VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 387: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)
Từ ngày Bính Thìn tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Triết Tông đến hết ngày Tân Mùi cùng tháng.
[1] Ngày Bính Thìn mùng một tháng 9, Chính nghị đại phu, Thủ Thượng thư Tả bộc xạ kiêm Môn hạ thị lang Tư Mã Quang qua đời. Quang làm chính sự hơn một năm mà bệnh chiếm một nửa thời gian, luôn muốn dâng hiến thân mình vì xã tắc, tự mình xử lý mọi việc, không kể ngày đêm. Khách khứa thấy thân thể ông gầy yếu, khuyên rằng: “Gia Cát Khổng Minh tự mình xử lý mọi việc từ hai mươi tội phạt trở lên, vì thế mà sinh bệnh, ngài không thể không cảnh giác.” Quang đáp: “Sống chết là mệnh trời.” Vẫn càng ra sức làm việc. Khi bệnh trở nặng, ông nói lảm nhảm không tự chủ, như lời nói trong mơ, nhưng đều là việc triều đình và thiên hạ. Sau khi mất, gia đình ông tìm được tám tờ di tấu dâng lên, đều là bút tích tay ông bàn về những việc trọng yếu đương thời. Thái hoàng thái hậu nghe tin, khóc thương đau đớn, Vua cũng cảm động rơi lệ. Sau khi lễ Minh đường kết thúc, đều đến viếng tỏ lòng thương tiếc, ngừng triều, truy tặng Thái sư, tước Ôn Quốc công, ban cho áo quan theo lễ nhất phẩm, đặt thụy là Văn Chính. Tặng ba nghìn lạng bạc, bốn nghìn tấm lụa, ban long não và thủy ngân để liệm. Sai Hộ bộ thị lang Triệu Chiêm và Nội thị tỉnh Áp ban Phùng Tông Đạo lo việc tang lễ, đưa về an táng tại huyện Hạ. Phong quan chức cho mười người thân tộc của ông, khắc bia đặt ở lối vào mộ ghi: “Bia Trung thanh túy đức”.
Khi Quang còn làm tể tướng, người Liêu và người Hạ phái sứ sang triều đình, hoặc sứ của ta đến nơi họ, họ đều hỏi thăm sức khỏe của Quang; người Liêu còn ra lệnh cho quan lại biên giới rằng: “Trung Quốc đã có Tư Mã làm tể tướng, tuyệt đối không được sinh sự gây hấn nơi biên giới.” Đến khi ông mất, dân chúng kinh thành đều bỏ chợ đến viếng, vẽ hình ông, khắc in bán, nhà nào cũng đặt một bản, mỗi khi ăn uống đều cầu khấn. Bốn phương đều phái người đến kinh thành tìm mua, lúc đó có họa sĩ nhờ vậy mà trở nên giàu có. Đến khi an táng, người từ bốn phương đến dự có đến mấy vạn, khóc thương như khóc người thân của mình.
[2] Tô Thức từng bàn về lý do Tư Mã Quang cảm động lòng người, chấn động trời đất, và tóm gọn bằng hai chữ, đó là “Thành” và “Nhất”. Người quân tử cho rằng Tô Thức hiểu được lời nói. Tô Thức cũng từng ghi lại lời của Tư Mã Quang nói với Triệu Bổ Chi rằng: “Ta không có gì hơn người, chỉ là những việc làm trong đời, chưa từng có gì không thể nói với người khác.” Sử thần nói: “Như trong 《Truyện》 có câu ‘Vi tế mà rõ ràng, thành thực không thể che giấu’, trong 《Thi》 có câu ‘Ở trong phòng riêng, vẫn không hổ thẹn với góc tối’, Tư Mã Quang thực sự có được điều đó.” Ban đầu, khi Tư Mã Quang nắm quyền, ông đã thay đổi hoàn toàn những chính sách cũ từ thời Hi Ninh, Nguyên Phong. Có người nói với Tư Mã Quang: “Những cựu thần như Chương Đôn, Lữ Huệ Khanh đều là tiểu nhân, ngày sau nếu có ai dùng đạo cha con để ly gián Vua, thì họa bằng đảng sẽ xảy ra.” Tư Mã Quang nghiêm nghị nói: “Nếu trời còn phù hộ nhà Tống, chắc chắn sẽ không có chuyện đó.” Rồi ông kiên quyết thay đổi mà không chút do dự. Người quân tử cho rằng lòng dũng cảm của Tư Mã Quang, ngay cả Mạnh Kha cũng không bằng. Nếu nói rằng nên sử dụng cả cựu thần thời Hi Ninh, Nguyên Phong để cùng thay đổi pháp chế, nhằm ngăn chặn họa về sau, thì đó thực sự là điều Tư Mã Quang không chấp nhận.
[3] Tả ty gián Vương Nham Tẩu tâu rằng: “Thần trộm thấy bệ hạ lúc mới lên ngôi, đã đáp ứng nguyện vọng của thiên hạ, dùng Tư Mã Quang làm chính sự, tin tưởng và thực hiện lời nói của ông để cải cách những tệ nạn trong thiên hạ. Chỉ có lòng thành tâm lo nước thương dân của Quang mới được trên dưới, trong ngoài tin tưởng, nên bệ hạ vừa dùng ông thì lòng dân thiên hạ yên, lòng tứ di yên, lòng bệ hạ cũng yên. Nay không may Quang mất, thần biết lòng bệ hạ đã trở nên trống vắng. Thần nghe dân chúng lo lắng bảo nhau rằng: ‘Vua ta có thể không quên lời Quang chăng? Có thể tìm người giống ông mà dùng, để duy trì và tuân theo phép tắc của ông chăng?’ Lại lo rằng: ‘Kẻ gian tà há chẳng lại kết bè kết đảng, lay động chính luận, để lừa dối Vua ta chăng? Há chẳng chỉ lo mưu cầu thân mình, không nghĩ đến việc gấp của quốc gia, làm hại dân chúng chăng? Ai lại có thể lấy lòng Vua ta làm lòng mình, lấy ý dân ta làm ý mình, ngày đêm hết lòng tận tụy, quên mình như Quang chăng? Vua ta đang cậy Quang để lo việc trị nước, mà trời vội cướp mất ông, ý trời là thế nào vậy?’
