VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 393: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ NHẤT (BÍNH DẦN, 1086)
Từ ngày Ất Mão tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ nhất đời Vua Triết Tông đến hết ngày Đinh Sửu cùng tháng.
[1] Tháng 12, ngày Ất Dậu mùng một, châu Tế xin được phân phối muối nuôi tằm cùng với lụa và lĩnh mua trước, để tránh cho dân nghèo phải đi lại xin nhận. Triều đình đồng ý.
[2] Ngày Bính Tuất, xuống chiếu cho phủ Khai Phong và các lộ đề hình ty: “Tiền miễn dịch và tiền phường trường trước năm Nguyên Phong, lệnh cho Hộ bộ niêm phong riêng, mỗi quý báo cáo số lượng lên bản tào để kiểm tra, rồi trình lên Thượng thư tỉnh ghi vào sổ. Việc tự ý chi dùng sẽ bị xử theo pháp luật về tiền thường bình.”
[3] Ngày Đinh Hợi, Hộ bộ tâu: “Sứ giả nước Chiêm Thành là Bồ Ma Vật tiếp tục dâng sừng tê giác (da bò) v.v.”, chiếu ban thưởng 2.600 quan tiền.
[4] Hình bộ tâu: “Theo quy chế quan chế thông dụng của lục tàu trước đây, các việc thuộc chức trách của tứ ty trong bản tàu, nếu có điều gì chưa rõ trong sắc lệnh, điều lệ, hoặc có nghi vấn, hoặc các nơi mới đề nghị xin chỉ thị, cũng như các việc bàn bạc xem có thể thay đổi, xử lý, hoặc xét xử quan lại, đều do Thượng thư quyết định; các điều lệ thông thường thì do Thị lang quyết định; các văn thư khác đều do Viên ngoại lang của tứ ty trình lên Thượng thư; việc cung cấp và kiểm tra hồ sơ do lại nhân đảm nhiệm. Như vậy để phân biệt việc lớn nhỏ, quan lại cao thấp. Nay xem xét sách yếu lệ của phòng biên tu đoạn lệ, việc thảo đạp vốn là trách nhiệm của lại nhân, nhưng phòng này lại xin cho quan lại cùng ký xác nhận, rõ ràng là trái với thể chế phân nhiệm của triều đình. Xin các phòng trong tam tỉnh chỉ giao cho lại nhân phụ trách việc cung cấp và kiểm tra hồ sơ, giao cho lang quan đốc thúc báo cáo, không cần trưởng quan và phó quan ký xác nhận, để không làm mất ý nghĩa của quy chế quan chế.” Triều đình đồng ý.
[5] Ngày Mậu Tý, nước Liêu cử Ninh Viễn quân Tiết độ sứ Gia Luật Vĩnh Xương, Thái trung đại phu, Hành Trung thư xá nhân, sung Sử quán tu soạn Lưu Hựu đến chúc mừng lễ Hưng Long.
[6] Ngày Kỷ Sửu, nước Hạ cử sứ đến chúc mừng lễ Hưng Long.
[7] Ngày Canh Dần, Triều phụng lang Bật Trọng Du, Triệu Đĩnh Chi cùng được bổ nhiệm làm Tập hiền hiệu lý; Thừa nghị lang, Hành quân khí giám thừa Tôn Phác, Thừa nghị lang, Hành Thái học bác sĩ Mai Hạo, Phụng nghị lang Trương Thuấn Dân, Phụng nghị lang, Lễ bộ biên tu cống tịch Triệu Duệ cùng được bổ nhiệm làm Bí các hiệu lý; Tuyên đức lang, Tường định dịch pháp sở quản câu văn tự Lý Dụ, Thừa nghị lang Thịnh Thứ Trọng cùng được bổ nhiệm làm Hiệu thư lang; Thí Thái học lục Trương Lỗi, Thí Thái học chính Triều Bổ Chi, Hà Nam phủ Tả quân tuần phán quan, Lễ bộ biên tu cống tịch Lưu An Thế, Hòa châu Phòng ngự suy quan, Tri Thường châu Tấn Lăng huyện thừa Lý Chiêu (Mộc Tỵ), Tuyên đức lang Trần Sát cùng được bổ nhiệm làm Chính tự, và từ nay về sau, các chức vụ từ Hiệu lý trở lên đều phải xuất cáo[1]. Trọng Du cùng 13 người khác đều được triệu thí tại Học sĩ viện để sung tuyển.
(Ngày 21 tháng 6 tiến cử.)
[8] Trung tán đại phu, Tập hiền hiệu lý, Phán Đăng văn cổ viện Vương Triết được bổ nhiệm làm Hồng lư thiếu khanh.
[9] Bảo văn các trực học sĩ, Quyền tri Khai Phong phủ Tạ Cảnh Ôn được bổ nhiệm làm Tri Thái châu, vì bị Ngự sử đàn hặc.
(Ngày 25 tháng 10, Vương Địch nói rằng. 《Chính mục》 ghi rằng người tố cáo Cảnh Ôn tin vào phù thủy.)
[10] Tây Kinh Tả tàng khố sứ Cao Tuân Lễ được bổ nhiệm làm Câu đương Hoàng thành ty, Hoàng thành phó sứ Cao Tuân Lộ được bổ nhiệm làm Trần châu Binh mã kiềm hạt, đều do nội phê.
(Bản mới không có chữ “nội phê”.)
[11] Chiếu rằng: “Nội tiến Trung thư tỉnh kiểm hội cố sự[2], tương lai khi mãn tang, trăm quan nên dâng biểu xin lên tôn hiệu. Trẫm nghĩ rằng Tiên đế trị vì thiên hạ mười chín năm, uy chấn bốn phương, ơn trạch khắp muôn vật, công đức thật là rộng lớn. Thế nhưng các công khanh mỗi lần dâng tôn hiệu, đều từ chối không nhận, sự khiêm tốn nhún nhường ấy thật là tột bậc! Thân thể nhỏ bé của Trẫm, kế thừa cơ nghiệp, sớm khuya lo lắng, không dám lơ là. Nay các cơ quan gần gũi tra cứu điển cố, cho rằng khi mãn tang, trăm quan nên tôn xưng hiệu, điều này há phải là ý của Trẫm để noi theo lời dạy, kế thừa sự tốt đẹp của tiền nhân sao? Tương lai khi mãn tang, theo chiếu thư năm Nguyên Phong thứ ba, sẽ không lên tôn hiệu nữa. Mong rằng trong ngoài hiểu ý Trẫm.”
[12] Tả Gián nghị đại phu Tiên Vu Sân tâu: “Ở phủ Khai Phong, những người thuộc hàng Bảo giáp được ban chức không ít, số hộ quan đã nhiều, việc sai dịch ở các huyện rất khó khăn. Nghe nói trong huyện Tường Phù, một hương chỉ có một hộ có thể sai phái. Thần nghĩ rằng những người thi Võ cử qua được kỳ sách và cung mã mới được vào hàng cận thần. Nay những người Bảo giáp có tài nghệ được ban ơn, liền được cùng hàng với công khanh đại phu làm hộ quan miễn dịch, thật là may mắn quá mức. Thần xin đề nghị những người Bảo giáp được ban chức theo lệ của quan tiến nạp, đợi khi thăng chức triều quan mới được miễn các dịch vụ trong hộ, để việc sai dịch ở các huyện được thực hiện. Còn Bảo giáp ở ba lộ, cũng xin theo như thế.” Đều được chấp thuận.
[13] Tằng Triệu đã nộp lại bản thảo từ chối bổ nhiệm Diệp Khang Trực, có chiếu chỉ giao cho người xá nhân tiếp theo soạn văn bản. Tô Triệt lại nộp trả, tâu rằng: “Thần với Diệp Khang Trực vốn không quen biết, cũng không biết người ấy hiền hay ngu, chỉ thấy ngày 24 tháng trước có mệnh lệnh bổ nhiệm trên. Lúc đó, quyền Trung thư xá nhân Tằng Triệu đang soạn cáo từ, Triệu liền tâu rằng: ‘Trước đây khi quân sự khởi phát, Khang Trực điều động lương thảo, khiến cả một vùng náo động. Tiên đế cho rằng cách xử trí của ông ta không đúng, lại theo quân vào biên giới, tổn thất nhiều, từng ra lệnh trói giam, có ý muốn xử tử. Vì thế không dám soạn cáo từ.’ Lại có Gián nghị đại phu Tiên Vu Sân cũng nói: ‘Khang Trực bảo con trai đào lấy thóc chứa trong hầm để bán, lại dâng lời muốn từ đường Kinh Nguyên vào biên giới, thuê xe và người phu, bị Tri Vĩnh Hưng quân Lã Đại Phòng tâu lên, vi phạm chiếu chỉ. Tiên đế cho rằng cách xử trí của ông ta sai trái, muốn nghiêm trị theo pháp luật, nhưng Khang Trực vốn là nô bộc của Lý Hiến, Hiến ngầm cứu giúp, nên được thoát tội. Nay lại cho ông ta giữ chức vụ kiêm nhiệm làm suý thần một vùng, không hợp với công luận.’ Thần nay đã biết rõ Tằng Triệu, Tiên Vu Sân có văn bản trên chỉ ra tội ác của Khang Trực, vì thế khó lòng soạn cáo từ. Xin triều đình xác minh lời của Triệu, Sân về sự việc của Khang Trực xem có đúng không, nếu không có việc này, xin trị tội Triệu, Sân về tội vu khống, sau đó mới sai thần soạn cáo từ, thần xin tuân mệnh.”
(Năm sau, ngày 28 tháng 2, bãi chức Khang Trực, bổ nhiệm Lữ Công Nhụ.)
[14] Đại Danh phủ tâu rằng việc dẫn nước sông gần phủ không tiện, chiếu chỉ cho Trương Vấn đi xem xét lại.
(Việc ngày 6 trong Chính mục, ngày 22 tháng 11 và ngày 8 tháng 2 năm thứ hai có thể tham khảo.)
[15] Ngày Quý Tỵ, nước Hạ dâng năm con ngựa quý, hai mươi lăm con ngựa thường, và hai mươi con lạc đà.
[16] Ngày Giáp Ngọ, chiếu chỉ rằng từ nay Thiếu phủ, Tướng tác, Quân khí giám, Đô thủy sứ giả sẽ đứng trên Thất tự thiếu khanh, còn Giám, Tự sẽ đứng trên Chủ bạ của Đài, Tự.
[17] Ngày Mậu Tuất, Cấp sự trung Tiền Hiệp được bổ nhiệm làm Long Đồ các Đãi chế, quyền Tri Khai Phong phủ. Giám sát Ngự sử Thượng Quan Quân lại dâng tấu bàn về Hiệp: “Trước đây tạm quản Kinh doãn mấy tháng, chỉ cầu làm nhanh, chuyên chú vào việc xét nét nhỏ nhặt, mọi người đều không cho là có tài, xin bãi bỏ mệnh lệnh mới.” Không được trả lời.
[18] Xuống chiếu: “Những việc liên quan đến ngựa trong và ngoài, trước đây thuộc quyền quản lý của Quần mục ty, nay chuyên giao cho Thái bộc tự, trực tiếp báo lên Xu mật viện, không cần qua Thượng thư tỉnh và Giá bộ, các việc khác vẫn theo quan chế cũ. Lệnh này vẫn theo pháp lệnh cũ của Quần mục ty và chỉ huy trực tiếp lên Thượng thư tỉnh, không thi hành nữa.”
(Ngày 7 tháng 9 và cuối tháng 9 có tấu của Vương Địch, Vương Tồn, cùng ngày 18 tháng 11 và ngày 21 tháng 3, đều hợp để khảo cứu.)
