VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 386: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)
Bắt đầu từ ngày Ất Tỵ tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 8, ngày Ất Tỵ, Lục bộ tâu: “Hoàng đế hỏi thăm sức khỏe Hoàng thái phi thì dùng thư tiên, Hoàng thái phi trả lời Hoàng đế thì dùng thư. Nay đến điện Minh Đường, nên dùng nghi lễ cao nhất.” Vua nghe theo.
[2] Ngày Bính Ngọ, ra chiếu: “Sắp tới lễ Minh Đường, Hình bộ để lại một viên lang quan không phải đến nhận lời thề, chuyên lo xử lý các văn bản về xử án, còn phần ban thưởng thì chiếu theo lệ cấp. Từ nay về sau đều làm theo như vậy.”
[3] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần năm nay tháng hai từng dâng lời, triều đình mới thi hành pháp sai dịch, trong đó nha tiền là việc nặng nhọc nhất, dân gian khổ sở, nên dùng tiền bán phường trường cùng tiền dịch do phường quách, quan hộ, tự quan, đơn đinh, nữ hộ đóng góp, xem xét giảm bớt để thuê mướn nha tiền, nhằm tránh cho dân khỏi nạn dịch nặng. Sau đó được triều đình sai anh thần là Tô Thức xem xét định lại pháp dịch, Thức bàn luận cùng thần không khác, dẫn đến bất đồng với bản cục, xin từ chối, được triều đình chấp thuận, thần vì mối hiềm huynh đệ, chưa dám bàn thêm.
Nay nghe Giám sát ngự sử Trần Thứ Thăng tâu, pháp dịch đại thể chưa định, lòng người hoang mang, xin ban lệnh cho cơ quan xét định pháp dịch nhanh chóng bàn định các hạng người nên sai, nên thuê cùng quy định tiền dịch do quan hộ, tự quan, đơn đinh, nữ hộ đóng góp, thi hành trước. Còn các châu huyện tình hình khác nhau, khó xử lý ngay, đợi các nơi báo lên, xem xét quyết định. Được thánh chỉ giao cho cơ quan xét định pháp dịch. Thần xem xét lời Thứ Thăng về các hạng người nên sai, nên thuê cùng quy định tiền dịch do quan hộ, tự quan, đơn đinh, nữ hộ đóng góp, thực là điểm then chốt của pháp dịch, nên định trước.
Cơ quan xét định pháp dịch không công tâm quyết đoán, tâu rằng theo chiếu ngày 7 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất, miễn toàn bộ tiền dịch trong thiên hạ, các hạng dịch nhân theo pháp cũ trước năm Hi Ninh thứ nhất, cùng chỉ thị ngày 3 tháng 7 do Tư Mã tướng công trình bày, đại thể việc chiêu sai dịch nhân đã định. Nhưng không nói rõ việc gì nên sai, việc gì nên thuê. Về tiền dịch do quan hộ, tự quan, đơn đinh, nữ hộ đóng góp, chỉ nói chỉ thị ngày 3 tháng 7 chưa thi hành, cũng không nói rõ nên đặt quy định thế nào. Theo lời tâu này, chỉ cốt vừa lòng cấp trên. Dù là quan ngôn sự tâu lên, cũng không bàn đến đúng sai.
Huống Tư Mã Quang dù là tể tướng, nhưng trước mặt Vua gọi tên thần, lễ có phân định. Nay cơ quan xét định pháp dịch trong tờ tâu gọi Quang là Tư Mã tướng công, cốt tỏ lòng kính riêng, không nghĩ đến lễ trên dưới, cố ý suy tôn, đến mức này, mà triều đình mong họ phân biệt phải trái, đặt thành pháp, cũng khó vậy. Thần sợ thói này lan rộng, phận Vua tôi từ đây suy đồi, không chỉ hại triều đình, cũng chẳng phải cách yên ổn cho Quang. Xét các quan xét định pháp dịch đều là nho thần thị tòng, không thể không biết nghi thức triều đình, xin hỏi, trong tờ tâu không gọi tên tể tướng, theo điển pháp nào? Và hạ lệnh sớm định các hạng người nên sai, nên thuê cùng quy định tiền dịch do phường quách, quan hộ, tự quan, đơn đinh, nữ hộ đóng góp, tâu lên ban hành, để dân sớm biết pháp định, không đến nỗi hoang mang.
(Chỉ thị ngày 3 tháng 7 không thấy, e là tờ tâu của Tư Mã Quang ngày 28 tháng 6, đến ngày 3 tháng 7 mới ban ra, ngày 18 tháng 9 mới đặt pháp trợ dịch cho phường quách v.v..)
[4] Ngày Đinh Mùi, Lang trung Hình bộ Vương Chấn được bổ làm Thiếu khanh Đại Lý, (ngày 26, Vương Địch nói…, ngày 27, Lưu Chí và Thượng Quan Quân nói…). Triệu Phổ, chắt của Triệu Phổ, đang giữ chức Tả Tàng Khố Sứ Tây Kinh, được thăng làm Phó Sứ Tây Thượng Các Môn, theo lời tiến cử của Lưu Chí và các quan khác.
[5] Áp Ban Nội Thị Tỉnh Phùng Tông Đạo và Lương Duy Giản được thêm chức Câu Đương Hoàng Thành Ty.
[6] Trung Thư Thị Lang Trương Tảo vì bệnh xin từ chức chức Nghi Trượng Sứ Minh Đường, chiếu chỉ cho An Đào, Tri Xu Mật Viện, thay thế; Thượng Thư Tả Thừa Lý Thanh Thần làm Lỗ Bạ Sứ, Thượng Thư Hữu Thừa Lã Đại Phòng làm Kiều Đạo Đốn Đệ Sứ.
[7] Chiếu chỉ rằng từ nay các đội nhạc trong lễ Minh Đường không được cử hành, bãi bỏ việc ban thưởng.
[8] Chiếu chỉ cho Lại bộ từ nay tuyển chọn Tẩu Mã Thừa Thụ theo quy định cũ, chọn người không phạm tội. Lại lệnh cho Môn Hạ và Trung Thư Hậu Tỉnh soạn thảo luật mới để tâu lên.
[9] Lễ bộ tâu: “Hiệp Luật Lang Thái Thường Tự Vinh Tư Đạo tấu[1], nhạc của thiên tử nên dùng ngọc khánh, tiên đế đã chiếu cho thần chế tạo. Xin từ nay trên miếu đường, vẫn dùng biên chung và ngọc khánh để đăng ca, năm nay tế Minh Đường, có thể áp dụng ngay, để làm rõ thêm nghi lễ long trọng.” Được chấp thuận.
[10] Hộ bộ tâu: “Việc bán ruộng đất của những hộ tuyệt tự đã có định giá, xin theo cách mua bán phường trường mà bãi bỏ việc đóng dấu thực phong.” Được chấp thuận.
(Theo lời Lưu An Thế: Ngày 7 tháng 6 năm Nguyên Niên có chiếu bãi bỏ pháp đóng dấu thực phong mua bán phường trường, nhưng 《Thực Lục》 lại chép vào ngày 4 tháng 11. Nay ngày 22 tháng 8 đã chép việc theo phường trường bãi bỏ thực phong, như vậy 《Thực Lục》 có sự sai lệch trước sau, đã lấy sự việc ngày 4 tháng 11 chép vào ngày 7 tháng 6.)
[11] Chiếu chỉ rằng các Chuyển Vận Sứ và Phó Sứ của các lộ, trừ các lộ Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, Kinh Đông, Kinh Tây, Hoài Nam, Lưỡng Chiết và Thành Đô Phủ, các lộ khác được phép bổ nhiệm hai Phán Quan.
[12] Hộ bộ tâu: “Các văn trướng về tiền lương thực tại kinh đô đã gửi về bộ này, còn lại hiện do các ty Chuyển vận, Đề hình điểm xét, xin từ nay đều gửi lên bộ này, để các quan Trưởng, Phó chọn lại viên điểm xét.” Được chấp thuận.
(Tô Triệt nói: Ngày 24 tháng 7 xin giữ nguyên phép về văn trướng như cũ, đây là không theo lời ông ấy.)
[13] Chiếu cho Ôn Châu đoàn luyện phó sứ Trầm Khởi giám sát miếu Nam Nhạc.
(Sách 《Chính mục》 chép việc ngày 22[2], các sách khác không có, cần khảo cứu thêm.)
[14] Long Đồ các đãi chế, Tri Dương Châu Dương Cảnh Lược mất.