Thần mong bệ hạ càng thêm gắng sức, càng chăm lo việc nước, càng coi trọng trách nhiệm được giao, không thể thản nhiên mà quên lo. Nay nên trước hết có cách để giải tỏa nỗi lo của dân và làm yên lòng họ, chỉ cần quyết đoán trừ kẻ gian, cẩn thận tiến cử người hiền là đủ. Khi bậc đại trung còn tại triều, kẻ gian dù chưa bị trừ, cũng còn e dè mà không dám làm bậy. Quang mất rồi, kẻ gian nay không thể để lại chút nào, đó là điều thần nói bệ hạ nên quyết đoán trừ kẻ gian. Việc nặng nhẹ của triều đình, an nguy của thiên hạ, vui buồn của sinh linh, đều ở chỗ dùng người mà thôi. Nay thiên hạ sẽ xem bệ hạ dùng người để đoán điềm lành dữ, đó là lý do thần nói bệ hạ nên cẩn thận tiến cử người hiền. Trừ kẻ gian, tiến cử người hiền, đều là việc hợp lòng mong mỏi của thiên hạ, thì dân chúng còn nghi ngờ và lo lắng gì nữa? Mong bệ hạ suy nghĩ, thiên hạ may mắn biết bao!”
[4] Tờ tấu dán vàng nói: “Từ xưa đến nay, bề tôi vì lòng đố kỵ người hiền tài mà làm hại việc nước, không đời nào không có. Tư Mã Quang là người hiền tài, trên được bệ hạ tin dùng, dưới được trăm họ tin yêu, ai nấy đều tự thấy xấu hổ vì không bằng. Thần e rằng sau này ắt có kẻ đố kỵ Quang, ngầm dùng lời nói bậy bạ để chê bai việc làm của Quang, khiến bệ hạ xa lánh, chờ khi có kẽ hở thì sẽ đưa ra lời nói tà vạy, thực hiện mưu đồ gian trá, làm hỏng chính sự tốt đẹp, bệ hạ không thể không xem xét kỹ. Thần bình sinh chưa từng tiếp xúc với Quang, cũng chưa từng nhận ơn của Quang, không phải vì tư lợi với Quang, chỉ sợ kẻ tiểu nhân làm bệ hạ hiểu lầm mà thôi. Nay việc thiên hạ đã yên ổn, lòng dân an vui, đó là thành quả của đạo trị nước và công lao hiển hách của bệ hạ. Chỉ mong bệ hạ càng thêm kiên định, tin tưởng vững vàng, không dao động, thì thiên hạ may mắn biết bao. Trong ngoài đều mong sau đại lễ sẽ cách chức mấy kẻ nịnh thần vô lại như Trương Tảo. Không ngờ Tảo chưa bị cách chức mà đã mất đi trung thần[1], đó là điều khiến lòng người trong ngoài đều thấy tiếc hận sâu sắc. Nay nếu Tảo tự xin từ chức, mong bệ hạ sớm chuẩn y, bổ nhiệm người trung thần khác để làm vững triều đình, làm chỗ dựa cho quốc gia, để yên lòng thiên hạ. Đặc biệt không thể để lâu hơn nữa, làm nhục triều đình, khiến dân chúng thất vọng, tứ di bất an.”
[5] Ngày Mậu Ngọ, nhà Vua trai giới ở điện Thùy Củng. Thái thường tự tâu: “Tư Mã Quang mất, đúng vào ngày tán trai trong lễ Minh đường. Việc tế trời để phụ thân nghiêm khắc phối hưởng là đại lễ của quốc gia, vốn không thể bỏ, còn việc lên lầu xá tội, e cũng khó bãi bỏ. Chỉ có việc thụ hạ ở điện Tử Thần, vì là việc mừng, so với tế lễ ở tông miếu thì nhẹ hơn, đang lúc thánh tình thương tiếc bậc nguyên thần, mà quần thần lại múa may chúc mừng, e rằng không hợp với lễ nghĩa và tình người.” Chiếu rằng: “Sau khi lễ Minh đường xong, văn võ bách quan ở điện Tử Thần vẫn theo thứ tự vào chầu, không tấu việc tường thụy và chúc mừng, ngoài việc xá tội trước lầu, các việc chúc mừng đều bãi bỏ.”
[6] Ngày Kỷ Mùi, tiến hành lễ tế hưởng tại cung Cảnh Linh.
[7] Ngày Tân Dậu, tổ chức đại lễ hưởng tại Minh Đường. Vua đến Đại Khánh Điện làm lễ xong, đổi sang thường phục, ngự tại Tử Thần Điện, tể tướng và bách quan làm lễ chào, rồi Vua ra Tuyên Đức Môn ban bố ân xá: những tội đánh chết người dù phạm trong thời gian có lệnh cấm, nhưng tình tiết nhẹ thì giảm một bậc hình phạt, đày đi nghìn dặm, tội nhẹ hơn thì đày năm trăm dặm, đều giam tại lao thành, sau khi xét xử xong phải ghi chép án tình tâu lên.
Những người thuộc các ty nên được thi hàng năm mà đã qua mười lần thi[2], trong tương lai chưa bị đánh trượt, thì làm thành một hạng riêng tâu lên. Các quan viên phạm tội trượng trở xuống, theo điều luật không được hưởng ân xá hay giảm tội do đã bị cách chức, thì cho phép đến Hình bộ nộp đơn, bộ này phải ghi rõ nguyên nhân phạm tội tâu lên; những vụ chưa xét xử, giao cho Đại Lý Tự sau khi xử án phải trình bày rõ, nếu tình tiết nhẹ thì xin chỉ dụ. Những quan viên đang bị biếm trích chưa được điều động, thì cho điều động.
Xét từ khi khôi phục phép sai dịch, các khoản nợ miễn dịch tiền của dân đã được giảm bớt một nửa, phần còn lại chia làm ba năm, nộp kèm theo thuế hạ; nghe nói các khoản nợ này, vừa phải chịu sai dịch, việc nộp thuế không dễ dàng, nên những khoản chưa được miễn mà phải nộp kèm[3], đều đặc cách miễn nộp. Dân trong phủ Khai Phong và các lộ, những khoản nợ và thuế thường bình chưa nộp, đều đặc cách miễn trừ; tiền gốc cho phép trả trong ba năm kèm theo thuế. Những hộ dân trong và ngoài kinh nợ tiền thị dịch, hiện nợ dưới hai trăm quan, đều đặc cách miễn trừ. Các trường vụ trong phủ Khai Phong và các lộ, trước đây vì tranh nhau đấu giá mua bán nên tăng giá quá cao, dẫn đến sau này không thể thu đủ, ngoài những tài sản thế chấp đã thu, những khoản đang đòi nợ từ người mắc nợ và người liên quan, tạm ngừng đòi[4], giao cho các lộ Giám ty cùng mở ra xem xét, bảo đảm tâu lên, sẽ bàn bạc mức độ miễn giảm đặc biệt.