[19] Châu Hoa tấu rằng núi Tiểu Phu Cốc thuộc địa giới huyện Trịnh bị sụp lở, làm bị thương dân cư. Xuống chiếu cho Thái thường Bác sĩ Nhan Phục đến Tây Nhạc làm lễ tế.
[20] Hữu Gián nghị đại phu Lương Đào, Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu rằng: “Thần trộm nghĩ, từ khi Bệ hạ lên ngôi đến nay, tôn trọng dùng người hiền tài, đề cao kẻ sĩ tài giỏi, tiếp nhận điều thiện trong thiên hạ như chưa đủ, cải cách tệ nạn trong thiên hạ chỉ sợ chưa triệt để, lấy lòng dân làm lòng mình, vỗ về và nghĩ đến họ, không khác gì cha mẹ đối với con thơ. Trong ngoài bốn bể, tình cảm và ý nguyện của dân chúng đều hòa hợp vui vẻ và thư thái, thật là cảnh tượng thái bình vậy. Lẽ ra phải có điềm lành và phúc ứng liên tiếp đến, vậy mà nay lại có điềm lạ núi lở, là cớ sao? Thần thấy lòng trời yêu thương Bệ hạ, muốn giúp đỡ thánh trị ngày càng mới mẻ, để thành tựu phúc lành vô cùng, nên đã cảnh báo sâu sắc từ trước. Xin Bệ hạ ngẫm nghĩ lòng trời mà tự răn mình rằng: ‘Ta trị vì muôn dân, vốn đã lo sợ không dám lơ là, há còn có lời nói việc làm nào mà bất cẩn không kính cẩn chăng?
Lời nói thẳng đạo lý, vốn đã không có khoảng cách mà trên dưới hòa hợp, há còn có lời tà thuyết điên đảo thị phi, làm mờ mắt ta chăng? Người quân tử chính trực, vốn đã cùng tiến mà triều đình trong sạch, há còn có kẻ tiểu nhân lẫn lộn trong đó, làm rối loạn sự thật của ta chăng? Thiên hạ vốn đã yên ổn, há còn có tệ nạn sâu xa, xa mà khó thấy, ẩn mà không biết, hoặc muốn sửa mà vẫn còn, hoặc đã bỏ mà lại sinh, khiến người ta lo lắng chăng? Bốn phương vốn đã yên tĩnh, há còn có kẻ tiếc hư danh mà cam chịu thực tệ, nuôi dưỡng mối họa sau này, chưa phải là kế sách tối ưu chăng? Tước thưởng không phải không cẩn thận, nhưng sự khoan dung làm hại công lý, sự lộng quyền làm rối loạn chính đạo, có thể dứt bỏ được chăng? Hình phạt không phải không công bằng, nhưng kẻ đáng tội mà được tha, kẻ đáng thẳng mà bị oan, có xét kỹ được chăng? Chính lệnh không phải không công bằng, nhưng phiền hà mà ít cốt yếu, dễ ban ra mà dễ đổi lại, làm mê hoặc tai nghe dân chúng, có suy nghĩ kỹ chăng? Muôn việc không phải không tiết kiệm, nhưng dùng mà không thiết thực, thiên lệch mà không đều, có xét đến cùng chăng? Việc trị lý các quận huyện không phải không chỉnh đốn, nhưng dùng người không đúng, ngăn trở ân trạch của Vua không thấm đến dân, làm khổ dân ta, có biết hết chăng?’
Xin Bệ hạ nhân lời cảnh báo của trời, đối với những điều như thế, càng thêm chú ý. Xưa núi Lương sụp đổ, Tấn hầu sai người triệu Bá Tông, Bá Tông đem lời của người nặng cân nói lại, Tấn hầu nghe theo mà tự trách mình, sách 《Xuân Thu》 khen ngợi. Tấn hầu là Vua một nước chư hầu, mà núi Lương là ngọn núi trọng yếu của một nước. Khi có biến cố, còn biết vội vàng triệu người hiền tài để bàn bạc, huống chi Bệ hạ là người có cả thiên hạ, mà núi Hoa lại là ngọn núi cao nhất trong Ngũ Nhạc? Há có thể không sợ uy trời, nghĩ cách ứng phó với biến cố chăng?
Kính mong Bệ hạ rộng hỏi mưu kế của người hiền, sửa sang chính sự, để đáp lại lời cảnh báo của trời.”
[21] Dán tờ vàng: “Thần nghĩ rằng núi Hoa Sơn là trấn phương Tây, quốc gia dựa vào đó để được yên ổn. Nay núi bị sụp đổ, ắt có ý trời. Xin Bệ hạ suy nghĩ sâu xa và lo sợ[3], đừng xem thường, thì thiên hạ thật may mắn!”
[22] Lại dán tờ vàng: “Xin Bệ hạ vừa tự cảnh tỉnh mình, vừa ban chiếu cho các đại thần, để cùng nhau sửa sang việc chính trị, ứng phó với biến cố của trời, như vậy là tốt đẹp lắm.”
(Sách 《Đại Danh Tập》 của Vương Nham Tẩu và bản thảo để lại đều có chương này, trong 《Tấu Nghị》 của Lương Đào cũng có, văn tự hoàn toàn giống nhau, có lẽ hai người cùng dâng lên.)
[23] Xu mật viện tâu: “Điện trung thị ngự sử Lã Đào tâu: Trước đây, giặc Khất Đệ ở Lô Châu xâm phạm, ban đầu chỉ vì đòi một giá xương mao, việc nhỏ nhặt, nhưng quan lại biên giới tham công mong thưởng, tự ý giết chóc, dẫn đến quân bại tướng chết, gây rối loạn một phương, lại khiến triều đình phải cử tướng đi đánh dẹp phía tây, chi phí công tư không nhỏ. Ban đầu, Lâm Quảng thống lĩnh đại quân, tiến sâu vào sào huyệt, đến nơi ở của Khất Đệ chỉ thấy vài gian nhà tranh, giặc cũng đã bỏ trốn, cuối cùng không bắt được. Sau đó, lấy Vương Quang Tổ làm An phủ sứ Lô Nam, muốn bắt sống thủ lĩnh giặc, nhưng kinh doanh mấy năm cũng không thu được kết quả. Hiện nay, Lô Châu đóng quân trong ngoài hơn một vạn người, tạo thanh thế để bắt giặc, nhưng kế sách cũng sơ hở. Muốn bắt giặc mà không giấu hình, thì không thể bắt được giặc. Chi phí nuôi quân vạn người[4], vận chuyển lương thực ngày càng vất vả, dù không có giặc đến, cũng ngồi không hao tổn sức dân. Thần cho rằng việc Khất Đệ còn sống hay chết, thuận hay nghịch, không đủ để làm phiền triều đình, nên bỏ qua không bàn, chỉ cần dời trọng binh về nội quận để giảm bớt chi phí, răn bảo quan lại biên giới giữ vững cương giới, tỏ ý không nhất thiết phải bắt, kiên trì theo thời gian, ắt sẽ có hiệu quả. Mùa xuân năm nay, Lô Nam đồn đại Khất Đệ đã chết, lại nói sắp đầu hàng, đó là lời nói bịa đặt của bọn tướng chiêu an để kiếm lợi nhỏ, đều không đáng tin.
Xét tháng giêng năm nay, Tẩu mã thừa thụ Mã Bá Hổ và Quyền An phủ sứ Lý Tông của An phủ ty Lô Nam tấu rằng thủ lĩnh giặc Khất Đệ gây họa đã chết, thủ lĩnh mới là A Cơ đã tự tay khắc một tấm bài xin đầu hàng, bản ty đã cấp giấy tờ tin cậy, cho phép đầu hàng. Triều đình đã ban chỉ dụ, sai Tri Lô Châu Trương Khắc Minh cùng Chuyển vận phán quan Lý Kiệt của Tử Châu lộ cùng quản lý việc này.” Chiếu lệnh Trương Khắc Minh và Lý Kiệt theo lời tâu của Lã Đào, nếu A Cơ thực sự đầu hàng thì tiếp nhận, không được tin lời bọn tướng chiêu an tự ý vào vùng đất sinh sống, hư xưng chiêu dụ, gây dao động nhân tình, chỉ cần giữ yên. Và phòng thủ biên giới có chuẩn bị, việc A Cơ đầu hàng hay không, cũng không ảnh hưởng gì lớn.
[24] Chiếu cho Học sĩ viện soạn chiếu ban cho [Lý] Càn Thuận, chỉ khen ngợi ý kế thừa sự cung thuận, không cần nhắc đến việc kế thừa đất phong.
(Ngày mồng 8 tháng 10 báo tang.)
[25] Ngày Canh Tý, Triều nghị đại phu, Trực Long đồ các Lưu Ban được bổ nhiệm làm Trung thư xá nhân, và được miễn thi.
(Vương Nham Tẩu có nói, xem thêm ngày 24 tháng 11.)
[26] Dẫn tiến sứ, Khang châu thứ sử, Xu mật phó đô thừa chỉ Tào Tụng được bổ nhiệm làm Dao quận đoàn luyện sứ, nhậm chức Tri Bảo châu.
[27] Kinh lược an phủ sứ, Đô kiềm hạt ty Quảng Tây tâu: “Xin bổ nhiệm quân mã bộ của các châu Quế, Nghi, Dung, Khâm, Liêm, dù thuộc tướng hay không thuộc tướng, luân phiên điều động đến các trại, trấn, giám, sách ở vùng biên giới xa xôi, đất đai khắc nghiệt của châu Ung, cùng các nơi tuần phòng và đô, đồng tuần kiểm, xin theo điều lệ của châu Ung, thay đổi mỗi năm một lần[5]. Các châu khác điều động đến các trại Vĩnh Bình, Cổ Vạn[6], Thái Bình, Hoành Sơn, Thiên Long của châu Ung, cùng các nơi tuần kiểm ở tả, hữu giang khê động, và trại Để Trác đóng ở động Như Tích của châu Khâm, thay đổi mỗi hai năm một lần. Các châu tuần kiểm dưới quyền thay đổi mỗi năm một lần.” Được chấp thuận.
[28] Ngự sử trung thừa Phó Nghiêu Dũ tâu rằng: “Thần nghe trong sách viết: ‘Cẩn thận lúc ban đầu, nghĩ đến lúc kết thúc.’ Lại nói: ‘Thận trọng lúc kết thúc, nghĩ đến lúc bắt đầu.’ Lúc bắt đầu thì nghĩ đến lúc kết thúc, không dám không cẩn thận; lúc kết thúc thì nghĩ đến lúc bắt đầu, không dám không nỗ lực. Thần ngu muội, kính nghĩ rằng bệ hạ nghiên cứu cổ nhân, cai trị hiện tại, tu sửa pháp độ, cung kính kiệm ước để khắc chế bản thân, nhân từ ban ơn để yêu thương dân chúng, đề cao người già cả, mở rộng đường lối ngôn luận, đại nghĩa rõ ràng, tiếng nhân đức lan truyền, tổng quản muôn việc, nắm được cương lĩnh. Nhờ đó kính trọng tổ tiên, dẫn dắt thế tục, lo lắng cho con cháu trăm đời rất chu toàn, không phải là điều thần có thể diễn tả bằng bút lưỡi, dù trong thi thư có ghi chép, trong tranh vẽ có truyền lại, cũng chưa từng vượt qua được, có thể nói là đã có khởi đầu tốt đẹp. Thần ngu muội, không kìm được lòng nhiệt thành!
