hữu trách bàn bạc và thiết lập ở mỗi châu huyện một cơ quan bình địch, cử người có năng lực đứng đầu. (Ở huyện, xin cho chủ bạ kiêm quản.) Theo phép bình địch thời xưa, vào lúc tằm kết kén mùa hạ và thu hoạch mùa thu, khi giá rẻ thì tăng thêm vài phần để thu mua, khi giá cao thì giảm vài phần để bán ra. Chỉ cần không lỗ vốn, không cầu lợi nhuận, không cần thưởng công, chỉ lấy việc làm lợi cho dân làm nông làm tằm làm mục đích, mong rằng tiền tệ lưu thông, bốn biển được hưởng phúc, đó là nhân chính của thời Tam Đại vậy.”
[10] Tờ thiếp hoàng viết: “Điều thần nói hôm nay, tuy tên gọi giống với việc thiết lập cơ quan thường bình trước đây nhưng thực chất khác. Phép bình địch thời xưa là để làm lợi cho nông tang, giúp đỡ người nghèo yếu. Bởi vì chí hướng là thương dân và làm lợi cho người[6], nên là phép tốt; nếu chí hướng là thu tiền và hại người, thì là chính sách xấu. Nay tích lũy tiền đến năm nghìn vạn quan, mà ngồi nhìn nông dân và phụ nữ bán lúa gạo, tơ lụa với giá rẻ mà vẫn không tránh khỏi đói rét, đó chẳng phải là đạo nhân vậy.”
[11] Lại viết: “Khi mua vào, dù có tăng thêm vài phần, giá vẫn rẻ. Khi bán ra, dù có giảm vài phần, giá vẫn cao. Như vậy, chỉ cần thiết lập một chức quan, vài viên lại, lấy phần lợi nhuận dư ra đủ để chi dùng, mà không hao tổn kinh phí của triều đình. Lại có thể tăng thêm hàng trăm chức vụ ở Lại bộ, nhờ đó giải quyết được tình trạng ứ đọng và nhân viên dư thừa.”
[12] Lại nói: “Nay ngoài số tiền hiện có, còn có hơn hai nghìn tám trăm vạn thạch, tấm lụa, v.v., nếu triều đình chưa muốn chi hết số tiền hiện có, hãy lấy một nghìn vạn quan cùng với số lúa và lụa này để lập ty, cũng có thể thi hành được.” Không được trả lời.
(Lý Thường xin lập ty bình địch, căn cứ theo bản tập, phụ chép sau mục ba mức giá mua lúa của Tư Mã Quang, đã không thi hành, dù không chép cũng được. Nhưng cần biết số tiền và lụa thường bình quản lý ngày đó, nên ghi chép đầy đủ.)
[13] Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Theo lệ cũ, việc tiến cử quan lại đều có số lượng nhất định, chỉ có quan lại kinh triều và các sứ thần lớn nhỏ thăng giáng, mỗi năm không hạn chế số lượng. Xin các quan lại tại kinh, theo như ngoại lộ, quy định số lượng tiến cử.” Chiếu cho Lại bộ lập pháp tâu lên.
[14] Hình bộ tâu: “Đại Lý khanh Vương Hiếu Tiên tấu rằng, Lại bộ khảo công, do việc khảo xét quan lại kinh triều, tuyển nhân, các sứ thần lớn nhỏ, cùng việc thăng chức hoặc bổ nhiệm chức vụ[7], cần hỏi Đại Lý tự xem có án công tội nào đang tồn đọng không, nếu là tội đánh roi trượng đã được ân xá khi từ chức, hoặc tự giác khai báo được miễn tội, xin không coi là án công tội còn tồn đọng để báo lại, cho Lại bộ tạm theo lệ bổ nhiệm, khảo xét, sau này có chỉ đặc biệt thì tuân theo sửa đổi.” Được chấp thuận.
[15] Chiếu cho Hà Dương xây dựng trạm nghỉ cho sứ thần phương Bắc, trạm nghỉ qua đêm ở huyện Ôn đặt tên là Chí Đức, trạm nghỉ giữa đường ở huyện Hà Dương đặt tên là Thanh Duyễn, trạm nghỉ giữa đường ở huyện Dĩ Thủy đặt tên là Hành Khánh quán.
(Ngọc điệp ghi ngày Bính Tuất.)
[16] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần nghĩ rằng sự trị vì của thiên hạ phụ thuộc vào các quan thủ lệnh, nhưng số lượng thủ lệnh quá nhiều, triều đình không thể biết hết, điều cốt yếu là phải giao phó cho các giám ty. Hiện nay, sức dân đang suy kiệt, chưa hồi phục, việc bàn luận về sai dịch vẫn chưa định đoạt, chính là lúc cần chọn người giám ty tài đức để giám sát các châu huyện. Gần đây, triều đình đã loại bỏ những quan lại tàn ác, phần lớn là các chức đề, chuyển, dân chúng đang trông chờ vào sự thay đổi này, mong được thấy những quan lại tốt. Tuy nhiên, thần thấy rằng những người được bổ nhiệm gần đây phần lớn không xứng đáng, qua lời bàn công khai, có thể thấy một vài ví dụ. Như Lý Chi Kỷ, Sở Tiềm, Vương Công Nghi đều là những kẻ tầm thường, không có gì đáng khen, không biết vì sao lại được dùng? Còn những người khác lại có nhiều tội lỗi: như Tôn Lộ làm tôi tớ cho Lý Hiến, tham lam vô sỉ; Trình Cao nịnh bợ Giả Thanh, mượn danh buôn ngọc; Chung Tuấn tính tà ác, nhiều lần phạm tội; Trương Công Tường làm việc tàn nhẫn, không gần gũi nhân tình; Trương Thục lâu năm quản lý thị dịch, cùng với bọn lái buôn tham gia việc quan; thế mà họ đều được chọn từ đám đông, giao phó trọng trách một đạo. Nếu bệ hạ thực sự muốn tôn trọng triều đình, yêu thương dân chúng, thì những hạng người như vậy không nên dùng một cách dễ dãi.
Có người nói rằng gần đây triều đình ra lệnh cho các quan thị tòng trở lên tiến cử danh tính giám ty, nhưng sau khi nghe tin, hầu hết đều được ghi vào sổ, mỗi khi có chỗ khuyết, chấp chính không cần chọn lựa kỹ, chỉ việc mở sổ định người, khiến kẻ hiền người ngu cùng tiến, nhân vật hỗn tạp. Thần nghĩ rằng các quan thị tòng trong và ngoài triều, số lượng quá nhiều. Khi được lệnh tiến cử quan lại, ban đầu không có sự phân biệt rõ ràng. Cứ tiến cử là dùng, gần như quá sơ suất. Mà muốn đợi họ không làm tròn chức trách rồi mới trị tội người tiến cử, thiên hạ rộng lớn, sự được mất của giám ty, triều đình chưa chắc đã biết hết, dân chúng có tội gì mà phải chịu khổ? Từ xưa đến nay, việc dùng người chưa từng có kiểu như vậy. Thần muốn đề nghị rằng những giám ty đã được bổ nhiệm trước đây, nên để chấp chính xem xét lại, những người không xứng đáng nhất nên thay đổi. Từ nay về sau, khi bổ nhiệm phải chọn người có danh tiếng, được công luận công nhận, rồi mới đề bạt. Như vậy, giám ty mới có thể có được những quan lại tốt, không làm hại dân, đây là việc cấp bách nhất hiện nay.”
(Lý Chi Kỷ ngày 28 tháng 3 làm Hiến ty Quảng Đông, Sở Tiềm ngày 1 tháng 6 làm Tào ty Quảng Tây, Vương Công Nghi ngày 22 tháng 7 làm Tào ty Quỳ Châu, Tôn Lộ ngày 12 tháng 7 làm Tào ty Thiểm Tây, Trình Cao ngày 2 tháng 7 làm Tào ty Quỳ Châu, Chung Tuấn ngày 23 tháng 6 làm chức đúc tiền, Trương Công Tường ngày 8 tháng 6 làm Tào ty Quảng Đông, Trương Thục ngày 13 tháng 7 làm Tào ty Kinh Đông, ngày 12 tháng 5 Phạm Thuần Nhân tiến cử Trương Thục.)
