VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 389: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)
Bắt đầu từ ngày Nhâm Thân tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết tháng.
[1] Ngày Ất Dậu, tháng 10, lấy Triều thỉnh đại phu, Phó chuyển vận sứ Quảng Nam Tây lộ là Sở Tiềm làm Tri châu Xử Châu. (Tô Triệt bàn về Sở Tiềm[1] vào ngày mùng 2 tháng 8.) Triều tán lang, Quyền Phó chuyển vận sứ Quảng Nam Tây lộ là Cao Bác làm Phó chuyển vận sứ Quảng Nam Đông lộ.
(Vương Nham Tẩu từng bàn rằng Bác là người xảo trá, nên xem xét thêm.)
[2] Tam tỉnh tâu: “Năm châu quân ở Hi Hà Lan Hội lộ mỗi năm chi 2.500 quan tiền để xây dựng đạo tràng thủy lục, cầu siêu cho tướng sĩ Hán, Phiên đã mất, nhưng số tăng đạo ở các châu không quá 20, 30 người, xin giảm bớt.” Chiếu chỉ mỗi năm chi 500 quan.
(Mới bỏ.)
[3] Ngày Bính Tuất, Điện trung thị ngự sử Lâm Đán làm Phó chuyển vận sứ Hoài Nam lộ, Giám sát ngự sử Tôn Thăng làm Điện trung thị ngự sử, Triều phụng lang Vương Cổ làm Viên ngoại lang Công bộ, Hiệu thư lang Hoàng Đình Kiên sung chức Kiểm thảo quan ở Thực lục viện.
[4] Lễ bộ và Thái thường tâu rằng: “Hồng lư khanh Khổng Tông Hàn tấu: ‘Kính xét tiền thần Khổng Tử, con cháu đời sau được tập tước phong một người. Từ thời Tây Hán trở đi, có nước Bão Thành hầu; đến thời Ngụy, Tấn về sau, lại có các hiệu Phụng Thánh, Tông Thánh, Sùng Thánh, danh hiệu không nhất, đều có thực phong, hoặc dùng trăm tấm lụa để phụng thờ. Triều đại thánh triều từ tổ tông trở đi, càng thêm tôn sùng. Sau khi Chân Tông làm lễ phong thiện ở phía đông, đích thân đến miếu Nho, ân lễ đầy đủ, vẻ đẹp của đạo quý, rực rỡ xưa nay, tập tước công, đến nay vẫn không dứt. Tuy nhiên, danh hiệu chưa được chính thức, cần đợi thánh triều để chính thức hóa. Vì tập tước kế vị, vốn là để phụng thờ, nay lại kiêm nhiệm chức quan khác, không ở quận cũ. Xin từ nay về sau không để người tập tước kiêm nhiệm chức quan khác, và xin cấp bổng suốt đời, để ở quê nhà. Miếu vốn có 50 hộ quét dọn và 5 hộ trông coi rừng, trong niên hiệu Hi Ninh, triều đình cắt giảm người làm việc, có người bàn muốn dùng tiền thuê người làm dư ra, nên giảm xuống còn 30 người, hộ trông coi rừng chỉ còn 3 người. Trước đây, trong niên hiệu Khánh Lịch, Lương Thích làm Tri châu Duyễn, xin dùng quân sương thay thế hộ miếu, và cắt giảm số người. Lúc đó, chấp chính muốn theo lời xin của Thích, chỉ có Phạm Trọng Yêm nói: “Việc này khác với lợi hại thông thường, là việc thánh chúa tôn kính tiên sư, nhân nghĩa có thể ngừng, nhưng người này không thể giảm. Hôm nay dù làm, ngày sau ắt phải khôi phục.” Chấp chính bèn thôi. Nay xin xem xét thi hành.’
Và các quan tâu: ‘Miếu Khổng Tử, quốc gia thường phụng thờ, nhưng số ruộng ban không đủ chu cấp cho tộc nhân, tập tước tuy còn, nhưng không tránh khỏi việc bận rộn, rất không phải là ý tôn vinh.’ Nay xem xét điển cố, từ thời Hán, Ngụy trở đi, không đời nào không phong con cháu Khổng Tử, ban ruộng đất ưu đãi, nhưng chưa từng lập chế độ rõ ràng, nên lễ thừa tự có lúc thịnh suy. Triều đại ta tôn sùng tiên thánh, ngày càng long trọng, Chân Tông hoàng đế lại từng ban kinh sử cho nhà họ, sai Duyện châu chọn nho sinh giảng dạy, có thể thấy tổ tông tôn phụng thánh tự, vượt xa đời trước. Nay tham nghị muốn theo lời xin, định lại điển lễ, bổ nhiệm quan để quản lý chi tiêu, lập học để dạy dỗ con cháu, thì ý tôn sùng Nho đạo của triều đình thật sâu sắc. Nay tập tước Diễn Thánh công chuyên lo việc tế tự, thêm 100 khoảnh ruộng để cung cấp tế tự, cho phép chia đều chu cấp tộc nhân; sai 50 hộ quét dọn, 5 hộ trông coi rừng, theo phép cũ; ban sách, đặt một giáo thụ, dạy dỗ con cháu nhà họ, nếu người làng gần muốn theo học cũng được. Đổi Diễn Thánh công thành Phụng Thánh công, và san định chế độ gia tế, mũ áo, ban hành thi hành.” Đều theo.
[5] Chiếu: “Nội thị áp ban Lương Duy Giản ở điện Thái hoàng thái hầu hầu cận gần hai mươi năm, nhiều lần có công lao, nay chuyển ra ngoài, có thể đặc cách cho mang chức Dao quận thứ sử, không làm thành lệ.”
[6] Quyền Trung thư xá nhân Tô Triệt tâu: (Triệt vào ngày 12 tháng 9 được bổ làm Khởi cư lang, ngày 24 tháng 11 được bổ làm Trung thư xá nhân, lúc này chỉ là Khởi cư lang quyền Trung thư xá nhân. Quyền Trung thư xá nhân bắt đầu từ Triệt, nên xem xét. 《Lã thị gia thục ký》 có ghi chép, phụ chú vào ngày 12 tháng 9, ngày Đinh Mão.)
“Thần trộm thấy Lương Duy Giản trong vòng một tháng ba lần được thăng chức vượt cấp, đều lấy việc được ân điển đặc biệt ngoài pháp luật trước đây làm ví dụ, lại nói người khác không được viện dẫn làm lệ. Lần đầu từ Ngự dược được thăng vượt cấp lên Đái ngự khí giới và hai bậc ở Tiền tỉnh, đổi chức Văn tư phó sứ, quyền vào Hậu tỉnh. Chỉ một lần thăng chức này đã là cực điểm trong việc thăng chức nội thần, trong ngoài đều kinh ngạc, đều có bàn tán. Sau đó lại nhân dịp Khôn Thành tiết tấu tiến, được hai lần ân trạch, đặc cách thăng hai bậc. Theo pháp luật, người được đặc ân thăng chức, từ Văn tư phó sứ nên thăng lên Hoàng thành phó sứ, lại được đặc chỉ thăng lên Cung bị khố sứ[2].
Thần lúc này phải soạn cáo từ, vì việc chưa đến mức quá đáng, chưa dám tâu bày. Chưa đầy mười ngày, nay lại nhân việc bãi chức Bản điện chi hậu mà được thăng một bậc. Nếu theo pháp luật cũ, từ Cung bị khố sứ nên thăng lên Tây kinh Tả tàng khố sứ, nay lại vượt qua ba bậc Văn tư, Tả tàng, Hoàng thành sứ, thẳng lên Dao quận Thứ sử. Thần nếu không sớm tâu bày, ắt sẽ dẫn đến nhiều tranh cãi. Thần trộm nghĩ rằng ân điển đặc biệt của triều đình nên dành cho những công thần có công lao phi thường. Nay Duy Giản là người thế nào, thần không biết, chỉ thấy ông ta phục vụ trong cung, thời gian đã lâu, chỉ là cần cẩn giữ mình, không có công lao gì đặc biệt, mà ba lần được hưởng ân sủng này, đều không phải là pháp luật cũ của tổ tông.
Thần trộm thấy Thái hoàng thái hậu bệ hạ từ khi lâm triều đến nay, nghiêm túc trong cung cấm, hạn chế ngoại thích, không để tư thỉnh lộng hành, bãi bỏ những ân điển quá đáng, tuân thủ pháp luật, từ xưa đến nay chưa từng có, há lại vì những thân cận mà mở đường kiểu hãnh? Ắt là do điều lệ chưa rõ ràng, thánh ý chưa kịp xem xét kỹ, mà đại thần không giữ được pháp luật, thiếu sót trong việc tâu bày, dẫn đến việc quá đáng này. Nếu không, há bệ hạ có thể dùng pháp luật để trị ngoại thích, mà lại không thể dùng để chế ngự nội thần sao? Nếu Duy Giản có công lao xuất chúng, xin hãy tuyên bố rõ ràng, để các cơ quan xác minh, làm yên lòng dư luận trong ngoài. Thần vốn bất tài, được giao trách nhiệm tâu bày, mỗi lần vào chầu đều được bệ hạ khen ngợi, thường muốn dâng thân để báo đáp tri ngộ, không dám im lặng, phụ lòng ân đức. Cáo từ này, thần chưa dám soạn.”
[7] Ban đầu, Duy Giản được bổ nhiệm làm Nội thị áp ban, quyền quản nhập nội áp ban sự, Phạm Thuần Nhân và các quan nhiều lần can gián nhưng chưa được chấp thuận, Hàn Duy đứng trước rèm tranh luận rất mạnh mẽ. Đến khi Duy Giản được thăng chức, Triệt dâng sớ trả lại từ đầu, Duy nhân đó tâu bày về việc ban hành mệnh lệnh trong cung, và nói: “Nhân Tông khoan nhân, mỗi khi có kẻ thân cận hoặc quý thích may mắn cầu xin ân huệ, thường tuyên dụ các quan chấp chính: ‘Các khanh cứ theo công mà tâu bày, có thể ngăn chặn được.’ Thần đang giữ chức chấp chính, tự có thể tâu bày, không dám tránh né sự oán ghét của người khác.” Duy Giản bèn bị bãi chức thăng quan.
(Theo 《Hàn Duy truyện》. Ngày 18 tháng 8, bổ nhiệm làm áp ban; ngày 17 tháng 9, bổ nhiệm làm Hoàng thành phó sứ.)
[8] Chiếu ban lịch cho các châu, các lộ chuyển vận, đề hình ty. Trước đây, hàng năm ban lịch mới cho các quan giám ty tại địa phương, khi họ thôi chức, được mang lịch theo. Tri châu Vệ Châu là Vương Triết xin ban lịch cho các cơ quan, không ban cho cá nhân. Chiếu ban lịch cho cả hai.