Thần cho rằng dù bệ hạ có được tính thánh thiện, vẫn nên thêm tâm thánh vào đó. Trời đất không có công lao toàn vẹn, thánh nhân không có năng lực toàn diện, điều này không thể không suy nghĩ. Truyện nói: ‘Xét kỹ điều tốt xấu, điều chỉnh tình tính, thì đạo vương sẽ hoàn thành.’ Đạo lý tu dưỡng tính tình, ắt phải xét kỹ điều mình dư thừa, mà củng cố điều mình thiếu sót. Dư thừa thì nuôi dưỡng, không dám kiêu ngạo; thiếu sót thì nỗ lực, lấy đó làm răn dạy, sau đó không có kẽ hở để lộ, kẻ xảo trá không thể kết bè mà tiến cử bừa bãi. Nay bệ hạ không ra khỏi cung điện, mà thiên hạ hướng theo, trăm quan làm việc, không có gì khác, là vì bệ hạ thông suốt công bằng, chính sự xuất phát từ đạo đại công. Nếu có chút thiên lệch, thì tình cảm yêu ghét sẽ lộ ra, trăm điều tà ác ắt tranh nhau lợi dụng mà xâm nhập. Những thành tựu bệ hạ đã gây dựng trước đây, sẽ bị gián đoạn mà không trọn vẹn. Há chẳng nên cẩn trọng, ngày càng thận trọng, để đạt được kết quả tốt đẹp sao? Mong bệ hạ lưu tâm xem xét, thì thiên hạ may mắn lắm thay.
Bệ hạ không bỏ thần ngu muội, giao trách nhiệm nói thẳng, không phải là điều thần già yếu nên được, nhưng thần ngưỡng mộ sự sáng suốt, cố gắng nhận chức. Thần tự suy nghĩ, chí hướng có trái phải, tài năng có hạn, việc có lớn nhỏ, trách nhiệm có nặng nhẹ. Bệ hạ sai thần bổ khuyết sửa lỗi, để phụ trợ đức lớn; làm rõ điều thiện, sửa chữa sai lầm, để bình ổn chính sự; đề cử người ngay thẳng, loại bỏ kẻ gian tà, để chỉnh đốn đại thần. Lúc ấy, thần sẽ dốc hết sức, dám chết để làm tròn. Còn như dò xét việc riêng tư, bới móc chuyện nhỏ nhặt, nghe gì nói nấy, gặp việc là nói, thì không phải là trách nhiệm của thần, cũng không phải là chí hướng của thần. Kính mong bệ hạ trách cứ đại tiết, khoan dung tiểu tiết, dựa vào khả năng của thần, để thần được đóng góp sức lực, thần sẽ không vì tuổi già mà lo cho con cháu, sợ đầu sợ đuôi, để phụ lòng ơn tưởng. Khởi đầu khó khăn, bệ hạ đã vượt qua, há chẳng thể kết thúc tốt đẹp sao? Nhưng không thể không cảnh giác. Kính mong bệ hạ xem xét lời thần chân thành, không bỏ qua lời nói, đặc biệt ban cho xem xét, thì danh tiếng sẽ mãi mãi không hối hận. Thần vô cùng mong mỏi.”
[29] Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu: “Thần nghe được rằng những hộ dân thuộc hai hạng trên ở Tấn Châu phải nộp thuế tại hai trại Gia Lô và Ngô Bảo. Từ Tấn Châu đến Phần Châu là 340 dặm, đường đi tương đối thuận tiện cho xe bò. Từ Phần Châu lại thêm 360 dặm đến Ngô Bảo, và 390 dặm đến Gia Lô, đều là đường núi hiểm trở, khe suối sâu ngăn trở, không thể dùng xe bò. Khi phải vượt sông Hoàng Hà, lại càng gian nan hơn. Mỗi đấu gạo trắng, quan ước tính đổi thành 50 đồng tiền, nhưng dân chúng thực tế phải tốn đến 500 đồng mới xong được một đấu. Mỗi lần đi lại tổng cộng hơn 1.400 dặm, dân chúng không chịu nổi khổ cực, đều nói: ‘Trước đây khi có chiến sự, chúng tôi đã dốc hết gia sản để cung cấp cho quân đội, nghĩ rằng đó là việc nhất thời của quốc gia, việc xong rồi thì có thể sống lại được. Không ngờ sau khi bãi binh, lại phải năm năm nộp thuế, lúc nào cũng như có việc gấp, không biết đến bao giờ mới được nghỉ ngơi. Ngày qua tháng lại, làm sao chịu nổi!’
Trước khi có hai trại này, dân chúng không nhớ đã từng phải rời khỏi châu mình để nộp thuế, ai nấy đều có thể dùng phần dư dả để nuôi sống và lo việc tang ma. Từ khi có hai trại này, thuế phí một năm bằng mười năm trước, trở thành mối lo lớn, không còn muốn sống nữa. Những người có hiểu biết lại nói: ‘Giả sử hai trại này có lợi cho quốc gia, mà bắt dân chúng trong lòng đất phải chịu khổ để phụng sự, cân nhắc nặng nhẹ, cũng không nên làm, huống chi là không có lợi gì? Khiến dân chúng trong lòng đất khốn khổ mà oán hận, một khi lòng dân đã ly tán, dù có thành trì kiên cố, ai sẽ cùng giữ?’ Dân chúng nói như vậy, triều đình không thể không biết, biết rồi không thể không xót thương, xót thương rồi không thể không sớm có kế sách.
Thần mong bệ hạ thử xem xét tình hình lớn của thiên hạ: Ban đầu không có hai trại này, quốc gia thiếu gì? Sau khi có hai trại, quốc gia thêm được gì? Điều thêm được chỉ là nỗi khổ của dân chúng và mối lo của triều đình mà thôi. Thần nghĩ rằng sông Hoàng Hà là ranh giới tự nhiên, đã đủ hiểm trở. Nay hai trại này nằm sâu trong địa phận giặc, lại cách xa sông lớn, không liên quan đến thế mạnh yếu của hình thế, trước đây chỉ là do những kẻ ham công danh, lợi dụng triều đình mà xây dựng, để lại hậu họa mà thôi. Giữ lại thì chẳng được gì, bỏ đi cũng chẳng đáng tiếc. Theo đuổi hư danh mà chịu thiệt hại thực tế, đó là điều răn lớn của người xưa. Ngày nay triều đình đối với việc thiên hạ, có điều gì không nghĩ đến mà còn tiếc rẻ hai trại này? Xưa thời Hán Tuyên Đế, Ngụy Tướng xin bỏ ruộng Xa Sư; thời Hán Nguyên Đế, Giả Quyên Chi xin bỏ quận Chu Nhai. Đều là không muốn tham lợi bên ngoài mà làm suy yếu bên trong, hao tổn sinh linh, để làm việc cuối cùng không thể giữ được. Thần mong bệ hạ thấu hiểu sâu sắc những tệ hại đã rõ của hai trại này, nghĩ đến nỗi khổ vô cùng của dân chúng, quyết tâm bỏ đi, rút về giữ vững biên giới cũ, để tính kế lâu dài, thật là may mắn. Thần ngu muội, không kìm được lòng tha thiết.”
[30] Thiếp hoàng: “Dân Hà Đông nghèo hơn các nơi khác, chỉ có hai châu Tấn, Giáng là còn hơi có sức. Từ khi tu sửa hai trại đến nay, đã nhiều năm, nghe nói dân châu Tấn chuyên cung cấp cho trại Gia Lô, dân châu Giáng thường nộp cho trại Ngô Bảo. Năm nay châu Giáng vì thiên tai tạm được miễn, gánh nặng đổ dồn vào châu Tấn, sang năm chắc chắn sẽ lại như cũ. Thần thấy rõ sức dân hai châu bị hao tổn vì hai trại, lúc bình thường đã khốn khó, huống chi khi có việc gấp, làm sao xoay xở được, điều này không thể không suy nghĩ. Lại nghe nói thuế của hộ dân hạng ba, hạng bốn châu Tấn phải chuyển đến Thái Nguyên và Thạch Châu, xa đến hơn năm trăm dặm, chi phí đều tăng gấp nhiều lần. Thuế hạng năm vốn chỉ nộp tại địa phương, nay cũng phải chuyển đến châu và các huyện ngoài trấn. Như vậy là dân năm hạng của một châu đều chịu thiệt hại, không chỉ riêng hai hạng trên. Tác hại của hai trại càng rõ ràng.”
(Cuối tháng 6 năm thứ 2, Nham Tẩu lại có hai chương xin bỏ hai trại.)
[31] Hôm đó, Nghiêu Dũ và Nham Tẩu cùng vào chầu. Nghiêu Dũ bước lên tạ ơn, Thái hoàng thái hậu nói: “Vì khanh có tài năng và danh tiếng, nên Trẫm dùng khanh.” Nghiêu Dũ lạy xong, chưa kịp tấu việc. Thái hoàng thái hậu hỏi trước: “Chính sự trong thiên hạ thế nào?” Nghiêu Dũ khen là tốt, và nói: “Chỉ sợ bệ hạ trị vì lâu ngày, sẽ có chút lơ là. Nếu bệ hạ có thể cẩn thận, ngày càng thận trọng, luôn giữ đạo công bằng, thì thiên hạ không gì không trị được.” Thái hoàng thái hậu nói: “Trừ phi hôn muội thì mới như vậy.” Lại nói: “Phép bảo giáp, bảo mã cần bãi bỏ trước, những việc khác không gấp thì tạm dừng, e rằng thay đổi quá gấp sẽ gây phiền toái.” Nham Tẩu tấu rằng: “Nếu quả thật là việc không gấp thì có thể, nhưng nếu gây hại cho dân thì cũng không thể không thay đổi.” Thái hoàng thái hậu đáp: “Hại dân thì phải thay đổi.”
Nghiêu Dũ đọc tờ tấu, đại ý bàn về việc cẩn thận từ đầu đến cuối. Nham Tẩu dâng tờ tấu thứ nhất xin bãi bỏ hai trại Gia Lô và Ngô Bảo. Nghiêu Dũ tấu rằng: “Đại để những thành trại mới chiếm gần đây đều có thể bãi bỏ, không chỉ hai trại này.” Lại nói: “Bệ hạ muốn nuôi dưỡng dân chúng, làm đủ quốc dụng, thì cần phải bỏ những nơi gây hại như thế này, mới có thể yên ổn bên trong, nếu không, hậu họa vô cùng, rốt cuộc cũng không giữ được. Thần nay chỉ căn cứ vào những nơi gây hại cho hai châu mà nói, nếu tính cả những nơi do triều đình và các lộ khác chiếm được, thì số lượng không thể kể xiết, xin bệ hạ hạ lệnh cho các cơ quan tính toán, sẽ thấy ngay không biết bao nhiêu sinh linh đã đổ máu. Bãi bỏ sớm được một ngày thì tranh thủ được một ngày. Bảy tám đại thần bàn luận không thể thống nhất, cần bệ hạ quyết đoán. Nếu không phải bệ hạ một lời quyết định, thì không thể xong được.” Thái hoàng thái hậu nói: “Đây đều là do bọn tiểu nhân trước đây lừa dối triều đình làm ra, đợi lệnh thi hành.” Nham Tẩu lại tấu rằng: “Ở biên giới những nơi như thế này rất nhiều, xin bệ hạ trước hết giải quyết hai trại này.”