Những khoản tiền phạt quá hạn, và tiền phạt do điều động phu xuân vì việc phòng chống lũ lụt khẩn cấp, đào kênh thành và xây dựng thủy lợi được miễn phu, tiền phạt phu, đều được miễn trừ. Các khoản lợi tức từ vườn tược trong kinh và các lộ, tiền phạt gấp đôi quá hạn trước ngày hôm nay, đều đặc cách miễn trừ. Những người dân đã bán ruộng đất, nếu quá hạn chưa nộp thuế, chưa đóng dấu khế ước, từ ngày ban ân xá đến hạn trăm ngày cho phép tự khai báo, được miễn nộp thuế gấp đôi; nếu tội phát hiện trong vòng trăm ngày kể từ ngày ban ân xá cũng áp dụng như vậy. Những hộ trồng trà ở các lộ sản xuất trà, nợ tiền thuế trà đang bị quản lý[5], đều đặc cách miễn trừ.
Những khoản nợ công trong thiên hạ, nguyên không phải do ăn cắp, dù có hay không tài sản thế chấp, dù là ăn cắp nhưng nhà đó không có tài sản thế chấp, và đang bắt người bảo lãnh liên quan phải nộp; hoặc do thất thu hoặc chi nhầm, đang bắt người liên quan đền bù; do hỏa hoạn, lũ lụt làm hư hỏng, hoặc thuyền vận chuyển bị gió lớn, nước cuốn trôi, hoặc bị trộm cắp đã xác minh, không có gian lận; thủy thủ, binh lính vận chuyển bị thiếu hàng hóa, nguyên không có gian lận, đang bị khấu trừ lương; các mỏ bảo vật do hầm mỏ không khai thác được, và không rõ có ăn cắp hay không nhưng đang bị đòi nợ lợi tức; chiếm dụng ruộng đất công và ruộng đất nhà không có chủ, cùng các loại thuế ẩn lậu, đang bị đòi nộp thuế nhiều năm, đều đã nghèo khó không có khả năng trả nợ: giao cho các cơ quan liên quan trong vòng một tháng kể từ ngày ban ân xá xem xét miễn trừ, bảo đảm tâu lên Chuyển vận ty, Đề điểm hình ngục ty tập hợp tâu lên. Những điều trên nếu có điều khoản riêng gặp ân xá hoặc quy định cụ thể về mức độ miễn giảm, đều theo chỉ đạo của chiếu ân xá này thi hành. Phủ Khai Phong và các lộ đang thi hành phép trọng lộc, những người bị biên chế vì nhận hối lộ quá mức, nếu qua đợt ân xá này chưa được tha, thì phải ghi rõ tội cũ bảo đảm tâu lên.
(Chiếu ân xá Minh Đường năm Nguyên Hựu thứ nhất có điểm khác với chiếu ân xá trước, ghi chép kèm theo. Gia truyền họ Lữ chép: “Khi Văn Tĩnh công nắm quyền, thường tìm kiếm những việc lợi ích khắp nơi có thể thi hành để tiện lợi cho dân, tự tay ghi chép, nhân đại xá mà thi hành, có đến mấy chục việc. Sau khi Văn Tĩnh công từ chức, việc tiện lợi cho dân ngày càng ít đi. Đến lúc này, mới bắt đầu tha hết tiền lãi thanh miêu, thị dịch và các khoản nợ khác mà người nghèo không thể trả, tổng cộng miễn trừ hàng triệu quan. Quan lại phạm pháp, dùng chế độ nhất thiết không được xử lý khi từ chức hoặc được ân xá, đều cho phục chức. Tổng cộng so với chiếu ân xá trước tăng thêm mười bảy việc, bốn phương reo mừng, cho rằng chiếu ân xá của tân thiên tử đầu tiên đã lấy việc lo cho dân làm trọng, không ai không vui mừng.” Không rõ mười bảy việc tăng thêm có phải là những điều được trích ra khác với chiếu ân xá trước hay không, cần xem xét. Tuy nhiên, Vương Nham Tẩu trong tấu chương chỉ xin xem xét chiếu ân xá từ năm Gia Hựu trở đi, thì việc tiện lợi cho dân trước năm Gia Hựu vốn không bằng. Gia truyền lại nói “sau khi Văn Tĩnh công từ chức, việc tiện lợi cho dân ngày càng ít đi”, e là sai lầm, nay không theo. Tấu chương của Vương Nham Tẩu xem ngày 16 tháng 3.)
[8] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu rằng, chúa nước Hạ là Bính Thường mất ngày 10 tháng 7. Chiếu cho Thái thường tự kiểm tra và thi hành theo lễ lệ.
[9] Ngày Nhâm Tuất, chiếu rằng: “Tư Mã Quang mất trong thời kỳ để tang, không cần cử hành tang lễ mặc tang phục.”
(Sách 《Lã Đại Trung tạp thuyết》 chép: “Khi tang lễ Tư Mã Công vừa xong, Tô Tử Do làm quan Gián, muốn đến khóc. Chính Thúc ra sức ngăn lại, nói: ‘Đang làm lễ cát, không thể đi viếng tang.’ Tử Do không nghe, nói: ‘Chỉ có khóc thì không hát, chưa từng có hát thì không khóc.’ Vương Củng làm Đại tông chính thừa, cũng dâng chương bàn việc Chính Thúc sai lầm, từ đó bị bãi chức. Thời Kiến Trung Tĩnh Quốc, Củng mới được phục chức, làm Thông phán Tây Kinh, sắp lên đường, Huỳnh Dương Công giao Chính Thúc cho Củng, bảo đừng nhớ oán xưa. Củng viết thư đáp: ‘Chúng tôi xem chúng sinh đại địa như một con, huống chi là tiên sinh?'”)
[10] Thái hoàng thái hậu phong cho vợ của tòng thúc phụ là Cao Tuân Ước, Thọ Xương huyện quân Ngô thị làm Vĩnh Gia quận phu nhân. Hoàng thái hậu phong cho em gái ruột: vợ của Thông trực lang Trình Kỳ, Vĩnh Gia quận quân, đặc phong làm Đồng An quận phu nhân; vợ của Tuyên đức lang Lý Khuếch, Đồng An quận quân, đặc phong làm Đan Dương quận phu nhân; vợ của Tây đầu cung phụng Triệu Tư Hành, Diên An quận quân, đặc phong làm Văn An quận phu nhân; vợ của Hữu thị cấm Lý Cổn, An Khang quận quân, đặc phong làm Cao Bình quận phu nhân.