[9] Ty đô tổng quản lộ Định Châu xin rằng quân mã bị thiếu ngựa trong tháng 6, cho phép tự bỏ tiền mua ngựa. Được chấp thuận.
(Không có trong sách mới, cần xem xét thêm.)
[10] Xu mật viện tâu: “Mười ba tướng ở Đông Nam, từ khi tập hợp thành tướng đến nay, chưa từng phân định rõ ràng các lộ phải đi đóng quân, và trong số quân không thuộc tướng có những nơi số lượng quân phải đi đóng quân ít, nhưng số lượng chỉ huy quản lý lại nhiều, chưa được phân bổ hợp lý. Xin trừ ba tướng đóng quân ở hai lộ Quảng Nam Đông và Tây chỉ làm nhiệm vụ phòng thủ tại địa phương, và tướng thứ sáu ở Kiền Châu[3], tướng thứ chín ở Toàn Châu và Vĩnh Châu chuẩn bị ứng phó khi Quảng Nam Đông và Tây lộ có việc khẩn cấp, không phải đi đóng quân ở các lộ khác. Tám tướng còn lại và quân không thuộc tướng, theo sự phân định của đô kiềm hạt ty, đóng quân và phân chia nhiệm vụ. Tức là luân phiên đưa quân tướng và quân không thuộc tướng đi các lộ[4], lại từ kinh đô điều bộ quân đến thay thế, đợi khi quân tướng trở về, sẽ điều động lại.” Được chấp thuận.
[11] Ngày Đinh Hợi, Hộ bộ tâu:
“Ty chế trí giải diêm Thiểm Tây tấu rằng: ‘Theo chỉ dụ năm Khánh Lịch thứ 8, Phạm Tường đã đề xuất thay đổi việc giải diêm, trong đó 8 châu quân Diên, Khánh, Vị, Nguyên, Hoàn, Trấn Nhung, Bảo An, Đức Thuận[5] xin cấm bán muối của thương nhân, quan phủ tự đặt mức bán 15.500 tịch, cho phép thương nhân nộp giải diêm tại các ty chiết bác ở 8 châu quân đã định, theo giá muối đã định và thêm tiền thưởng để tính toán cấp giao dẫn. Số muối nộp vào, lệnh các châu quân xem xét đặt mức, phân chia bán tại các huyện, thành, trại ngoài trấn. Việc bán giải diêm tại 8 châu quân, theo đúng pháp cũ của Phạm Tường, cho phép ty này cấp công bằng, mời thương nhân tự dùng vốn đến nộp, căn cứ số tiền muối phải trả cho thương nhân, tính toán cấp theo số lượng muối mua năm đó của ty chuyển vận. Số tiền bán muối thu được, đều dùng để ứng phó cho ty chuyển vận mua muối.’
Lại tấu: ‘Theo chỉ dụ năm Gia Hựu thứ 2, ty chế trí giải diêm Phạm Tường tấu rằng thương nhân buôn bán không thông, xin cử một viên Thừa vụ lang trở lên đến kinh đô lập trường, cho phép bán diêm sao lấy tiền mặt, vẫn đặt kho thu tiền muối tại Đô diêm viện ở kinh đô[6]. Xin các diêm sao giáng cấp sau này không giao xuống ty chuyển vận, mà đến mùa đông năm trước gửi về ty này, ty này căn cứ số lượng muối mỗi châu quân được nhận trong năm, xem xét tình hình cấp phát, chỉ cho phép nộp tiền mặt để bán. Số tiền mua muối tại các huyện, thành, trại ngoài trấn cũng làm theo cách này. Lo rằng khi pháp lệnh mới ban hành, ty chuyển vận không có vốn mua, xin theo chỉ dụ gần đây, bãi bỏ việc mua muối của các ty, chỉ lệnh ty chuyển vận mua.
Từ nay về sau, cấm các ty không được buôn bán, dù có chỉ dụ riêng, cũng cho phép ty này tâu lên. Số diêm sao các ty đã mua trước đây, xin giao ty này thu hồi, đợi khi diêm sao trong dân ít đi, xem xét bán trả tiền. Từ nay về sau, nếu trong lộ thiếu tiền khẩn cấp, cần triều đình ứng phó, không cấp công cứ tiền mặt, chỉ đem số tiền ban thưởng phong trang tại kinh đô, tạm thời cho phép cấp diêm sao[7], giao ty này không theo thường lệ, chọn quan đến đó lập trường xem xét, mỗi tịch giảm 300-200 văn để thu mua. Những năm gần đây, diêm sao in riêng dấu hiệu và diêm sao cũ in riêng năm tháng diêm sao mới để sử dụng, những việc như vậy, từ nay về sau xin đều cấm chỉ.’
Bộ này xem xét, xin đợi khi diêm sao tích trữ trong dân ít đi, nếu triều đình ứng phó tiền mặt cho lộ này, giao bộ này xem xét, làm theo cách này. Giá muối nguyên định mỗi tịch 6 mân, khó bàn thay đổi. Thêm nữa, tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 6, triều đình ban tiền mặt cho ty chuyển vận Thiểm Tây chi dụng, ty này sai quan đến kinh xin nhận tiền mua lụa, lụa, bạc đưa về Thiểm Tây, trừ chi phí vận chuyển, còn thu được lợi lớn. Nay ứng phó tiền cho Thiểm Tây, xin làm theo cách này, không cần cấp công cứ và xin cấp diêm sao.'” Theo đó.
(Bản cũ do Lữ Đại Trung tấu nghị sửa đổi, nay dùng lại. Tấu nghị rất chi tiết, có thể tham khảo thêm để bổ sung. Bản mới sửa đổi bản cũ, có nhiều chỗ không thống nhất, nên chỉ dùng bản cũ.
Bản mới nói: Hộ bộ tâu: “Ty chế trí giải diêm Thiểm Tây tấu: ‘Theo chỉ dụ năm Khánh Lịch thứ 8, Phạm Tường bàn việc cải cách giải diêm, trong đó 8 châu quân Diên, Khánh, Vị, Nguyên, Hoàn, Trấn Nhung, Bảo An, Đức Thuận cấm bán muối khách, quan tự bán muối, mỗi năm định mức 15.500 tịch, theo đúng phép cũ của Phạm Tường, tiền bán muối dùng để cấp cho Ty chuyển vận mua lương.’
Lại tấu: ‘Theo chỉ dụ năm Gia Hựu thứ 2, chế trí giải diêm Phạm Tường xin cử một viên Thừa vụ lang trở lên, đặt trường ở kinh đô, bán muối lấy tiền mặt, Đô diêm viện lập kho thu nhận. Xin từ nay các tờ sao muối giải diêm không giao xuống Ty chuyển vận, mà giao Ty này căn cứ định mức hàng năm của các châu quân mà cấp phát. Lại lo lúc mới thi hành, Ty chuyển vận không có vốn mua, xin chỉ cho Ty chuyển vận mua, cấm các ty khác không được buôn bán. Số tờ sao các ty đã mua trước đây, xin giao Ty này thu hồi, đợi khi tờ sao muối trong dân ít đi, xem xét bán ra, trả lại tiền cho các ty.’
Bộ xem xét, xin đợi khi tờ sao muối trong dân tích trữ ít đi, triều đình sẽ ứng tiền mặt cho bản lộ, giao Bộ xem xét. Giá muối nguyên định mỗi tịch 6 mân, khó giảm được. Lại tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 6, triều đình cấp tiền mặt cho Ty chuyển vận Thiểm Tây chi dùng, Ty này sai quan đến gần kinh đô nhận tiền mua lụa vải đưa về Thiểm Tây, trừ phí vận chuyển, còn thu lãi lớn. Nay ứng tiền cho Thiểm Tây, xin theo cách này.” Được chấp thuận. Ngày 6 tháng 9, Hộ bộ… có thể tham khảo.)
[12] Chiếu rằng: “Phụng nghị lang, tiền Thái phủ tự thừa Vương Chương được giữ nguyên chức, vẫn làm Thái phủ tự thừa, phân ty Nam Kinh. Từ nay về sau, những người tự xin phân ty đều được mang theo chức sự quan.” Chương vì bệnh tự tâu nên có chiếu này.
[13] Xu mật viện tâu: “Tướng, phó chuyển sang làm tướng, phó khác, tính cả thời gian làm trước, đủ ba năm thì thay; nếu thời gian bổ nhiệm chưa đủ một năm mà muốn làm thêm một nhiệm kỳ nữa, thì cho phép. Còn phó tướng thăng làm chính tướng, sứ thần mới chuyển làm phó, đều tính riêng ba năm đầy thì thay.” Theo đó.
[14] Ngày Mậu Tý, chiếu rằng: “Các châu nội địa và Xuyên Quảng, ngoài những người do đường trừ bổ, đều lấy ba mươi tháng làm một nhiệm kỳ.”
(Ngày 22 tháng 12 năm thứ 6 có thể tra cứu.)
[15] Chiếu cho Hộ bộ, do đã bãi bỏ một viên Thương bộ lang trung, nay cho phép khôi phục lại, chuyên lo việc xét duyệt án và in phát các loại sao dẫn.
[16] Lại chiếu rằng: “Tân thụ Tư chính điện học sĩ, Tri Trịnh châu Trương Tảo không được từ chối lễ vật ban thưởng trong đại lễ Minh đường.” Tảo làm Trung thư thị lang, vì bệnh xin nghỉ, lễ xong, các chấp chính quan theo lệ được ban thưởng, người không tham gia tế lễ thì không được, nhưng đặc cách ban cho.
[17] Lại bộ xin: “Người bản quán ở Xuyên được phép trong ba ban làm một nhiệm về Xuyên, những người do được thưởng mà được tiện lợi về nhà, ưu tiên hoặc không bị ràng buộc về lộ phân, cũng không bổ vào chỗ khuyết ở Xuyên.” Theo đó.
[18] Ngày Kỷ Sửu, Hình bộ xin: “Khai Phong phủ báo bắt được kẻ làm giả, giết hại người, nếu hợp lệ được quan cấp thưởng tiền, thì đều lấy từ khoản tiền thưởng bắt trộm cướp của bản phủ.” Theo đó.
(Bản mới không có.)
[19] Ngày Canh Dần, Tri Nhữ châu, Chính nghị đại phu Chương Đôn làm Tri Dương châu.
(Ngày 18, Vương Nham Tẩu, Chu Quang Đình, Lữ Công Trước bàn luận, vẫn làm Tri Nhữ châu. Chính mục của Lã Đại Phòng: Ngày 6, Chương Đôn làm Tri Dương châu, lại Hình Thứ làm Tri Nhữ châu. Ở dưới “Nhữ châu” chú rằng: Đã bổ rồi lại bãi. Phụ lục, nên tra cứu.)