[32] Vương Nham Tẩu lại dâng lời thứ hai về tờ tấu của Tăng Triệu. Thái hoàng thái hậu nói: “Hãy để thử xem.” Nham Tẩu tâu rằng: “Thử đã thấy sơ suất. Trung thư xá nhân lấy văn chương ngôn từ làm cốt lõi, nay đã nhiều lần có lời hại nghĩa, vì đây là lời thay mặt bệ hạ, không thể để thiên hạ nhìn vào những lời này mà đoán ý bệ hạ.” Lại tâu rằng: “Đây là kẻ tiểu nhân. Nay hoàng đế bệ hạ ngày một lớn, cần phải có người chính trực ở bên cạnh để nuôi dưỡng đức lớn, sao có thể để những kẻ như vậy ở bên cạnh! Rất bất tiện.” Thái hoàng thái hậu đáp: “Hãy đợi xem xét.” Nham Tẩu nói: “Thần đã có bảy chương tấu nói việc này không đúng. Bệ hạ đặt ra đài gián là để xem xét việc bổ nhiệm của chấp chính có đúng hay không, nay nếu không thi hành, thì chấp chính sẽ tự tung tự tác, đường ngôn luận cũng không dám nói. Nếu như vậy, thần không dám an vị, thần chỉ là trung thành với bệ hạ.” Thái hoàng thái hậu đáp: “Đúng vậy.” Phó Nghiêu Dư nói: “Vương Nham Tẩu trung thực, lời nói không dễ dàng.” Lại nói: “Hãy đợi xem xét.” Nham Tẩu nói: “Hôm nay xin bệ hạ một lời quyết đoán.” Thái hoàng thái hậu đáp: “Hãy đợi chỉ đạo.” Nham Tẩu lại hỏi: “Không biết chương sớ của thần đã ban xuống chưa?” Đáp: “Đã ban xuất.” Nham Tẩu lại hỏi: “Không biết hôm nay tam tỉnh đã trình lên chưa?” Đáp: “Chưa trình lên.” Nham Tẩu lại nói: “Xin sớm ban xuất văn tự hôm nay.” Thái hoàng thái hậu đáp: “Hãy đợi ban xuất.”
[33] Nham Tẩu lại tâu xin bỏ các trại Gia Lô, Ngô Bảo, nói: “Từ khi mở Hi Hà, Lan Hội, có lợi ích gì cho quốc gia? Chỉ thấy hao tổn sinh linh, cung cấp không ngừng. Từ trước đến nay đã tiêu tốn hàng trăm vạn, nay càng không thể nói, hối hận đã không kịp, chỉ mong tiết kiệm từ nay về sau những khoản chi vô cùng. Nếu Trung Quốc khốn đốn, không còn sức tranh chấp, ắt sẽ phải bỏ, chi bằng sớm tính kế, để yêu thương Trung Quốc, đó mới là kế sách tự cường. Nếu Trung Quốc khốn đốn, trăm họ ắt oán hận, người già yếu chết nơi khe suối, kẻ tráng kiện tụ tập thành giặc cướp. Lòng dân oán hận sinh bệnh, thì người xa ắt sinh khinh nhờn, vạn nhất xâm lăng, không biết lấy gì đối phó, thật đáng lo lắng. Mong bệ hạ sớm lưu tâm.”
[34] Lại bàn về việc Tăng Triệu rằng: “Triệu là kẻ tiểu nhân thực sự, không thể dùng. Từ xưa chưa từng có việc dùng lẫn lộn tiểu nhân mà có thể yên ổn, không thuần túy tiến cử người hiền mà được gọi là thanh minh. Khi anh trai hắn là Bố chuyên quyền lộng hành, kích động thiên hạ, không nghe Triệu nói một lời nào để khuyên can anh mình, lại tự mình chiếm lấy chức quan tốt, nếu có chút trí thức, há lại làm như vậy? Huống chi chức Trung thư xá nhân không giống các chức thị tòng khác, cần phải là người có văn chương và đạo đức cao, được tuyển chọn từ khắp thiên hạ, là người có khí phách và kiến thức, mới có thể đảm đương được. Kẻ bất tài ở địa vị cao, là nỗi nhục của thần. Thần thề không đứng chung với kẻ bất tài, mong bệ hạ xét rõ.”
Vua nói: “Hãy yên tâm nói việc, đợi ở đây quyết định.” Nham Tẩu tâu rằng: “Nếu việc nói dễ dàng, thì không cần bệ hạ quyết định. Chỉ vì có những khó khăn như vậy, nên phải nhờ vào sự quyết đoán của bậc quân chủ. Xưa kia chọn người để làm quan, nên trăm quan đều được tiếng là có người hiền. Nay chọn quan để cho người, nên người ta bị chê là không xứng với chức vụ. Mỗi chức quan cần phải chọn người như thế nào mới xứng, nếu không xứng thì không dám bổ nhiệm, vì không phải người đó thì không thể đảm đương được. Đó là đạo lý không thể thay đổi của thiên hạ, là nghĩa vụ không thể bỏ qua của bề tôi. Thần thấy nghĩa vụ chưa yên, nên không dám ngừng nói.”
Vua nói: “Hãy để họ thử xem sao?” Đáp rằng: “Làm qua loa không phải là đạo trị quốc. Chức vụ này nếu không phải là thay lời Vua, thì người đó tự loạn đạo, có hại gì cho việc? Chỉ vì thiên hạ nhìn vào lời huấn từ để thấy ý của bệ hạ, nên phải dùng người có văn học lại có kiến thức, hiểu được thể chế quốc gia. Nay Tăng Triệu thực sự làm nhục bệ hạ, không thể để lại. Các quan chấp chính chưa chắc không biết người này là tiểu nhân, không hợp với lòng dân, chỉ vì đã tiến cử rồi, nên phải mong bệ hạ quyết định, việc này hoàn toàn do thánh ý. Vì đã ngăn chặn đường ngôn luận một lần, thì đường ngôn luận sẽ suy yếu, khó mà đảm đương chức vụ, sau này dù các quan chấp chính có làm điều không đúng, ai dám nói? Điều này bệ hạ không thể không xét. Đường ngôn luận nếu không có bệ hạ quyết đoán, thực hiện lời nói, thì một ngày cũng không thể lập được. Nay thần nói, đều là những việc thực tế trước mắt. Còn một việc nữa, thần hôm nay mới biết rõ, chưa kịp trình bày trong tờ tấu. Thấy Triệu viết lời cáo từ cho những người mới được bổ nhiệm làm quan trong quán rằng ‘không phụ lòng tri kỷ’, câu này rất đáng ngờ. Những người được bổ nhiệm làm quan trong quán, đều là nhờ ân điển đặc biệt của bệ hạ, được tuyển chọn để phục vụ quốc gia, vốn nên được huấn thị để hết lòng trung thành với triều đình. Nay Triệu lại dạy họ báo ân các quan chấp chính, hoàn toàn không biết đạo lý phụng sự quân vương. Truyền đi khắp nơi, khiến thiên hạ chê cười, cho rằng triều đình không có ai lo liệu việc. Xin bệ hạ ra lệnh cho Trung thư sửa lại lời cáo từ.”
Lại tâu rằng: “Xưa kia tiến cử người hiền là vì quốc gia, không vì mình. Người hiền được tiến cử, không dám tạ ơn riêng, để tỏ rõ ý không phải là tư tình. Theo ý của Triệu, người tiến cử đã coi việc tư là ân, người được tiến cử cũng nên tư báo, không biết đạo lý làm bề tôi, không biết nghĩa vụ phụng sự quân vương. Xin bãi chức Trung thư xá nhân, cho ra ngoài làm quan. Thay lời Vua phải là người có thể truyền đạt ý của bệ hạ, như Vương Củng bị người ta đả kích tội lỗi, bị trách phạt ra ngoài, lại dùng lời khen, không biết như vậy có phải là ý của bệ hạ không? Như thế sao có thể thay lời Vua? Kín đáo chê bai mà công khai khen ngợi, là kỷ cương gì? Lấy gì để khuyến khích sĩ đại phu trong thiên hạ? Nhân đó có thể răn dạy người thay lời Vua, từ nay về sau làm thành phép tắc.”
(Đoạn này dùng lời bàn triều của Vương Nham Tẩu thêm vào, cần xem xét kỹ. Sách cũ chép: “Hôm đó là ngày Canh Tý, Thái hoàng thái hậu tuyên dụ không được khinh suất bàn việc bãi bỏ hay thay đổi pháp độ, trong đó có lời rèm che, không cần phải nói rõ là người đầu tiên thay đổi chính sách tốt và pháp luật tốt đẹp thời Nguyên Phong, cũng là nhờ sự giúp đỡ của quan lại trong cung cấm.” Sách cũ chép ngày Canh Tý đầu tiên ghi bốn mươi hai chữ này, sách mới biện rằng: “Xét đoạn này, trước chép lời tuyên dụ, không nói rõ nguyên nhân, sau nói ‘nhờ sự giúp đỡ của quan lại trong cung cấm’, là chỉ Trương Mậu Tắc, Trần Diễn, cùng với ý trong việc Lã Đại Phòng dâng sự mục trong truyện Tuyên Nhân, sự vu khống đại khái giống nhau.” Nay đều bỏ đi.)
[35] Ngày Tân Sửu, Thượng thư tỉnh tâu: “Tả ty trình bày, việc xử án sai dẫn đến tội chết chưa quyết, cùng tội lưu đày đã quyết, tuy đã qua chức quan và được ân xá giảm tội, nhưng theo lệ cũ của Trung thư đều có chỉ đặc biệt. Trước đây vào niên hiệu Hi Ninh, mới đưa việc xử án sai dẫn đến tội chết vào sắc lệnh hành chính, còn việc xử án sai dẫn đến tội lưu đày nhẹ hơn tội chết, nên chưa đưa vào sắc lệnh, chỉ do triều đình xử lý. Gần đây theo chỉ triều đình, trong sắc lệnh đã bỏ điều lệ về tội chết, còn điều lệ về tội lưu đày ở phòng Hình vẫn giữ nguyên không bỏ. Như vậy là việc nặng không có chỉ đặc biệt, ngược lại khác với việc nhẹ, về lý không tiện. Phòng này xét lại, điều lệ về tội đày đã quyết không thể bỏ, nên điều lệ về tội chết chưa quyết vẫn nên giữ lại. Xin giữ nguyên toàn bộ điều lệ trong sắc lệnh biên soạn thời Nguyên Phong.” Được chấp thuận.
[36] Chiếu rằng: “Các án tù giam ở Khai Phong phủ và Đại Lý tự, vào các tháng Trọng và Quý mùa đông và hè, từ ngày đến tự, hạn trong 5 ngày phải xử xong, nếu án trên 100 tờ thì 7 ngày, cứ thêm 100 tờ gia hạn thêm 2 ngày, án cần xét lại thì giảm một nửa thời gian, nửa ngày tính là một ngày. Hình bộ cũng theo đó. Các án cũ xử vào tháng Trọng và Quý cũng theo hạn ngày đến tự. Nếu hạn cũ chưa đủ ngày so với hạn tháng Trọng và Quý ít hơn, thì chỉ theo hạn cũ. Các cơ quan xử lý không được quá một ngày. Nếu có lý do phải gia hạn, hoặc tình tiết chưa rõ cần xin ý kiến, thì không tính vào hạn ngày[7].”
(Sách mới không chép.)