[11] Thái bộc tự tấu: (Tấu nghị của Vương Tồn chép rằng tờ trát của Đô tỉnh ngày 7 tháng 9, tấu nghị của Vương Địch lại chép ngày 9 tháng 9, cần xem xét.) “Xin mọi việc thuộc bản tự đều theo pháp của Quần mục ty, vẫn chỉ thuộc Thượng thư tỉnh, hoặc theo lệ cũ thuộc Xu mật viện, và xin mọi việc về ngựa trong ngoài đều thuộc bản tự thi hành.” Chiếu rằng: “Mọi việc về ngựa trong ngoài đều thuộc Thái bộc tự, trực tiếp báo lên Thượng thư tỉnh, không qua Giá bộ nữa.”
(Tấu của Vương Tồn liệt kê đầy đủ ở cuối tháng.)
[12] Ngày Quý Hợi, Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Thần trộm nghĩ, việc tiến thoái của các bậc phụ tá đều liên quan đến đại thể quốc gia, bậc quân vương không thể không thận trọng. Tiến cử phải theo đạo lý, cách chức phải hợp lẽ phải, thì thiên hạ sẽ không ai cho là không phải. Nay đại lễ tế tự đã hoàn thành, nghe đồn rằng Trung thư thị lang Trương Tảo, Đồng tri Xu mật viện sự An Đào, Thượng thư tả thừa Lý Thanh Thần đều muốn dâng sớ xin từ chức. Ba người này đều được Thần Tông ủy thác trọng trách, một sớm cùng xin rút lui, thần e rằng bệ hạ ắt sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, thần cho rằng không khó. Cả ba cùng rời đi thì khó, cả ba cùng ở lại cũng khó, vì nếu cùng ở lại sẽ hại thiên hạ và làm khuất công luận, còn nếu cùng rời đi sẽ tổn thương quốc thể và gây hoang mang trong lòng người. Nay trong ba người, xét sự việc, tra cứu hành tích, cân nhắc nặng nhẹ, thì có người nhất định phải rời đi, có người không cần phải rời đi.
Thần xin bàn luận: Trương Tảo vì gian tà nịnh hót, chiếm giữ chức vụ lâu nhất, kết bè kết đảng hại chính sự, bán ân mưu lợi riêng, những người tâu bày trước sau đều nhiều lần dâng sớ tố cáo tội của ông ta. Thần từng lên điện, cũng nhiều lần được bệ hạ tuyên dụ, cho rằng sau đại lễ ắt sẽ cho Tảo rút lui, từ đó thần không còn bàn luận nữa. Nay đại lễ đã xong, việc Tảo xin rút lui là đúng lúc, bệ hạ chấp thuận cũng là đúng lúc, Tảo có thể che đậy tội ác của mình, lấy lễ mà rút lui, ấy đã là may mắn rồi. Triều đình tuy có mất công bằng, lọt lưới pháp luật, nhưng được việc ông ta không còn ở vị trí then chốt, không gây hại cho chính sự, như vậy cũng đủ rồi. Đây là người thần cho rằng nhất định phải rời đi. Còn An Đào và Lý Thanh Thần thì hơi khác Trương Tảo, đều không lấy tiết hạnh tự răn mình, tầm thường tại chức, nhưng so với hạng người như Tảo thì chưa có tội lỗi rõ ràng. Bệ hạ nếu đặc biệt vì họ được ủy thác di mệnh mà tạm để họ ở lại, thực sự có danh nghĩa, cũng không gây hại gì lớn. Đây là người thần cho rằng không cần phải rời đi. Kính nghĩ Thần Tông hoàng đế bỏ thiên hạ[6], nay chưa qua đại tang, nếu những bề tôi được ủy thác di mệnh đều rời đi hết, thần e rằng kẻ tiểu nhân sẽ tư hại, gây họa cho quốc gia. Thần thiết tha mong bệ hạ sáng suốt xem xét, trong ba người hãy cách chức Trương Tảo để yên lòng thiên hạ; giữ lại An Đào và Lý Thanh Thần để tỏ rõ ý bệ hạ không quên những bề tôi cũ được ủy thác từ triều trước. Giữ vững đại thể quốc gia, để trấn an bề tôi, xét theo công luận, ai dám nói là không phải? Thần được hưởng ân sâu, có điều thấy được, không dám tránh tội vượt phận vượt chức, mong bổ ích được phần nào.”
[13] Bản dán vàng nói: “Việc bãi chức các quan chấp chính không phải là điều thần nên biết trước. Tuy nhiên, thần đang ở chức vụ ngôn quan, việc liên quan đến quốc thể, lẽ ra phải tâu lên, không dám tự ý giữ kín. Hôm qua, thần định vào điện tâu bày, nhưng vừa qua đại lễ, chưa có thứ tự, lại sợ chậm trễ không kịp việc, nên viết tờ tấu, mong được xem xét, sau khi xem xong, xin đặc biệt lưu lại trong cung.” Lại dán vàng nói: “Thần không nói rằng Đào và Thanh Thần nên ở chức chấp chính, cũng không phải vì tư lợi mà biện hộ cho hai người, chỉ vì họ được tiên đế ủy thác, lại năm nay chưa qua đại tang, e rằng nên tạm giữ họ, mượn hai người để hoàn thành việc triều đình, rồi từ từ sắp xếp, bãi chức sau cũng chưa muộn. Không như Thái Xác, Chương Đôn và Trương Tảo đều có tội ác rõ ràng, nên bãi chức trước.”
[14] Công bộ Lang trung Vương Khâm Thần được bổ làm Thái bộc Thiếu khanh, thêm chức Trực bí các. Theo lời thỉnh cầu của Văn Ngạn Bác.
(Ngự tập ngày 8 tháng 9.)
[15] Ngày Bính Dần, chiếu cho Trung thư tỉnh: “Từ nay về sau, Thái bộc khanh, thiếu, thừa, bạ đều chọn người phụ trách việc ngoại giám, lệnh cho bản tự theo pháp cũ của Quần mục tư thi hành.”
(Vương Tồn tâu rằng việc ngoại giám theo pháp cũ của Quần mục tư chỉ huy là ngày 23 tháng 8, cần xem xét. Lúc đó, Binh bộ gửi công văn xuống các lộ, cũng nói là ngày 23 tháng 8.)