[17] Tư Mã Quang tâu: (Quang biện bác lời bàn của Hàn Xuyên không đúng thời điểm, phụ vào ngày mồng 2 dưới tâu chương của Tô Triệt.) “Thần trộm thấy Ngự sử Hàn Xuyên tâu rằng: Các lộ Giám ty không nên bó buộc bởi tư cách, chuyên dựa vào người tiến cử, nên để Tể tướng tự mình lựa chọn. Thần nghĩ rằng, đối với những người thuộc loại thường điều, không thể không đặt ra tư cách để ngăn chặn sự tiến cử hấp tấp và bịt kín cửa may mắn. Nếu quả thực có người hiền tài, triều đình tự nhiên sẽ không theo thứ tự mà thăng chức, há lại bó buộc bởi chế độ này? Phàm những người tuổi cao, kinh nghiệm nhiều, tuy chưa chắc đều là người hiền, nhưng đã từng nhiều lần làm quan gần dân, trải qua nhiều việc, hiểu được nỗi khó khăn của kẻ dưới, so với những người chưa từng làm quan gần dân mà đã giữ chức Giám ty, ắt sẽ hơn một chút. Triều đình chấp chính chỉ có tám chín người, nếu không phải là người quen biết cũ, thì không thể biết được tài năng của họ, không chỉ dễ bị nghi ngờ là thiên vị, mà còn lựa chọn quá hẹp, há đủ để thu hết hiền tài trong thiên hạ? Nếu dựa vào việc nghe ngóng thanh danh, thì tình cảm yêu ghét, khen chê, thật giả muôn màu. Thà nghe lời bàn tán của kẻ du thuyết, sao bằng bắt họ phải chịu tội nếu tiến cử sai? Vì thế, thần đã tâu xin thiết lập mười khoa để tiến cử sĩ, trong đó có một khoa là công chính thông minh, có thể làm Giám ty. Thần biết rằng việc nhờ vả và thiên vị tất không tránh khỏi, nhưng nếu có người không xứng đáng với sự tiến cử, thì người tiến cử sẽ bị trách phạt nghiêm khắc, không được khoan hồng. Như vậy, về sau tự nhiên sẽ cẩn thận lựa chọn, không dám tiến cử bừa bãi. Đến như Sở Tiềm tuy không có thanh danh, sao biết họ không có thực tài? Đợi khi họ nhậm chức mà không làm tròn trách nhiệm, rồi trị tội cả người tiến cử cũng chưa muộn!”
(Ngày mồng 6 tháng này, trước rèm đối đáp, Hàn Duy nói Quang quá bó buộc bởi tư cách, cần tham khảo thêm.)
[18] Ngự sử Thượng Quan Quân tâu: “Trước đây có chiếu chỉ cho các quan thị tòng tiến cử hai người có thể làm gián quan, lại có chiếu chỉ tiến cử các quan trong ngoài để bổ nhiệm vào chức giám ty. Yêu ghét, thích hay không thích là lẽ thường tình của thiên hạ. Khi thích thì khen ngợi nhau mà quên đi cái không tốt, khi ghét thì chê bai nhau mà quên đi cái đáng khen. Lúc bệ hạ mới lên ngôi, mọi người chưa dám vì tư lợi mà tiến cử sai lầm, nhưng sợ rằng lâu ngày pháp chế sinh ra tệ nạn, bỏ công theo tư, chỉ tiến cử người thân và người quen, khiến đường công bị bế tắc mà nhân tài thực sự bị bỏ rơi. Xin bệ hạ cho báo hết những người được tiến cử lên Ngự sử đài, để thần được biết rõ được mất. Nếu tiến cử người không tài, xin xử phạt nghiêm khắc, thì nhân tài thực sự sẽ tự nhiên xuất hiện, mà những người tài giỏi ở xa cũng không còn than thở vì không được dùng!”
(Tháng 10 năm Nguyên Phong thứ 8 tiến cử gián quan, tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất tiến cử giám ty, ngày 23 tháng 3 Quân mới làm quan sát, lời này không đúng thời điểm, phụ chép sau phần Hàn Xuyên. Tập của Quân có đầy đủ chương này, cần xem xét kỹ hơn.)
[19] Ngày Kỷ Sửu, Triều thỉnh đại phu, Trực Long đồ các Trương Giáp được bổ nhiệm làm Hộ bộ Thị lang. Hữu ty gián Tô Triệt tâu:
[20] “Giáp là người đa nghi, hiểm độc, tà vạy, nịnh hót, xảo trá, cố chấp, tối tăm, khắc nghiệt, đủ cả tám đức tính xấu, không có một điểm tốt nào. Lệnh bổ nhiệm vừa ban ra, trong ngoài đều kinh ngạc và nghi ngờ. Thần không dám nghe đồn đoán mà nói, xin trình bày rõ sự thật như sau:”
[21] 1. Khi Giáp làm Vận sứ Quảng Nam, triều đình có chỉ dụ điều động binh mã đến Toàn châu, Vĩnh châu để kiếm ăn. Kinh lược sứ Triệu Tiết thấy quân đồn trú ở Thuận châu đã hết hạn phải thay thế, bèn sai quân đến đồn trú Thuận châu, rồi lại lệnh cho quân thay thế ở Thuận châu đến Toàn châu, Vĩnh châu kiếm ăn. Giáp chỉ biết keo kiệt trong việc chi tiêu, sợ quân đồn trú đi lại tốn kém tiền lương, trong một ngày bốn lần gửi công văn, cố tình làm việc sai trái, tâu lên rằng Triệu Tiết không chịu điều động quân. Lại tâu rằng Tiết ngầm tăng tiền thuê phu ở Thiều châu thêm sáu vạn quan. Lại tâu rằng Tiết vi phạm pháp luật, sai nha tiền. Triều đình ra chỉ lệnh cho Tiết giải trình, thì ra chính Giáp đã phê lệnh sai, Tiết từng dâng nguyên bản phê lệnh lên tấu, còn những điều tâu khác đều không có gì là thật. Vì thế Giáp ôm hận trút giận, chửi mắng quan lại Quế châu là mặc áo xanh ôm lấy đám nô tì, gọi tên Triệu Tiết. Lại chửi là đồ giặc. Quan đề cử Lưu Nghị từng dâng sự việc lên tâu, triều đình có chỉ bãi chức Vận sứ.
[22] 2. Khi Giáp làm Vận sứ, có mấy ngàn phu chở lương từ An Nam trốn về, đã được ân xá tha cho, mỗi người chỉ còn nợ quan bảy trăm tiền gạo. Sau đó, Giáp muốn sai người đến Toàn châu chở lương, bèn triệu huyện lệnh Dương Sóc là Ngụy Cửu Ngôn, huyện lệnh Lâm Quế là Lý Dịch, ép lệnh sai phu trốn của hai huyện đến Toàn châu chở lương. Lại lệnh cho Cửu Ngôn lấy lời khai của bảy người dân huyện mình là Mạc Phạn Nô, nói rằng nợ quan bảy trăm tiền, tình nguyện đến Toàn châu chở lương để trả nợ. Trong bảy người đó có ba người không phải là phu trốn, chỉ lấy lời khai tình nguyện của bốn người, rồi sai mấy ngàn người đi. Huống chi nợ chỉ có bảy trăm tiền, mà đường thủy đến Toàn châu hơn hai ngàn dặm, lẽ nào lại có chuyện tình nguyện? Vì thế đã làm chết đuối không ít người, khiến dân chúng phải qua ty đề cử kêu oan, cũng là Lưu Nghị dâng sự việc lên tâu, mới thôi không sai nữa.
[23] 1. Khi Trương Giáp làm Kinh lược sứ Quế Châu, có thủ lĩnh châu An Hóa vì dân tộc mình bị đói kém, theo lệ cũ xin mượn lương thực ở Nghi Châu. Trương Giáp chỉ huy Nghi Châu không cho mượn một hạt nào, khiến người Di làm loạn, sang cướp trâu ở biên giới tỉnh. Vì thế người Di và người Hán giết hại lẫn nhau. Trương Giáp không có phương lược gì, chỉ thẳng tay ra lệnh cho Nghi Châu xuất quân đánh dẹp, khiến quân quan châu này bị tiêu diệt. Trương Giáp lại sai mấy nghìn người, lệnh cho Phó sứ Cung bị khố là Phí Vạn đi đánh dẹp, toàn quân đều bị diệt. Trương Giáp lại sai Lộ phân đô giám là Vương Kỳ làm Tri châu Nghi Châu, rồi đem mấy nghìn người vào đánh, toàn quân bị tiêu diệt. Việc tâu lên triều đình, Tiên đế lo lắng đến mức bỏ bữa, sai Tạ Lân đem mấy vạn quân, tốn hơn trăm vạn quan tiền, cuối cùng mới chiêu hàng được mà yên định. Trương Giáp vì xử trí sai lầm, khiến hai tướng binh mã bị tiêu diệt, mà cái chết của Phí Vạn, Vương Kỳ lại không tâu thực, nên bị Chuyển vận sứ Mã Mặc và các quan luận tội, triều đình sai Thôi quan Tân Châu là Chu Tuấn điều tra, vì thế bị cách chức, giáng làm Tri châu Quân Châu.