[37] Ngày Nhâm Dần, Tư chính điện học sĩ, Tri Đặng châu Tăng Hiếu Khoan, Thiên chương các đãi chế, Tri Vĩnh Hưng quân Trần An Thạch, đổi chỗ cho nhau. Trước đó, Điện trung thị ngự sử Lã Đào tâu: “Thần trộm nghĩ rằng, trong bốn phương, địa thế quan trọng nhất không đâu bằng Thiểm Hữu, trong Thiểm Hữu, nơi trọng yếu nhất không đâu bằng Ung Giao. Phong tục dân gian nơi đây kiêu căng hung hãn, cần người có đức lớn để trấn áp; quân chính hùng mạnh, cần người có tài mưu lược để cai quản. Bên ngoài thì ứng tiếp năm lộ, làm chỗ dựa lúc nguy cấp; bên trong thì thống lĩnh mấy quận, nắm quyền an dân. Việc giao phó chức vụ quan trọng này, cần đặc biệt thận trọng. Thần thấy Trần An Thạch, uy tín không đủ để phục người, tài năng không đủ để trị nơi khó khăn, tuổi đã bảy mươi, chưa nghỉ hưu, cố gắng làm việc, nhiều việc không đạt. Trong dân gian, trộm cướp không hề sợ hãi, ngay trong thành con cũng có kẻ cướp bóc. Huống chi ông ta vừa mất con cái, tinh thần suy sụp, lâu nay đảm nhiệm trọng trách, không thể làm yên lòng triều đình lo lắng phương Tây. Thần xin nhanh chóng chọn người hiền tài, đổi chỗ cho ông ta.” Vì thế có mệnh lệnh này.
[38] Trung thư tỉnh tâu: “Theo điều lệ ngày 7 tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 5, ngày sứ Khiết Đan vào chầu và từ biệt, đều đặc cách chầu mệnh, còn ba ngày trước và sau đó thì tạm ngừng chầu mệnh.” Chiếu rằng: “Từ nay về sau, ba ngày trước và sau khi sứ giả vào chầu và từ biệt, trừ ngày sóc vọng ra, tạm ngừng chầu mệnh.”
[39] Tả ty gián Chu Quang Đình tâu: “Học sĩ viện ra đề thi quán chức có nói: ‘Muốn noi theo lòng trung hậu của Nhân Tổ, nhưng lo trăm quan hữu ty không làm tròn chức trách, hoặc đến nỗi lười biếng; muốn học theo sự tinh tấn của Thần Khảo, nhưng sợ giám ty thủ lệnh không hiểu ý, dẫn đến hà khắc.’ Lại nói: ‘Hán Văn Đế là bậc khoan đại trưởng giả, không nghe có bệnh lười biếng bỏ bê; Tuyên Đế xét kỹ danh thực, không nghe có lỗi giám sát quá mức.’ Thần cho rằng đức sâu dày của Nhân Tổ như trời cao, Hán Văn Đế không thể sánh được; tài năng lớn lao của Thần Khảo như thần thánh khó lường, Tuyên Đế không thể sánh được. Kẻ làm bề tôi sau này chỉ nên ca ngợi công đức của tiên liệt, không nên đem ra bàn luận. Nay Học sĩ viện ra đề thi không hiểu đại thể, lấy đức lớn khó lường của Nhân Tổ, chí hướng tốt đẹp của Thần Khảo, lại đem lười biếng hà khắc ra bàn luận, chỉ khen ngợi Hán Văn Đế, Tuyên Đế là hoàn mỹ, cho rằng Nhân Tổ, Thần Khảo không đáng noi theo, thật là bất trung lớn lắm. Kính mong Thánh thượng xét lời thần, đặc biệt quyết đoán, trị tội quan ra đề thi, để răn kẻ bề tôi bất trung.” Đề thi là do Tô Thức soạn, chiếu chỉ đặc biệt tha tội.
[40] Quang Đình lại nói tội của Tô Thức không đáng được tha, lời lẽ công kích Tô Thức càng gay gắt, và còn nói rằng Tô Thức từng chửi Tư Mã Quang và Trình Di. Tô Thức nghe được liền tự biện bạch (đoạn này dựa theo 《Vương Nham Tẩu triều luận》 thêm vào, chương sớ của Quang Đình chưa thấy) rằng: “Thần nghe nói quan gián quan nói rằng trong bài sách vấn thí quán chức gần đây do thần soạn, có những lời liên quan đến việc châm biếm, bình luận về triều đại trước. Thần lui về suy nghĩ kỹ, nội dung đại lược như sau: ‘Nay triều đình muốn noi theo sự trung hậu của Nhân Tổ[8], nhưng lo rằng các quan lại và cơ quan không làm tròn chức trách, có thể dẫn đến sự lơ là; muốn noi theo sự tinh tấn của Thần Khảo, nhưng sợ rằng các giám ty, thủ lệnh không hiểu ý, dẫn đến sự khắc nghiệt.’ Những điều thần nói về sự lơ là và khắc nghiệt, chỉ nhằm vào việc các quan lại, cơ quan hiện nay cùng giám ty, thủ lệnh không thể thi hành đúng, e rằng sẽ dẫn đến tệ nạn này, chứ có liên quan gì đến hai vị đế vương? Còn như phần trước bàn về Chu Công, Thái Công, phần sau bàn về Văn Đế, Tuyên Đế, đều là những dẫn chứng thông thường trong văn chương, cũng không có ý so sánh với hai vị đế vương. Huống chi, bài sách vấn này, hai phần đầu là lời của Đặng Ôn Bá, phần cuối mới là do thần soạn, cả ba phần đều do thần tự tay viết và dâng lên, được ngự bút chọn dùng phần thứ ba. Ý tưởng ngu muội của thần, làm sao thoát khỏi sự soi xét của thánh thượng? Nếu có một chút gì đó châm biếm triều đại trước, thì thần chết cũng không hết tội. Kính mong bệ hạ hãy soi xét lại, để lòng trung thành cô đơn của thần không bị lời đàm tiếu của mọi người làm mờ đi.” Chiếu chỉ thu hồi lệnh tha tội.
(Tô Thức trong tráp tử tự biện nói rằng dâng lên vào ngày 18 tháng 12 năm Nguyên Niên, ngày 17 tháng 1 năm sau lại dâng lên[9].)
[41] Có tin đồn rằng triều đình cho rằng lời nói của Chu Quang Đình là không đúng, sẽ đuổi ông đi. Ngự sử trung thừa Phó Nghiêu Dũ và Thị ngự sử Vương Nham Tẩu cùng nhau tâu rằng mệnh lệnh của triều đình thay đổi liên tục, đúng sai đảo lộn, không thể không biện luận. Lại lo sợ nếu đuổi Quang Đình thì tổn hại sẽ lớn, nên muốn cứu ông trước khi bị đuổi. Do đó, cả hai đều dâng sớ luận rằng Tô Thức không nên đem tổ tông vào trong nghị luận, nhưng chưa chỉ rõ ý châm biếm của ông. Sớ dâng lên, không được trả lời.
(Ngày 8 và 12 tháng giêng năm thứ 2 có thể tham khảo. Sách cũ chép dưới phần “Chiếu đặc phóng tội” lại viết: “Không lâu sau, Ngự sử trung thừa Phó Nghiêu Dũ và Thị ngự sử Vương Nham Tẩu liên tiếp tâu xin trị tội Tô Thức. Chiếu rằng: ‘Phó Nghiêu Dũ, Vương Nham Tẩu, Chu Quang Đình nhiều lần đàn hặc Tô Thức soạn đề thi chức quan không đúng. Xem kỹ ý văn, chỉ là nói về các quan lại, giám ty, thủ lệnh hiện nay, không phải châm biếm tổ tông. Có thể triệu đến đô đường giải thích, không cần đàn hặc nữa.’ Lại có chiếu: ‘Đề thi do Học sĩ viện soạn không có ý châm biếm, nhưng vì là đề thi của quan ty, cũng không nên đem chính thể của tổ tông ra bình luận. Đó là do Học sĩ viện sơ suất, nên gửi trát cho viện biết, và lệnh cho Thức, Nghiêu Dũ, Nham Tẩu, Quang Đình mỗi người nhanh chóng trở lại công việc.’ Sách cũ viết: ‘Thức cố ý dùng tình riêng, chê bai công lao to lớn của tổ tiên không bằng Hán Văn Đế, Hán Tuyên Đế, làm bề tôi bất trung, có thể như vậy sao! Người bàn tán nhiều, cuối cùng nhờ biện luận khéo léo mà được miễn tội.’ Sách mới biện luận: ‘Lời của Chu Quang Đình và ý chiếu đã ghi đầy đủ ở trên, từ “cố ý dùng tình riêng” trở xuống là lời riêng của sử thần, nay xóa bỏ.’ Sách cũ chép việc này rất sơ lược, sách mới chỉ xóa bỏ ‘lời riêng của sử thần’, còn lại đều giữ nguyên. Xét: 《Vương Nham Tẩu triều luận》 chép rất chi tiết, nay tham khảo thêm tờ tự biện của Tô Thức ngày 17 tháng giêng năm sau cùng các chương sớ của Vương Địch, Tôn Thăng, ghi theo ngày tháng. Việc này liên quan rất lớn, không thể qua loa.
Ngày 27 tháng 12 năm thứ nhất, Nghiêu Dũ dâng tấu đầu tiên, ngày 28, Nham Tẩu tiếp theo. Ngày 8 tháng giêng năm thứ 2, Nghiêu Dũ, Nham Tẩu lại dâng tấu. Ngày 9, Vương Địch dâng tấu, ngày 11, Địch lại dâng tấu. Ngày 12[10], có chỉ, lệnh Nghiêu Dũ, Nham Tẩu, Quang Đình không cần đàn hặc nữa. Ngày 13, ba người đến đô đường nhận chỉ. Ngày 14, ba người lại dâng tấu. Ngày 17, bãi bỏ việc Tô Thức tự biện. Ngày 18, Nghiêu Dũ, Nham Tẩu cùng vào chầu. Ngày 19, xin chịu tội. Ngày 21, Tôn Thăng dâng tấu. Ngày 22, trình lên tấu của Nghiêu Dũ, Nham Tẩu. Ngày 23, chiếu lệnh mỗi người trở lại chức vụ. Cùng ngày, Tôn Thăng lại dâng tấu. Ngày 25, ba người vào chầu. Ngày 27, cùng gặp ở cửa Tử Thần điện. Việc này mới kết thúc.)
[42] Nham Tẩu tâu: “Thần nghe nói ban đầu có thánh chỉ, cho rằng đề thi sách quán chức do Học sĩ viện soạn, xem tổ tông là không đáng noi theo mà ca ngợi hoàn mỹ cho đời khác, dùng lời gián quan, định bàn tội ấy. Bệ hạ khoan nhân, đặc biệt tha tội. Cả triều đình đang bàn tán xôn xao, cho rằng học sĩ đã sai lầm nghiêm trọng, lời gián quan rất đúng, triều đình tha tội là quá nhẹ. Nay lại nghe nói có chỉ dụ tiếp theo, thu hồi chiếu chỉ tha tội. Dư luận nghi ngờ và kinh hãi, không biết Bệ hạ có biết ý ấy không thể tha thứ, nên muốn xử đúng phép tắc để làm gương cho thiên hạ chăng? Hay lại cho là vô tội mà thu hồi mệnh lệnh đã ban? Nếu muốn xử đúng phép tắc thì tốt, nhưng cho là vô tội mà thu hồi thì không ổn. Kính mong Bệ hạ giữ tâm hư tĩnh, soi xét bằng lý lẽ tối cao, dùng đại nghĩa để xét đoán. Lẽ nào triều đình ra đề thi để chọn người tài, muốn tìm đạo trị nước, lại tự hạ thấp tổ tông, người soạn đề thi lại được coi là vô tội? Không biết Bệ hạ lấy gì để dạy thiên hạ, lấy gì để răn dạy hậu thế? Đã cho tổ tông là có tệ, lại cho Bệ hạ là có thể lừa dối, tội ấy không còn nghi ngờ, hình phạt không thể tha. Có nghe Tô Thức tự biện, nói rằng Bệ hạ đã chọn đề này. Nếu đúng vậy, Thức lại càng thêm lỗi, đổ lỗi cho quân phụ, tội càng lớn. Đề thi này nếu không có người bàn luận xem xét kỹ mà công khai phê phán, chỉ đọc qua loa, sao có thể hiểu ngay? Dù trong cung chọn ra, đối với Bệ hạ cũng không có lỗi. Nay đã biết rõ mà không xử tội, thì lỗi thuộc về Bệ hạ. Tội đã rõ mà lại tha, mệnh lệnh đã ban rồi lại thu, như thể triều đình dung túng việc ấy, thần e rằng thiên hạ sẽ chuyển lỗi của Tô Thức thành lỗi của quân vương, thần không thể không tiếc cho Bệ hạ. Kính mong Bệ hạ sớm xử tội Thức, để giải tỏa nghi ngờ trong ngoài.”