[20] Trung tán đại phu Vương Lệnh Đồ làm Đô thủy sứ.
[21] Lại bộ thị lang Phó Nghiêu Dũ thôi việc tường định dịch pháp, theo lời xin của ông.
(Ngày 20 tháng 9, Nghiêu Dũ từ chức.)
[22] Nội thị áp ban Lương Duy Giản quản câu cung Cảnh Linh.
[23] Chiếu rằng: “Những người ứng thí trúng chức quán, nếu là người được tuyển trong nội thì trừ chức Thí chính tự, việc cải quan, xin bổng lộc đều theo phép của Thái học bác sĩ. Người chưa thăng triều quan thì trừ chức Hiệu thư lang, người đã thăng triều quan thì trừ chức Bí các Hiệu lý. Chính tự sau khi làm việc đủ bốn năm thì trừ chức Bí các Hiệu lý, nhưng phải đợi đến ngày cải sang chức ký lộc quan mới được trừ. Hiệu thư lang sau khi làm việc đủ hai năm thì trừ chức Tập hiền Hiệu lý. Bí thư lang, Trứ tác tá lang ngang với Tập hiền, Bí các Hiệu lý; Trứ tác lang ngang với Trực Tập hiền viện, Trực Bí các.”
[24] Tam tỉnh tấu rằng: “Các thần liêu tâu rằng, triều đình đặt ra phép sai dịch, cho phép tự mình thuê người, các châu huyện thi hành đã có thứ tự. Gần đây, chiếu chỉ của triều đình lại bắt thân chính của người làm nghề cung thủ phải ứng dịch, e rằng chưa tiện cho công tư.” Chiếu rằng: “Những người làm nghề cung thủ mà thân chính không muốn ứng dịch, cho phép thuê người đã từng được mộ làm cung thủ có năng lực[8], nhưng không được vượt quá số tiền thuê theo phép mộ cũ. Lệnh cho Phủ giới đề điểm ty và các lộ chuyển vận ty xem xét thi hành.”
[25] Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu rằng:
[26] “Thần nghĩ rằng triều đình hẳn cho rằng phép sai dịch mới thi hành, nghề cung thủ vừa mới sai hương hộ đảm nhiệm, chưa quen với việc bắt trộm cướp, còn những người trước đây ứng mộ làm cung thủ một sớm bị bãi bỏ, có thể không có nghề nghiệp, mang theo tài nghệ cũ, bỏ đi làm giặc, nên mới ban chiếu chỉ này, muốn tạm thời điều chỉnh lúc đầu để đợi đến khi thành công. Thần cho rằng hai điều đó không đáng lo. Bởi phép sai dịch vừa khôi phục, việc chưa ổn định, nếu cho thêm thời gian, thì phép tắc tự nhiên thành lập và công việc sẽ ổn định.”
[27] Ngày 17 tháng 3 trước, có chiếu rằng: Những người cung thủ từng tham gia chiến đấu, bắt giặc có công, dù không có hộ tịch, cũng đặc cách lưu lại, thì việc thu dụng người cũ đã có pháp lệnh này. Hơn nữa, cung thủ không thể không dùng phép sai dịch, vì người trong làng khi làm việc, không chỉ có sự giúp đỡ của gia đinh và con em[9], mà đến cả thân tộc, hôn nhân và dân làng, không ai không vì họ mà hỗ trợ, cùng chia sẻ vui buồn. Một khi có lệnh bắt giặc, thì mọi người đều lắng nghe, tìm cách bắt trộm cướp; lại thêm họ là người bản địa, tự trọng nên không có nỗi lo bỏ trốn. Đây là lý do cung thủ bắt được giặc thường nhiều hơn những người tuần tra khác, và từ thời tổ tông đến nay, cung thủ luôn phải dùng chính thân. Từ khi thực hiện việc thuê mướn, trộm cướp hoành hành, vì những người được thuê là kẻ lười biếng, không đảm đương được trách nhiệm. Sai dịch và thuê mướn, lợi hại như vậy, vậy thì pháp lệnh của tổ tông há chẳng có ý nghĩa sao? Thực hiện hơn trăm năm, chưa từng nghe thấy hộ thượng đẳng cho là bất tiện mà muốn thuê người.
[28] Việc trên sai khiến dân, khiến họ ra sức thì dễ, khiến họ xuất tiền thì khó, đây là đạo lý thông thường từ xưa đến nay dễ hiểu. Nay triều đình chỉ thị tuy nói rằng không muốn đi làm việc mới cho phép thuê người, nhưng quan lại các cấp vì lợi ích của người cũ quen thuộc, hoặc vì tình cảm mà giữ lại, tất phải ngăn cản hộ mới, khiến họ phải thuê người, làm sao biết được họ có muốn hay không? Thần e rằng người bị sai dịch hàng năm xuất tiền không dễ, lại phải oán trách phép sai dịch, kẻ gian nhân nhân đó có thể kích động dư luận. Hơn nữa, việc nặng nhẹ của lao dịch trong thiên hạ, phong tục các châu huyện khác nhau, đương nhiên phải tùy nơi mà chế định, không thể áp dụng một phép chung.
[29] Thần xem xét các lộ cung thủ, trước thời Hi Ninh, khi chính thân sung dịch, họ rất mạnh mẽ, thường tự nuôi ngựa, tài nghệ bắt giặc hơn hẳn các lộ khác. Gần đây, sau khi được sai phái lại, họ đều yên tâm làm việc, đã qua thử thách, cũng không nghe ai không vui mà muốn bỏ tiền thuê người thay. Nghe nói chỉ có các lộ Xuyên, Thục, Giang, Chiết trước đây sai phái hạng nhất sung dịch, họ quen sống xa hoa yếu đuối, không chịu ra sức vì việc công mà đảm nhận trách nhiệm bắt giặc, nên thà bỏ tiền thuê người thay, tự cho là tiện. Nhưng đó chỉ là lợi ích một phía, mà người bàn luận không xem xét kỹ, nên mới thay đổi phép cũ một cách đại trà. Nay triều đình nếu chưa muốn thu hồi lệnh cho phép thuê người, mà muốn chiều theo dân, thì nên phân biệt lợi hại lớn nhỏ, tạm đặt ra quy chế. Xưa nay, nơi nào có nhiều trộm cướp và cung thủ chính thân lâu ngày có hiệu quả, không đâu bằng năm lộ. Thần xin đề nghị cung thủ năm lộ vẫn theo phép cũ của tổ tông và chỉ thị ngày 3 tháng 7 năm nay, phải do chính thân đảm nhiệm, còn các lộ khác thì theo chỉ thị ngày 6 tháng này[10], và xin đem những người trước đây theo hộ đẳng sai dịch, cùng những người đã từng chiến đấu có công được lưu lại, và những người tự nguyện thuê người thay, ba hạng này tính chung, không được quá một nửa số người chính ngạch, để mới cũ phối hợp, dần quen việc bắt giặc. Trong số ba hạng này, nếu có khuyết ngạch, chỉ được sai bổ[11], thì trong một hai năm, phép sai dịch sẽ thành tựu, việc thuê người có thể bãi bỏ.
[30] Triều đình lập pháp, không thể vì một hai việc nhỏ ban đầu mà làm hỏng đại thể. Cái gọi là việc nhỏ về chính thân cung thủ, chỉ là do các hộ thượng đẳng ở phương Nam, con em họ phần nhiều chuyên học để làm cử nhân, nên cảm thấy bất tiện, bèn tạo ra lời đồn thổi để làm mê hoặc tai nghe của người bàn luận. Họ đâu biết rằng mỗi năm bỏ tiền ra thuê người thay thế, cái hại lâu dài không nhỏ. Hơn nữa, từ thời tổ tông đến nay, thi hành pháp chính thân sung dịch, thông suốt cả thiên hạ, đã hơn trăm năm, chưa từng nghe nói là bất tiện. Nay triều chỉ tuy muốn thuận theo tình người, ban hành pháp cho phép thuê người thay thế, nhưng chỉ nên coi đó là mệnh lệnh tạm thời, nên đặt thời hạn một năm hoặc hai năm, đợi khi lòng người quen thuộc, thì bỏ pháp thuê thay. Kính xin xem xét kỹ lẽ mà thần trình bày, đặc biệt ban hành ngoài việc cho phép thuê người ở các lộ, còn xin cân nhắc các hộ có hai đinh trở xuống, mới được theo chế độ gần đây mà thuê người thay thế. Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu:
[31] Thần trộm xét rằng việc bổ nhiệm cung thủ, yêu cầu chính thân đảm nhiệm là rất hợp lý, không nên có thêm mệnh lệnh này. Theo pháp lệnh sai dịch cũ, các loại công nhân vốn được phép thuê người thay thế, nhưng riêng cung thủ phải do chính thân đảm nhiệm, ắt có ý nghĩa sâu xa. Cung thủ chính thân ai nấy đều tự trọng, khi được giao nhiệm vụ bắt trộm cướp, họ có tâm lý sợ bị trách phạt; hơn nữa, hôn nhân và thân thích của họ đều ở trong thôn xóm, ai nấy đều là tai mắt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bắt giữ. Sự yên ổn trong một vùng đều nhờ vào cung thủ chính thân từ các hộ trong làng. Từ thời tổ tông đến nay, việc này đã có hiệu quả rõ rệt. Khi pháp lệnh Hi Ninh thay đổi, vừa dùng hình thức thuê mướn, lại giảm bớt nhân số, khiến trộm cướp hoành hành, các quận huyện không có cách nào đối phó. Gần đây, bệ hạ khôi phục lại pháp lệnh sai dịch, cung thủ đều dùng chính thân, lại tăng thêm nhân số, người từ khắp nơi đến đều khen ngợi sự tiện lợi, trộm cướp giảm bớt, dân lành yên ổn, đó đều là những bằng chứng đã được kiểm nghiệm. Huống chi, từ khi thiên hạ thực hiện chế độ thuê mướn cung thủ, số lượng đã giảm sút gần hết, ở các huyện thuộc ba lộ có nơi chỉ còn tám người; trong số đó phần lớn vốn thuộc các hộ đẳng cấp, nay đã được sai đi đảm nhiệm, ngoài ra những người cần giải nhiệm cũng không nhiều, những người có sắc dịch có thể thay thế, lo gì thất nghiệp? Há lại vì những lời thiên lệch không thiết thực mà thay đổi pháp lệnh đã có hiệu quả, khiến thiên hạ lại nghi ngờ? Kính mong bệ hạ đặc biệt xem xét kỹ lưỡng, không thi hành mệnh lệnh cho phép cung thủ thuê người thay thế, để giữ vững hiệu lệnh, nghiêm minh kỷ cương.