Những việc thần bàn ở trên đều có văn án có thể kiểm tra lại, xét Trương Giáp xử sự sai lầm, gây loạn làm mất quân, tội ngang với Trầm Khởi, Lưu Di, đáng bị xử tử hoặc đày, nhưng nhiều lần được khoan hồng, là vì nhà ông ta vốn giàu, vốn nhờ hối lộ mà được tiến cử. Quê ông gần Thần Châu, Cẩm Châu, tích trữ nhiều sa kỳ, thường đem biếu tặng Tể tướng trước là Vương Khuê. Vương Khuê thường đem khoe với khách thân tín rằng: “Sa này là của Trương Giáp biếu.” Vì thế mà che chở. Nay dù chưa bị cách chức, sao có thể đặc cách được thăng chức bất thường? Hơn nữa, thần nghe nói các quan chấp chính ở Tam tỉnh vốn không biết rõ con người ông ta, vì nghe lời tiến cử mà sai lầm. Nếu để ông ta ở Hộ bộ, ắt hại dân hại nước. Thần khẩn thiết xin thu hồi mệnh lệnh trước, để thỏa lòng công luận.
[24] Chiếu giao Tam tỉnh, nhưng khi tiến trình thì không thi hành. Triệt lại tâu lên, đều bị giữ lại không trả lời. Triệt lại trình lên Tam tỉnh, cuối cùng cũng không thi hành.
(Trạng thứ hai, mười một; trạng thứ ba, mười hai; trạng thứ tư, mười tám; trạng thứ năm, hai mươi ba; trình Tam tỉnh, hai mươi sáu.)
[25] Triều nghị đại phu, Trực Long đồ các, Giang Hoài đẳng lộ phát vận sứ Tưởng Chi Kỳ được bổ nhiệm làm Tập hiền điện tu soạn, tri Quảng châu.
(Lữ Đại Trung được bổ nhiệm làm phát vận, có lẽ là thay thế Tưởng Chi Kỳ, nhưng thực lục không ghi chép, ngày 14 Chu Quang Đình có đề cập đến việc này.)
[26] Chiếu rằng hai chỉ huy Vân Dực ở Hùng châu vẫn giữ nguyên như cũ, mỗi chỉ huy lấy 300 người làm định mức.
[27] Thái thường tự tâu: “Việc hành lễ sắp tới ở Minh đường và Cảnh Linh cung, các quan Chiêm sự dẫn giá nghi trượng, các quan áp đương, tông thất dao quận, cấm quân đô ngu hậu trở lên, đều phải đến dự lễ và đứng vào hàng, những người khác không cần đến.” Chiếu rằng các quan ở Tam tỉnh, các trưởng và phó ở các tự, giám, nếu không tham gia hành lễ ở Minh đường, cũng phải đến dự lễ và đứng vào hàng.
[28] Lại có chiếu: “Đại lễ sắp đến, các nơi tấu trình công án, qua các nơi, e rằng có sự trì trệ, nên lệnh cho Tiến tấu viện từ nay đến khi ban xá, nếu có công án gửi đến, phải lập tức chuyển đến nơi đó, trong ngày phải trình xong, rồi gửi ngay đến Đại Lý tự. Nếu có nơi nào trì trệ, sẽ bị xét hỏi và trách phạt, dù có được xá cũng không được miễn.”
[29] Lễ bộ tâu: “Nghi thức hoàng đế thân hành sắp tới ở Minh đường và Cảnh Linh cung, theo chỉ dụ triều đình, lại thiết lập tiểu thứ. Vì gần đây có nghị định đặt bản vị hoàng đế ở phía trên tạc giai, nên tiểu thứ lần này nên đặt ở phía đông tạc giai của Minh đường, trên đan trì, hướng về phía tây để bày biện.” Được chấp thuận.
(Việc ngày 5 được chuyển vào đây.)
[30] Tư Mã Quang dâng sớ xin ràng buộc các châu huyện không được ép buộc dân nhận tiền thanh miêu, nói rằng: “Xét lại việc triều trước ban đầu phát tiền thanh miêu, vốn là để làm lợi cho dân. Vì thế lúc đó chỉ thị phải lấy ý nguyện của dân, không được ép buộc. Sau này do các quan đề cử muốn nhanh thấy thành tích, cố gắng phát nhiều, ép buộc các châu huyện, bỏ qua chiếu chỉ, trên danh nghĩa là tự nguyện, nhưng thực chất là ép buộc. Hoặc tập hợp cả huyện, hoặc đi từng nhà ghi chép. Cũng có những kẻ vô lại lừa dối người thân, tiền không về tay họ. Cũng có người khác mạo danh xin nhận, không biết là ai, đến khi đòi nợ thì đều đổ về hộ chính. Triều đình biết rõ tệ nạn này, nên đã bãi bỏ các quan đề cử, không đặt ra chỉ tiêu khảo sát, nghe nói dân tình yên ổn. Trước đây vào ngày 26 tháng 4 có chiếu lệnh cấp tiền và thóc từ kho thường bình, hạn trong tháng 2 hoặc tháng giêng, chỉ để những hộ muốn vay có thể kịp thời sử dụng. Lại lệnh để lại một nửa trong kho, một nửa phát ra, chỉ vì số tiền phát ra không được vượt quá con số này. Về việc lấy ý nguyện của dân, cũng không được ép buộc, hoàn toàn tuân theo ý định ban đầu của triều trước. Lo rằng các châu huyện không hiểu ý triều đình[8], cho rằng triều đình lại muốn phát nhiều tiền và thóc thanh miêu, thu nhiều lãi, tập hợp ép buộc, đốc thúc gấp gáp, giống như thời trước khi đặt quan đề cử.
Nay muốn ban thêm chỉ thị, lệnh các lộ đề điểm hình ngục ty thông báo cho các châu huyện, phải đợi dân tự viết đơn kết bảo lên huyện xin nhận tiền và thóc từ kho thường bình, lúc đó mới được xét duyệt, theo điều lệ cấp phát, không được như trước tập hợp ghi chép, ép buộc. Lại yêu cầu đề điểm hình ngục thường xuyên kiểm tra, nếu có quan lại vi pháp gây phiền nhiễu, lập tức xét xử, nếu đề điểm hình ngục không kiểm tra kỹ, giao cho chuyển vận an phủ ty kiểm tra tâu lên.” Chiếu theo đó.
[31] Lục hoàng qua Trung thư tỉnh, Xá nhân Tô Thức tấu rằng:
[32] Thần trộm thấy từ năm Hi Ninh đến nay, thi hành hai phép Thanh Miêu và Miễn Dịch, đến nay đã hơn 20 năm, phép tắc ngày càng hủ bại, dân chúng ngày càng nghèo khổ, hình phạt ngày càng phiền toái, trộm cướp ngày càng hoành hành, ruộng đất ngày càng rẻ mạt, lúa gai vải lụa ngày càng kém chất lượng, kể ra những tác hại thì không sao nói hết được. Nay các đại thần trong triều đều là những người từng đau lòng xót dạ, rơi lệ thở dài, muốn bãi bỏ phép ấy mà không được. Huống chi hai bậc thánh nhân kính cẩn, chỉ theo điều thiện, phép Miễn Dịch đã bị bãi bỏ hoàn toàn, còn việc Thanh Miêu thì chỉ dựa theo cũ mà sửa đổi chút ít, muốn thực hiện cách làm từ từ, mỗi tháng bớt đi một con gà. Ví như người uống thuốc, bệnh ngày càng tăng, thân thể ngày càng gầy yếu, ăn uống ngày càng giảm sút, mà rốt cuộc không chịu nói rằng thuốc này không thể uống được. Chỉ giảm bớt liều lượng, thay đổi cách sắc mà uống, có được chăng?