Thiếp hoàng: “Tội của Thức, nếu không xử đúng, thì đối với thể chế triều đình sẽ không thuận, trên dưới bàn luận sẽ không thỏa đáng. Kính mong Bệ hạ xem xét kỹ, đừng để bị mê hoặc, thật may mắn!”
[43] Lại tâu rằng: “Thần trộm nghĩ việc triều đình, không gì quan trọng hơn là phân biệt đúng sai, rõ ràng thưởng phạt. Đúng sai phân biệt, thưởng phạt rõ ràng thì mới có thể làm cho triều đình ngay thẳng, triều đình ngay thẳng thì trăm quan mới ngay thẳng, trăm quan ngay thẳng rồi sau đó thiên hạ mới thống nhất theo đạo chính. Việc đúng sai không thể không phân biệt, thưởng phạt không thể không rõ ràng, quan hệ lớn như vậy, sao có thể coi thường được! Gần đây Tô Thức soạn đề thi cho kỳ thi chọn quan trong quán, dẫn chuyện Hán Văn Đế, Hán Tuyên Đế để so sánh với tổ tông, lời lẽ làm tổn thương đại thể. Các quan gián đã bàn xin trị tội ông ta, nghe nói có chỉ đặc biệt tha tội, đó là triều đình ban đầu cho rằng các quan gián là đúng, còn học sĩ là sai. Chưa đầy mấy ngày, lại nghe nói thu hồi chỉ tha tội, lại cho rằng học sĩ là đúng, còn các quan gián là sai. Một việc mà đúng sai thay đổi, thi hành rồi lại bãi bỏ, đối với việc làm của triều đình thì thế nào đây! Đó là điều thần thấy tiếc cho bệ hạ. Thần trộm nghĩ tấm lòng chí công chí minh ban đầu của bệ hạ, chắc chắn không bị mê hoặc, ắt có lời gian trá, thuyết tà vạy, đảo lộn đúng sai, làm rối trắng đen, để lay chuyển ý chí của bệ hạ. Từ xưa đến nay, lòng dạ kẻ gian, chỉ mong Vua không nghe lời can gián để bề tôi trung phải im lặng, thì chúng mới có thể thực hiện ý đồ riêng, chứ không có chí trung thành với xã tắc. Lẽ này dễ hiểu, há có thể mãi mãi lừa dối được bệ hạ? Bệ hạ chỉ cần bình tĩnh suy nghĩ một chút thì sẽ thấy ngay.
Thần xem từ đời Hán, Đường đến triều ta, các đề thi hỏi đáp nhiều không kể xiết, nhưng chưa từng có lối viết như thế. Bệ hạ rộng xem văn sử, thử lấy ra so sánh thì tội của Tô Thức không khó thấy. Hiện nay hai cung đang nghe chính sự sau rèm, càng phải làm cho đúng sai rõ ràng, thưởng phạt công minh, để thiên hạ không thể dò xét được tâm ý sai lầm của bề tôi. Nếu lấy sai làm đúng, thì tiểu nhân sẽ nhân cơ hội mà tiến lên. Kinh truyền nói: ‘Sai một ly, đi một dặm.’ Chính là lúc này, bệ hạ không thể không suy nghĩ sâu xa và xử lý thận trọng. Nay bàn về tội của Tô Thức, nặng hay nhẹ, tất nhiên là do bệ hạ quyết định, nhưng việc triều đình không thể không ngay thẳng. Kính mong bệ hạ dùng nghĩa mà phán quyết, sớm ban bố thi hành.”
Dán tờ vàng: “Bị người khác chi phối mà xét đúng sai, thì đúng sai sẽ mê muội; căn cứ vào sự thật mà xét đúng sai, thì đúng sai sẽ rõ ràng. Mong bệ hạ đừng vì tình cảm bị chi phối mà làm mất đi sự chính đáng của đúng sai, thiên hạ sẽ rất may mắn!”
[44] Điện trung thị ngự sử Lã Đào tâu rằng: “Chức vụ của đài gián là làm tai mắt cho thiên tử, cốt yếu ở việc duy trì cương kỷ, phân biệt tà chính. Phàm những gì đàn hạch, phải tuân theo sự công bằng, không thể mượn quyền lực để báo thù riêng. Nếu xảy ra điều đó, đó là lừa dối Vua. Nay Tô Thức soạn đề thi, đặt câu hỏi để xem cách trả lời, không phải nói Nhân Tông không bằng Hán Văn, Thần Khảo không bằng Hán Tuyên. Chu Quang Đình chỉ trích là sai, cũng quá đáng. Giả sử Quang Đình thẳng thắn theo ý mình, không vì yêu ghét mà nói, thì dù không hợp lý, vẫn có thể tha thứ, nếu vì yêu ghét mà phát ngôn, thì đối với việc triều đình, tổn hại không nhỏ. Nay các sĩ đại phu đều nói: ‘Trình Di và Chu Quang Đình có quan hệ thân thiết, mà Tô Thức từng giễu cợt Trình Di, nên Quang Đình vì Trình Di báo thù mà nhiều lần công kích Tô Thức.’ Nếu đúng như lời đồn, thì Quang Đình đã sai, Thức cũng chưa đúng. Vả lại, Thức tiến cử Vương Củng là không biết người, giễu Trình Di là không cẩn thận lời nói. Lấy hai điều này mà trị tội thì đúng, nếu chỉ trích đề thi là chê bai hai vị thánh mà muốn đẩy vào tội nặng để báo thù riêng, thật cũng quá đáng. Huống chi, ngự sử Thượng Quan Quân gần đây từng tấu trình về đạo trị nước có hai mặt khoan dung và nghiêm khắc, đại thể giống với đề thi của Tô Thức, bệ hạ cho là lời ấy đáng lấy, ghi vào pháp lệnh, ban bố khắp thiên hạ. Tấu của Thượng Quan Quân và đề thi của Tô Thức, lời của hai người đều là bàn về đạo trị nước. Một bên được ban hành thành pháp lệnh, một bên bị chỉ trích là tội, sao lại có sự khác biệt nặng nhẹ như vậy? Điều này khiến sĩ đại phu không khỏi nghi ngờ.
Kính nghĩ bệ hạ thánh lự cao xa, nghe lời can gián như nước chảy, nhưng lời nói của bề tôi có khi quá khích, cũng mong được xem xét kỹ. Xưa Phú Bật, Hàn Kỳ, thiên hạ đều biết là trung thần và hiền tài. Bật vì việc bổ nhiệm Trương Mậu Thực quản quân, trung thừa Hàn Giáng bèn nói Phú Bật muốn mưu phản; Kỳ không đến Văn Đức điện áp ban, trung thừa Vương Đào bèn nói Hàn Kỳ đã lộ dấu hiệu phản loạn. May nhờ thánh chúa thấu hiểu tình thực, hai người ấy được an toàn. Với tài đức của Phú Bật, Hàn Kỳ mà người ta còn có thể vu cáo như vậy, thì những người không bằng Kỳ và Bật lại càng đáng lo. Nay ý đồ của Quang Đình hãm hại Tô Thức, rất giống chuyện trước, muốn triều đình vì mình mà báo thù, không thể không xem xét. Thần cùng Tô Thức đều là người Thục, không tránh hiềm nghi quê hương, bàn luận tường tận đầu đuôi, đã giữ chức vụ trong đài, lại dám chỉ trích gián quan sai lầm, hai tội đều đáng chết. Nhưng thao thao không dám im lặng, không chỉ vì một mình Tô Thức, mà vì muốn cứu triều đình khỏi tệ nạn bè phái.”
[45] Lại nói: “Khi Minh đường ban chiếu xá tội, các quan đều đến chúc mừng xong, quan lại hai tỉnh muốn đến viếng Tư Mã Quang. Lúc đó, Trình Di nói: ‘Ngày đó khóc thì không hát, sao có thể vừa chúc mừng xá tội xong lại đi viếng tang?’ Có khách ngồi đó phản bác rằng: ‘Khổng Tử nói khóc thì không hát, nhưng không nói hát thì không khóc. Nay đã chúc mừng xá tội xong lại đi viếng tang, theo lễ không có gì sai.’ Tô Thức bèn đùa Trình Di rằng: ‘Đây là lễ do Thúc Tôn Thông chế ra ở chợ người chết oan.’ Mọi người đều cười lớn. Mối thù giữa họ bắt đầu từ đây, Tô Thức không phải không có lỗi.”
(Tô Thức tiến cử Vương Củng khiến người ta bàn tán, đã chép ở cuối tháng 11. Ngày 25 tháng 10, Vương Củng với chức Tông thừa xin tu sửa Ngọc điệp. Khi Tô Thức tiến cử Vương Củng, Củng đang giữ chức Tông thừa. Chương tấu của Lã Đào, cả bản mới và cũ đều không chép. Theo biên loại chương sớ, ngày 9 tháng giêng năm sau, Vương Địch tấu rằng…, thì chương tấu của Lã Đào hẳn là tiếp theo sau lời biện bạch của Tô Thức hoặc trước đó, nay đều chép kèm ở đây. Vương Nham Tẩu bàn việc triều đình: “Ngày 3 tháng 12, Chu Quang Đình dâng sớ kín, bàn việc Hàn lâm học sĩ soạn đề thi cho chức quán không đúng, có ý chế giễu tổ tông, ngày 14 dâng lên, có chỉ tha tội, chương tấu của Quang Đình đã qua cửa Môn hạ. Quang Đình cho rằng tội này không nên tha, bèn lại bàn việc này, lời lẽ càng gay gắt. Từ chương tấu này mới công khai công kích Tô Thức, lại có một tờ thiếp hoàng, dẫn việc Tô Thức mắng Tư Mã Quang, Trình Di, ý muốn chứng tỏ Tô Thức khinh thường. Nhưng nghe nói Tô Thức có văn tự tự biện rằng, Học sĩ viện cùng dâng ba đề, đề do Tô Thức soạn ở cuối cùng, không ngờ hợp ý Vua, được chọn. Sau đó nghe nói có chỉ lấy vào lệnh tha tội, lại nói gián quan nói không đúng, và có ý đuổi gián quan. Thần ngu cùng Nghiêu Dũ đều cho rằng mệnh lệnh thay đổi, thị phi đảo lộn, không thể không biện bạch, lại sợ rồi sẽ đuổi gián quan, tổn hại lớn, chi bằng trước khi đuổi hãy sớm cứu việc này, bèn dâng sớ không ngần ngại. Thần dâng ngày 27, Nghiêu Dũ ngày hôm sau cũng dâng, nhưng thần và ông ấy đều không chỉ trích việc có ý chế giễu, chỉ nói không nên đem tổ tông vào trong nghị luận. Chương tấu của Nghiêu Dũ, bản tập đều không còn.