[15] Ngày Mậu Thân, Kinh Hồ Bắc lộ đô kiềm hạt và ty Chuyển vận tâu: “Các động Đại Do, Dương Khê, Cổ Thiết, Địa Lâm, Cửu Lang thuộc Thành Châu khác với việc ở Tây đạo Hồ Nhĩ, Tắc Khê, tiền lương đã chiếu theo số tiền định trước của Nguyên Châu mà cấp, nếu quan lại có thay đổi bất thường, xin theo lời tâu; và các việc cai trị, xin theo lệ trước đây của Thành Châu khi chiêu nạp các khe động quy minh. Còn Thư Thủ Cương cùng 21 người đã nhập tịch ở châu này làm việc[3], xin theo danh mục bổ nhiệm cũ và tiền lương, chiếu theo quy định của địa phương mà cấp.” Được chấp thuận.
[16] Chiếu cho các tự ngoại giám lệnh Thái Bộc tự thi hành theo phép cũ của Quần mục ty.
(Theo tấu mục của Vương Tồn, sách 《Cựu lục》 chép vào ngày 11 tháng 9 và cuối tháng, cần khảo cứu thêm.)
[17] Ngày Kỷ Dậu, anh của Hoàng thái phi là Đông đầu cung phụng quan, Thủ ký ban chi hậu Nhâm Du, được đặc cách sai làm Đồng tuần kiểm mặt Bắc ngoài thành mới ở kinh đô, không làm thành lệ.
[18] Chiếu: “Viên kiểm duyệt văn tự ở sở Biên tu hội yếu là Trần Tri Ngạn được đặc cách đổi làm quan thứ đẳng.” Theo lời tiến cử của Đặng Ôn Bá.
[19] Chiếu: “Trong quy chế thưởng về việc tuần tra thám sát ở Thiểm Tây, Hà Đông lộ vừa ban xuống, người bắt được giặc, cứ ba cấp được thăng một bậc, đổi thành hai cấp; người bị thương nặng và ba lần được thăng một bậc, đổi thành hai lần.”
(Bản mới không có đoạn này.)
[20] Chiếu rằng: “Cường đạo ở các châu huyện mà lực lượng địa phương không thể khống chế được, hoặc bọn hung ác nguy hiểm từ mười người trở lên, trước hết hãy tuyển mộ binh lính không thuộc biên chế tướng quân ở châu đó để bắt giữ. Nếu không đủ hoặc không có, thì gửi văn thư cho tướng quân tuyển mộ quân mã. Nếu không phải là nơi đóng quân của tướng phó, thì tri châu tuyển mộ, và do quan phụ trách bắt giặc thống lĩnh. Nếu quân mã từ hai trăm người trở lên, thì gửi văn thư cho một tướng phó thân hành điều động, đồng thời tâu lên triều đình. Người nào vi phạm, giao cho An phủ, Tổng quản, Kiềm hạt ty tâu lên để xử tội, và lập thành pháp lệnh.”
[21] Xu mật viện tâu: “Tướng quân kiêm chức Đô giám, vì trong công việc của Binh mã ty có những việc theo lệ phải báo cáo lên các tướng, e rằng không tiện. Và các châu quân trọng yếu ở biên giới cùng các con đường mà sứ giả đi qua, nếu cứ theo lệ mà kiêm nhiệm, thì lại giảm bớt quan võ ở địa phương, cũng lo thiếu sót công việc. Xin trừ các châu quân trọng yếu ở biên giới và các con đường mà sứ giả đi qua, không kiêm nhiệm nữa, còn các nơi khác như: Kinh Đông, Thanh châu Tướng thứ tư, Vận châu Tướng thứ năm, Tề châu Tướng thứ sáu, Tào châu Tướng thứ tám; Kinh Tây, Dĩnh Xuyên phủ Tướng thứ hai, Hà Dương Tướng thứ ba, Trần châu Tướng thứ tư, Đặng châu Tướng thứ sáu; Hà Đông, Phần châu Tướng thứ ba, Lộ châu Tướng thứ năm, Tướng thứ sáu, Tấn châu Tướng thứ bảy, Tướng thứ tám, Khả Lam quân Tướng thứ mười một; Hà Bắc, Ký châu Tướng thứ bảy; Thiểm Tây, Hà Trung phủ Phu Diên Tướng thứ tám, Vĩnh Hưng quân Kinh Nguyên Tướng thứ mười một; Hoài Nam, Bạc châu Tướng thứ nhất; Kinh Nam Tướng thứ bảy, đều cử một Phó tướng kiêm chức Đô giám ở địa phương đó. Khi phải điều động toàn bộ tướng quân, thì lệnh cho Chuyển vận ty của bản lộ xem xét, nếu hợp lệ phải cử quan quyền[4], thì chọn một quan đương chức kiêm quyền Đô giám, hoặc chọn một viên chức đang chờ bổ nhiệm, có tư cách hợp lệ để làm quan thân dân, tạm quyền sung chức, đợi khi tướng quân trở về thì khôi phục như cũ. Còn ở Tấn châu, Lộ châu, chỉ lệnh cho một tướng hạ phiên kiêm chức Đô giám.” Được chấp thuận.
(Bản mới bỏ đi.)
[22] Ngày Tân Hợi, Tể thần Tư Mã Quang tâu: “Trước đây thần tiến cử Tôn Chuẩn vì ông ấy có đức hạnh không tỳ vết, đủ tư cách đảm nhiệm chức vụ trong quán các. Nay nghe nói Chuẩn vì kiện tụng với họ nhà vợ mà bị phạt tiền, như vậy là thần tiến cử người không xứng đáng, xin chịu tội liên đới.” Vua phê trả lại tờ tấu rằng: “Chuẩn chỉ vì việc nhỏ trong gia đình mà bị phạt tiền, sao lại có tội liên đới?” Quang lại tâu: “Thần trong tờ tiến cử đã nói Chuẩn có đức hạnh không tỳ vết, nay Chuẩn trong nhà không hòa thuận, vợ lẽ cãi nhau, như vậy là đức hạnh có khuyết điểm. Đối với thần là tiến cử người không xứng đáng, thần không dám trốn tránh hình phạt. Huống chi thần gần đây đã tâu xin lập ra mười khoa, nếu có người không như lời tiến cử, thì người tiến cử phải chịu tội theo luật ‘cống cử phi kỳ nhân’. Dù là người đang giữ chức vụ quan trọng, triều đình không thể bãi chức, cũng phải giáng chức để tỏ rõ hình phạt. Thần đang giữ chức Tể tướng, tự mình đặt ra pháp luật, lại là người đầu tiên vi phạm, nếu việc này không xử lý, thì lấy gì để răn dạy mọi người? Xin theo như lời thần tâu, thi hành theo luật ‘cống cử phi kỳ nhân’, để răn đe quần thần, cẩn thận trong việc tiến cử.” Vua không nghe. Sau đó có chiếu chỉ Tôn Chuẩn không được triệu thử chức vụ trong quán các.
[23] Hữu ty gián Tô Triệt tâu: “Thần trong tháng ba đã tấu, xin lệnh cho các châu huyện phía đông cửa sông Biện báo cáo số mẫu đất bị chiếm bởi hồ chứa nước, hàng năm có được miễn giảm thuế hay không, và xem xét việc hồ chứa nước có thể bãi bỏ hay không. Nếu quả thật không thể bãi bỏ, thì nên làm thế nào để trả lại ruộng đất cho dân, tránh gây oán hận. Sau đó được triều đình chỉ thị, lệnh cho đô thủy giám cử quan viên đi khảo sát các huyện Trung Mâu, Quản Thành, xem xét số mẫu đất bị ngập nước từ trước và hiện nay, cũng như số đất đã được trả lại. Đất đã trả lại thì giao trả cho chủ cũ, đất bị nước chiếm thì dùng đất công để đền bù, nếu không có đất để đền bù thì trả lại giá trị ước tính ban đầu. Ân đức của Thánh thượng sâu dày, bỏ lợi ích cho dân, không tiếc gì, ý nghĩa rất xa. Tuy nhiên, thần nghe nói rằng đất bị nước chiếm đến nay vẫn chưa có đất công để đền bù, còn đất đã trả lại cũng vì gần hồ chứa nước, bị nước mưa ngấm vào, chưa thể canh tác được. Tri châu Trịnh là Sầm Tượng Cầu gần đây tấu rằng: ‘Từ khi Tống Dụng Thần xây dựng hồ chứa nước, chưa từng dùng nước này để dẫn vào sông Thanh Biện, dòng sông Thanh Biện vẫn đủ nước, không ảnh hưởng đến vận chuyển đường thủy, xin bãi bỏ hoàn toàn hồ chứa nước để giúp dân mất nghiệp.’ Thần nghĩ rằng nếu lời của Tượng Cầu là đúng, thì hồ chứa nước thật sự có thể bãi bỏ. Xin triều đình xem xét hai huyện này gần kinh thành, dân nghèo không nơi nương tựa, đặc biệt cử quan viên bộ Thủy không liên quan đến việc này đi khảo sát lại. Nếu quả thật như lời Tượng Cầu xin, xin ban hành chỉ thị thi hành, thật là may mắn vô cùng.”