[16] Ngự sử Trung thừa kiêm Thị độc Lưu Chí tâu:
[17] Thần thấy Tả bộc xạ Tư Mã Quang qua đời, lòng người trong triều ngoài nội đều kinh ngạc và đau buồn, đều nói: “Trời không để lại bậc lão thành này để giúp đỡ lớn lao cho quốc gia, mà lại cướp đi quá nhanh, đây là lý do gì vậy!” Thần kính nghĩ rằng Bệ hạ là bậc chí minh chí thánh, đã nhận ra chí hướng của Quang, đặt ông bên cạnh, để cả thiên hạ nghe theo, mà Quang cũng lấy lòng trung thành và đạo thẳng thắn, quên mình vì nước. Dù có những mưu gian và lòng khác, trăm phương ngăn trở, nhưng ông vẫn đứng ra gánh vác, ngày đêm hết lòng tận tụy, lấy cái chết để báo đáp. Sự chân thành và công bằng tuyệt đối của ông đủ để thông cảm với trời đất và thấu suốt quỷ thần, thật là bậc xã tắc thần tử vậy. Nhưng nếu không phải Bệ hạ tin tưởng và ủng hộ một cách chuyên nhất, thì Quang cũng làm sao tự thực hiện được chí hướng của mình? Vì vậy, thiên hạ không chỉ khen ngợi Quang vì đã hết lòng phụng sự quân vương, mà còn cho rằng việc Bệ hạ dùng người hiền mà không nghi ngờ là điều khó làm được.
[18] Nay Quang đã mất, xa giá hai cung ngay hôm đó đến viếng, lễ phúng viếng được gia tăng hơn thường lệ, từ các bậc sĩ phu thiện lương đến người dân thôn dã, không ai không thương tiếc. Chỉ có bọn gian tà, những kẻ ghét người ngay thẳng, đã có ý mừng thầm. Bọn tiểu nhân từ trước đến nay vốn không hài lòng với chính sách mới, giấu tình giấu tích, ngày đêm rình rập, thường mong có biến cố bất ngờ để hy vọng việc trị nước không thành. Nay chúng đoán rằng bệ hạ đã mất đi sự giúp đỡ của Quang, thì chí hướng cầu trị trước đây ắt sẽ dần thay đổi, lơi lỏng, nhân đó có thể thừa cơ hội, gieo rắc nghi ngờ, lung lay lòng người, đó là lý do chúng mừng. Hơn nữa, từ khi bệ hạ trị vì đến nay, thu nạp người ngay thẳng, bố trí khắp trên dưới, chế định pháp luật, trừ hại cho dân, tuy có chỗ chưa hoàn thiện, nhưng về cơ bản đã định được tám chín phần. Chỉ mong bệ hạ thêm ý chí, luôn lấy việc phân biệt tà chính, giữ nước yêu dân làm niệm, kiên trì mục đích này, từ đầu đến cuối như một. Các mệnh lệnh đã ban ra, giữ vững không thay đổi, thì đạo trị nước sẽ thành. Trong triều đình, ắt sẽ có người như Quang phụng sự triều đình. Thần thực sự lo rằng sau khi bệ hạ thương tiếc Quang, sẽ nghĩ ai giúp ta, mà ý chí có chút dao động, thì mưu kế gian tà sẽ nổi lên lợi dụng, đó là lý do thần lo lắng riêng mà dâng lời này.
[19] Lại nữa, thần còn có lời nói quá mức, nay chức Thượng tể đang bỏ trống, thần nghĩ chẳng bao lâu sẽ có chiếu chỉ bổ nhiệm Tể tướng, việc này càng không thể không thận trọng. Bên ngoài bàn tán xôn xao, cho rằng Văn Ngạn Bác chắc chắn sẽ thay thế chức vụ của Tư Mã Quang, thần vốn biết không phải vậy, nhưng trong muôn một, không thể không nói. Ngạn Bác đã hơn tám mươi tuổi, tước vị đã đến cực điểm trong thiên hạ. Trước đây, bệ hạ mượn uy vọng của ông để làm trọng lượng cho triều đình, chức vụ của ông là Sư phó của Thiên tử, nhiệm vụ của ông là bình chương quân quốc trọng sự. Bệ hạ đãi ngộ nguyên lão, tôn sùng ưu đãi, có thể nói là đã đạt được thể thống. Nay nếu bổ nhiệm ông làm Tể tướng, thì Tam tỉnh đã có chức trách rồi. Trách nhiệm thành bại, há phải là điều mà bậc sư thần nên đảm đương? Công việc phiền phức, há phải là điều mà người già nên làm? Đó chẳng phải là cách đối xử với Ngạn Bác.
[20] Hơn nữa, Ngạn Bác không giỏi về việc biết người, hiền sĩ đại phu hiếm khi xuất thân từ cửa nhà ông. Gần đây có những lời tiến cử, mọi người đều truyền nhau cười nhạo. Nếu ông ở ngôi Thượng tướng, dẫn dụng nhân vật cứ như thế, hôm nay dẫn một hai người, ngày mai dẫn ba bốn người, tích lũy đến hàng trăm ngàn, người tầm thường sẽ đầy rẫy trên đường triều, đó không phải là hại nhỏ. Người ông trọng, địa vị ông cao, những người được tiến cử, nếu bệ hạ trái lời ông thì tổn thương ân nghĩa, nếu đều nghe theo thì hại chính sự, đó cũng chẳng phải là cách an định Ngạn Bác. Thần trước đây vào tháng tư đã từng bàn luận việc này, nên việc bổ nhiệm Tể tướng hôm nay thực sự liên quan đến an nguy của thiên hạ và thành bại của chính sự tốt đẹp, há có thể không coi trọng? Kính mong bệ hạ xem xét kỹ lưỡng, chọn được người xứng đáng mà bổ nhiệm, để tôn trọng tông miếu xã tắc, thỏa mãn công luận, thần không dám không hết lòng chờ tội. Mong bệ hạ tha thứ cho sự ngu muội của thần và xét đến lòng trung của thần.
[21] Bản tấu trình viết: “Thần lại nghe Ngạn Bác tiến cử Phùng Kinh làm tướng, mà có người truyền rằng bệ hạ đã sai sứ đến chỗ Kinh. Thần nghe được tin đồn, chưa rõ hư thực. Kinh trước đây vì bệnh tật, nên đã trở nên mê muội, việc gì cũng hay quên. Xin bệ hạ suy xét kỹ lưỡng, việc bổ nhiệm tướng là việc lớn, không thể làm một cách hời hợt.”
(Chú thích: Ngày 13 tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ nhất. Nay phụ thêm vào trước bản tấu của Vương Địch ngày 11.)