[32] Thiếp hoàng nói:
[33] Thần mong bệ hạ chủ trương phép sai dịch lớn, đừng dung túng những ý kiến khác làm thay đổi, khiến dân thiên hạ lại chịu khổ. Thần trước đây vì Tư Mã Quang mất, từng dâng chương nói với bệ hạ: “Nay việc thiên hạ đã ổn định, dân an cư lạc nghiệp, chỉ cần bệ hạ kiên trì, tin tưởng vững vàng, không dao động, thì thiên hạ sẽ rất may mắn.” Kính mong bệ hạ khi nghe lời tâu, hãy xem xét kỹ, thần ngu muội xin hết lòng khẩn thiết. Lúc mới bãi bỏ phép bảo giáp, nhiều người cũng nói rằng sẽ tụ tập thành bọn cướp, nhưng mọi người đều trở lại làm ăn, vui sống, không gây hại cho châu huyện. Nay bãi bỏ cung thủ, so với số lượng bảo giáp thì nhiều ít thế nào? Có hại gì mà phải lo lắng quá mức như vậy? Lúc đầu tuy có chút chưa ổn, nhưng không lâu sẽ tự ổn định, đây không phải là điều triều đình lo ngại. Đáng lo là nếu lại dùng người thuê mướn, thì bọn cướp sẽ không thể kiềm chế được. Từ trước đến nay, người được thuê mướn thường không có gia đình, không đáng tin cậy, nhất là trong việc bắt cướp, không ai chịu dốc lòng, châu huyện thường lo lắng. Nay may mắn được sai chính thân hộ dân, sao có thể lại cho phép thuê người thay thế, mở ra mối họa vô cùng? (Chí, Nham Tẩu nói về việc theo hay trái, cần xem xét. Ngày mồng 9 tháng giêng năm sau[12], ngày 19, Tô Thức tự biện bạch về sách vấn, có đề cập đến việc này.) Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân tâu:
[34] Thần trước đây vào ngày mồng 3 tháng này từng dâng tấu bàn về phép sai dịch, một là để giảm nhẹ sức dân, xin lập phép tam phiên cho các loại dịch, khiến ngày nghỉ ngơi nhiều, ngày phục dịch ít, thì dân tự nhiên dư dả về ăn mặc. Đây thực là điểm then chốt của phép dịch, mong bệ hạ hạ chiếu cho các quan xem xét kỹ và tính toán kỹ lưỡng, để ban ơn cho thiên hạ.
[35] Thần trộm nghĩ về phương Đông Nam mà nói, việc dịch nặng nhất không gì bằng nha tiền, thứ đến là cung thủ. Nay ở Đông Nam, nha tiền trưởng danh đã chiêu mộ đủ, việc sai phái không đến hộ trên, dân hộ trên tất phải sai làm cung thủ, như vậy là hộ trên được làm việc dịch của hộ trung, thực là ưu đãi. Vì sao nói vậy? Trước niên hiệu Hi Ninh, hộ trên phải làm nha tiền, mỗi lần sai dịch, nhiều khi tốn đến nghìn quan, sau đó phải nộp tiền trợ dịch, mỗi năm nhiều khi cũng đến mấy trăm quan. Nay đã sung làm cung thủ, mỗi năm chỉ phải nộp không quá bốn mươi quan, mỗi kỳ dịch năm năm, tổng chi phí chỉ hai trăm quan, so với trước kia thực là nhẹ nhàng. Hộ trên của cải nhiều, hộ dưới của cải ít, mà đều phải thay phiên năm năm một lần, thực là không công bằng.
[36] Đại để việc sai dịch, hộ trên của cải nhiều mà dịch nhẹ, hộ dưới của cải ít mà không phải dịch, điều cần khoan dung chính là hộ trung. Nay muốn làm giàu cho dân hộ trung, thì phải tăng dịch cho hộ trên. Ví như hộ đệ nhị đẳng phải làm cung thủ, năm năm thay phiên một lần, hộ đệ nhất đẳng của cải đã nhiều, mỗi lần sai làm cung thủ, nên tăng thêm số năm. Vì hộ trên của cải, trong bản đẳng lại chia làm năm bậc, bậc nhiều nhất nên làm dịch mười năm rồi thôi, thứ đến chín năm cho đến sáu năm. Việc cung thủ, nay đã cho phép thuê người, thì dù mười năm thay phiên một lần, chi phí chỉ bốn trăm quan, đối với hộ thượng đẳng cũng không có gì trở ngại. Nếu người được thuê làm dịch đủ năm năm mà muốn thay, thì cho phép thuê người khác thay thế. Vì xưa nay nha tiền cũng tùy theo của cải và thuế tiền nhiều ít mà giảm bớt phần nặng nhọc, nay hộ thượng đẳng cũng nên căn cứ vào của cải nhiều ít mà tăng dần số năm sai dịch. Hộ thượng đẳng vào dịch đã tăng thêm số năm, thì hộ trung đẳng tự nhiên được khoan dung, đó là cách lấy dư bù thiếu vậy.
[37] Thần trộm thấy chỉ dụ ngày 6 tháng 10, nếu người được chọn làm cung thủ không muốn nhận nhiệm vụ, thì cho phép thuê người từng được tuyển làm cung thủ và có năng lực. Thần nghĩ rằng phương pháp này rất thuận tiện cho cả công và tư, nhưng có người bàn rằng trước niên hiệu Hoàng Hựu, cung thủ thường dùng chính thân, tài sản đã dồi dào, nên tự biết quý trọng và tránh phạm pháp, lại có họ hàng, thân thích làm tai mắt, việc bắt trộm cướp rất hiệu quả. Nay dùng dân du thủ phù lãng, thực sự không tiện. Thần cho rằng không phải vậy.
Từ xưa đến nay, phép dùng binh là dùng người ngu, dùng người dũng, dùng người tham. Người dũng thì coi thường cái chết, không sợ kẻ địch mạnh. Những người cẩn thận sợ pháp luật, dùng họ để truyền lệnh, bắt dân trong ấp thì được, nhưng bắt họ xông pha gươm giáo, không tiếc mạng để đấu với giặc, há phải là sở trường của họ sao? Từ xưa làm tướng, nghe nói có việc tuyển quân để chiến đấu, chưa từng nghe việc ép dân sợ pháp luật, tự biết quý trọng bản thân để cầu thắng. Lại nữa, trước niên hiệu Hi Ninh, việc tuyển cung thủ thường chọn hộ dân từ đẳng thứ hai trở xuống. Nay tuyển cả hộ trên, mà dân hộ trên thường sống sung túc, cưỡi ngựa tốt, sức yếu, bắt họ đi bắt trộm cướp, há phải là sở trường của họ sao? Lại có nhà có hai con trai làm nho sinh, hoặc đều yếu đuối không đủ sức nhận việc, ép họ đi làm nhiệm vụ, là ngăn cản việc học hành và bắt họ làm việc không phải sở trường, đối với công việc thì không thích hợp, đối với cá nhân thì không thuận tiện, há phải là phép tốt sao?
Thần trộm thấy các huyện ở Lưỡng Chiết tuyển chính thân làm cung thủ, có người khóc lóc xin miễn, điều này cho thấy lợi hại rõ ràng. Việc làm cung thủ khác với các nhiệm vụ khác, cần người mạnh mẽ, gan dạ, coi thường cái chết, ham phần thưởng mới có thể đảm đương. Những người giàu có mà yếu đuối, vừa nhát gan, lại không ham phần thưởng, sao bằng người được thuê có thể dùng được? Hơn nữa, người được thuê cũng sinh trưởng ở làng xóm, quen thuộc tình hình, khi trộm cướp nổi lên, há không có bạn bè, thân thích làm tai mắt sao? Từ niên hiệu Hi Ninh đến nay, thi hành phép tuyển quân, lúc đó không nghe nói trộm cướp hoành hành, há phải do việc thuê cung thủ gây ra sao? Nay đặt ra phép này, cho phép thuê người từng làm cung thủ có năng lực. Những hộ dân phải nhận nhiệm vụ, đã tự chọn người thuê, tự mình bảo đảm, ắt sẽ chọn kỹ người có năng lực và đạo đức, so với việc tuyển mộ bừa bãi trước đây, chắc chắn có khác biệt.
[38] Có người bàn rằng dân năm lộ vốn dũng cảm, hiếu chiến, ham thưởng, thích tự mình ứng tuyển làm cung thủ, nay đã chiêu mộ người thay thế, e rằng không đủ để bắt giặc. Thần cho rằng không phải vậy. Nay đặt ra pháp luật, nếu cung thủ không muốn tự mình làm việc, cho phép thuê người có sức khỏe thay thế, tùy ý họ, không phải là không cho phép tự mình làm việc. Dân năm lộ vốn dũng cảm, hiếu chiến, ham thưởng, thích tự mình ứng tuyển, sao lại không được? Đại để việc đặt ra pháp luật cho quốc gia, có thể giữ lại cái tốt, bỏ cái xấu, tùy thời mà thay đổi, lấy việc thuận tiện cho dân làm gốc. Phép dịch thời Hoàng Hựu, đến nay thêm bớt đã nhiều, há cứ phải bám vào cái mới hay cũ sao? Mong bệ hạ xem xét sự phù hợp của xưa nay, quyết đoán không nghi ngờ, để pháp luật không thay đổi nhiều, quan lại có quy tắc thường xuyên, dân được yên ổn.
[39] Lễ bộ tâu: “Hộ bộ trình: ‘Theo chiếu, sảnh Thượng thư Hộ bộ đặt ra một ty để quản lý. Xét các trường vụ trước đây do tam ty quản lý, sau khi cải cách quan chế, chưa từng sai quan đi kiểm tra. Xin trừ những nơi thuộc quyền quản lý của các tự, giám phải kiểm tra hàng quý, nếu không thuộc quyền quản lý của bộ này, cũng theo đó báo cáo cho bộ này[13], chiếu rằng từ nay về sau, lang quan và quan tự, giám luân phiên nhau kiểm tra hàng quý.’[14] Nay xét các kho phường tuy trước đây do tam ty quản lý, nhưng nay thuộc quyền quản lý của bộ này, nếu đợi văn thư từ bộ khác mới kiểm tra, e rằng không hợp lý. Xin mỗi quý cuối, lang quan của bộ này cùng với quan Quang lộc tự theo chỉ dụ hiện nay luân phiên kiểm tra, không cần đợi Hộ bộ báo cáo, nếu có việc kiểm tra liên quan đến Hộ bộ, thì báo cáo ngay. Các bộ khác cũng nên làm theo.” Được chấp thuận.
(Bản mới bỏ đoạn này.)
[40] Hộ bộ tâu: “Năm Gia Hựu, trung thư có tráp tử định mức 1.663.400 quan tiền làm niên ngạch cho giải diêm sao. Nay xét thấy mỗi năm cấp giải diêm sao nên lấy 2.000.000 quan làm ngạch, việc mua ngựa cũng tính trong số đó. Các loại công cứ bằng tiền mặt xin đều bãi bỏ, để không xâm hại phép sao. Đợi đến khi dân gian tích trữ diêm sao ít đi, giá cả ổn định, thì số sao cấp hàng năm sẽ tâu xin chỉ dụ riêng, tăng dần để giúp kinh phí.” Vua theo.