[24] Lại nói: “Thần nghe rằng Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân dâng tấu, bàn kỹ về tệ nạn quan lại quá nhiều, đã được triều đình giao xuống cho các cơ quan xem xét thi hành. Thần thấy theo phép cũ của tổ tông, những người được bổ nhiệm do ơn huệ đều bị hạn chế đến 25 tuổi mới được ra làm quan, cùng với những người đỗ tiến sĩ, các khoa khác, sau khi mặc áo thô đều phải chờ đợi để được bổ nhiệm, ngoại trừ các chức Ty lý, Tư pháp, Huyện úy, khi mãn nhiệm đều phải chờ đợi, gặp ân điển mới được bổ nhiệm. Điều này đã có từ lâu, các quan đã quen coi là lẽ thường, dù trải qua năm tháng cũng không lấy làm lạ. Đến khi thấy triều trước lo lắng vì quan lại trong thiên hạ không thông thạo pháp luật, muốn khuyến khích họ đọc luật, nên ra lệnh những người được bổ nhiệm do ơn huệ không còn bị hạn chế 25 tuổi mới được ra làm quan, tất cả những người chờ bổ nhiệm đều không còn phải chờ đợi, và cho phép họ thi pháp luật, ai thông thạo thì được bổ nhiệm. Từ đó, quan lại trong thiên hạ đều tranh nhau học luật, việc này không phải là vô ích. Nhưng người ta đã thông thạo luật thì thi không ai không đỗ, nên những người được bổ nhiệm do ơn huệ đều được giảm năm năm, còn những người chờ bổ nhiệm không còn hạn chế, khiến Lại bộ có nhiều người nhưng thiếu chỗ bổ nhiệm, việc bổ nhiệm không thực hiện được. Nghe nói hiện nay đã dùng hết chỗ bổ nhiệm của mùa hạ và mùa thu năm Nguyên Hựu thứ tư. Tệ nạn quan lại quá nhiều cũng đã đến cực điểm.
Thần nghĩ rằng khi người ta chưa thông thạo luật, khuyến khích họ bằng cách miễn chờ đợi cũng là hợp lý. Nhưng khi họ đã thông thạo, dù không miễn chờ đợi cũng không lo họ không thông thạo. Hơn nữa, làm quan mà bắt họ đọc luật là việc đương nhiên, không phải là quá đáng. Thần cho rằng nên khôi phục lại phép chờ đợi của tổ tông, và khi mãn nhiệm, kết hợp thi pháp luật như triều trước, điều này cũng thuận tiện cho hiện tại. Xin đem lời thần trình bày giao xuống cho các cơ quan xem xét lập pháp.”
[25] Quân nói:
[26] Triều đình đặt ra quan chức, phân chia chức vụ là để trị sự. Người có tài được dùng thì chức vụ được tu sửa và công việc được trị lý; người có tài không được dùng thì công việc rối loạn và chức vụ bị bỏ phế; người có tài và không tài cùng được dùng thì chính sự không được trị lý thường chiếm một nửa. Nay các sĩ đại phu được ghi trong sổ sách, có thể nói là quá nhiều. Quan chức kinh đô từ chức Thừa vụ lang đến chức Triều nghị đại phu, tổng cộng hơn hai nghìn tám trăm người, người được tuyển chọn hơn một vạn người, đại sứ thần hơn hai nghìn năm trăm người, tiểu sứ thần hơn một nghìn ba trăm người, lấy hết các chức vụ khuyết trong thiên hạ cũng không đủ để bổ nhiệm cho số người nhập sĩ. Hoặc Lại bộ tả hữu tuyển dụng khuyết[5], quan chức kinh đô và đại tiểu sứ thần, đại để phải chờ hơn một năm, người được tuyển chọn phải chờ hơn hai năm hoặc ba năm.
Mà thứ tự khuyết xa nhất, không ai bằng người được tuyển chọn. Đại để một chức vụ khuyết, người đang tại chức và người đã được bổ nhiệm nhưng còn đang chờ xét duyệt, tổng cộng ba người. Vì vậy từ khi được thay thế, nếu không thuộc diện phải chờ thi cử, phải chờ gần một năm mới được xét bổ nhiệm, phải chờ khuyết ba năm mới nhậm chức, bảy năm mới hoàn thành một nhiệm kỳ. Quan chức kinh đô chờ thứ tự, gần một năm mới được sai khiển[6], chờ khuyết một năm rồi mới nhậm chức, năm năm mới hoàn thành một nhiệm kỳ. Đối với người thường, ba mươi tuổi mới nhập sĩ, lại mười lăm năm nữa mới được thăng chức, đến bảy mươi tuổi mới về hưu, tổng cộng chỉ hoàn thành bảy nhiệm kỳ. Huống chi ba mươi tuổi chưa chắc đã nhập sĩ, người nhập sĩ chưa chắc đều đến bảy mươi tuổi, lại có người không may vì tư lợi mà bị xử phạt, tuổi tuy đã đến, chưa chắc đã hoàn thành đủ bảy nhiệm kỳ. Vì vậy, trong số các sĩ đại phu trong thiên hạ, người có tài trị sự không đến nỗi bỏ phế chức vụ, chưa chắc đã chiếm một nửa. Giả sử có được một nửa, ngày nhàn rỗi thường nhiều, mà ngày trị sự thường ít, đó là lý do các quận huyện trong thiên hạ không được trị lý, dân chúng trong làng xóm chưa được hưởng trọn đức trạch của triều đình.
[27] Thần cho rằng muốn quận huyện được trị yên, cần phải có người tài giữ chức vụ; muốn người tài giữ chức vụ, cần phải khiến họ có ít thời gian nhàn rỗi; muốn họ có ít thời gian nhàn rỗi, cần phải làm trong sạch nguồn gốc nhập sĩ. Thần xem xét, hiện nay những người từ văn chức nhập lưu gồm bốn loại: Tiến sĩ, bổ ấm, cùng với những người nạp thóc được làm quan và lại dịch các cơ quan. Những người từ võ chức nhập lưu gồm ba loại: Võ cử, bổ ấm, cùng với lại dịch các cơ quan. Xét về tài năng và đức hạnh có thể giữ chức vụ trị sự, thì những người nạp thóc, lại dịch không bằng bổ ấm, bổ ấm không bằng Tiến sĩ, Võ cử.
Tại sao lại nói như vậy? Những người đỗ Tiến sĩ từ mười tuổi bắt đầu học, thêm mười năm nữa mới có thể nghiên cứu kinh sử, soạn thảo văn từ. Lại thêm mười năm nữa mới có thể thông hiểu học vấn, hoàn thành chí hướng, việc học của họ có thể nói là vất vả. Đến khi các cơ quan thi cử, nhất định phải chọn những người thông hiểu nghĩa lý, hơi giỏi văn từ, mới được tiến cử; lại chọn những người xuất sắc nhất, mới được dự tuyển ở Lễ bộ; lại qua thi Đình, rồi mới được ban đệ: việc chọn lựa có thể nói là rất kỹ lưỡng. Ba năm mới tổ chức một kỳ thi, tập hợp học giả trong thiên hạ đến thi ở các cơ quan, ước tính hàng vạn người, nhưng được ban đệ chỉ có khoảng năm trăm người, việc tuyển chọn có thể nói là rất khó khăn. Còn những con em quý tộc, dựa vào ân bổ của cha anh, phần nhiều kiêu ngạo lười biếng, không chịu học hành, chỉ cần hơi thông kinh nghĩa, hơi biết soạn văn từ, thì nhất định sẽ trúng tuyển. Dù cho thi nhiều lần không đỗ, đến năm ba mươi tuổi cũng được ra làm quan, so với những người Tiến sĩ chuyên tâm học hành, có chí hướng tự lập, thì có sự khác biệt. Lại dịch các cơ quan, chủ yếu làm việc văn thư, tích lũy nhiều năm ít phạm lỗi, theo lệ được làm quan. Còn những nhà hào hữu, dùng tiền của mua chức quan, tài năng và phẩm hạnh đều thấp kém, vốn không hiểu nghĩa lý. Lại không được các quan ngoại đài và quận thủ tiến cử, họ vốn tự bằng lòng với địa vị thấp kém[7], há còn có ý chí phấn đấu? So với những con em được bổ ấm, nghe lời dạy của cha anh, từ trẻ đã ra làm quan, có tâm hướng tiến, thì có sự khác biệt. Từ đó mà xét, xem xét tài năng và đức hạnh, những người có thể giữ chức vụ trị sự, thì những người nạp thóc, lại dịch không bằng bổ ấm, bổ ấm không bằng Tiến sĩ, đó là lẽ tất nhiên.