[33] Phép tắc thời Hi Ninh vốn không cho phép ép buộc bán, nhưng tác hại đã đến mức này. Nay dù lại cấm việc ép buộc bán, nhưng tác hại vẫn còn. Nhà nông dân, tính toán thu chi, tiết kiệm ăn mặc, dù nghèo cũng đủ sống. Nếu khiến họ có thêm tiền, thì chi tiêu tự nhiên sẽ tăng, có gì mà không đến? Huống chi con cháu lừa dối cha anh, người dân mạo danh xin vay, như chiếu thư đã nói, những việc như thế vốn không phải do ép buộc mà ra. Trước đây, châu huyện đều thi hành phép thương, nhưng khi cấp phát và thu nạp, hao tổn mười phần thì mất hai ba phần. Nay đã bãi bỏ phép thương, không tránh khỏi việc xin xỏ, thì hao tổn mười phần mất năm sáu phần, là điều tất nhiên. Lại thêm quan lại không ra gì, khi cấp phát, bắt buộc phải bày trống nhạc, ca kỹ, hoặc mở bán thẻ rượu[9], khiến nông dân có người trở về tay không. Mỗi lần phát thanh miêu, thì thuế rượu bỗng nhiên tăng vọt, đây là điều thần tận mắt chứng kiến mà rơi lệ. Trong hai mươi năm, vì nợ thanh miêu mà phải bán nhà đất, cầm vợ con, nhảy sông, thắt cổ, không thể kể xiết, triều đình nỡ lòng nào lại thi hành nữa? Thần cho rằng chỉ thị ngày 26 tháng 4 lấy việc phát đến một nửa làm mức, so với phép thời Hi Ninh vốn không khác mấy[10]. Còn chỉ thị ngày mồng 2 tháng này vẫn cho phép người dân tùy ý xin nhận, không tránh khỏi việc đặt ra phép tắc để lừa dân, thỏa mãn nhu cầu phi lý nhất thời, mà không nghĩ đến nỗi khổ thu nạp về sau, cả hai đều không phải là phép tốt, chênh lệch không đáng kể.
[34] Hiện nay đã thi hành phép thường bình mua bán lúa gạo, ngoài việc ban ơn cho dân, quan phủ cũng thu được chút lợi, như thế là đủ rồi, cần gì phải lấy lãi hai phần để chuốc lấy mối oán vô cùng? Có người nói rằng những người bàn luận cho rằng kho tàng không đủ, muốn mượn phép này để cung cấp cho biên cương. Thần không biết lời này thực hư thế nào, nếu quả có như vậy, thì đó là tà thuyết của tiểu nhân, không thể không xem xét. Xưa vào thời Hán Tuyên Đế, người Khương ở phía tây làm phản, có người bàn nên để dân nộp thóc vào các quận biên giới để được miễn tội. Tiêu Vọng Chi cho rằng xưa kia của cải để trong dân, không đủ thì lấy, dư thừa thì cấp. Việc binh dịch ở biên giới phía tây, dù có thu thuế theo hộ và đầu người để cung cấp cho chỗ thiếu thốn, đó là nghĩa lý thông thường xưa nay, dân không cho là sai, há có thể mở đường lợi để làm tổn hại đến giáo hóa đã thành?
Vào thời Nhân Tông, quân đội phía tây không giải ngũ, kéo dài hơn mười năm, không thi hành phép thanh miêu thì có gì thiếu hụt? Huống chi hai vị thánh đế cung kiệm, thanh tâm giảm việc, không cầu công ở biên cương, vài năm sau, kho tàng tự nhiên đầy ắp. Có gì nguy cấp mà để bậc quân phụ tôn quý của thiên hạ mang tiếng cho vay lấy lãi? Lợi nhỏ như mũi dao, được bao nhiêu? Thần tuy rất ngu, nhưng sâu sắc tiếc cho triều đình. Xin đặc biệt ban chỉ huy, từ nay về sau không cấp phát tiền và thóc thanh miêu nữa, những khoản tiền và thóc đã cấp trước đây, đợi đến mùa màng sung túc thì chia làm năm năm mười kỳ, nộp theo hai thuế. Kính xin bệ hạ nghĩ đến việc họ đã chịu lãi nhiều năm, từ hạng tư trở xuống, đều được miễn, để nông dân từ nay được nghỉ ngơi, cũng tránh được sự chê trách của đời sau. Gần đây, trong chiếu giáng chức Lữ Huệ Khanh có viết: “Đầu tiên đề xướng phép thanh miêu, ra sức thực hiện phép trợ dịch.” Nếu không bãi bỏ hoàn toàn phép này, ắt sẽ khiến bọn gian thần có cớ, truyền đi khắp nơi, tổn hại không nhỏ. Còn việc lục hoàng nói trên, thần chưa dám ký tên ban hành.
[35] Ngày Canh Dần, Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Thần gần đây thấy trong chiếu trách giáng Lữ Huệ Khanh có câu ‘đầu tiên đề xướng phép Thanh Miêu’, mà phép Thanh Miêu vẫn chưa bãi bỏ, đã từng trình bày luận điểm, nhưng chưa được chấp nhận, lý lẽ chưa yên, nghĩa khó có thể dừng lại. Lẽ ở thiên hạ chỉ có đúng sai mà thôi. Bệ hạ cho rằng chính sách Thanh Miêu là đúng hay sai? Nếu cho rằng phép ấy là đúng, thì người đầu tiên đề xướng không đáng bị trách, nếu cho rằng đề xướng ấy là sai, thì phép này không nên thi hành, hai điều này rất dễ hiểu. Tác hại của phép Thanh Miêu, từ niên hiệu Hi Ninh đến nay, người bàn luận không biết bao nhiêu. May mắn được Bệ hạ tu sửa chính sự, thương xót dân chúng mệt mỏi, nếu lúc này không bãi bỏ phép này, thì nỗi khốn cùng của sinh linh không thể nào tránh khỏi.
Huống chi đã có chiếu chỉ tháng hai năm nay, dùng lại phép Thường Bình cũ để thi hành, nên thiên hạ đã từng vui mừng. Không ngờ lại có lệnh thông báo tháng tư, lại cho rằng phép cũ là việc thu chi của Thanh Miêu, khiến người dân thất vọng, nhưng phép vẫn thi hành như cũ, chậm chạp không thay đổi, đây là nghĩa gì?
Hơn nữa, thưởng phạt thăng giáng, cần phải đúng với công tội, thì lòng người mới phục. Hiệu lệnh là để lấy lòng tin thiên hạ, chứ không phải để lừa dối thiên hạ. Nay một việc mà dùng hai cách, dùng để trách người thì cho là sai, dùng để thu lợi thì cho là đúng, danh thực không tương ứng, làm tổn hại lớn đến thể chế quốc gia. Thần e rằng bốn phương sẽ nhìn thấu triều đình, mà kẻ có tội há lại không có lời biện bạch sao? Chiếu thư đã công bố rõ ràng khắp thiên hạ, nếu Thanh Miêu thực sự là phép tốt, quốc dụng thực sự có chỗ dựa, Bệ hạ cũng nên không tiếc thay đổi bãi bỏ, bỏ lợi theo nghĩa, để lấy lòng tin thiên hạ, huống chi trong chiếu thư đã tự chỉ ra là việc hại nước hại dân! Kính mong Thánh từ xem xét lại, nhanh chóng ra lệnh kiểm tra và thi hành theo chiếu chỉ tháng hai năm nay, dùng lại phép Thường Bình cũ thời Gia Hựu, để thống nhất chính lệnh, khiến dân chúng được nghỉ ngơi, kẻ có tội phải khuất phục.”
[36] Tờ thiếp hoàng nói: “Việc thu phát lãi Thanh miêu mỗi năm thu được không ít, thực sự có thể giúp ích phần nào cho chi tiêu. Thần không phải không biết ý của triều đình muốn quản lý tài chính, nhưng vì chiếu mệnh và chính sự khác nhau, là gánh nặng cho quốc gia, nên phải bỏ lợi nhỏ để giữ chữ tín lớn. Hơn nữa, phép này làm khổ dân, nay tuy có quy định không được ép buộc, nhưng ví như bệnh tật, gốc rễ vẫn còn, ngày sau các quan hưng lợi lại xuất hiện, dựa vào gốc rễ mà mở rộng, thì tai họa cùng khốn cho thiên hạ, chính là do ngày nay để lại, há chẳng đáng tiếc sao!”