(Năm Nguyên Phong thứ 2, tháng 2, ngày Bính Thìn, lấy 2.240.000 quan làm ngạch, cần khảo cứu, ngày mùng 3 tháng này có thể tham khảo.)
[41] Hữu ty gián Vương Địch tâu: “Thần thấy các quan tâu xin bãi bỏ việc cho người nộp tiền được làm quan[15] và giảm bớt số người được ấm bổ, đặc tấu danh cùng lại dịch được vào ngạch, đã giao cho Cấp sự trung, Trung thư xá nhân, Tả hữu ty lang quan cùng xem xét. Thần nghe nói Thượng thư đô quan quân đại tướng lấy 1.200 người làm ngạch, những người được thăng chuyển do khảo khóa, công lao, thưởng phạt, đổi chức, tá chức, điện thị, sai sứ, mỗi năm có hàng nghìn người, vào ngạch rất bừa bãi. Nay ngạch thường không đủ, phải liên tục bổ sung. Mà Thị lang hữu tuyển lại vì sứ thần nhiều, khuyết ít, việc bổ nhiệm không thông. Thần nghĩ rằng trong số quân đại tướng phụ trách cương vận, nên chọn những người có thể giao cho sứ thần cấp dưới quản lý, hoặc cho nghỉ ngơi, hoặc làm việc ngắn hạn, ưu đãi lương bổng thưởng phạt, thì sứ thần sẽ nhiều người muốn nhận, không chỉ giảm dần số người được làm quan mỗi năm, mà Thị lang hữu tuyển cũng có thêm khuyết, dễ bổ nhiệm, khiến những người chờ đợi lâu ngày, nghèo khó sớm được lương bổng, không phải là không có ích. Số quân đại tướng ngoài số cần dùng, ai không muốn nghỉ thì tạm cho cùng sứ thần kiêm nhiệm, đợi có khuyết sẽ không tuyển thêm. Kính mong bệ hạ hạ lệnh cho hữu ty, cùng việc giảm bớt người vào ngạch trước đây xem xét thi hành.”
[42] Thiếp hoàng tâu rằng: “Các đại tướng trong quân đội tuy định biên chế là một nghìn hai trăm người, nhưng hiện nay chưa đầy một nghìn người, nên không tiếp tục chiêu mộ bổ sung. Chỉ có hơn một trăm người đang làm việc tại các trường vụ ở kinh thành, trong đó có những việc khó hoàn thành sổ sách, được coi là phức tạp và nặng nề, còn những người khác phụ trách việc vận chuyển hàng hóa, phần lớn có thể cử các sứ thần cấp thấp hơn đảm nhiệm. Hơn nữa, hiện nay việc vận chuyển hàng hóa trong thiên hạ đã có nhiều sứ thần được cử đảm nhiệm, điều này cho thấy việc giảm bớt các đại tướng phụ trách vận chuyển là rõ ràng. E rằng có người sẽ cho rằng việc giảm bớt các đại tướng phụ trách vận chuyển và chỉ để họ đảm nhiệm các trường vụ phức tạp là không tiện. Thần cho rằng việc phức tạp ở các trường vụ kinh thành chủ yếu là ở sổ sách, việc lập sổ sách có thể xử lý riêng. Thần thấy rằng các trường vụ ở các châu quận trong thiên hạ, có những nơi xuất nhập rất lớn, nhưng các chuyên phó và người lập sổ sách đều hoàn thành đúng hạn, chỉ có sổ sách ở các trường vụ kinh thành là khó hoàn thành, nguyên nhân chỉ là do pháp chế chưa tốt mà thôi.”
(Địch tự chú: “Ngày 6 tháng 10 dâng tấu lên điện.” Ngày 26 tháng 8, Thượng Quan Quân có nói thêm.)
[43] Ngày Tân Mão, khôi phục huyện Vũ Hóa thuộc châu Tượng.
[44] Ngày Nhâm Thìn, con trai của chúa nước Hạ là Càn Thuận, do cha là Bỉnh Thường qua đời, đã cử Lã Tắc Võng Duật Mô cùng bảy người khác đến báo tang.
(Ngày 14 tháng 12 ban chiếu.)
[45] Hữu bộc xạ Lữ Công Trước được cử làm người đứng đầu việc biên soạn 《Thần Tông Hoàng Đế Thực Lục》.
[46] Hữu ty gián Vương Địch tâu: “Chức vụ của quan gián là có thể đàn hặc những việc làm sai trái của các quan chấp chính và những sai lầm trong chính sách, hình pháp. Dù làm việc tại Trung thư hậu tỉnh, cũng không thể như các thuộc quan khác của Trung thư thường xuyên gặp gỡ các quan chấp chính. Xin từ nay về sau, nếu chức Trung thư xá nhân tạm thời khuyết, cũng không được cử quan gián kiêm nhiệm.” Được chấp thuận. Lúc đó, Trung thư đã phê chuẩn cho Địch kiêm nhiệm.
(Có thể tra cứu chiếu chỉ ngày 16 tháng 9.)
[47] Xem xét lời tâu của Sở Tố Lý rằng: “Theo chỉ dụ triều đình, xin lấy hồ sơ các vụ án từ năm Nguyên Phong đến nay do Đại Lý tự, Khai Phong phủ, Ngự Sử đài xét xử, liên quan đến việc dò xét báo cáo công việc nội bộ, tội danh và hình phạt đã tuyên, xem xét nếu có việc không hợp lệ nhưng tình tiết đáng thương xót, xin trình bày sự việc để tâu lên. Còn các vụ án liên quan đến công việc nội bộ từ năm Nguyên Phong nguyên niên trở về sau của Ty Điện tiền Mã bộ quân, chưa rõ có nên lấy hồ sơ để xem xét hay không.” Chiếu rằng: “Nếu có người khiếu kiện, cho phép lấy hồ sơ xem xét.”
(Sách mới không chép.)
[48] Binh bộ tâu: “Xin từ nay về sau, những người thi thử võ nghệ, nếu đủ điều kiện được phong chức quan theo quy định, thì do bộ này gửi văn thư đến Lại bộ tâu xin cấp bằng; còn những người được bổ nhiệm chức vụ dưới mức sai sứ, thì do bộ này thi hành theo lệ của quan phiên.” Được chấp thuận.
(Sách mới không chép.)
[49] Khôi phục trấn Tín An thuộc Quảng Châu thành huyện.
[50] An Đào, Đồng tri Xu mật viện, xin được bổ nhiệm làm quan ngoại quận, không được chấp thuận.
[51] Ngự sử trung thừa Lưu Chí tâu: “Thần trước đây vào ngày mồng 8 tháng 9 từng tâu rằng các đại thần được Thần Tông hoàng đế ủy thác không thể bãi chức hết, nên trong ba người là Trương Tảo, An Đào, Lý Thanh Thần, hãy bãi chức Trương Tảo để yên lòng thiên hạ, giữ lại An Đào và Lý Thanh Thần để toàn vẹn quốc thể.
Sau đó, nhờ ơn Thánh từ, vì Trương Tảo có lời xin, nên thăng chức cho ông ta, cho ra ngoài nhậm chức. Nay nghe tin An Đào cũng dâng sớ xin từ chức, thần không rõ Bệ hạ sẽ xử trí thế nào. Liệu Bệ hạ sẽ cho rằng lời thần trước đây là đúng mà giữ lại An Đào chăng? Hay cho rằng lời thần là sai mà bãi chức An Đào chăng?
An Đào và Lý Thanh Thần, thần biết rõ họ chỉ là những người tầm thường, khi Thái Xác, Chương Đôn, Trương Tảo kết bè kết đảng làm hại chính sự, An Đào và Lý Thanh Thần đang giữ chức vụ cao, không có biện pháp cứu vãn, chỉ biết thuận theo người khác để giữ lấy bổng lộc, thật không xứng với tiết tháo của bậc đại thần.
Tuy nhiên, so với bọn Thái Xác, tội của họ có khác biệt. Vì vậy, thần trước sau đều dâng sớ tố cáo tội gian tà của ba bốn người như Thái Xác, xin nhất định phải cách chức họ, nhưng chưa từng đề cập đến việc bãi chức An Đào và Lý Thanh Thần. Dù An Đào từ chức đồng tri mật viện được thăng lên tri mật viện, thần chỉ từng bàn về việc ông ta vượt quá phận, chứ không nói ông ta nên bị bãi chức, là vì muốn trừng trị những kẻ phạm tội lớn trước, chứ không muốn Bệ hạ mới lên ngôi đã bãi chức hết các cựu thần. Nay nếu An Đào được phép từ chức, thì Lý Thanh Thần cũng không dám ở lại, tiếp theo sẽ xin từ chức, Bệ hạ dù không muốn nghe theo, nhưng Lý Thanh Thần cũng không yên lòng.
Thần lo rằng người đời không hiểu rõ, sẽ cho rằng Tiên đế băng hà chưa được bao lâu, mà các đại thần được ủy thác đã bị bãi chức hết, sẽ dẫn đến những lời bàn tán không đâu, gây tổn hại đến đức trị của Bệ hạ. Tuy nhiên, việc hai người này từ chức không đáng bàn, điều quan trọng là liên quan đến đại thể triều đình[16].
Thần đang giữ chức trưởng phong hiến, nay lại dâng lời xin giữ lại các chấp chính, nếu xét về hình thức, có vẻ không thích hợp, nhưng nếu xét về lý lẽ, thì thần chỉ muốn đem những được mất hôm nay, đúng sai ngày mai tâu lên Bệ hạ, hy vọng có thể giúp ích được phần nào, dù có vì hiềm nghi mà bị tội, thần cũng không hối hận. Thần cũng không cho rằng An Đào và Lý Thanh Thần nên ở lại triều đình, chỉ muốn mượn hai người này giữ lại chức vụ, để toàn vẹn đại thể quốc gia, để thành tựu ý của Bệ hạ là không quên các cựu thần, và giải tỏa những nghi ngờ, bàn tán trong thiên hạ, chỉ vậy thôi.
Kính mong Thánh minh suy nghĩ lại, đừng cho phép An Đào từ chức, thần vô cùng thành khẩn.”