[22] Hữu Chánh ngôn Vương Địch tấu rằng:
[23] Thần gần đây thấy Tả Bộc xạ Tư Mã Quang vì bệnh mà không qua khỏi, trong ngoài đều thương tiếc, xa giá đến viếng, ân lễ rất hậu, đúng là phải như vậy. Quang là bậc đại thần của xã tắc. Trong một năm nắm quyền chính, ông đã hưng lợi trừ hại, tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ bất tài, công nghiệp hiển hách lưu danh thiên hạ. Phàm những người có học thức, không ai cho rằng việc Quang thực hiện được chí hướng của mình là khó, mà cho rằng việc bệ hạ đặc biệt đề bạt, sử dụng Quang từ chốn nhàn tản, và tin tưởng không nghi ngờ mới là điều khó. Tuy nhiên, khi Quang qua đời, từ bệ hạ, đến các bậc hiền sĩ đại phu, xuống đến dân chúng, không ai không thương tiếc, còn những kẻ gian tà hiểm độc thì lại mừng rỡ riêng tư. Không chỉ mừng rỡ mà thôi, chúng còn mong có người không bằng Quang được lên làm tướng, để chúng có thể thỏa mãn ý đồ riêng. Vậy thì bệ hạ bổ nhiệm tướng sao có thể không thận trọng!
[24] Hoặc có người cho rằng Thái sư Văn Ngạn Bác sẽ thay thế Tư Mã Quang nắm quyền chính, nhưng thần biết chắc chắn không phải vậy. Tại sao? Bệ hạ trước đây đã biết Ngạn Bác tuổi cao, nên tôn kính ông mà không giao cho ông những việc vụn vặt của ba tỉnh, thì nay sao lại dùng ông thay thế Quang nắm quyền chính? Bệ hạ đối xử với Ngạn Bác như bậc thầy, là điều rất đúng đắn, lại cho ông tham gia bàn việc trọng đại, đây là lễ đặc biệt hiếm có, vinh dự của bề tôi không gì hơn được. Ngạn Bác với đức cao vọng trọng mà được hưởng lễ đặc biệt này, ai dám nói không đúng? Điều đó đủ để tôn vinh triều đình và trấn an thiên hạ, chỉ là không nên giao hết chính sự cho ông. Việc ba tỉnh bận rộn, người trên tám mươi tuổi không thể đảm đương được, hơn nữa việc chính sự quan trọng nhất là dùng người, mà Ngạn Bác vốn không có tiếng là người biết dùng người, nên khi vào triều, trước tiên tiến cử Thôi Đài Phù, sau đó dẫn dắt Sở Kiến Trung, các quan đều truyền nhau chê cười, việc này Bệ hạ cũng đã nghe thấy. Thần biết chắc Bệ hạ sẽ không giao chính sự cho Ngạn Bác, những lời đồn đoán kia chỉ là lo lắng thái quá mà thôi.
[25] Thần lại nghe nói Trung thư thị lang Trương Tảo sẽ xin ra ngoài làm quan, mà đúng vào lúc sau đại lễ, các đại thần chấp chính chắc chắn sẽ có người xin từ chức. Có người lo rằng triều đình thấy nhiều người xin từ chức, không thể đều chấp thuận, nên Tảo cũng sẽ nhân đó mà ở lại, nhưng thần cũng cho rằng không phải vậy. Tảo không yên tâm với chức vụ của mình, vì bị nhiều người đàn hặc, tư dục bộc lộ, công luận không dung, nên mới xin từ chức, khác với những người vô cớ xin từ chức. Lễ ý của triều đình sao có thể đối xử như nhau? Từ thời tổ tông đến nay, các đại thần chấp chính sau đại lễ xin từ chức không phải là ít, có người được chấp thuận, có người không, tùy thuộc vào tình hình lúc đó và con người của họ. Như Tảo, dù không xin cũng nên cho từ chức, huống chi ông ta đã xin? Thần biết chắc Bệ hạ sẽ không vì nhiều người xin từ chức mà để Tảo ở lại, những lời đồn đoán kia cũng chỉ là lo lắng thái quá mà thôi.
[26] Thần lại thấy trong hàng ngũ thị tòng, những người đã lâu ở chức vụ, tài năng và xu hướng của họ ít có ai giống nhau. Bệ hạ muốn bổ nhiệm họ để lấp chỗ trống trong chính quyền, càng không thể không thận trọng. Phàm biết rõ thần không ai bằng Vua, chỉ cần không bị hạn chế bởi thứ bậc trước sau, mà xem xét lòng đại công chí chính của họ. Nếu họ có thể giúp Bệ hạ tiêu trừ nguy hiểm và nghi ngờ, làm dày thêm phong hóa, hưng lợi trừ hại, tiến cử người hiền tài, loại bỏ kẻ bất tài mà sử dụng, thì sẽ có ích cho thánh chính. Bệ hạ đừng cho rằng sau khi Tư Mã Quang mất thì không còn người như vậy nữa. Thần mong các đại thần tả hữu của Bệ hạ phải xem xét kỹ lưỡng, lựa chọn cẩn thận, một khi đã biết họ có thể dùng được, thì hãy đối đãi tử tế, tin tưởng và sử dụng, đừng xem thường, ngày sau ắt sẽ có người trung thành với Bệ hạ như Tư Mã Quang xuất hiện. Nếu không phải là người đó mà lại gây hại cho quốc gia, thì bãi chức họ có gì đáng tiếc? Vì thế nói rằng: “Dùng người hiền đừng do dự, trừ kẻ gian đừng nghi ngờ.” Những điều thần trình bày, Bệ hạ đều đã có hiệu quả từ việc thực hiện, thánh tâm suy nghĩ chắc đã thấu đáo, cần gì phải thần nói? Nhưng thần thiết nghĩ rằng Bệ hạ chỉ cần kiên trì làm như vậy đến cùng, thì có thể thành tựu sự nghiệp thái bình cực thịnh, mà không hổ thẹn với các bậc quân vương như Nghiêu, Thuấn và Tam Đại. Mong Bệ hạ xem xét kỹ lưỡng.
(Địch tự chú rằng: “Ngày 11 tháng 9.” Nay phụ theo ngày tháng đó.)