[28] Lại nói về khoa Tiến sĩ, những người được gọi là “đặc tấu danh” có năm loại, trong đó loại lạm dụng nhất chỉ cần một lần được tiến cử, chỉ cần đủ ba mươi năm là được hưởng ân điển. Khi đến thi ở triều đình, đề thi dễ dàng, số chữ giảm bớt, các quan chấm thi cũng nới lỏng, chỉ cần viết sơ sài thành văn lý, không đến mức quá sai sót, đều được xếp vào hạng tứ đẳng trở lên. Người chưa đủ bảy mươi tuổi, không cần bảo lãnh, liền được phép ra làm quan. Năm Nguyên Phong thứ tám, số người đặc tấu danh xếp hạng tứ đẳng trở lên có hơn bốn trăm người, có thể nói là quá nhiều.
Khoa Tiến sĩ từ kỳ thi thu đến thi ở tỉnh, điện, ba nơi chấm thi, trong ba nghìn người chỉ lấy năm trăm, trong đó còn có thể may mắn đỗ. Huống chi chỉ cần một lần được tiến cử, dù nhiều lần thi bị đánh trượt, tuổi cao tài kém, học thuật quên mất, so với Tiến sĩ thực sự thì cách xa nhau. Hơn nữa, học giả ở năm lộ rất ít, số người được lấy rộng rãi, chỉ cần được tiến cử một lần, dù không học hành, ngồi chờ đủ ba mươi năm là được hưởng bổng lộc. Phần lớn đều trên năm sáu mươi tuổi, đã làm quan thì ai chịu tiến cử bảo lãnh? Với khí huyết suy yếu, có tâm lý cầu may, không được tiến cử bảo lãnh, không có ý chí tiến thủ, người có thể tinh thông việc trị sự, liêm khiết giữ mình thì mười người không được một hai. Trí thức tài lực so với Tiến sĩ, vốn đã có khoảng cách. Những người được làm quan nhờ đặc tấu danh, cùng với những người được bổ nhiệm do ấm tứ hay lưu ngoại, học thuật và tài năng đều không thể so với Tiến sĩ, nhưng số người nhập sĩ thường nhiều hơn số người đỗ đạt. Cùng đến Lại bộ, Lại bộ căn cứ theo quy định không tính đến sự trong sạch hay ô trọc, tài năng cao thấp, chỉ căn cứ vào thứ tự đến bộ để bổ nhiệm chức vụ. Vì thế, số người chờ đợi thường lên đến bảy tám trăm, chờ đợi hơn hai năm mới có chỗ trống. Do đó, những người có tài năng đáng dùng, phần lớn đều nhờ đặc tấu danh mà được làm quan, cùng với những người thuộc dòng ấm tứ hay tư sử, chiếm dụng quá nhiều, chờ đợi chồng chất, ngày nhàn rỗi nhiều mà ngày làm việc ít, thường là vì lý do này. Không làm trong sạch nguồn gốc, muốn quan chức không bị lạm dụng, người tài được tiến cử, là điều không thể.
Thần cho rằng trong bốn loại lạm dụng này, có loại có thể bãi bỏ, đó là việc nộp thóc để được làm quan. Có loại có thể hạn chế, đó là đặc tấu danh và ấm tứ tư sử. Thần nghe nói từ năm Gia Hựu thứ tư trở đi, số người đặc tấu danh chỉ khoảng một trăm mười người, từ năm Trị Bình đến năm Hi Ninh thứ ba chỉ có một trăm lẻ ba người, từ năm Hi Ninh thứ sáu đến nay, mỗi lần ban ân điển nhập sĩ không dưới bốn năm trăm người. Thần xin tham khảo theo lệ cũ của tổ tông, phải thực sự từng đạt được văn giải hoặc qua thi điện một số lần, mới được phép dự thi ở tỉnh. Thực sự đạt được văn giải và qua thi điện một số lần, mới được phép dự thi ở điện, văn lý hơi ưu tú mới được xếp vào hạng tứ đẳng trở lên, mỗi hạng giới hạn số người không quá một số lượng nhất định. Những người xếp ngoài hạng tứ đẳng, không tính vào hạn tuyển chọn. Những người từng được tiến cử một lần, dù đủ ba mươi năm, cũng không nằm trong hạn ân điển. Vì những người từng đạt được văn giải hoặc qua thi điện nhiều lần, ắt phải có chút văn học, không đến mức trống rỗng. Hạng tứ đẳng trở lên giới hạn số người, thì các quan chấm thi sẽ không lấy quá nhiều, như vậy có thể phần nào cải cách được tệ nạn đặc tấu danh.
[29] Thần lại thấy quan nhiếp chính ở Quảng Nam, lấy những người từng được tiến cử hai lần ở địa phương đó để tạm làm chức Bạ, Úy, một nhiệm kỳ không phạm lỗi thì được chính thức bổ nhiệm. Tuy nói là ưu đãi sĩ nhân phương xa, nhưng sự may mắn quá mức, nếu tăng thêm số lần tiến cử, thì có thể giảm bớt sự tràn lan trong việc nhập lưu. Thần cho rằng người làm quan thời xưa được hưởng lộc đời đời, là để cho con cháu một người được hưởng lộc mà thôi. Điều mà người đời chê trách, là bỏ rơi con cháu người hiền, dứt tuyệt dòng dõi công thần. Nay các quan hưởng lộc, từ chức Đại phu trở lên, khi mới thăng lên Đại phu, liền được tấu bổ một người con em, sau đó qua hai lần ân điển tế giao và ngày về hưu, đều được phép tấu ấm. Những người làm Đại phu trở lên, thời gian lâu dài, thường tấu tiến nhiều đến mấy người. Những người liêm chính cẩn thận, không phạm lỗi, tích lũy ngày tháng mà thăng lên Đại phu, chưa chắc đã có công lao và hiền đức. Bổ nhiệm con em một hai người, để sủng ái hậu thế, đã là quá hậu rồi! Thần muốn xin từ chức Lưỡng tỉnh, Lưỡng chế trở xuống đến Đại phu, số lượng tấu bổ nên giảm bớt, hạn chế nhiều ít, thì có thể ngăn chặn sự lạm dụng của tư ấm.
Các lại dịch trong trăm ty tích lũy công lao ngày tháng, đại để phải đến hai mươi năm mới được ra làm quan. Duy chỉ có lại dịch ở Tam tỉnh là may mắn nhất, mỗi khi kiểm tra văn thư các nơi, được thưởng giảm năm, ra làm quan rất nhanh. Những người không muốn ra làm quan, ngồi xử lý công việc, đến chức Quận thủ, nên giảm bớt, không quá hậu, thì có thể giảm bớt tệ nạn của tạp lưu. Bốn tệ nạn đã giảm bớt, thì nguồn gốc nhập sĩ sẽ trong sạch, mà người có tài đức sẽ không phải chờ đợi lâu. Không phải chờ đợi lâu, thì ngày làm việc nhiều, mà chức nghiệp không gì không hoàn thành. Thần nghe nói đặt quan chức là vì dân, nay nếu giảm bớt lộc hư thụ, để nuôi dưỡng lại dịch hại dân, dung túng kẻ bất tài, để cản trở người có tài tiến thân, há phải là ý nghĩa đặt quan vì dân sao? Mong bệ hạ minh chiếu cho các quan bàn bạc tìm hiểu tệ nạn quan lại tràn lan, làm trong sạch nguồn gốc nhập sĩ, để hạnh phúc cho thiên hạ, thực không phải là điều bổ ích nhỏ.