[37] Lại tờ thiếp hoàng nói: “Nếu triều đình thấy rằng chi tiêu quốc gia phải dựa vào tiền này, tất không thể bãi bỏ. Nhưng mệnh lệnh của Huệ Khanh, nên giải thích thế nào để lấy được lòng tin của thiên hạ, và ngăn chặn lời lẽ của kẻ có tội? Thần cũng ngày đêm tìm cách giải thích mà không được. Tuy nhiên, phép Thanh miêu có người tự nguyện, có người bị ép buộc. Ban đầu ở Thiểm Tây, trước xem mùa màng tốt xấu, xét năm được mất mà thu phát, dân đều tự nguyện, nên không có hại lớn. Đến năm Hi Ninh lấy đó làm phép bổ trợ, mà bọn Huệ Khanh lại tùy việc tăng thêm tàn ác, chuyên chú vào lợi, so sánh mức thu hàng năm, lập ra thứ bậc quan lại, chọn sứ giả ép buộc mà thành. Từ đó tai họa ép buộc sinh ra, dẫn đến việc nêu bảy điều khó để trách Hàn Kỳ, bố cáo thiên hạ, thì tai họa Thanh miêu thực sự là do Huệ Khanh gây ra. Trước đây giáng chiếu, há chẳng phải là trách Huệ Khanh đầu tiên đề xuất mượn phép để gây ra việc ép buộc sao? Tuy nhiên, lời chiếu không phân biệt như vậy, mà chỉ nói ‘đầu tiên lập ra Thanh miêu’ mà thôi, thì lẽ này làm sao giải thích rõ? Nay chi bằng dứt khoát dẹp bỏ tệ nạn còn lại, để may mắn cho thiên hạ, để làm sáng tỏ chính sách trọng tín khinh lợi của thánh triều.”
(Ngày 5 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ nhất.)
[38] Tả Ty gián Vương Nham Tẩu, Hữu Ty gián Tô Triệt, Tả Chánh ngôn Chu Quang Đình, Hữu Chánh ngôn Vương Địch tâu:
[39] Chúng thần nhiều lần dâng sớ xin bãi bỏ phép Thanh Miêu, nhưng đều không được chuyển ra thi hành. Kính nghĩ rằng từ khi Vương An Thạch, Lữ Huệ Khanh đề ra phép này, các sĩ phu trong thiên hạ, chỉ có những kẻ thuộc phe đảng của Vương, Lữ muốn dựa vào Thanh Miêu để tiến thân thì cho phép ấy là đúng. Còn các sĩ đại phu khác, từ trên là Hàn Kỳ, Phú Bật, đến giữa là Tư Mã Quang, Lữ Hối, Phạm Trấn, xuống dưới là bọn chúng thần, chưa có ai cho là tiện lợi. Khi Vương An Thạch, Lữ Huệ Khanh nắm quyền, lời trung ngôn bị bưng bít, không được thi hành. Dân chúng không có nơi kêu cứu, phải ngậm đắng nuốt cay mà chịu hại. Nay hai Thánh lâm triều, dẹp bỏ mọi tệ hại, thiên hạ vui mừng mong ngày bãi bỏ Thanh Miêu. Nhưng gần đây lại sửa đổi phép cũ, càng làm cho trong ngoài nghi ngờ, không hiểu ý Thánh. Thần nghe nói gần đây các quan tả hữu có người vì quốc dụng không đủ, muốn dùng Thanh Miêu để bù vào chỗ thiếu hụt, Thánh tâm chưa xét kỹ, nên còn chần chừ.
Chúng thần tuy ngu muội, nhưng cho rằng từ xưa đến nay, việc trị nước chỉ dựa vào thuế ruộng và thuế thân. Dù có thiếu hụt, cũng chỉ bù vào bằng thuế trà, muối, rượu, chưa từng nghe dùng lại phép Thanh Miêu cho vay lấy lãi, tranh giành với dân chút lợi nhỏ nhoi, để làm giàu nước mạnh binh. Thời Nghệ Tổ, Thái Tông, bốn phương chưa yên, đất nước còn nhỏ hẹp, năm nào cũng dùng binh, chi phí rất lớn. Đến thời Chân Tông, đi phong thiện ở phía đông, tế lễ ở phía tây, tuần du đất Bạc, Tống, xây dựng cung thất. Thời Nhân Tông kết hảo với Khiết Đan, bình định Tây Nhung, tiêu diệt giặc phương nam, đều là những việc chi tiêu rất lớn, nhưng ngoài thuế thường, không có sự tăng thêm nào đáng kể, chưa từng nghe phải dựa vào Thanh Miêu để bù đắp quốc dụng. Nay hai Thánh cần kiệm, yên tĩnh vô vi, của cải trong bốn biển không khác gì thời tổ tông, còn lo lắng gì mà muốn dùng Thanh Miêu để làm giàu nước?
Chúng thần cho rằng Hoàng đế bệ hạ còn trẻ tuổi, chưa từng tiếp kiến nhiều sĩ phu, Thái hoàng thái hậu bệ hạ xem xét chính sự trong màn trướng, chưa thể nghe rộng ý kiến của quần thần, việc nghe và thu nhận lời nói thật là khó. Thần nghĩ rằng mỗi khi có người dâng lời, nên đem ra bàn luận công khai, họ muốn bãi bỏ Thanh Miêu, mà chúng thần cho là không thể, bệ hạ nghe theo lời họ, mà sớ của chúng thần lại bị giữ lại không đưa ra. Chúng thần không biết bệ hạ căn cứ vào đâu để phán đoán đúng sai, mà tin tưởng họ đến thế? Nếu bệ hạ nhất định muốn giải quyết mối nghi ngờ sâu xa này, nên đem hết những lời nói của đài gián ra, giao cho Tam tỉnh, để họ bàn luận công khai về được mất, không nên giấu giếm, không phân biệt đúng sai, mà ngầm dùng lời nói của họ. Nếu mọi người đều cho rằng bãi bỏ là đúng, xin sớm ban chỉ quyết định, để yên lòng dân. Nếu cho rằng bãi bỏ là sai, cũng xin rõ ràng cách chức, để trừng phạt sự cuồng vọng của chúng thần. Lại dâng trạng lên Tam tỉnh rằng:
[40] Nham Tẩu và các đồng liêu kính cẩn tâu: Khi mới thi hành phép Thanh Miêu vào đầu niên hiệu Hi Ninh, dù là kẻ sĩ hiền hay ngu đều biết rằng phép ấy không tiện. Lúc đó, những bề tôi dâng lời đề nghị, ra sức chủ trương, chỉ có một hai người, còn các bậc hiền sĩ đại phu cực lực nói về những sai lầm của phép ấy, không phải ai khác, mà chính là những người đang nắm quyền chính sự ngày nay từng bàn luận về điều đó. Những lời trung ngôn chính luận được truyền khắp thiên hạ, đến nay vẫn còn được truyền tụng, trở thành chuyện để bàn tán. Dân chúng than thở, mong muốn được thay đổi, cũng đã lâu rồi!
Từ khi hai vị thánh đế lên ngôi, bãi bỏ những phép tệ hại, nhưng riêng phép Thanh Miêu vẫn không thay đổi, chỉ bảo là lấy theo ý nguyện của dân, không định ra mức cố định, các châu huyện có nơi thi hành, có nơi không, việc làm không thống nhất, thiên hạ vốn đã nghi ngờ về điều đó. Trong khoảng thời gian đó, tu sửa lại phép cũ, khiến những người nộp thuế giảm một nửa lãi suất. Trong ngoài xôn xao, cho rằng triều đình muốn theo lối cũ, cho vay lấy lãi. Tiếng đồn này lan truyền, làm tổn hại rất lớn đến chính sự thánh minh.