[52] Tờ thiếp hoàng tâu rằng: “Thần trước đây nhân lúc lên điện, nhiều lần được nghe lời dạy bảo của bệ hạ rằng muốn giữ lại những người cũ của triều trước, đó thực là mưu lược thánh thần của bệ hạ, nghĩ đến lâu dài, không phải là điều mà mọi người có thể nghĩ tới. Mọi người chỉ thấy những kẻ không có ích gì cho nước thì đều muốn bãi bỏ, không nghĩ đến lợi hại về sau. Tuy nhiên, trong số người cũ, những kẻ mang lòng riêng tư, phạm lỗi lầm nghiêm trọng, dù là người cũ cũng không thể không bãi bỏ, như bọn Xác ba bốn người là vậy. Còn những kẻ khác tuy tầm thường vô tài, nhưng không thể gây hại lớn cho chính sự thánh minh, nên tạm giữ lại, để phù hợp với ý chỉ trước đây của bệ hạ muốn giữ lại người cũ, thì nay Đào và Thanh Thần là vậy. Thần được quốc gia ban ơn sâu, nếu có điều gì đáng nói, không dám tự coi mình là người ngoài, để tránh hiềm nghi.”
(An Đào ngày mồng 8 tháng 10 xin từ chức, việc này căn cứ theo nội chế của Tô Thức. Lưu Chí dâng chương cũng vào ngày mồng 8 tháng 10, việc này căn cứ theo quyển thứ ba của sách Tạp lục.)
[53] Hữu ty gián Vương Địch tâu: “Thần nghe nói Đồng tri Xu mật viện An Đạo xin về quê, thần ngu không biết ý Thánh thượng thế nào, sẽ cho đi hay không cho đi?
Thần thấy An Đạo và Lý Thanh Thần tài năng đều không có gì hơn người, khi Thái Xác, Hàn Chẩn, Chương Đôn, Trương Tảo nắm quyền, Đạo và Thanh Thần chỉ biết vâng lời, không có gì sáng tạo. Lúc đó, không chỉ Xác, Chẩn, Đôn, Tảo nên bãi chức, mà Đạo và Thanh Thần cũng nên bãi chức. Nhưng các quan gián và ngự sử chỉ tấu hạch tội của Xác, Chẩn, Đôn, Tảo, ít khi nhắc đến Đạo và Thanh Thần, vì biết rằng gốc rễ của việc hại chính hại dân là Xác, Chẩn, Đôn, Tảo, còn Đạo và Thanh Thần vốn không phải người xấu, tuy vâng lời nhưng tình có thể tha thứ, nên dù có nhắc đến cũng không mạnh mẽ.
Trước đây, Thanh Thần từ Thượng thư hữu thừa được thăng làm tả thừa, người bàn luận cho rằng Thanh Thần tuy được thăng nhưng tài thường không nên được tiến cử hơn nữa, thần cũng nghĩ vậy; Đạo từ Đồng tri Xu mật viện được thăng làm Tri Xu mật viện, người bàn luận cho rằng Đạo từ hàng chấp chính thấp mà vượt lên trên Môn hạ thị lang, vượt quá mức, thần cũng nghĩ vậy. Vì lúc đó Xác, Chẩn, Đôn, Tảo chưa bị bãi hết, bè đảng tiểu nhân đang mạnh, cần người tài đức toàn vẹn để làm phụ tướng, dẹp bè đảng xấu, mà Đạo và Thanh Thần vốn không có tiếng cứng cỏi, không đáng tin cậy. Nhưng người bàn luận chỉ dừng ở việc triều đình không nên thăng chức hơn nữa, chứ chưa từng muốn Thánh thượng đuổi họ đi.
Nay Xác, Chẩn, Đôn, Tảo đều đã bị bãi chức, bè đảng xấu đã dẹp, chỉ còn Đạo và Thanh Thần là cựu chấp chính của Tiên đế, nếu Thánh thượng cho họ đi, thì quá lắm. Vì nếu Đạo đi, thì Thanh Thần cũng không yên mà phải xin đi, tình thế là vậy. Thần trước đây từng tâu hạch tội gian tà của Chẩn, Tảo, nhiều lần được Thánh thượng tuyên dụ muốn giữ lại người cũ, đó là ý cao xa của Thánh thượng, vượt xa thường tình. Nhưng Chẩn, Tảo gian tà rõ ràng, không thể giữ lại để hại chính, nên cuối cùng bị công luận không dung. Thánh thượng muốn giữ người cũ, thì Đạo và Thanh Thần có thể giữ lại. Đạo và Thanh Thần tuy tài thường, nhưng giữ lại không hại đến thánh chính, mà bỏ đi thì tổn hại đến quốc thể, đó là công luận. Thần thấy các quan ngôn sự chỉ lo việc đàn hạch. Nay Đạo xin đi, họ tuy biết giữ lại là tiện, nhưng không chịu nói với Thánh thượng, vì sợ hiềm nghi.
Thần không dám vì hiềm nghi mà không hết lòng trung với Thánh thượng, mong Thánh thượng xem xét kỹ.”
[54] Thiếp hoàng tâu: “Xác, Chẩn, Đôn, Tảo nếu giữ tâm gần với đạo đức, không có ý cố chấp, thì các quan ngôn sự đâu dám mạnh mẽ chỉ trích tội ác của họ, bệ hạ đâu đến nỗi đều bãi chức họ? Chỉ vì bất đắc dĩ mà thôi, và công luận trong thiên hạ cũng cho là nên làm như vậy. Nay An Đạo xin về quận, chưa có lỗi lầm rõ rệt, nếu bệ hạ nghe theo lời xin của ông ta, thì những người có ý kiến khác sẽ cho rằng bệ hạ chỉ muốn đuổi hết người cũ, dù tội ác chưa rõ ràng cũng cho họ đi. Vì vậy, thần thiết nghĩ chỉ nên để Đạo, Thanh Thần tạm yên tại chức, để thành tựu ý tốt của bệ hạ là giữ lại người cũ. Mong bệ hạ xét cho.” Lại tâu: “Thần vì bệnh mắt, không thể tự viết, bản tấu này nhờ người nhà viết hộ, không dám tiết lộ.”
(Địch tự chú cũng nói ngày 8 tháng 10.)
[55] Ngày Quý Tỵ, Ty Chuyển vận Thiểm Tây Tây Lộ[17] tâu: “Xin theo chỉ dụ đã ban cho Ty An phủ Kinh Nguyên Lộ, khi công việc trong thành và quân sương tạm rảnh, hãy dừng việc khác để tập trung cắt cỏ trắng, nhằm giảm chi phí mua cỏ khô.” Chiếu cho Lệnh sở lập pháp.
(Sách mới không chép, việc này liên quan đến Lưu Xương Tộ.)
[56] Ngày Giáp Ngọ, chiếu: “Các lộ, quan phiên xếp hàng theo lệ cũ, đều đứng dưới quan Hán; những người được cử đi rồi trở về, Xu mật viện sẽ ban chỉ riêng.” Theo lời tâu của Ty Kinh lược Hoàn Khánh Lộ.
(Phạm Thuần Túy tâu vào ngày 12 tháng 4, Phạm Tử Lượng nói nên xem xét thêm.)
[57] Ngày Ất Mùi, chiếu: “Bảo giáp hai châu Trịnh, Hoạt chuyển về Kinh Tây Lộ, vẫn theo pháp của bản lộ thuộc Hộ bộ, không thuộc Phủ giới.”
(Sách mới không chép.)
[58] Hộ bộ tâu: “Trước đây, khi điều tra về việc miễn dịch thường bình ở các lộ Vĩnh Hưng, Lý Thừa Chi tâu rằng: tại huyện Phúc Tân và Tướng Lợi thuộc châu Giai có sản xuất muối đá và muối đất, có thể lập trường để mua bán độc quyền, định giá bán ra. Nếu so sánh số tiền thu được hàng năm từ việc này đều có tăng thêm, có thể thực hiện lâu dài. Các điều khoản và biện pháp cụ thể, xin giao cho cơ quan chế trí muối Giải ở Thiểm Tây xem xét và trình lên.” Triều đình đồng ý.
[59] Lại bộ tâu: “Trước đây, chức Tri châu và Thông phán lấy ba năm làm một nhiệm kỳ, theo quy định thì sau khi nhậm chức hơn một năm và trước khi hết nhiệm kỳ một năm thì phải báo trống chức. Nay đã đổi thành ba mươi tháng làm một nhiệm kỳ, xin quy định rằng Tri châu và Thông phán sau khi nhậm chức hơn sáu tháng và trước khi hết nhiệm kỳ một năm thì phải báo trống chức.” Triều đình đồng ý.
[60] Ngày Bính Thân, Tả Đồn Vệ Đại tướng quân, Kiểm hiệu Tư không Quách Quỳ được bãi chức trí sĩ, giữ nguyên chức vụ và nhận chức Tri châu Lộ Châu.
[61] Lại có chiếu, nhân dịp đại lễ, đặc biệt ban thưởng cho Quách Quỳ bạc, lụa, rượu và thịt dê, vì Quỳ từng giữ chức Đồng Thiêm thư Xu mật viện sự.
[62] Triều Phụng lang Tôn Lãm được bổ nhiệm làm Hữu ty Viên ngoại lang.
[63] Chiếu rằng: “Con cháu của các Tể thần và Chấp chính không được xin chia nhà ở và đất mộ do tổ tiên để lại. Nếu thực sự nghèo khó, cơ quan hữu trách xác minh và cho phép chia.”
[64] Lại có chiếu, các châu Tề, Lư, Túc, Thường, Kiền, Dĩnh, Đồng, Hoài đều đặt một chức Giáo thụ. Bổ nhiệm Tiến sĩ Ngô Sư Nhân làm Tư hộ Tham quân châu Việt, kiêm chức Giáo thụ châu học châu Hàng; Doãn Tài làm Tư hộ Tham quân châu Quắc, Điền Thuật Cổ làm Tư pháp Tham quân châu Tương, Tô Bính làm Tư hộ Tham quân châu Bân, đều được bổ nhiệm làm Giáo thụ. Đây là do các quan gần gũi tiến cử.
(Ngô Sư Nhân, Doãn Tài, Điền Thuật Cổ, Tô Bính bốn người đều có dâng sớ, có thể tra cứu. Ngày 8 tháng 4 năm thứ 5, khi Tôn Cố qua đời, có liên quan đến việc này, cần tham khảo. Vương Nham Tẩu từng hai lần dâng tấu, tiến cử Thuật Cổ nên làm Bác sĩ.)
[65] Lại có chiếu: “Các chức Xu mật đô, Phó thừa chỉ khi dẫn giải các công việc tạp, hoặc có việc cần tâu lại và truyền tấu, dù không phải là chức hoành hành, cũng được phép lên điện đứng hầu.”
[66] Xu mật viện tâu: “Các nơi báo cáo việc Hạ quốc chủ Bính Thường chết và lập người kế vị có nhiều điều khác nhau, cần phải làm sách phong, cần biết rõ sự thật.” Chiếu lệnh Triệu Tiết tuyển chọn người đáng tin cậy, ban nhiều vàng lụa, sai họ đi sâu vào địa giới phía tây, dò xét xem lập ai làm người kế vị, mẹ còn sống hay đã mất, ai cùng quản lý việc nước, hỏi rõ rồi báo lại. Nếu người đi dò xét có bằng chứng, sẽ bàn việc ban thưởng.