(Ngày 6 tháng 10, Vương Địch nói như vậy, có thể tham khảo.)
[30] Quân lại nói:
[31] Thần nghe rằng quan là để trị sự, chưa từng nghe việc ít mà quan nhiều, lại là để hành văn thư, chưa từng nghe văn thư ít mà lại nhiều. Nay ở kinh sư, các cơ quan trăm việc, số lại nhàn rỗi không đâu bằng sáu bộ, mỗi năm bổ nhiệm quan chức không biết bao nhiêu, mà chi phí lương lại lên đến bốn mươi vạn. Quan nhàn rỗi hao tốn tiền của, tháng tăng năm tích, nếu các cơ quan cứ dung túng mà không dám bàn luận, triều đình cứ theo lệ cũ mà không nghĩ đến cắt giảm, thì tệ hại về sau sẽ không bao giờ chấm dứt.
Số lại nhàn rỗi ở sáu bộ, thần không thể kể hết, xin trình bày một hai việc để suy ra phần còn lại. Thần thấy rằng việc ở sáu bộ, đơn giản nhất không đâu bằng bộ Binh, bốn ty từ chủ sự trở xuống đến thiếp ty tổng cộng một trăm mười chín người. Bộ Binh mỗi ngày tiếp nhận việc mới, đại để nhiều nhất chỉ bốn năm mươi việc hoặc sáu bảy mươi việc, ít nhất chỉ một hai mươi việc hoặc ba mươi việc. Việc tiếp nhận văn thư phê duyệt từ Đô tỉnh, ít nhất chỉ một hai việc hoặc ba bốn việc, nhiều nhất chỉ hơn mười việc. Mà lại viên bộ Binh, từ chủ sự đến thiếp ty tổng cộng năm mươi tám người, đại khái tính ra, mỗi ngày phân công việc, mỗi người nhiều nhất chỉ hơn mười việc, ít nhất chỉ ba năm việc. Lại nữa, việc phải làm chỉ là dân binh, sương quân, nhai ty và việc phong quan cho các hộ thuộc phiên di mà thôi. Ty Chức phương mỗi ngày tiếp nhận việc mới, đại để nhiều nhất chỉ hơn mười việc, ít nhất chỉ ba năm việc. Việc tiếp nhận văn thư từ Đô tỉnh, trong mười ngày hoặc bốn năm ngày không có gì, hoặc chỉ một hai việc. Mà lại viên ty Chức phương, thủ phân và thiếp ty tổng cộng tám người, mỗi người phân công việc chỉ một hai việc, việc phải làm chỉ là việc bãi bỏ hoặc khôi phục châu huyện, phiên di quy thuận và bản đồ thiên hạ mà thôi.
Ty Khố bộ mỗi ngày tiếp nhận việc mới, nhiều nhất chỉ ba bốn mươi việc, ít nhất chỉ một hai mươi việc. Việc tiếp nhận văn thư từ Đô tỉnh, chỉ một hai việc. Mà lại viên ty Khố bộ, thủ phân và thiếp ty tổng cộng mười tám người, mỗi người phân công việc chỉ một hai việc, việc phải làm chỉ là quân khí, nghi trượng, đồ dùng phòng thành mà thôi[8]. Xét ba bộ này, việc tiếp nhận văn thư đã ít, lại việc phải làm phần nhiều theo lệ cũ, không đến nỗi phải tốn sức tra xét, xem xét đi xem xét lại. Từ đó mà xem, lại viên nhàn rỗi, có thể thấy rõ. Trước đây, trước khi thi hành chế độ quan chức, lại viên ba ty chỉ hơn sáu trăm người, từ khi thi hành chế độ quan chức, việc ba ty phân tán vào các bộ khoảng ba bốn phần mười, mà lại viên bốn ty bộ Hộ tổng cộng bốn trăm tám mươi bảy người, như vậy là việc ít mà lại nhiều. Từ đó suy ra, lại viên nhàn rỗi ở các bộ khác cũng có thể thấy rõ.
[32] Thần trộm nghĩ rằng chính sự có sự thay đổi, tùy theo thời điểm; pháp luật có sự thêm bớt, tùy theo sự việc. Khi mới thiết lập quan chế, mỗi việc đều phải tạo dựng, sổ sách rối rắm, việc di chuyển và báo cáo đáp ứng gấp bội, hao tổn tâm lực, nên không thể không đặt nhiều lại sử để tập trung xử lý công việc. Nay quan chế đã thực hiện được sáu bảy năm, kỷ cương đã được thiết lập, các việc đã ổn định, lại có việc đã được giảm bớt, hoặc chuyển về cơ quan khác, nhưng số lượng lại sử vẫn như cũ. Thần xin lấy một hai việc để nói. Trước đây, Hữu tào của Hộ bộ vì phụ trách nhiều việc, do quản lý Ty Thường bình, nên số lại sử lên đến tám mươi bốn người. Nay thì trợ dịch đã đổi thành sai dịch, châu huyện đã có quy định rõ ràng, thanh miêu đã bãi bỏ không phát, thủy lợi cũng không thực hiện, nợ nần về miêu dịch đều được miễn trừ, nên việc mà Hữu tào phụ trách đã giảm đi bảy tám phần. Trước đây, Binh bộ vì phụ trách nhiều việc, do quản lý nghĩa dũng và bảo giáp, nên số lại sử lên đến năm mươi tám người. Những năm gần đây, nghĩa dũng và bảo giáp đã chuyển về Xu mật viện, nên việc mà Binh bộ phụ trách đã giảm đi một hai phần.
[33] Pháp luật được đặt ra tùy theo sự việc, sự việc khác nhau thì pháp luật cũng thay đổi theo; quan lại được bổ nhiệm dựa trên sự việc, sự việc giảm bớt thì số lượng quan lại cũng nên giảm theo. Nay pháp luật đã thay đổi, sự việc giảm bớt nhưng số lượng quan lại vẫn như cũ, điều này không phải là cách để loại bỏ quan lại thừa thãi và tiết kiệm chi tiêu quốc gia. Hơn nữa, bổng lộc của quan lại không muốn giảm dần, mà số lượng quan lại thừa thãi cũng không được cắt giảm, thì những tệ nạn hao tốn tài sản và cản trở người hiền tài sẽ không bao giờ được loại bỏ.
Thần cho rằng việc hiểu rõ sự phức tạp, đơn giản, khó khăn hay dễ dàng của công việc trong các bộ, không ai thấu hiểu hơn các quan chức trưởng bộ. Xin đặc biệt ban chiếu cho các Thượng thư và Thị lang của Lục bộ, xem xét kỹ lưỡng số lượng quan lại hiện tại, yêu cầu các Lang quan của từng bộ tự mình xem xét chi tiết, tùy theo sự việc mà cắt giảm, đảm bảo số lượng quan lại phù hợp với công việc, nhiều ít thích đáng. Sau khi bàn bạc xong, lại yêu cầu Tả Hữu ty và các quan chức của hai tỉnh cùng tham gia xem xét lại, để đảm bảo sự chu toàn. Sau khi đã cắt giảm, ấn định số lượng mới, thì những người đang tạm quyền có thể bãi nhiệm, những chỗ khuyết không cần bổ sung, những người đang làm việc thì tạm thời giữ nguyên, và điều động bổ sung vào chỗ khuyết của bộ khác, hoặc nếu không có chỗ khuyết để bổ sung thì đợi đến khi có chức vụ mới, không cần bổ sung thêm. Nếu thực hiện như vậy, sau mười năm, số lượng quan lại sẽ giảm đáng kể, lợi ích của việc tiết kiệm quan lại và chi tiêu chắc chắn sẽ thấy rõ. Thần cho rằng triều đình khi thay đổi pháp luật, nên lấy nghĩa làm chủ, nếu chỉ vì lo lắng những lời bàn tán của thế tục mà muốn mọi người đều được thuận tiện và yên ổn, thì tệ nạn sẽ không bao giờ được loại bỏ, pháp luật cũng không thể được thiết lập. Mong bệ hạ xem xét nghĩa lý và thời thế, quyết đoán thực hiện, thiên hạ sẽ rất may mắn.