Nham Tẩu và các đồng liêu kính cẩn tâu: Khi mới thi hành phép Thanh Miêu vào đầu niên hiệu Hi Ninh, dù là kẻ sĩ hiền hay ngu đều biết rằng phép ấy không tiện. Lúc đó, những bề tôi dâng lời đề nghị, ra sức chủ trương, chỉ có một hai người, còn các bậc hiền sĩ đại phu cực lực nói về những sai lầm của phép ấy, không phải ai khác, mà chính là những người đang nắm quyền chính sự ngày nay từng bàn luận về điều đó. Những lời trung ngôn chính luận được truyền khắp thiên hạ, đến nay vẫn còn được truyền tụng, trở thành chuyện để bàn tán. Dân chúng than thở, mong muốn được thay đổi, cũng đã lâu rồi! Từ khi hai vị thánh đế lên ngôi, bãi bỏ những phép tệ hại, nhưng riêng phép Thanh Miêu vẫn không thay đổi, chỉ bảo là lấy theo ý nguyện của dân, không định ra mức cố định, các châu huyện có nơi thi hành, có nơi không, việc làm không thống nhất, thiên hạ vốn đã nghi ngờ về điều đó. Trong khoảng thời gian đó, tu sửa lại phép cũ, khiến những người nộp thuế giảm một nửa lãi suất. Trong ngoài xôn xao, cho rằng triều đình muốn theo lối cũ, cho vay lấy lãi. Tiếng đồn này lan truyền, làm tổn hại rất lớn đến chính sự thánh minh. Nham Tẩu và các đồng liêu giữ chức gián quan, không dám im lặng, nên cùng với các quan đài tiền hậu dâng lên gần mười chương sớ, nhưng đều không được thi hành. Nghe đồn rằng các đại thần tâu đối, có người lấy cớ quốc kế không đủ, làm mê hoặc thánh thính, khiến cho việc bàn luận này kéo dài mà không quyết định được. Nham Tẩu và các đồng liêu tuy ngu muội, nhưng trong lòng vẫn không hiểu.
Bởi vì nghe nói thời xưa, thánh nhân ở ngôi trên, chỉ thu thuế ruộng đất mà thôi, tất cả những gì dùng để phụng sự tông miếu, cấp lương cho quan lại, nuôi quân phòng biên, chưa từng thiếu thốn. Đời sau thô bỉ, mới bắt đầu thêm vào các khoản thuế trà, muối, rượu, nhưng cũng chưa từng nghe nói đến việc cho vay lấy lãi đến mức như thế này. Nay hai vị thánh đế ở ngôi, cung kiệm vô vi, vượt xa đời trước, chọn dùng người nắm quyền chính sự, hướng đến thái bình. Nham Tẩu và các đồng liêu cùng với sĩ dân thiên hạ, vẫn mong triều đình có thể nới lỏng thuế rượu, giảm bớt thuế trà muối, để khôi phục chính sách thời Tam Đại, không ngờ ngày nay lại muốn dùng phép Thanh Miêu để làm giàu cho quốc gia, làm mất lòng tin của thiên hạ. Vương An Thạch, Lữ Huệ Khanh đã vì điều này mà phụ lòng nước, khiến triều đình mang tiếng xấu khắp thiên hạ, nay lại dùng điều này để làm lầm lỗi cho hai vị thánh đế, đó là điều mà Nham Tẩu và các đồng liêu vô cùng đau xót.
Gần đây, triều đình trách phạt giáng chức Lữ Huệ Khanh, trong chiếu thư ban ra, đầu tiên đã lấy phép Thanh Miêu làm tội, thiên hạ truyền tụng, ai nấy đều khen ngợi. Tại sao mực chiếu chưa khô, lại đi theo vết xe đổ? Hơn nữa, phép Thanh Miêu gây hại cho dân, không chỉ là tội ép buộc. Dù cho các châu huyện tuân theo chiếu chỉ, bỏ hẳn việc ép buộc, thì tác hại đối với dân vẫn còn nhiều. Tại sao vậy? Dân chúng không hiểu biết, không tính đến hậu họa, nghe nói quan phủ phát tiền Thanh Miêu, đua nhau xin nhận, tiền vừa vào tay, chi tiêu phung phí, ăn uống lãng phí, chỉ vui vẻ nhất thời, đến khi nộp lại cho quan, phải bán thóc gạo rẻ mạt, dần dần đến cả ruộng đất nhà cửa, dẫn đến phá sản, đó là một tác hại. Con cháu buông thả, lừa dối cha anh, hàng xóm vô lại, mượn danh nghĩa giả tạo, cuối năm bị thúc giục, tai họa đến với gia đình, đó là hai tác hại. Nợ cũ chưa trả, lại xin vay mới để đắp vào, các châu huyện muốn tránh trách nhiệm, bỏ qua không hỏi, đó là ba tác hại. Các lại dịch ở kho Thường Bình, trước kia thi hành pháp luật nghiêm khắc, việc hối lộ khi cấp phát và thu nộp ban đầu không thể ngăn chặn, nay pháp luật nghiêm khắc đã bãi bỏ, hối lộ công khai, dân chúng xin vay, được ít vô cùng, đó là bốn tác hại. Bốn điều tác hại này, dù có bỏ hẳn việc ép buộc, cũng không thể làm gì được, huống chi việc ép buộc chưa chắc đã bỏ. Nham Tẩu và các đồng liêu giữ chức trách nói lên sự thật, chứng kiến việc tệ hại, nếu im lặng không nói, thì trên phụ lòng triều đình, dưới phụ lòng dân chúng, nếu chưa được chấp thuận, quyết không có ý định dừng lại, kính xin hãy xem xét kỹ các chương sớ trước sau mà thi hành, để thỏa lòng công luận.
[41] Ngày Tân Mão, Tư Mã Quang dâng tấu: “Trước đây vào ngày 26 tháng 4, có chỉ dụ lệnh cho các châu huyện chi phát tiền và thóc từ kho thường bình vào tháng giêng và tháng hai. Thần lo rằng các châu huyện phần nhiều không hiểu ý triều đình, tưởng rằng lại muốn mở rộng việc phát tiền thanh miêu, thu nhiều lợi tức, nghiêm khắc đốc thúc, y như lúc chưa bãi bỏ chức quan đề cử. Xét thấy tiền thanh miêu lợi ích cho dân rất ít, mà hại dân lại rất nhiều. Thần dân đã nhiều lần dâng tấu trình bày. Nay muốn ban chỉ dụ khắp nơi, xuống cho các lộ đề điểm hình ngục ty, từ nay về sau tiền thóc kho thường bình chỉ cho các châu huyện theo phép cũ kịp thời mua bán. Tiền thanh miêu không được phát nữa, tất cả các khoản nợ cũ với lãi suất hai phần đều được xóa bỏ, chỉ lệnh cho đề điểm hình ngục xét lại số tiền gốc đã phát của từng châu huyện, tùy theo số nợ hiện tại chia làm nhiều đợt, thu nộp cùng với thuế.” Chiếu theo lời tấu.
(Cựu lục chép: Chiếu cho phủ giới và các lộ đề điểm hình ngục ty, từ nay về sau tiền thóc kho thường bình, lệnh cho các châu huyện theo phép cũ mua bán, tiền thanh miêu không được phát nữa. Trước đó, Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Trước đây triều đình lo ngại tệ nạn của phép miễn dịch, ban chiếu cải cách trở lại phép sai dịch, lập cục, đặt quan để bàn việc thi hành. Thi hành vội vàng, lại đổi thành phép thuê mướn, sau đó lại thành phép chiêu mộ. Triều đình lo ngại tệ nạn của kho thường bình, dùng lại chế độ cũ, thi hành chưa được bao lâu, lại đổi thành phép thanh miêu. Sau đó lại ban chiếu trách mắng các quan đầu tiên đề xuất, nhưng việc thu chi vẫn tiến hành như cũ. Hai việc này là đại sự, mà thay đổi qua lại nhiều lần, ngay cả các quan cận thần bàn nghị cũng không dám chắc phép sẽ ra sao, làm sao khiến thiên hạ tin tưởng được? Trung thư xá nhân Tô Thức cũng tâu, tiền thóc thanh miêu từ nay về sau không được phát nữa[11], những khoản đã phát, đợi đến mùa màng, chia làm năm năm mười đợt thu nộp cùng với thuế, hoặc miễn trừ cho các hộ từ đệ tứ đẳng trở xuống. Tả ty gián Vương Nham Tẩu, Hữu ty gián Tô Triệt, Tả chánh ngôn Chu Quang Đình, Hữu chánh ngôn Vương Địch lại tiếp tục can gián, nhiều lần xin bãi bỏ phép thanh miêu, đều không được đưa ra bàn luận, xin đưa hết các lời tâu của đài gián ra, để ba tỉnh bàn bạc được mất, nếu mọi người đều cho rằng bãi bỏ là đúng, xin ban chiếu quyết định, để yên lòng dân, nếu cho rằng bãi bỏ là sai, cũng xin rõ ràng cách chức, để trừng trị sự cuồng vọng.