(Ngày 14, Phạm Thuần Túy có nói việc này có thể tham khảo.)
[67] Ty Chuyển vận Thiểm Tây kiêm Đề cử ngân đồng khanh dã chú tiền tâu: “Dân khai mỏ ở địa giới Quắc Châu thu được bạc, ngoài phần nộp thuế, số còn lại đều mua vào quan, chi phí không đủ. Xin theo lệ cũ thu hai phần, chỉ mua bốn phần, còn lại giao hết cho dân khai mỏ để bán.” Theo lời tâu.
[68] Ngày Đinh Dậu, Lễ bộ tâu: “Mạc Thế Nhẫn ở Nam Đan Châu xin theo lệ của Mạc Hồng Hạo, sai người đến kinh đô tiến cống, đã cho phép tiến cống nhưng không cho đến kinh đô. Nay Thế Nhẫn lại xin đến kinh đô.” Theo lời tâu.
[69] Trước đó, Tư gián Vương Nham Tẩu tâu rằng: “Thần trộm nghĩ rằng tệ nạn của triều đình, không gì lớn hơn việc dung túng kẻ may mắn để nuôi mối mọt, cư xử nhu nhược để làm lợi cho kẻ gian. Không trị tận gốc mà lại đặt ra pháp luật ở hạ lưu, pháp luật càng nhiều thì tệ nạn càng nhiều, không phải là kế sách hay.
Hiện nay, thiên hạ đều nói rằng kẻ may mắn nhất không ai bằng lại dịch ở Tam tỉnh. Năm được thăng chức, tháng hưởng bổng lộc hậu, ngày được cấp thịt ăn, xuân đông có áo mặc, nóng lạnh có quần áo, ra vào cưỡi ngựa quan, sai khiến được quân lính, lễ giao được hưởng ơn ban thưởng, lại cho phép dẫn người thân thích vào làm lại dịch, như con em quan lại không khác gì, mà không hạn chế tuổi tác, được hưởng bổng lộc từ rất sớm, ân sủng dành cho họ có thể nói là rất hậu. Nói về việc làm của họ, thì một tháng có khi chỉ hơn hai mươi ngày, một ngày thường không đầy nửa ngày, sự chăm chỉ của họ có thể nói là rất ít.
Kiểm tra văn tự sai sót của các cơ quan, vốn là việc đương nhiên trong chức phận, sao đến nỗi chữ chữ bàn công, ngày ngày tính thưởng, hoặc thăng thứ bậc, hoặc giảm thời gian khảo hạch, hoặc tăng lương, hoặc cấp bạc lụa, đổi chác như của riêng. Lại mỗi khi triều đình có việc gì, từng làm qua một tờ giấy, thì lại kể công lao, mong được ân sủng khác. Như gần đây hai vương ra ở ngoài, lại dịch ở tỉnh có gì vất vả mà cũng đòi công để mạo nhận ban thưởng. Suy ra một việc này, những việc khác đều có thể thấy.
Thần không biết lúc bình thường hưởng bổng lộc hậu như vậy để làm gì, sự may mắn của họ có thể nói là quá lớn. Đó là do trước đây các tể tướng nối tiếp nhau dung túng, nuôi dưỡng đến mức này. Bán ân của triều đình để mua tiếng khen, kết thân với kẻ dưới để củng cố quyền lực, nào có từng coi việc nghiêm chỉnh kỷ cương là việc cần làm, lấy việc làm trong sạch gốc rễ làm lòng[18]? Cho nên người bàn luận cho rằng trên miếu đường, lo việc tệ nạn cho thiên hạ bách tính thì ít, mà ban ân lộm cho lại dịch trong tỉnh thì nhiều.
Lặng lẽ xét lại, không phải là lời nói suông. Thần mong bệ hạ đặc biệt ban chiếu răn bảo các đại thần chấp chính, cắt giảm sự may mắn để trừ mối mọt, ngăn chặn sự nhu nhược để trừ kẻ gian. Bỏ lệ gần đây, cấm đổi phép, lại bàn về các điều lệ trước thời Trị Bình để áp dụng, may ra có thể làm nghiêm các cơ quan và làm trong sạch bốn phương.”
Chiếu lệnh cho Cấp sự trung, Trung thư xá nhân, Tả hữu ty lang quan bàn định rồi tâu lên.
[70] Bấy giờ, thí chức Cấp sự trung Hồ Tông Dũ tâu rằng: “Thần xét từ thời Trị Bình trở về trước, các phòng do việc mà xin ban thưởng thì số lượng không nhiều. Nhưng những năm gần đây, việc ban thưởng lại có người được thăng chức mỗi năm. Còn những việc khác như xin ban thưởng hay chuyển nhượng công lao, phần lớn đều được chấp thuận, so với thời Trị Bình trước đây thì quả là quá hậu đãi. Nay xin xem xét kỹ các điều lệ từ thời Trị Bình trở về trước và từ thời Hi Ninh về sau, tham khảo và quyết định những việc cần điều chỉnh, tổng cộng có mười bảy điều.” Vua nghe theo.
(Theo chương sớ của Lưu An Thế vào tháng 4 năm thứ 5 khi hặc tội Đô ty về việc định ân lệ cho Thời Thầm có nói: “Các ty Cấp, Xá, Tả Hữu ty đã tham khảo các sự việc từ thời Trị Bình trở về trước và từ thời Hi Ninh về sau, quyết định mười bảy điều cần giảm bớt, nay áp dụng.” Sách 《Lã Đại Phòng chính mục》 chép: Ngày mồng 7 tháng này, Hồ Tông Dũ dâng sớ xin giảm bớt pháp lệnh ban thưởng cho lại viên của Tam tỉnh, chính là việc ngày 13 này vậy.)
[71] Ngày Mậu Tuất, Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ Phạm Thuần Túy tâu:
[72] Theo chiếu chỉ[19]: “Các nơi báo cáo, từ khi Bính Thường chết, họ Lương lấn quyền việc nước, khiến các bộ tộc không phục, gây loạn đánh nhau, ngày ngày tàn sát lẫn nhau. Tuy liên tục nhận được báo cáo từ các nơi, nhưng vẫn chưa rõ sự thật. Vì từ trước đến nay, việc nắm tình hình trong giặc phần lớn do người quy thuận kể lại, nên khá chính xác. Lo rằng các thủ lĩnh phía Tây vì biến loạn này mà ly tán, mỗi người một ý. Hoặc muốn chiếm cứ thành trì cũ để tự thủ, nhờ triều đình viện trợ từ xa; hoặc muốn dẫn bộ tộc quy thuận nhà Hán, nguyện làm lá chắn biên giới. Nếu thu nhận họ, e rằng sẽ sinh chuyện, khó bảo đảm thành công[20]; nếu cự tuyệt hết, lại lo họ theo nước khác, họa càng lớn. Chưa biết nên xử trí thế nào với tình hình biên giới hiện nay để không bỏ lỡ thời cơ[21]. Nay lệnh cho các lộ Hà Đông, Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Tần Phượng, Hi Hà Lan Hội, các quan chức biên giới phải chỉ huy sát sao, nếu có người Tây đến đầu hàng, xét thật rõ tình hình trong giặc, thì cân nhắc có nên thu nhận hay không, lại ban thưởng hậu hĩnh, chiêu mộ người đi thám thính xa. Các thủ lĩnh phía Tây nếu có ý quy thuận Trung Quốc, hãy xem xét kỹ các điều hỏi trước, dựa vào tình hình biên giới hiện nay, phân tích lợi hại tỉ mỉ[22], sắp xếp kế hoạch, niêm phong gửi gấp về triều, tự mình giữ, không được giao cho cấp dưới.” Thần đã theo lệnh triều đình thi hành, xét kỹ chiếu chỉ hỏi, đây là việc cơ mật biên phòng, liên quan đến an nguy trong ngoài, như thần ngu muội, đâu đủ bàn việc này! Nhưng thần từng nhận chức sứ, lâu ngày ở biên cương, thu thập tình hình, cũng có chút hiểu biết.
[73] Thấy rằng các vùng biên giới Thiểm Tây, từ sau khi dùng binh vào năm Nguyên Phong, chưa kịp giải trừ tình trạng nghiêm ngặt. Gần đây, Bỉnh Thường mất chức, các thủ lĩnh đều nổi dậy, tranh giành lẫn nhau, chưa có ngày yên ổn. Khi họ còn lo tự cứu mình, làm sao có thể gây họa cho Trung Quốc được? Triều đình nên giữ yên tĩnh, không nên hành động bừa bãi, để quan sát sự biến đổi thành bại. Nay chiếu chỉ cho rằng các thủ lĩnh gần đây có ý định chiếm giữ các thành trì cũ để tự thủ, từ xa nhờ cậy vào sự ứng viện của triều đình. Người Khương tụ tập như kiến, tan rã như chim, thịnh suy không thường, tiên vương đã xếp họ vào hàng man di, bỏ mặc không cứu viện, nhưng cũng không cắt đứt hoàn toàn. Chính sách đối phó với rợ phương Bắc, không gì hơn thế. Nay các thủ lĩnh kia trong lúc biến loạn nguy nan, muốn lấy danh nghĩa quy phụ để xin triều đình từ xa ứng viện, nếu thuận theo mà chấp nhận, thần không biết một ngày nào đó khi họ gặp nguy nan mà xin cứu viện, thì triều đình sẽ thực sự ứng viện hay không? Việc ứng viện ấy, danh chính ngôn thuận và hợp lý hay không? Quân lính biên giới có vui vẻ tuân theo và hành động hay không? Nếu không ứng viện, thì chẳng phải là làm tổn hại đến đại tín hay sao? Những điều này đều không thể không suy xét. Thánh triều đang lấy sự yên tĩnh để trị thiên hạ, ngừng binh đao, chấm dứt giết chóc, coi trọng nông nghiệp, gốc rễ của thái bình bắt đầu từ hôm nay, còn bàn gì đến chính sách này nữa?