(Theo tấu nghị của Quân, quyển thứ chín, được thêm vào. Cuối tháng 3 năm thứ hai, Quân lại dâng sớ. Ngày 1 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 5 thi hành chế độ quan lại[9], nói rằng chế độ quan lại đã được thực hiện sáu bảy năm, nên tấu này chắc chắn là năm Nguyên Hựu thứ 2 hoặc thứ 3, không phải năm đầu. Nay tạm thời ghi sau phần nói về quan lại thừa thãi. Ngày 23 tháng 9, Tô Thức có nói…, ngày 26 tháng 10 năm thứ 3, Trạch Tư có nói…, có thể tham khảo thêm. Chế độ quan lại tuy được thi hành từ ngày 1 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 5, nhưng việc bàn bạc thay đổi đã có từ trước đó, nên chỉ ghi thêm ở đây là hợp lý.)
[34] Hôm đó, Tô Triệt lại tâu: “Thần nghe nói các lộ đã định xong phép dịch, hạn ngày đã hết, gần đây các văn thư từ Quỳ Châu và các lộ khác liên tiếp gửi đến, đã lần lượt trình lên thi hành. Thần nghĩ rằng phép dịch của các lộ liên quan đến lợi hại của dân chúng rất sâu rộng, tuy sự thể mỗi lộ khác nhau, điều khoản cũng không giống nhau, nhưng đại ý của triều đình khi thay đổi phép tắc là thuận tiện cho việc thi hành, nên những điều gọi là hải hành điều quán không thể không giống nhau. Thần e rằng cơ quan tường định phép dịch vì nóng lòng thi hành, mỗi khi nhận được văn thư từ các lộ, không chờ tập hợp tham khảo để thấy rõ thể diện của các lộ, liền lập tức thi hành ngay. Do đó khiến phép dịch của các lộ đại thể không đồng đều, khiến dân chúng trong thiên hạ không được hưởng ân trạch của thánh thượng một cách công bằng. Xin hạ lệnh cho cơ quan này đợi các văn thư từ các lộ gửi đến tương đối đầy đủ, thấy rõ phép dịch của các nơi không quá khác biệt, rồi mới ban hành.”
[35] Hữu chánh ngôn Vương Địch tâu: “Thần trộm nghe rằng, yếu lĩnh của việc trị nước không gì quan trọng hơn việc dùng người. Vì thế, sách xưa có nói: ‘Chỉ có trị loạn là ở nơi các quan, quan không được dùng người thân cận riêng tư, chỉ dùng người có tài năng; tước không được ban cho kẻ ác đức, chỉ dùng người hiền đức.’ Từ xưa đến nay, những người trị nước há chẳng muốn dùng toàn người hiền đức, tài năng để trao quan tước sao?
Chỉ vì tư tình che mắt, nên kẻ bất tài đôi khi lại được coi là có tài. Điều ác khó nhận biết, nên kẻ bất hiền đôi khi lại được coi là hiền đức. Đó là lý do quan tước không thể đều trao cho người hiền đức, tài năng, và việc trị loạn cũng không thể không khác nhau. Thần trộm thấy gần đây việc bổ nhiệm quan chức phần nhiều không hợp với công luận. Giám ty là nơi liên quan đến sự an nguy của sinh linh một lộ và trăm thành quan lại, há có thể tùy tiện trao cho người không xứng đáng?
Thế mà những kẻ tầm thường bất tài như Vương Công Nghi, ngu muội vô sỉ như Thịnh Nam Trọng và Giả Thanh, kết bè đảng gian tà như Trình Cao, làm nô bộc cho Lý Hiến như Tôn Lộ, đều được bổ nhiệm vào chức vụ đó. Như vậy, sự an nguy của sinh linh một lộ và trăm thành quan lại lại phụ thuộc vào những kẻ này, há chẳng đáng thương xót sao! Huống chi, việc bệ hạ dùng Giám ty không thể nói là không cẩn thận. Đã giao cho chấp chính lựa chọn, lại sai thị thần tiến cử, người được dùng lẽ ra đều phải là người xứng đáng. Thế mà công luận vẫn không đồng tình, ấy là vì việc nhận biết con người vốn đã khó từ lâu, không chỉ riêng ngày nay.
Nay thị thần tuy tiến cử, nhưng giữa tài năng và bất tài, há chẳng có chỗ nghi ngờ sao? Chấp chính nên xem xét kỹ rồi mới dùng. Chấp chính tuy đã dùng, nhưng giữa hiền đức và bất hiền, há chẳng có chỗ nghi ngờ sao? Quan ngôn sự nên nắm lấy công luận mà bàn luận. Lời nói của quan ngôn sự nếu thật không sai, thì bệ hạ cứ thi hành, có gì phải nghi ngờ? Nếu cho rằng thị thần đã tiến cử rồi, chấp chính không nên xem xét lại, dù người đó không xứng đáng cũng vẫn dùng; chấp chính đã dùng rồi, quan ngôn sự không nên bàn luận nữa, dù lời nói đúng cũng bỏ qua. Như thế mà muốn dùng người xứng đáng, há chẳng khó lắm sao? Nay hai thánh lâm triều, quần thần phụ chính, lẽ ra không nên có tệ nạn này. Thần chỉ thấy gần đây việc bổ nhiệm phần nhiều không đúng, mà quan ngôn sự bàn luận cũng không được thi hành, nên trộm nghi ngờ, đây không phải là phúc của triều đình.
Thần trước đây nghe nói bổ nhiệm Hình bộ lang trung Vương Chấn làm Đại Lý thiếu khanh, từ lang quan lên thiếu khanh tuy không phải thăng chức, nhưng Chấn làm quan Đại Lý đã lâu, khi Dương Cấp làm khanh, nhân lúc mãn nhiệm, lại tiến cử làm Đại Lý chính. Chấn xảo quyệt sâu sắc, được Dương Cấp và Thôi Đài Phù yêu mến tin dùng. Những vụ án mà Dương Cấp và Thôi Đài Phù xử lý, phần nhiều nhờ sức của Chấn. Trước đây làm lang quan đã khiến dư luận kinh ngạc, nay lại để ông ta xử án, không chỉ sợ thói cũ tái phát hại người lương thiện, mà dư luận còn cho rằng triều đình lại dùng lại khốc lại làm Đình úy, không phải là cách để an lòng dân.
Thần ngu muội trộm nghĩ rằng, sau Thôi Đài Phù, Dương Cấp, Vương Hiếu Tiên, nên dùng người thông hiểu kinh thuật, tính chất trung hậu làm khanh, để thiên hạ không có dân oan, mới có ích cho thánh chính. Như Chấn nên cùng Thôi Đài Phù, Dương Cấp, Vương Hiếu Tiên bị cách chức, sao có thể dùng lại được? Thần lại nghe chấp chính tiến cử chức quán, không miễn khỏi việc triệu thí, dư luận xôn xao, cũng cho rằng người đó không xứng đáng với văn quán. Chấp chính đại thần tiến cử người mình biết để ứng chiếu, há chẳng muốn dùng người tài cao đức lớn để xứng với sự sử dụng của bệ hạ sao? Chỉ vì người tiến cử không thể bảo đảm quá khứ, yêu tài năng mà không xét đến đức hạnh, nên không tránh khỏi nhiều lời bàn tán.
Thần cũng mong bệ hạ tuyên dụ chấp chính, thêm lắng nghe rồi quyết định, để sau khi triệu thí, không còn dị nghị. Thần trí thức nông cạn, há dám tự cho là biết người? Nhưng những điều thần bàn luận đều xuất phát từ công luận, mong thánh từ xem xét kỹ.”
(Địch tự chú rằng ngày 26 tháng 8, Tô Triệt nói ngày 2 tháng 8, Vương Công Nghi ngày 22 tháng 7, Trình Cao ngày 2 tháng 7, Thịnh Nam Trọng ngày 28 tháng 6, chính mục ngày 18 tháng 9 Nam Trọng nhậm chức Tri Hành Châu, Tôn Lộ ngày 12 tháng 2, Vương Chấn ngày Mậu Thìn tháng 9 lại từ Đại Lý thiếu khanh làm Hình bộ lang trung.)