Ban đầu Tiên đế noi theo phép của tiên vương, sửa sang phép giúp đỡ việc cày cấy và thu thuế. Tư Mã Quang, Lưu Chí và những người khác tranh luận, cho rằng đó là cho vay lấy lãi, Tiên đế bác bỏ không dùng. Đến nay lại trái ngược, các quan tại chức ôm hận cải cách, lúc đó thiên hạ đã chịu tai họa, mọi người đều kinh hãi.” Tân lục chỉ bỏ đi từ “Ban đầu Tiên đế” đến “kinh hãi”, còn lại đều dùng văn cũ. Xét: Lúc đó việc bãi bỏ phép thanh miêu có rất nhiều ý kiến, không thể không chép đầy đủ, nay xem xét bổ sung. Sử quan thời Thiệu Thánh bịa đặt, khó lừa dối được hậu thế, mà sử quan thời Thiệu Hưng cũng không hề biện bạch. Nếu cho rằng không cần biện bạch, thì sai lầm còn lớn hơn thế nữa.
Lại nữa, các ý kiến của Tư Mã Quang, Tô Thức và các quan đài gián, nếu không chép đầy đủ, ắt sẽ bị bỏ qua, chẳng đáng tiếc sao? Ngọc điệp: Ngày Tân Mão, chiếu lệnh kho thường bình mua bán theo phép cũ, bãi bỏ việc phát tiền thanh miêu.)
[42] Ban đầu, Đồng tri Xu mật viện Phạm Thuần Nhân vì quốc dụng không đủ, dâng tấu xin khôi phục việc phát tiền Thanh Miêu. Chỉ dụ ngày 26 tháng 4 là theo đề nghị của Thuần Nhân. Lúc đó, Tư Mã Quang đang bệnh xin nghỉ, không tham dự. Sau đó, các quan ngự sử và gián quan cùng dâng tấu chỉ trích việc này, nhưng đều không được trả lời. Quang liền dâng sớ, xin răn đe các châu huyện không được ép buộc dân nhận tiền. Tô Thức cũng dâng tấu xin bãi bỏ hoàn toàn. Quang bấy giờ mới tỉnh ngộ, bèn gắng gượng bệnh vào chầu, tranh luận trước rèm rằng: “Không biết là kẻ gian tà nào đã khuyên bệ hạ khôi phục việc này!” Thuần Nhân biến sắc, lùi lại đứng im không dám nói. Tiền Thanh Miêu bèn bị bãi bỏ, không phát nữa. Vương Nham Tẩu và các quan nói rằng vị đại thần được nhắc đến thực ra là chỉ Thuần Nhân.
(Theo lời của Lưu An Thế được Hàn Quán ghi lại: Ôn công và Hoàng môn công đạo hợp chí đồng, không có ý kiến khác biệt. Chỉ có Phạm Nghiêu Phu muốn thực hiện thất sắc tiền, khôi phục một phần phép miễn dịch. Ôn công đang bệnh, tự gắng gượng ra ngoài, trước rèm tâu rằng: “Tiểu nhân muốn dùng việc thiếu tiền để lay động triều đình, khôi phục một phần phép miễn dịch.” Không biết là chỉ ai? Nghiêu Phu biến sắc, lùi lại đứng im, cuối cùng không dám nói. Sau này Nghiêu Phu bị cách chức, là do tờ sớ của An Thế, và cũng liên quan đến việc trước. Theo tờ sớ hặc tội Phạm Thuần Nhân của Lưu An Thế vào cuối tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 4, thì Thuần Nhân xin cho các châu huyện ngoài việc giữ lại một nửa số tiền và thóc thường bình, vẫn phát tiền lãi Thanh Miêu như cũ, chứ không phải muốn thực hiện thất sắc tiền và khôi phục một phần phép miễn dịch. Hàn Quán nhớ nhầm, nay không theo. Chỉ dụ ngày 26 tháng 4, ghi chú đầy đủ ở ngày đó. Sách 《Lữ Bản Trung tạp thuyết》 chép: “Thần Tông bệnh nặng không nói được, Tuyên Nhân bảo rằng, ta muốn thay ngươi đổi việc này việc kia, tổng cộng hơn hai mươi điều, Thần Tông đều gật đầu đồng ý, chỉ đến phép Thanh Miêu, hỏi đi hỏi lại, cuối cùng không đồng ý. Năm Hi Ninh đầu tiên, Thần Tông cùng hai vương đánh cầu trong cung, Vua hỏi: ‘Hai vương muốn đánh cược vật gì?’ Từ Vương nói: ‘Thần không đánh cược vật gì khác, nếu thần thắng, chỉ xin bệ hạ bãi bỏ tân pháp.'”)
[43] Thái hoàng thái hậu dụ bảo các phụ thần rằng: “Các quan ngự sử và gián quan tâu rằng, gần đây việc bổ nhiệm có nhiều điều không đúng.” Tư Mã Quang nói: “Triều đình gần đây ban chiếu cho các quan cử người có thể đảm nhiệm chức giám sát. Đã lệnh cho mỗi người cử người mình biết, tất sẽ thử dùng, đợi khi họ không làm tròn chức vụ, sau đó sẽ cách chức, cũng có thể đồng thời trị tội người cử.” Lữ Công Trước nói: “Việc cử quan tuy là giao cho người khác, nhưng cũng cần các quan chấp chính xem xét nhân tài, chọn người có thể dùng để thử.” Quang nói: “Từ trước đến nay, các quan chấp chính chỉ chọn người mà họ cho là tốt trong số những người được cử để dùng, còn lại đều bỏ qua, có bao giờ xem xét kỹ càng đâu?” Hàn Duy nói: “Lời Quang nói không đúng. Triều đình tuyển chọn kỹ lưỡng các sĩ đại phu, chọn bảy tám người làm chấp chính, há có thể nói việc tuyển chọn là vô ích, mà chỉ tin vào lời người cử? Hơn nữa, hình phạt chỉ có thể áp dụng sau khi sự việc đã xảy ra. Nay không xem xét trước, đợi đến khi họ không làm tròn chức vụ rồi mới phạt, thật là mất hết đạo lý.” Lý Thanh Thần nói: “Nếu đợi đến khi họ không làm tròn chức vụ rồi mới cách chức, ắt sẽ có người chịu hậu quả.” Công Trước nói: “Gần đây việc bổ nhiệm có nhiều sai sót, cũng do bị hạn chế bởi tư cách.” Duy lại nói: “Quang quá câu nệ về tư cách, nếu tuyển chọn sai người mà chỉ giữ nguyên tắc tư cách, thì để làm gì?” Quang lại nói: “Tư cách há có thể thiếu được?” Duy lại nói: “Tư cách chỉ có thể áp dụng trong việc thăng chức, còn việc đề bạt nhân tài, há có thể bị ràng buộc bởi tư cách?”
[44] Thị lang Lại bộ kiêm Thị giảng Phó Nghiêu Dũ, vì chức vụ nhiều việc và mắt bị bệnh, xin từ chức Thị giảng. Tư Mã Quang xin đổi Nghiêu Dũ làm Thị độc, và dùng Trứ tác lang Phạm Tổ Vũ kiêm Thị giảng. Tổ Vũ là con rể của Lữ Công Trước, xin tránh hiềm nghi. Quang tấu: “Tể tướng không nên vì hiềm nghi riêng mà bỏ qua việc công.” Hàn Duy tấu: “Triều đình tuyển chọn chấp chính, vốn là để tiến cử người hiền tài, nay lại vì chấp chính mà cản trở việc dùng người, không nên. Hiện nay nhân tài khó kiếm, may mà có người có thể dùng, lại vì chấp chính mà phải từ chức. Nếu bảy tám chấp chính đều tránh hiềm nghi riêng, sẽ rất cản trở con đường tiến thân của người hiền, lại còn để lại nhiều dấu vết, không phải là đạo lý công bằng.” Vì vậy, Tổ Vũ được kiêm chức Thị giảng.