[74] Lại có chiếu chỉ rằng: Có kẻ muốn đem cả bộ tộc mưu tính quy phục nhà Hán, nguyện làm phiên thuộc. Xưa thời Hán Vũ Đế, hàng Hồ mấy vạn người, trông cậy vào sự cấp dưỡng của triều đình, thiên tử phải xuất của cải trong phủ khố để cung cấp cho họ, về sau gây hại lớn không thể cứu vãn. Điều đó cho thấy người biên giới chỉ mượn danh nghĩa quy phục, còn Trung Quốc phải chịu thực tế hao tổn. Nay các lộ dọc biên giới, từ năm Nguyên Phong đến nay, tiếp nhận hàng Khương không dưới hai vạn người, trong đó già cả và trẻ nhỏ vô dụng chiếm bảy tám phần mười, làm tăng thêm gánh nặng lương thực biên giới, gây hại đã lớn. Lòng dạ họ hướng về đâu, thực chưa thể biết, nên lúc bình thường đã có kẻ dẫn nhau bỏ đi, huống chi lúc nguy cấp, biết đâu chẳng phải là mưu kế của họ? Như vậy, hàng Khương không có lợi cho Trung Quốc, đã rõ rồi. Huống chi sự tồn vong hưng suy của họ, còn chưa thể biết, sau này việc họ đã định, lại có quân trưởng, ắt sẽ nói: “Ngày trước kẻ nào đó của bộ tộc nào đó bỏ trốn về Trung Quốc, là kẻ phản bội nước ta, sao lại nhận họ? Nay ta xin đòi lại.” Triều đình sẽ trả lời thế nào? Xử trí ra sao? Há chẳng phải lý khuất mà thế cùng sao? Điều này lại không thể không lo nghĩ.
[75] Có người nói rằng họ đã quy phục ta, sao lại không nhận? Lấy cớ gì để từ chối? Thần cho rằng không phải vậy. Nếu tù trưởng bộ lạc của họ có người đến báo về họa của họ Lương[23], hoặc xin binh lính triều đình, hoặc chiếm đất mà nguyện quy phục, hoặc đích thân đến đầu hàng, triều đình nên sai quan biên giới dụ họ rằng: “Nếu chủ ngươi gặp bất hạnh, ngươi là bề tôi, nên tận nghĩa tiết chết, khéo léo vì chủ ngươi mà đánh giặc, cần gì phải đến báo? Sao chỉ muốn thoát thân mà quy phục? Quân biên giới của ta đang phòng bị giặc khác, không vì ngươi mà bắt giặc.” Như thế, Trung Quốc há chẳng rất tôn nghiêm, mà danh thể há chẳng rất chính đáng sao? Như vậy, về sau họ ắt sẽ nói: “Ta trong cảnh biến loạn hoạn nạn, triều đình không bỏ rơi sự bất hạnh của ta, mà còn giữ gìn đức độ, tiếp đãi ta có đạo lý, ta há còn đắc chí mà phụ bạc sao?” Như thế, nghĩa lý của triều đình há chẳng rất thắng lợi, mà ân đức của họ đối với ta há chẳng rất nặng nề sao!
[76] Lại có chiếu chỉ cho rằng nếu cự tuyệt tất cả, e rằng sẽ bị nước khác chiếm đoạt. Thần xem tính cách của người biên cương, lấy chủng tộc làm quý tiện, nên khi thủ lĩnh bộ lạc chết, người kế vị đời sau, dù là đứa trẻ còn non nớt, cũng đủ để khiến lão thành phục tùng. Tại sao vậy? Là do phong tục khiến như thế. Bỉnh Thường cha con nắm giữ đất nước lâu dài, lòng người trong nước đều quy phục. Nay lời của các gián điệp các nơi, tuy nói rằng cái chết của Bỉnh Thường không rõ ràng, họ Lương lấn chiếm việc nước, nhưng đó chỉ là tình thế hiện tại mà thôi. Nếu có thể tiêu diệt tông tộc họ Lý mà chiếm lấy đất nước, thì thần không tin điều đó. Vì trong một nước, há lại không có hào kiệt suy tôn con cháu họ Lý lên làm chủ đất nước sao? Há lại cam tâm làm bề tôi của họ Lương sao? Thần cho rằng dù họ Lý gặp họa diệt vong, cũng sẽ còn tranh đoạt phản phúc, tàn sát lẫn nhau, kéo dài ngày tháng rồi mới ổn định. Loài thú cùng đường còn biết chống cự, hy vọng có thể sống sót. Những kẻ có thế lực đang tranh đoạt lẫn nhau, ai nấy đều dùng quân chúng để tự thủ, chớp thời cơ mà hành động, lớn nuốt nhỏ, mạnh thôn yếu, dù chưa thể thống nhất các bộ lạc, há lại không thể chiếm cứ một góc để tự toàn, cam tâm chịu làm bề tôi cho nước khác sao? Vì thế biết rằng nước khác không thể chiếm đoạt ngay được, điều đó rõ ràng. Nếu có kẻ trốn chạy tránh họa mà nương nhờ nước khác, cũng chỉ là tàn dư của kẻ chạy trốn mà thôi, có đáng kể gì đâu?
[77] Việc người biên giới trong nước thôn tính lẫn nhau là lợi ích của Trung Quốc. Nếu trời phù hộ thánh thế, khiến người Khương này chết đi, cuối cùng dẫn đến tan rã[24], những kẻ có lực lượng ngang nhau và thế lực tương đương, mỗi người chiếm cứ đất đai tự lập một bộ, thì lúc đó có lẽ sẽ có người muốn quy phục nước lớn. Tuy nhiên, đất phía nam sông lớn, vùng đất Hoành Sơn tất sẽ quy phục Trung Quốc; phía bắc sông lớn, đất phong Hạ Lan tất sẽ quy phục Khiết Đan; đất Tửu Tuyền, Vũ Uy tất sẽ bị lôi kéo bởi Tây Vực. Đó là do sự khác biệt về thế lực xa gần. Xưa kia Hô Hàn liệt làm Ngũ Thiền Vu, Hung Nô chia thành Nam Bắc Đình, từ đó biên giới nhà Hán không còn dấu vết ngựa kẻ địch. Điều có lợi cho ta, chính là mong muốn như vậy. Vì thế, thần cho rằng triều đình hiện nay chỉ nên giữ yên tĩnh, không hành động bừa bãi, dùng để quan sát sự biến đổi thành bại, chính là vì lẽ đó.
[78] Trung Quốc là nơi xuất phát của lễ nghĩa. Thần mong triều đình bình tĩnh xem xét bài học xưa, xử sự theo lễ nghĩa, tham khảo cổ tích, không để xảy ra hậu họa, nghiêm khắc răn dạy các tướng lại biên giới, khiến họ tích trữ lương thảo, nuôi dưỡng sĩ tốt, rèn luyện binh lính, giữ nghiêm kỷ luật, thong thả không làm gì, ngồi xem sự biến đổi. Nếu có thủ lĩnh hoặc dân chúng nước Hạ muốn quy phục nhà Hán, đều theo chiếu chỉ trước đây, nhất loạt từ chối, quyết không thu nhận, để giữ vững thể diện tôn nghiêm của Trung Quốc, phá tan mưu đồ phản phúc của người biên giới. Như vậy, chiếu chỉ nói về tình hình biên giới hiện nay và lợi hại về sau, thần ngu muội tự cho rằng đã nói hết. Còn như được mất nhỏ nhặt, quyền lợi tầm thường, vì tư lợi hại công, gây việc cho nước, thì không phải điều thần biết. Kính mong bệ hạ xem xét kỹ lưỡng.
- Chữ 'Triệt' nguyên là 'Thức', chữ 'luận' nguyên là 'luân', theo bản trong các kho sửa lại. Xem: Việc Tô Triệt bàn về Sở Tiềm thấy ở quyển 384, ngày Đinh Hợi tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ nhất, và truyện Tô Triệt trong 《Tống sử》 quyển 339. ↵
- Lại được đặc chỉ thăng lên Cung bị khố sứ, chữ 'Đặc' nguyên là 'Trì', theo các bản khác sửa lại. ↵
- Kiền Châu nguyên bản viết là 'Xử Châu', theo 《Tống hội yếu》 binh 5-11 và 《Tống sử》 quyển 196, binh chí sửa lại. ↵
- 'Tức luân xuất' nguyên bản viết là 'nội', theo 《Tống hội yếu》 sửa lại. ↵
- Đức Thuận nguyên bản viết là 'Thuận Đức', căn cứ vào chú thích và 《Tống hội yếu》 thực hóa 22-3, 24-27, 《Tống sử》 quyển 181, chí thực hóa sửa lại. ↵
- 'Thu tiền muối' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ 《Tống sử》 sửa lại. ↵
- 'Diêm sao' nguyên bản viết là 'diêm tiền', căn cứ bản các sách sửa lại. ↵
- cho phép thuê người đã từng được mộ làm cung thủ có năng lực, chữ 'tằng' vốn thiếu, căn cứ vào văn dưới mà bổ sung ↵
- 'có' nguyên văn là 'tại', theo 《Tống sử》 quyển 178, 'Thực hóa chí' sửa lại ↵
- Chỉ thị ngày 6 tháng này, chữ '6' nguyên là '7', theo văn cảnh sửa lại. ↵
- Chỉ được sai bổ, chữ 'bổ' nguyên là 'bộ', theo nghĩa sửa lại. ↵
- Ngày mồng 9 tháng giêng năm sau, chữ 'ngày' nguyên bản là 'tháng', theo bản khác sửa. ↵
- Cũng theo đó báo cáo cho bộ này 'ngật' nguyên là 'khất', theo các bản, bản hoạt tự và 《Tống hội yếu》 thực hóa 56-26 sửa. ↵
- Chiếu rằng từ nay về sau, lang quan và quan tự, giám luân phiên nhau kiểm tra hàng quý 'Chiếu' nguyên là 'Chiếu', theo sách trên sửa. ↵
- xin bãi bỏ việc cho người nộp tiền được làm quan, chữ 'nhân' nguyên là 'nhập', theo các bản sửa. ↵
- mà liên quan đến đại thể triều đình 'Thể' nguyên bản là 'Lễ', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Thiểm Tây Tây Lộ: Xét thời Tống không có tên lộ này, nghi là nhầm với Thiểm Phủ Tây Lộ. ↵
- Làm trong sạch gốc rễ làm lòng, 'gốc' nguyên là 'cây', theo các bản khác sửa lại. ↵
- 'Chiếu' nguyên văn là 'Chiếu', căn cứ theo 《Phạm Trung Tuyên Công Văn Tập》 và 《Phạm Thị Lang Công Di Văn Đáp Chiếu Luận Biên Tình Khất Bất Vọng Động Dĩ Quan Thành Bại Chi Biến》 sửa lại ↵
- 'Bảo' nguyên văn là 'Hệ', căn cứ sách trên sửa lại ↵
- 'Cơ' nguyên văn thiếu, căn cứ sách trên bổ sung ↵
- 'Mục' nguyên văn là 'Tự', căn cứ sách trên sửa lại ↵
- Nếu có người đến báo về họa của họ Lương, chữ 'dĩ' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên mà bổ sung. ↵
- cuối cùng dẫn đến tan rã, chữ 'chí' nguyên là 'tại', căn cứ theo bản các và sách trên mà sửa ↵