[27] Ngày Đinh Mão, Trung thư xá nhân Tô Thức được bổ làm Hàn lâm học sĩ, Phạm Bách Lộc làm Hình bộ Thị lang, Tiền Hiệp làm Cấp sự trung, Thái thường Thiếu khanh Tiên Vu Sân làm Tả Gián nghị đại phu, (Sân ngày 6 tháng 7 đã được thăng làm Đại Lý khanh, nay lại lấy chức Thiếu thường bổ làm Tả Gián nghị đại phu, vì ngày 12 tháng 7 bãi chức Đại Lý khanh, nên phục chức Thiếu thường.) Thái thường Thiếu khanh Lương Đào làm Hữu Gián nghị đại phu, Hữu ty Gián Tô Triệt làm Khởi cư lang, (《Lã Thị gia thục ký》 chép: “Năm Nguyên Hựu đầu, Tô Triệt làm Trực xá nhân viện, có ty kiểm cử, từ khi quan chế thi hành, Xá nhân viện bị bãi bỏ, nay chức vụ Xá nhân thuộc về Trung thư hậu tỉnh, bèn đổi làm Quyền Trung thư xá nhân, từ đó thành lệ.” Phụ chú cần tra cứu. Ngày Bính Tuất mùng 2 tháng 10, Triệt lấy chức Quyền Trung thư xá nhân bàn về Lương Duy Giản.) Tả ty Gián Vương Nham Tẩu làm Thị ngự sử, (Ngày 16 tháng 10, Nham Tẩu vào tạ ơn, cùng Lưu Chí đối đáp.) Tả Chánh ngôn Chu Quang Đình làm Tả ty Gián, Hữu Chánh ngôn Vương Địch làm Hữu ty Gián.
(Địch dâng sớ “Tri nhân an dân” có lẽ phụ vào đây. Đã phụ vào phần đầu Chánh ngôn.)
[28] Tô Triệt nói: “Kẻ hạ thần từ chỗ bị xa lánh, được nhắc lên làm quan gián, sau khi suy yếu, tài lực hao kiệt, cố gắng qua ngày tháng, không có gì sáng suốt. Gần đây vì triều đình bổ nhiệm Trương Giáp làm Hộ bộ thị lang, Đỗ Hoành làm Lang trung Hữu ty, công luận xôn xao, cho rằng không phải người thích hợp, thần liên tiếp dâng sớ, nói rõ việc này. Đỗ Hoành tuy tài tính hèn hạ, làm nhục chức vụ quan trọng, nhưng tội ác chưa rõ ràng, thần cũng không dám nói mạnh. Còn Trương Giáp, tính tình hiểm ác, xử lý công việc sai lầm, từ khi nhậm chức đến nay, tội trạng chất chồng. Thần cho rằng việc đã rõ ràng, nên trước sau năm lần dâng lời. Không ngờ Trương Giáp lâu nay nắm quyền lớn, bám rễ sâu, được người bên cạnh bảo lãnh, khiến ý chỉ của bệ hạ kiên định không đổi. Thần nhiều lần dâng lời ngu xuẩn, thật không tự lượng sức, dù ơn Vua khoan dung, chưa bị khiển trách, nhưng sao dám liều lĩnh hưởng vinh hoa, lại làm nhục chức vụ quan trọng? Lời nói không xứng chức, thần tự biết; đáng bị cách chức lại được thăng, ắt bị người đời chỉ trích cười chê. Kính xin đặc biệt thu hồi ân điển sai lầm, bổ nhiệm thần một chức vụ ngoài kinh, để thần khỏi bị công luận chê trách, thật là may mắn vô cùng!” Chiếu không cho.
[29] Triệt lại tâu: “Mệnh lệnh của Vua cha, đáng kính cẩn tuân theo, thần thực là người nào, dám cố chấp? Chỉ vì thần trước đây đã tâu việc Trương Giáp được bổ làm Hộ bộ thị lang là không đúng, trước sau năm lần tâu trình, đều không được thi hành. Tội danh của Giáp, đã ghi rõ trong án tấu, truyền tụng trong công luận, mà các đại thần càng ra sức bảo vệ, triều đình dùng người không nghi ngờ, thì là thần đã phỉ báng trung thần hiền tài, làm mê hoặc thánh thính, tội cuồng vọng không thể tha thứ. Thần nay không dám bàn lại việc ấy, chỉ vì lấy lời nói làm chức trách, lời đã không được dùng, lẽ ra phải bị cách chức, mang nỗi hổ thẹn mà hưởng ân sủng, nghĩa thực không yên. Kính xin xem xét tờ tấu trước của thần, bổ thần một chức vụ ngoại nhiệm, để toàn vẹn phần tiến thoái của thần. Còn cáo mệnh chức Khởi cư lang, thần không dám nhận.” Chiếu không cho.
(Từ khi Chu Quang Đình, Vương Địch được thăng làm Tả, Hữu ty gián sau[7], chức Chánh ngôn lâu ngày khuyết không bổ. Năm sau tháng sáu, mới bổ Đinh Quyền làm Hữu chánh ngôn. Việc Vương Nham Tẩu tâu bàn xin phụ vào tháng sáu năm sau.)
[30] Chiếu rằng: “Điện thờ Thần Ngự của Thần Tông hoàng đế, lệnh cho Học sĩ viện soạn tên.”
[31] Ngày Mậu Thìn, các quan trong ngoài đều được gia ân theo sách xá của lễ Minh đường.
[32] Phụng nghị lang, Viên ngoại lang bộ Hình Đỗ Thuần làm Thiếu khanh Đại Lý, tân bổ Thiếu khanh Đại Lý Vương Chấn vẫn giữ chức Hình bộ lang trung.
(Vương Địch xin bãi việc thăng Vương Chấn làm Thiếu khanh[8], vào ngày 27 tháng tám, Lưu Chí có tâu.)
[33] Thừa nghị lang, Giám sát ngự sử Trần Thứ Thăng quyền Đề điểm hình ngục lộ Hoài Nam. Tân quyền Tri châu Tô Ngô An Trì làm Thiếu giám Tướng tác, vì An Trì tâu mẹ già nhiều bệnh, theo lời xin của ông.
[34] Tri châu Đại Châu, Đông thượng các môn phó sứ Cao Tuân Nhất mẹ mất, tâu xin được giải chức để chịu tang. Chiếu không cho, lệnh em Tuân Nhất là Tuân Huệ hộ tang về kinh.
[35] Ngày Canh Ngọ, Thái sư Văn Ngạn Bác tâu: “Xin bãi chức của con trai thần là Di Khánh khỏi việc xét thứ tự chuyển vận phán quan, để Cư Trung được miễn sai làm chức Bạ ở Tông chính tự.” Chiếu rằng: “Cư Trung theo lời xin, vẫn giữ chức Câu viện Tây Kinh, Di Khánh không được từ chối.”
(Ngày 28 tháng 8.)
[36] Ngày Tân Mùi, Khởi cư lang, Tu thực lục viện Kiểm thảo quan Lâm Hi được bổ làm Trung thư xá nhân.