[45] Hữu chánh ngôn Vương Địch tâu: “Thần trộm thấy năm nay tháng 2 nhuận ngày 5 có chiếu, xét lại ân xá ngày 6 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8, trước đó các quan và người các hạng phạm tội, nay đến dâng trạng tố cáo[12], căn cứ án đã theo phép cách, xét trong đó có tình tiết đáng thương xót hoặc việc liên quan đến oan ức, hợp lẽ nên khoan giảm, giao quan xem xét tâu lên. Cùng chiếu ngày 15 tháng 3 năm nay, các quan và người các hạng phạm tội trước ân xá hợp lệ tố cáo, hạn trong nửa năm dâng trạng. Thần nghe rằng từ khi có chỉ dụ trên đặt cục đến nay, phàm những người có tình tiết đáng thương xót, việc liên quan đến oan ức, được minh oan rất nhiều. Trong ngoài nhân tình đã biết triều đình thương xót oan ức, nên hiện nay người tố cáo chưa dứt, mà sắp hết hạn nửa năm, thần e rằng người oan khuất ở xa, nghe chiếu muộn, chưa kịp tự trình bày còn nhiều. Thần xin chỉ hạ cho Sở Tố Lý, lại gia hạn thêm ngày, để người oan khuất đều được rửa oan, có thể mở rộng ân đức của thánh thượng, cảm triệu khí hòa.”
[46] Phiến vàng dâng lên nói: “Theo lệnh công thức của nguyên phong, các chiếu thư ân xá cho phép quan viên được kêu oan về những lỗi lầm đã qua, từ ngày ban chiếu ân xá, nếu quá hai năm mà nộp đơn thì không được tiếp nhận. Tức là chiếu thường xá cho phép quan viên kêu oan, Hình bộ vẫn hạn trong hai năm, nếu thuộc ân xá ngày 6 tháng 3 năm nguyên phong thứ 8, Hình bộ phải đợi đến ngày 6 tháng 3 năm sau mới không tiếp nhận đơn. Về thời hạn của Tố lý sở hiện nay, xin được theo lệnh trước mà gia hạn đến hết ngày 5 tháng 3 năm nguyên hữu thứ 2[13]. Như vậy thì những người đã được Hình bộ quyết định không được xóa án, Tố lý sở sẽ xem xét và thi hành.” Chiếu gia hạn thời hạn của Tố lý sở đến hết ngày 5 tháng 3 năm nguyên hữu thứ 2.
(Cựu lục chép: Trước đó, chiếu đến ngày tiên đế băng hà tháng 3 năm nguyên phong thứ 8, các nghị sĩ căm phẫn, gian thần muốn che đậy sai lầm nên lại thay đổi. Tân lục biện rằng: Việc Tố lý sở trước đó, cắt từ trước khi Triết Tông lên ngôi đại xá, sau đó sau khi ân xá lại có người kêu oan nên lại gia hạn hai năm, việc này rất rõ ràng. Cho rằng đó là ngày tiên đế băng hà là sai. Từ “trước đó” đến “thay đổi” 31 chữ đều bỏ đi. Xét việc gia hạn thời hạn Tố lý là theo tấu xin của Vương Địch, Tân lục dường như chưa xét kỹ, nay ghi rõ.)
[47] Hộ bộ tâu: Án sát ty sự vụ trà thành đô phủ và các lộ tâu xin trước hết bãi bỏ đô trà trường bán buôn trong thành phủ thành đô, chỉ cho các châu huyện sản xuất trà nơi đặt trường trước đây, theo như trước khi đặt đô trà trường, được tự do buôn bán. Theo đó.
[48] Thái bộc tự tâu: Chủ bạ hai viên của bản tự chỉ là kiểm tra sổ sách, không có việc gì, xin cho quản lý chung việc của tự. Theo đó. Các tự, giám khác cũng theo đó. Riêng Thái thường tự, Quốc tử giám chủ bạ chỉ quản lý việc tạp vụ.
[49] Chiếu: “Sau khi lễ minh đường hoàn tất, ngự ở cửa Tuyên Đức, ban ân xá, các đội ngựa và đội bộ của Ngự long trực, vì chưa nghe nhạc, không cần dẫn trình.”
[50] Chiếu cho Kinh lược ty lộ Phu Diên: “Nếu nước Hạ có thủ lĩnh truyền đạt tin tức, có ý muốn quy phụ nhà Hán, thì nên thuyết phục rằng nước Hạ đã cung thuận nộp khoản, tất không thu nhận. Nếu tướng lĩnh bộ tộc đến đầu hàng, cũng theo đó khéo léo thuyết phục để họ quay về. Nếu số người đông, không chịu nghe theo, thì tùy lượng người và ngựa mà đưa ra khỏi biên giới nhà Hán.” Và hạ lệnh cho các lộ Kinh lược ty khác, đều tuân theo chỉ thị này.
(Sách 《Cựu lục》 chép: Người Hạ về nước, trước đây cho phép thu nhận, nên họ không bị giết. Từ đó về sau, khi bị đưa về, phần lớn không được toàn mạng. 《Tân lục》 đã bỏ đoạn này, nay theo 《Tân lục》.)
- Khảo xét phép thường bình thương: trong 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 54, tờ bạch tráp 'Khất sấn thời thu địch thường bình hộc đẩu' có chữ 'cựu' dưới chữ 'khám hội'. Theo đó, khi biến pháp thời Hi Ninh, vì phép thường bình thương cũ không tốt, nên lấy tiền mua lúa làm tiền thanh miêu phát cho dân, bắt họ trả lãi hai phần. Tư Mã Quang ở đây so sánh hai phép cũ và mới, nên có chữ 'cựu' là hợp lý hơn. ↵
- Đã định ra ba bậc giá: chữ 'đẳng' nguyên là chữ 'niên', căn cứ theo sách trên và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 110, mục Thường Bình sửa lại. ↵
- Lại giao cho đề điểm hình ngục thường xuyên đốc thúc giám sát: chữ 'thiết' nguyên là chữ 'bình'. Khi biến pháp thời Hi Ninh, đặt quan đề cử thường bình, đến thời Nguyên Hựu khôi phục phép cũ đều bãi bỏ; dưới có câu 'lại giao cho đề điểm hình ngục thường xuyên giám sát', chữ 'bình' là sai, nay căn cứ theo 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 sửa lại. ↵
- Nguyên văn 'bảy tám phần', căn cứ vào các bản và 《Tống sử》 quyển 342, 《Tống hội yếu》 Thực hóa 57-10, sửa thành 'bảy phần'. ↵
- Nhà giàu khéo léo mua với giá rẻ, chữ 'Phú' nguyên là 'Súc', theo bản khác sửa lại. ↵
- Chí hướng là thương dân và làm lợi cho người, chữ 'Tại' nguyên bản thiếu, theo bản khác và văn dưới bổ sung. ↵
- việc thăng chức hoặc bổ nhiệm chức vụ 'quan thăng' nguyên là 'khuyết thăng'. Xét 'quan thăng' là thuật ngữ chuyên môn trong việc khảo công quan trường thời Tống, 《Tống sử》 quyển 158, chí tuyển cử có ghi chép về văn thần quan thăng cách và vũ thần quan thăng cách, nay sửa lại. ↵
- lo rằng các châu huyện không hiểu ý triều đình, chữ 'lo' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản và 《Ôn Quốc Văn Chính Tư Mã Công Văn Tập》 quyển 54, bản trắng sớ xin ràng buộc châu huyện không ép buộc tiền thanh miêu bổ sung. ↵
- hoặc mở bán thẻ rượu 'mở', trong 《Đông Ba tấu nghị》 quyển 3, bài 'Khất bất cấp tán thanh miêu tiền hộc trạng' viết là 'quan'. ↵
- so với phép thời Hi Ninh vốn không khác mấy 'phép vốn' nguyên đảo ngược, căn cứ theo sách trên và các bản khác, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 110, phần Thanh miêu đã sửa lại. ↵
- 'Từ nay về sau không được phát nữa' chữ 'hậu' nguyên bản là 'tòng', chữ 'tán' nguyên bản là 'tiền', văn nghĩa không rõ, căn cứ theo đoạn trên ngày Kỷ Sửu trong tấu của Tô Thức 'Tiền thóc thanh miêu từ nay về sau không được phát nữa' và sách 《Đông Ba Tấu Nghị》 mà sửa. ↵
- Chữ 'nay' trên nguyên bản thừa chữ 'lệnh', theo bản khác mà bỏ. ↵
- Xin được theo lệnh trước mà gia hạn đến hết ngày 5 tháng 3 năm nguyên hữu thứ 2, chữ 'canh' nguyên là 'văn', theo bản trong các và chú văn sửa lại ↵