[36] Ngày Nhâm Tý, Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Thần thấy Hình bộ lang trung Vương Chấn được bổ làm Đại Lý thiếu khanh. Xét thấy Chấn là người tầm thường, nhân phẩm cực kỳ thấp kém, trước đây ở Đại Lý làm thừa, làm chính, tính tình độc ác, tàn nhẫn, nổi tiếng trong thiên hạ. Vì thế mà phụng sự Thôi Đài Phù và Dương Cấp, được họ nhiều lần tiến cử. Những vụ án oan sai trước đây, Chấn đều có dính líu. Đài Phù và những người khác vì nhiều lần xử án bất công nên lần lượt bị cách chức, đuổi đi, Chấn đáng lẽ cũng phải chịu tội liên đới. Nhưng pháp luật chưa được thi hành, công luận đều bất bình. Gần đây lại vô cớ triệu ông ta từ Thư Châu về làm Hình bộ chính lang, mọi người đều lấy làm lạ và chê cười. Thần vừa định đàn hặc, nay lại vô cớ thăng ông ta lên hàng khanh. Thần nghĩ rằng bệ hạ thương xót người này, lo lắng về việc trước đây các quan ngục đã không giữ được chức phận, nên muốn thanh lọc. Trong ngoài đều trông chờ xem bệ hạ sẽ chọn ai, mong rằng sẽ chọn được người công bằng, hiểu nghĩa, chí công vô tư, để xứng đáng với ý nguyện thương xót các vụ án của thánh minh. Nay lại dùng Chấn đầu tiên, thần e rằng tệ nạn trong ngục tù sẽ còn tệ hơn trước. Kính mong bệ hạ hạ lệnh ngay, thu hồi mệnh mới của Chấn, và bãi chức sai khiển ở Hình bộ, theo lệ của Đài Phù và những người khác, đặc cách giáng chức, để phù hợp với công luận.”
[37] Thiếp hoàng nói: “Trước đây triều đình dùng Tô Tụng làm Hình bộ thượng thư, Tiên Vu Sân làm Đại Lý khanh, trong ngoài đều hiểu rõ ý của bệ hạ trong việc dùng hình pháp trị ngục. Sân tuy vì già yếu xin từ chối, nhưng người kế nhiệm lại dùng người như thế, sao gọi là được? Trong số nhiều sĩ tử, tìm một đình úy, không đến nỗi thiếu người. Mong bệ hạ thu hồi mệnh của Chấn ngay, sớm cách chức, chọn người xứng đáng để yên lòng thiên hạ.” (Ngày 27 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ nhất).
[38] Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân tâu: “Thần trộm nghĩ rằng các quan ở Hình bộ và Đại Lý, chuyên xử các vụ kiện tụng, quyết định việc sống chết, nặng nhẹ, là nơi liên quan đến sự công bằng của thiên hạ. Người đứng đầu và phó của các cơ quan này càng phải cẩn thận chọn lựa những người cương trực, sáng suốt, ngay thẳng, lương thiện để bổ nhiệm, thì hình phạt mới phù hợp với tội trạng, và thiên hạ sẽ không còn người oan ức. Thần trộm thấy triều đình gần đây đã cách chức các quan Đại Lý khanh và phó là Thôi Đài Phù, Dương Cấp, Vương Hiếu Tiên, từ niên hiệu Nguyên Phong trở lại đây, vì xử các vụ án do nội đình giáng xuống, đã xét xử quá khắt khe, gò ép, khiến nhiều người vô tội bị hãm hại, nên đều bị tước quan chức, đuổi ra ngoại quận; lại thăng Tiền Lại bộ thị lang Tô Tụng làm Hình bộ thượng thư, và bổ nhiệm Thái thường thiếu khanh Tiên Vu Sân làm Đại Lý khanh. Lệnh ban ra, lòng người đều phục, thấy rõ ý triều đình thương xót dân chúng và cẩn trọng trong việc dùng người. Tiên Vu Sân đã từ chối nhận chức, mới đây lại nghe triều đình bổ nhiệm Hình bộ lang quan Vương Chấn làm Đại Lý thiếu khanh, khiến dư luận trong ngoài đều không hiểu.
Thần trộm nghe Vương Chấn là người tầm thường, tính tình khắc nghiệt, trước đây nhờ Thôi Đài Phù và Dương Cấp tiến cử làm Đại Lý thừa, xét xử các vụ án do nội đình giáng xuống, đã cùng nhau gò ép, hãm hại vô số người vô tội. Xét về tâm địa và tội trạng, thì tội ác của mấy người này khó phân biệt nặng nhẹ. Thôi Đài Phù đã bị tước quan chức, còn Vương Chấn lại được triệu từ ngoại quận về làm quan trong triều. Nay đã bao dung chưa trị tội, lại trong vài tháng, vội thăng chức, không chỉ khiến việc thưởng phạt không minh bạch, không đủ để làm lòng người phục, mà Vương Chấn vốn tính khắc nghiệt, e rằng cuối cùng vẫn không thay đổi, tiếp tục lạm quyền, làm trái pháp luật, phụ lòng nhân từ của bệ hạ. Thần xin bãi bỏ lệnh bổ nhiệm này, chọn người khác cương trực, sáng suốt, ngay thẳng, lương thiện để hợp với công luận.”
[39] Trước đó, có chiếu rằng con của Văn Ngạn Bác là Di Khánh và Cư Trung có thể bãi bỏ chức vụ ngoại nhiệm, mỗi người được bổ nhiệm chức vụ tại kinh, nếu chưa có khuyết thì thêm vào chức vụ ngoại nhiệm. Tam tỉnh muốn đặc cách bổ nhiệm Di Khánh làm Đô quan viên ngoại lang, Cư Trung làm Tông chính tự chủ bạ, đều thêm vào chức vụ ngoại nhiệm. Chiếu rằng Di Khánh trước đây từng giữ chức Đô quan viên ngoại lang, có thể thăng lên làm Tỉnh tào viên ngoại lang, Cư Trung theo lời tấu. Ngày Quý Sửu, Di Khánh được đổi làm Ty phong viên ngoại lang, sau đó Di Khánh từ chối chức vụ mới, xin được giữ nguyên chức Bạch ba liễn vận. Chiếu theo lời xin, đặc cách cho giữ thứ tự chuyển vận phán quan.
(Ngày 15 tháng 9.)
[40] Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Thần từ khi nhận tội ở ngạch giám sát, đã nhiều lần bàn về việc chọn lựa và thanh lọc các giám ty trong thiên hạ, thực sự vì chính lệnh của triều đình. Nếu giám ty có người tài, thì việc thi hành và tuyên bố chính sách sẽ đúng ý chỉ của trên và mang lại ân huệ cho dân; nếu không có người tài, thì chỉ là việc thiện suông mà thôi, cuối cùng dân chúng không được hưởng lợi. Điều mà trên ưa thích, dưới ắt sẽ làm quá hơn.
Triều đình coi trọng danh thực, thi hành chính sách kiểm soát chặt chẽ, thì dưới lại làm những việc khắc nghiệt và vội vã; triều đình chú trọng giáo hóa, thi hành chính sách khoan hậu, thì dưới lại làm những việc chậm chạp và cẩu thả; đều là do tập tục ham lợi và đón ý mà làm, nên việc làm tuy gần giống, nhưng ý nghĩa vốn không phải như vậy. Nay tuy chính sách cải cách có khác, nhưng tục lệ quan sát vẫn còn, chỉ là ý đón nhận có khác mà thôi, nhưng tác hại thì như nhau. Trước đây khi pháp sai dịch mới thi hành, giám ty đã có kẻ đón ý tranh nhau, không xét xem có thể hay không, không cân nhắc lợi hại, đều định sai dịch một cách đại khái, gây xáo trộn cả một lộ, triều đình xét ý đó, đã cách chức họ rồi. Suy ra mà xem, tình hình nhân tình đại thể cũng như vậy.
Vả lại, việc thiên hạ phân tán ở các châu[10], đều do giám ty tổng quản. Việc lớn là quản lý tài chính, xét quan lại, xử án, khảo sát nỗi khổ của dân. Những người làm sứ giả đều cố gắng làm việc một cách hòa hoãn và khoan dung[11], nếu chỉ cầu an tĩnh, thì việc sẽ trở nên uể oải không chấn chỉnh được, pháp luật sẽ bị tổn hại[12], không thể kể xiết. Trước đây cách chức và trách phạt một số người, đều vì họ thu thuế trái phép, có ý cầu tiến, hại dân quá đáng; chứ không phải muốn họ thờ ơ không hiểu chức trách, bỏ bê việc cần làm, mà gọi là khoan hậu. Kẻ ngu muội không hiểu, nên uốn nắn sai lầm có khi quá mức, vì vậy thần cho rằng tục này không thể để phát triển, cần phải nghiêm cấm.