Tháng giêng, ngày Mậu Thìn (mồng 8), tôi cùng Nghiêu Dũ lại dâng thêm một chương sớ. Ngày Nhâm Thân (12), ở sau chương sớ của Nghiêu Dũ có phê rằng: “Phó Nghiêu Dũ, Vương Nham Tẩu, Chu Quang Đình cho rằng Tô Thức soạn đề thi sách vấn cho kỳ thi tuyển chức quan trong quán là không đúng, đã nhiều lần dâng sớ tâu bày. Nay xét kỹ thấy không phải là chê trách tổ tông, mà chỉ là bàn về việc các quan lại trong các cơ quan thi hành có sai sót. Hãy lệnh cho các quan chấp chính triệu từng người đến dặn dò, không cần phải đàn hặc nữa.”
Ngày Quý Dậu (13), triệu ba người đến Đô đường, các quan Hữu quỹ Lữ Công Trước, Môn hạ thị lang Hàn Duy, Trung thư thị lang Lã Đại Phòng, Tả thừa Lý Thanh Thần, Hữu thừa Lưu Chí, năm người, đại ý đều cho rằng Thức có lỗi, nhưng đặc biệt muốn dùng ý chỉ của bề trên để hòa giải việc này. Tôi và mọi người đều không dám vâng chiếu. Ngày Giáp Tuất (14), đều dâng một tờ sớ, lại bàn về việc không vâng chiếu. Ngày Mậu Dần (18), cùng vào chầu ở điện Diên Hòa, vừa đọc xong tờ sớ của Nghiêu Dũ, liền nói: “Việc này nhỏ, sao lại nói?” Nghiêu Dũ đáp: “Chính vì không nhỏ nên mới nói.”
Lại nói: “Đây là Chu Quang Đình có tư ý, các khanh theo phe Quang Đình. Khi Quang Đình chưa nói, sao không nói?” Nghiêu Dũ và tôi đều đáp: “Có một người nói, hãy xem triều đình làm hay không, hoặc trong lúc đó có sai sót, mới nên tiếp tục nói. Hôm trước Quang Đình mới nói, triều đình đã có chỉ tha tội, tức là triều đình xử lý đúng đắn, tự nhiên không cần nói, sau thấy đổi ý, lại đảo lộn phải trái, bọn thần mới hợp lẽ mà bàn.” Lại tuyên dụ rằng: “Tô Thức không phải là chê trách.” Đáp: “Nếu là chê trách, tội đáng chết, bọn thần không chỉ nói như vậy. Nay chỉ vì không nên bàn luận về tổ tông, nên xin hãy trách phạt nhẹ.” Tôi cầm bản đề thi, đến trước rèm chỉ vào chữ mà giải thích, chưa xong, liền có tiếng quát: “Không xem chữ nữa!” Lại đọc tờ sớ của tôi, rốt cuộc không cho là đúng.
Nghiêu Dũ nói: “Như vậy là Thái hoàng thái hậu bênh vực Tô Thức.” Liền quát: “Thái hoàng thái hậu bênh vực Tô Thức làm gì, lại không phải là thân thích của Thái hoàng thái hậu!” Tôi liền tâu: “Bệ hạ không bênh vực Tô Thức, ắt phải bênh vực đạo lý, hãy xử theo đạo lý.” Liền nói gắt: “Hãy đợi trách giáng Tô Thức.” Tôi và Nghiêu Dũ đều tâu: “Việc này ở nơi bệ hạ. Giả sử tạm trách phạt, rồi lập tức triệu lại, cũng là xử lý đúng đắn.” Liền nói: “Hãy đợi xem xét.”
Nghiêu Dũ nói: “Yêu mà biết cái xấu, ghét mà biết cái tốt, mới là công bằng. Nay đối xử với Thức như vậy, Thức kiêu căng, thì dùng cách gì để sai khiến?” Lại nói: “Cứ để đài gián quan quyết định.” Tôi đáp: “Nếu lời nói của đài gián, bệ hạ đều nghe theo, tự đủ để làm nên cái đẹp của bệ hạ, đài gián can dự gì?” Lại nói: “Cứ nói không sao, làm hay không làm, phải do lòng bệ hạ quyết.”
Tôi đáp: “Như vậy, thì những lời thuận ý triều đình mới được làm, e rằng không phải là phúc của triều đình. Sách viết: Lời trái với lòng ngươi, ắt phải tìm ở đạo; lời thuận với chí ngươi, ắt phải tìm ở chỗ phi đạo. Xin bệ hạ thường xem xét điều này, e rằng những lời thuận ý bệ hạ có chuyện phi đạo.” Tôi lại nói: “Kẻ tiểu nhân muốn phá hoại đường lối ngôn luận rất nhiều, bệ hạ muốn tìm đường lối ngôn luận thì khó, muốn ngăn trở thì dễ. Một khi đã ngăn trở, thì người ta sẽ lấy lời nói làm điều răn, e rằng bệ hạ không biết hết việc bên ngoài. Xin hãy xem xét kỹ.” Nghiêu Dũ cũng nói: “Thần hết lòng thành khẩn báo với bệ hạ, bệ hạ không xét, cũng không thể làm gì được, xin vì quốc gia mà suy nghĩ sâu xa hơn.”
Rồi xuống đến đài, cùng Nghiêu Dũ bàn việc đợi tội, bèn cùng tâu rằng: “Bọn thần ngày 18 tháng này vào chầu ở điện Diên Hòa, được tuyên dụ rằng bọn thần theo phe gián quan Chu Quang Đình, đàn hặc việc Hàn lâm học sĩ Tô Thức soạn đề thi sách vấn cho kỳ thi tuyển chức quan trong quán là không đúng. Bọn thần vô tình được ơn sâu, trên phụ sự sai khiến, không dám đến đài làm việc nữa, xin đợi khiển trách.” Từ ngày Kỷ Mão (19), mỗi người đều ở nhà, nhưng tờ sớ tâu lên lại bị đưa xuống. Ngày Nhâm Ngọ (22), buông rèm, tiến trình tờ bạch thiếp tử do các quan chấp chính soạn, muốn nói rõ lỗi của Tô Thức. Lâu sau không được chấp nhận, chỉ nói: “Bốn người đều đuổi ra.” Các quan tranh cãi cho là không được, bèn cho dùng tờ bạch thiếp tử để ban chỉ huy.
Ngày 23, nhận được tờ tráp nói rằng: “Ngày 23 tháng giêng, ba tỉnh cùng phụng theo thánh chỉ: Đề sách do Tô Thức soạn không có ý châm biếm tổ tông; lại vì từ trước đến nay các quan ty thí nhân cũng không có ai đem việc trị thể của tổ tông ra bình luận, đó là do Học sĩ viện sơ suất không kiểm tra kỹ. Gửi tờ tráp cho Học sĩ viện, lệnh cho Tô Thức, Phó Nghiêu Dũ, Vương Nham Tẩu, Chu Quang Đình mỗi người nhanh chóng trở lại chức vụ cũ như trước.”
Ngày 25, Nghiêu Dũ cùng tôi và Quang Đình theo thứ tự hầu ban. Ngày 27, cùng vào chầu ở phía đông ngoài cửa Tử Thần, vừa vào, đầu tiên cùng Nghiêu Dũ, Quang Đình tâu luận về việc đề sách của Tô Thức không đúng, tiến lên nói: “Từ đời Hán, Đường đến nay, bao nhiêu đề sách, chưa từng có ai đem tổ tông so sánh dài ngắn với các đế vương đời trước. Đề sách nói muốn noi theo sự trung hậu của Nhân Tổ, thì lo rằng trăm quan hữu ty không làm tròn chức trách. Nói rằng lúc đó trăm quan hữu ty đều không làm tròn chức trách, không biết Nhân Tông ở trên thì làm gì? Đó là hoàn toàn lơ là bê trễ, khiến trăm quan hữu ty như vậy. Nếu quả thật như vậy, sao có thể tạo nên 42 năm thái bình, đến nay các bậc kỳ lão nói đến vẫn thường rơi lệ. Nhân Tông có gì phụ bạc, mà lại nói không bằng Hán Văn!” Hoàng thượng nói: “Việc này nhỏ, không cần phải như vậy, thôi thì thôi đi.” Đối đáp rằng: “Tuy chỉ là mấy câu nói, nhưng liên quan đến đại thể triều đình, không phải việc nhỏ, cần phải xử lý thỏa đáng.” Hoàng thượng nói: “Không phải châm biếm tổ tông.” Đối đáp rằng: “Tâu bệ hạ, nếu là châm biếm tổ tông, thì tội đáng chết, thần đâu chỉ luận bàn như vậy. Đã chỉ là do suy nghĩ lời nói có chỗ thiếu cân nhắc, làm tổn hại sự thể, cũng cần phải xử lý. Ví như lỡ vào cửa cấm, theo pháp luật tội cũng không nhẹ, vì sao? Vì phân biệt trên dưới quân thần không thể không nghiêm. Nay nếu không lấy việc này làm răn, ngày sau có người chỉ trích xa giá, mà nói vốn do lỡ lời, cũng có thể tha được chăng? Bệ hạ dù muốn tha, nhưng uy linh bảy miếu ở trên, sao có thể dung tha!”
Lại tâu rằng: “Các vị chấp chính ở đô đường đều nói với thần rằng Tô Thức không đúng, đã biết không đúng, sao lại bảo triều đình làm việc không đúng? Lại sao có chuyện triều đình biết rõ không đúng, lại ép quan ngôn sự phải thôi? Nếu là việc riêng của người thường thì có thể thôi, việc triều đình thì không thể như vậy. Thần vì triều đình giữ phong hiến, nếu mọi việc tấu luận, thường bị chỉ huy bảo thôi hòa, thì còn dùng làm gì? Tức là thần đã làm nhục phong hiến, còn mặt mũi nào ở lại chức vụ?”
Lại tâu rằng: “Thời Chân Tông, chức Tri chế cáo là Trương Bỉnh soạn một bài chế từ về việc bổ nhiệm quan chức có câu: ‘Vừa rồi vì lỗi nhỏ, bị giáng chức đến nơi hoang vu xa xôi.’ Chân Tông xem xong nói: ‘Nếu như vậy, thì là tiên đế mất chính sự.’ Bèn bãi chức của ông ta.”
Lại tâu rằng: “Nếu là việc riêng của bọn thần thì có thể bỏ qua, nhưng việc liên quan đến tổ tông, đến triều đình, bọn thần sao dám bỏ qua? Triều đình nếu không xử lý rõ ràng, ghi chép vào sử sách, đời sau sẽ xem triều đình thế nào? Truyền đến các nước xa xôi, ắt sẽ có lòng khinh nhờn triều đình, vạn nhất họ cử sứ giả đến hỏi, không biết sẽ trả lời thế nào.” Vua nói: “Quan ngôn sự có bè đảng.” Đáp rằng: “Bọn thần không biết có đảng hay không, chỉ biết căn cứ vào việc đúng sai mà bàn luận, bệ hạ cũng chỉ nên xem việc thế nào. Nếu trong lòng nghi ngờ có đảng, ắt sẽ mất đi sự thật của việc, đã mất sự thật của việc, thì đúng sai khó phân biệt. Từ xưa, kẻ tiểu nhân muốn hãm hại người quân tử, quân tử không có lỗi, thì không thể làm gì được, chỉ có thể chỉ là bè đảng, nhà Vua bèn nghi ngờ, nhà Vua đã nghi ngờ, thì có thể đẩy họ xuống được. Bệ hạ không thể không xem xét.”