[37] Hữu ty gián Vương Địch tâu: “Thần nghe nói Khởi cư lang Lâm Hi được triệu thí làm Trung thư xá nhân. Hi tuy có chút văn nghệ, nhưng vốn nổi tiếng là xảo quyệt. Khi Vương Khuê nắm quyền, Hi nịnh bợ hết mực, ngày ngày thân thiết với con cháu không ra gì của Khuê, đến khi Hàn Chẩn làm tướng, Hi lại làm tay sai cho Chẩn. Nay Trung thư thị lang Trương Tảo nổi tiếng là kẻ gian tà, kẻ sĩ có chút tự trọng đều không muốn đến cửa nhà hắn, thế mà Hi lại kết thân sâu với hắn, không sợ bị chê trách, sao có thể để hắn đứng ra nói lời thay mặt trong cung cấm, vào hầu cận trong triều! Lại nghe Hi đã có chương xin miễn triệu thí, mong bệ hạ ra chỉ, cho Hi một chức ngoại nhiệm, để danh khí triều đình không bị lạm dụng, tà chính phân minh.” Tờ thiếp vàng viết: “Em ruột của Lâm Hi là Đán hiện làm Điện trung thị ngự sử, cùng thần làm việc trong ngạch gián quan. Thần không dám vì Đán mà giấu giếm tội ác của anh hắn, phụ lòng trách nhiệm gián quan của bệ hạ. Mong bệ hạ xét kỹ.” Lại tâu: “Trương Tảo đã lâu biết công luận không dung, từ xuân hạ đến nay, thường nói với các quan rằng muốn xin nghỉ, đến đầu thu, lại nói đợi qua lễ Minh đường. Nay lễ đã qua, không thấy hắn xin nghỉ, lại vào Trung thư làm việc, ung dung tự tại, tham lam danh lợi, không biết xấu hổ. Nếu lại dùng Lâm Hi làm Xá nhân, hai kẻ gian tà cùng nhau, hại càng sâu. Mong bệ hạ đuổi Hi ra ngoại nhiệm, để chặt móng vuốt của kẻ gian; bãi quyền lớn của Tảo, để dứt gốc rễ bè đảng, đó là phúc của thiên hạ.”
[38] Chiêu Tuyên sứ, Gia Châu thứ sử, Nội thị hữu ban phó đô tri Lưu Hữu Phương được bổ làm Tuyên Chính sứ, cán đương Hoàng thành ty, vì nhiệm kỳ đã mãn nên được thăng chức.
[39] Trách thụ Hữu Đồn vệ tướng quân Tào Thi được phục chức làm Thư Châu đoàn luyện sứ, Phụ mã đô uý; Hữu Giám vệ tướng quân Vương Sân được phục chức làm Đăng Châu thứ sử, Phụ mã đô uý.
[40] Tông Chính tự tâu: “Đã cho phép Chủ bạ thống quản việc của tự, nhưng e rằng cũng theo lệ của Thái Thường tự và Quốc Tử giám, chỉ thống quản các việc tạp vụ. Việc biên soạn quốc sử, xin theo lệ cũ, do Thừa chuyên trách.” Triều đình chấp thuận.
[41] Trung thư xá nhân Tô Thức tâu: “Theo từ đầu do Lại phòng gửi đến: Triều tán lang Ngô Tuân được bổ làm Quảng Nam Đông lộ chuyển vận phán quan. Thần nghe Mạnh Tử nói: ‘Xem người xa thì xem chủ của họ’. Gần đây triều đình bổ nhiệm Giám ty đều dựa vào người tiến cử. Như Ngô Tuân, danh tiếng không ai biết, mà người tiến cử lại là ba người: Lữ Huệ Khanh, Dương Cấp, Hoàng Lí. Hoàng Lí là người mà triều luận không coi là chính nhân; còn Huệ Khanh và Cấp, gian ác tích tụ, không cần thần nói cũng đã rõ. Nay lại bổ nhiệm người họ tiến cử, để cai quản một lộ, thần thực không hiểu lý do. Vì thế, thần chưa dám soạn cáo từ.”
(Việc Ngô Tuân được bổ làm Quảng Đông vận phán, thực lục ghi ngày 16 tháng 9[9]. Theo tấu nghị của Tô Thức thì ghi là ngày 16 tháng 3, chắc chắn là tấu nghị nhầm ngày 16 tháng 9 thành ngày 16 tháng 3. Nay theo thực lục, ghi vào ngày 16 tháng 9. Tuy nhiên, đến ngày 16 tháng 9, Thức đã được bổ làm Nội hàn rồi, hoặc có thể đã được bổ làm Nội hàn nhưng chưa thôi chức Tây dịch, nên mới có lời bàn luận này.)
[42] Chiếu: “Khi Trung thư xá nhân tạm thời khuyết chức, theo lệ của Môn hạ và Thượng thư tỉnh, chỉ cần phê gửi cho quan bản tỉnh kiêm quyền.”
(Vương Địch luận tấu vào ngày 8 tháng 10, đây căn cứ vào sớ của Địch để ghi chép.)
- Không ngờ Tảo chưa bị cách chức mà đã mất đi trung thần, chữ 'tiên' vốn thiếu, theo bản trong các kho lưu trữ bổ sung. ↵
- 'Mà đã' hai chữ nguyên bản đảo ngược, theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Phải' nguyên bản là 'lệnh', theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Ngừng' nguyên bản là 'nhiệm', theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Sản' nguyên bản là 'phòng', theo bản khác sửa lại. ↵
- Kính nghĩ Thần Tông hoàng đế bỏ thiên hạ 'nghĩ' nguyên văn là 'vì', theo các bản sửa. ↵
- Từ khi Chu Quang Đình, Vương Địch được thăng làm Tả, Hữu ty gián sau, chữ 'Tả' nguyên bản thiếu, căn cứ vào chính văn mà bổ sung. ↵
- Vương Địch xin bãi việc thăng Vương Chấn làm Thiếu khanh, chữ 'bãi' nguyên bản là 'dữ', chữ 'khanh' nguyên bản là 'giám'. Xét: Vương Địch cùng Lưu Chí đều từng xin bãi việc Vương Chấn được bổ làm Thiếu khanh Đại Lý, xem quyển 386, ngày Tân Hợi tháng tám năm Nguyên Hựu thứ nhất, căn cứ mà sửa. ↵
- Chữ 'thập' trong '16 tháng 9' vốn bị thiếu, căn cứ vào văn bản dưới đây mà bổ sung. ↵