Kính xin Thánh từ ban chiếu cho các quan thi hành chế độ khảo sát thành tích của giám ty, lấy việc thu thuế đủ hay thiếu, quận huyện siêng năng hay lười biếng, việc xử án đúng hay sai, dân tục vui hay buồn, làm tiêu chuẩn xếp hạng. Mỗi năm cuối cùng sẽ ban chiếu thưởng phạt, bắt đầu từ năm nay. Mong rằng có thể kiềm chế và chế định được, khiến người tuân thủ pháp luật không rơi vào buông lỏng, người nghiêm khắc không rơi vào bạc bẽo, từ đó trên hợp với ý của Thánh minh là dùng đạo trung dung để trị nước. Xét thời thế khoan hồng hay nghiêm khắc, chậm rãi hay gấp gáp, quan sát tục lệ quá hay không đủ, mà nới lỏng hay siết chặt chính sách, chính là việc của ngày nay.”
[41] Lại tâu rằng: “Thần trước đây theo chỉ dụ triều đình xem xét việc xử lý các tội phạm từ thời Hi Ninh trở lại đây, cùng các vụ án xét xử sau thời Nguyên Phong, những việc liên quan đến oan khuất, tình tiết đáng thương, đều cho phép tâu lên. Trong số đó có một vụ án xét xử công việc ở Thái học liên quan đến Cung Nguyên và những người khác, ngày 22 đã trình bày rõ ràng sự việc, tâu xin chỉ thị. Vì việc còn chưa rõ ràng, cần phải bàn luận thêm. Thần xét việc công ở Thái học, nguyên do là vì học sinh Ngu Phiền thi không đỗ, cuồng vọng nóng nảy, dâng thư tố cáo việc riêng của các quan học, từ đó mà nảy sinh vụ án.
Lại do quan khám án Hà Chính Thần xu nịnh, đem những việc ngoài phạm vi pháp luật trước khi có ân xá, tâu xin đều xét xử, tự tay vẽ đặc chỉ theo lời tâu. Từ đó vụ án càng thêm lớn, từ các quan thị tòng trong triều, đến các cử tử ở châu huyện, xa đến tận Mân, Ngô, đều bị bắt giam, người liên quan chứng cứ, không kể hàng trăm nghìn người[13]. Những người vô tội đều bị đánh đập, tiếng kêu gào, người ngoài nghe thấy đều run sợ. Thần nghe người bàn luận nói rằng những năm gần đây, vụ án tàn khốc oan khuất không có vụ nào như vụ này.
Những tội tham nhũng bị kết án, đa phần là lễ vật của thầy trò khi gặp mặt, trà thuốc giấy bút vật dụng hàng ngày[14], đều là việc thường trong trường học, tuy đã có pháp luật quy định, nhưng tình người vẫn theo thói cũ, chưa thể thay đổi ngay, đều bị xử tội quan lại lạm quyền, suốt đời bị phế bỏ, có thể nói là quá đáng. Trong đó tuy có người thực sự phạm tội, nhưng cuối cùng là do kẻ dưới tố cáo người trên, việc phát sinh không chính đáng, quan ngục xu nịnh, tra tấn quá đáng, nên tuy có tội, người bàn luận vẫn không cho là đúng. Huống chi các học sĩ đại phu không chịu nổi nhục hình, phần nhiều tự nhận tội hư, đều bị xử phạt nặng, thật đáng thương xót.
Thần xem xét, chỉ là căn cứ vào hồ sơ xét việc, mà các lại ngục từ trước đến nay trau chuốt văn án, chỉ sợ bị phản ánh, nên đầu đuôi chặt chẽ, đúng sai khó phân. Huống chi vụ án này do Chính Thần cầu công, dụng ý cực kỳ xảo quyệt. Nay tuy đã tâu rõ sự việc trong án, nhưng đối với sự thật mà thiên hạ biết, vẫn còn chưa rõ. Nếu không khoan dung ban ơn, tẩy sạch mọi oan khuất, chỉ dùng văn bản xem xét của quan lại, e rằng oan khuất không được giải tỏa, không đủ để đáp ứng ý nhân từ thương xót của thánh thượng. Thần ngu muội, không kìm được lòng tha thiết, mong bệ hạ đặc biệt ra quyết định sáng suốt, ban ân chỉ ưu đãi cho các quan được cử và các cử nhân trong vụ án Thái học, xóa bỏ tội danh theo thứ bậc.”
[42] Lại nói: “Hiện nay xem xét việc tố tụng, nếu trong công án thấy có tình tiết oan ức hoặc đáng thương, thì bản sở tự có thể tâu lên. Còn những việc tuy có tình tiết oan ức đáng thương, mọi người đều biết, nhưng trong án văn chặt chẽ, không thể thấy được qua việc xem xét, như vụ án này, nếu cơ quan không thể tâu lên sự thật, thì người oan không thể được minh oan. Thần đang giữ chức ngôn quan, nghĩa không thể vì sợ hiềm nghi mà im lặng, mong bệ hạ xét tình hình mà quyết định việc, không bị ràng buộc bởi phép thường, đặc biệt ban ơn xóa tội, để tỏ lòng khoan dung, xin ban chỉ đặc biệt thi hành.”
(Chí trước tâu xin lập chế độ khảo sát giám ty, sau tâu xin khoan hồng vụ án Thái học, tấu nghị liên tiếp, trước khi xin triệu Trương Phương Bình tham gia tế lễ. Lưu Phỏng và những người khác ghi chép sự thực cũng liên kết viết lại. Tân lục truyện Chí nhân sự thực ghi “Nhờ đó tội giảm nhiều”, nhưng sự thực ghi như vậy, không biết chế độ khảo sát giám ty cuối cùng có được lập hay không? Truyện và sự thực đều không nói, nay lấy cả hai chương, phụ vào cuối tháng tám, sau sẽ xem xét thêm.)
[43] Tể thần Tư Mã Quang tâu: “Nguyên chức Phương viên ngoại lang Trương Thuật thời Nhân Tông, từng bàn việc lập thái tử, nay nhà ông không có ai được hưởng bổng lộc. Chiếu: Con của Thuật là Thân Bá, đặc biệt ban chức Thái miếu trai lang. Nguyên Điện trung thị ngự sử lí hành Trần Chu, cũng từng dâng tấu xin lập thái tử, quên mình vì nước, tiếp tục đến chết, mà thiên hạ không biết, xin theo lệ của Thuật, đặc biệt ban cho một người con của Chu làm quan.”
(Ghi chép về Trương Thuật sau, vào tháng năm Kỷ Mùi, ghi chép về Trần Chu sau, vào ngày mồng 4 tháng 5 năm thứ 5.)
- Hiệp Luật Lang Thái Thường Tự Vinh Tư Đạo, chữ 'Tư' nguyên là 'Tư', theo các bản và 《Tống Hội Yếu》 quyển 5, trang 15 sửa lại. ↵
- 《Chính mục》 chép việc ngày 22, bản các các và bản hoạt tự đều chép là '24'. ↵
- Thư Thủ Cương cùng 21 người đã nhập tịch ở châu này làm việc, chữ 'Cương', bản các các và bản hoạt tự đều viết là 'Cương'. ↵
- 'Hợp' nguyên bản viết là 'lệnh', căn cứ theo các bản khác và bản in hoạt tự mà sửa. ↵
- hoặc Lại bộ tả hữu tuyển dụng khuyết 'hoặc', các bản chép là 'Cố'. ↵
- gần một năm mới được sai khiển 'được', các bản chép là 'hậu'. ↵
- 'Cố' nguyên văn là 'Tài', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- Đồ dùng phòng thành mà thôi 'đồ dùng' nguyên tác 'kiện', theo bản khác sửa. ↵
- Nguyên bản ghi 'ngày 3', nhưng theo 《Tống sử》 quyển 16, 《Thần Tông kỷ》 ghi: 'Ngày mùng 1 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 5, ngày Tân Tỵ, thi hành chế độ quan lại'. Chú thích dưới cũng ghi 'ngày 1 tháng 5', nên sửa lại. ↵
- 'Châu' nguyên là 'lộ', theo 《Trung túc tập》 quyển 6, bài tấu về giám ty sửa lại. ↵
- 'Vi sứ giả' nguyên là 'Cẩu sứ giả', theo sách trên sửa lại. ↵
- 'Thế' theo 《Trung túc tập》 sửa thành 'Pháp'. ↵
- không kể hàng trăm nghìn người, chữ 'số' nguyên bản thiếu, theo bản các và 《Trung Túc tập》 quyển 4 bổ sung. ↵
- trà thuốc giấy bút vật dụng hàng ngày, sách trên viết là 'trà thuốc giấy trương vật dụng tốt'. ↵