Lại tâu rằng: “Việc này là do Tô Thức khinh suất không suy nghĩ, lời nói làm tổn thương đại thể, dẫn đến tranh luận. Nếu không xử tội ông ta, thì lỗi này thuộc về bệ hạ, bệ hạ cực khổ bảo vệ người này làm gì, ngược lại tự chuốc lấy sự chê cười của đời sau. Chức vụ của quan đài chỉ là chỉ ra điều xấu, lẽ nào lại đi giải quyết mâu thuẫn cho người khác? Ý này xin bệ hạ xem xét.”
Vua nói: “Đề thi sách là do trong cung chọn.” Tiến lên nói: “Nghe nói dâng vào ba đề thi sách, hai đề là do Đặng Ôn Bá soạn, đề cuối cùng là do Tô Thức soạn. Bệ hạ đã yêu thích hư danh của ông ta, nên chọn đề do Thức soạn, chắc chắn chưa từng xem xét kỹ, thì dù là chọn trúng, cũng không tổn hại gì đến bệ hạ. Nay đã phân biệt rõ sự việc, bệ hạ đã biết hư danh của ông ta, không muốn trị tội, là điều mê hoặc. Bệ hạ nay không muốn người ta nói xấu Thức, giả sử hôm qua Tư Mã Quang còn tại vị, chính sự có sai lầm, không biết có nên bàn luận hay không. Bọn thần chức trách là can gián, bàn luận chỉ căn cứ vào đúng sai, không dám hỏi đến người. Hỏi đến người, ắt sẽ sinh ra ý riêng.” Vua nói: “Hôm nay sửa đổi việc của tiên đế, sao không được hỏi?” Đáp rằng: “Sửa đổi chính sự, khác với việc thể hiện bằng văn tự, hơn nữa việc sửa đổi hôm nay đều là khôi phục lại phép tắc cũ của tổ tông, huống chi bệ hạ đã hạ chiếu yêu cầu cải cách mạnh mẽ những điều khổ cực của dân chúng, đó chính là kế thừa cái đẹp của tổ tông, không biết đề thi sách có cần bàn luận hay không, không cần bàn luận hay không? Bệ hạ chủ trương như vậy, bọn thần lại cứng rắn nói như vậy, trái ý bệ hạ, để chịu tội trách, không biết bọn thần có ý gì, bệ hạ có thể xem xét. Hơn nữa, bọn thần với Thức đều quen biết, vốn không có oán hận, chỉ là trung thành với bệ hạ, muốn làm cho việc triều đình được ngay thẳng, để đời sau không thể chỉ trích bệ hạ, nên không hề né tránh.”
Lại tiến lên nói: “Bệ hạ chỉ nên trách bọn thần không nói việc, không thể răn đe bọn thần khiến không dám nói, e rằng thiên hạ nhìn thấy ý này của bệ hạ, âm thầm nhìn nhau, không dám hết lòng trung thành với triều đình, không phải là phúc của bệ hạ. Xin bệ hạ xem xét tiếp nhận.” Lại nói: “Hôm trước có chiếu triệu bọn thần đến đô đường, các quan bên ngoài không biết, đều nói là phụng thánh chỉ triệu tập quan đài gián để răn dạy, nghe rất kinh hãi. Bọn thần bị đè nén, thì không đáng nói, nhưng lại làm tổn hại đến uy phong của triều đình, xin bệ hạ yêu quý thể thống của triều đình. Bệ hạ tiếc nuối Tô Thức là nhỏ, tổn hại đến đường lối ngôn luận là lớn, không thể không suy nghĩ. Nơi phong hiến không phải là việc riêng của thần, mà là việc nhà của bệ hạ, bệ hạ không đề cao, thì thần chỉ là một kẻ thất phu mà thôi.”
[46] Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu: “Gần đây thần đã tấu xin theo pháp cũ, không hạn chế mức độ thiên tai, đều cho phép vay mượn, không phân biệt hạng người dân, đều miễn lãi suất, việc này đã được giao cho các cơ quan soạn thảo luật. Thần thấy trong chiếu ngày 29 tháng 11 năm nay, Hộ bộ xem xét lại lệnh Nguyên Phong, quy định mức độ thiên tai được miễn thuế và cho vay giống cây, ngoài việc giữ lại các điều khoản cũ, đã soạn thảo thêm điều khoản mới: ‘Các châu huyện gặp thiên tai, dân thiếu lương thực, dù có thiếu hụt, không phân biệt tháng, ước tính số lượng cần cấp, trước tiên phải tấu xin, đợi chỉ dụ, cho phép ký kết bảo lãnh để vay lúa từ kho thường bình. Nếu thiếu, tính giá trị bằng tiền, đến mùa thu hoạch sẽ thu lại. Nếu không có lúa, cho phép nộp theo giá kho, hoặc nộp giá gốc. Dù có ân xá cũng không được miễn trừ. Nếu kho thường bình không đủ, cho phép vay mượn tiền lúa từ Ty Chuyển vận. Nếu thiên tai nhẹ hoặc hộ trên không đến mức thiếu thốn, không được tùy tiện tấu xin vay mượn.’ Thần xem xét thấy ý của điều khoản mới về việc cho vay lương thực đã hợp lý, nhưng bản tấu của thần trước đây vốn dựa trên pháp cũ cứu tế, không hạn chế mức độ thiên tai, không phân biệt hạng người dân, đều được vay mượn và miễn lãi. Điều khoản mới lại yêu cầu phải chờ thiên tai miễn thuế trên 7 phần và chỉ hạng thứ tư trở xuống mới được vay miễn lãi, điều này trái với ý của triều đình. Vì vậy, thần xin đều cho vay mượn để cứu giúp dân khó khăn. Nay Hộ bộ lại giữ lại điều khoản cho vay giống cây theo pháp cũ, thần nghĩ rằng dân gặp thiên tai đã thiếu lương thực thì cũng thiếu giống cây, sao có thể đặt riêng điều kiện cho giống cây? Thần xin thống nhất thành một pháp, thêm ba chữ ‘và giống cây’ vào sau chữ ‘lương thực’ trong điều khoản mới, để dân gặp thiên tai được hưởng ân huệ rộng rãi.”
Triều đình chấp thuận.
(Ngày 28 tháng 11, Nham Tẩu lần đầu tấu, Chu Quang Đình trong tấu nghị cũng có đề cập việc này. Quang Đình đã phân phát hết kho tích trữ ở Hà Bắc, có lẽ căn cứ từ đây, cần xem xét thêm.)
[47] Ngày Ất Tỵ, Hình bộ tâu: “Theo nội dung sắc lệnh ân xá: ‘Những việc chưa được ghi rõ trong sắc lệnh ân xá, cơ quan chủ quản phải xem xét kỹ, so sánh và phân tích từng điều khoản rồi tâu lên.’ Xem xét những người ở phủ Khai Phong và các lộ trước đây vi phạm pháp luật Thường Bình bị lưu đày, so với việc vi phạm pháp luật Trọng Lộc thì tình tiết nhẹ hơn. Những người chưa được tha theo sắc lệnh ân xá lần này, xin được áp dụng tương tự như pháp luật Trọng Lộc, những người bị lưu đày đều phải ghi rõ tội trạng và bảo đảm rồi tâu lên.” Triều đình đồng ý.
[48] Lại bộ tâu: “Xin cho những quan chức lần đầu được xét duyệt, nếu đã nhận một nhiệm vụ và ở lại một nơi đủ hai năm, không phạm lỗi bị cách chức, đều được xét duyệt. Những trường hợp cần gia hạn hoặc giáng chức thì theo quy định hiện hành.” Triều đình đồng ý.
(Không có trong bản mới.)
[49] Chiếu rằng: “Những hộ dân ở các châu huyện bị thiên tai mua bán cá, gạo, củi, tre, gỗ và các loại hàng hóa phải chịu thuế, nếu số tiền dưới 300 đồng thì được miễn thuế, lập tức cho thông hành, không được giam giữ. Số tiền thuế được miễn sẽ được tính vào tổng số thuế phải thu.”
(Theo thánh chỉ ngày 27 tháng 12 năm Pháp Sách nguyên niên.)
[50] Ngày Bính Ngọ, Tư phong viên ngoại lang Vương Chấn được bổ nhiệm làm Tri châu Lai Châu.
[51] Tứ phương quán sứ, Gia Châu phòng ngự sứ Lý Thụ được bổ nhiệm làm Xu mật phó đô thừa chỉ.
[52] Quyền phát khiển Kinh lược an phủ sứ Lộ Lan Hội là Lưu Thuấn Khanh tâu rằng, cần tu sửa pháo đài Tây Quan ở Lan Châu, triều đình đồng ý. Lệnh cho quân cấm vệ trong số quân phòng thủ luân phiên thuê mướn[11], đợi đến cuối tháng 2 năm sau sẽ khởi công, và giao cho Thiểm Tây chuyển vận phán quan Tôn Lộ đặc trách việc này.
(Ngày 6 tháng 7, ngày 24 tháng 9.)
[53] Trung thư tỉnh tâu: “Năm Thiên Thánh thứ 2, Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu dùng ấn ngọc vuông 4 tấc 9 phân, dày 1 tấc 2 phân, núm hình rồng. Nay Thái hoàng thái hậu tạm thời cùng xử lý việc quân quốc, nên theo lệ của Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu.” Triều đình đồng ý.
[54] Lễ bộ Thượng thư Hàn Trung Ngạn tâu: “Sách bảo của Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng thái phi cùng các pháp vật đi kèm, ngoài những điều đã có tiền lệ, riêng Hoàng thái phi không có tiền lệ về kích thước, hình dạng của sách bảo. Theo lệnh công thức năm Thiên Thánh, bảo của Hoàng thái phi, kinh văn nói dùng vàng làm. Kiểm tra theo sắc lệnh, tu định các vật phẩm trong ngày sinh thần và các tiết lệ của Hoàng thái phi[12], ngoài các loại như mũ, áo, so với Hoàng hậu thì giảm bớt một phần năm. Nay xét định chế độ sách bảo của Hoàng thái phi, ngoài việc so sánh và giảm bớt kích thước các hạng mục, tất cả các pháp vật cần thiết để bày biện cùng bảo, đều nên làm theo thể lệ của Hoàng hậu.” Được chấp thuận.
(Ngày 18 tháng 2 năm thứ hai, ngày 26 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ nhất có thể tham khảo. Truyện Hàn Trung Ngạn chép: “Xét định điển lễ Hoàng thái phi, Trung Ngạn tham khảo các đời trước và tiền lệ triều ta để tâu lên. Lúc đầu Tuyên Nhân muốn giảm bớt một chút so với Hoàng thái hậu, sau đó cuối cùng dùng theo ý kiến của Trung Ngạn.” Tất Trọng Du viết hành trạng của Trung Ngạn lại không có điều này. Tất Trọng Du viết truyện Âu Dương Phỉ rằng: “Khi bàn về điển lễ Hoàng thái phi, Triết Tông hoàng đế ra chiếu sai giảm bớt, ý nói giảm bớt so với lễ của Thái hoàng thái hậu. Nhưng người bàn luận cho rằng những việc được đề cập trong chiếu thì giảm bớt, những việc không được đề cập thì không giảm bớt, đại khái lễ của mẫu hậu không giảm bớt. Phỉ nói: ‘Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái phi có vị hiệu khác nhau, lễ cũng khác, sao có thể trái chiếu giảm bớt?’ Người bàn luận vẫn còn do dự, Phỉ nói: ‘Chiếu của bề trên nói giảm bớt, là giảm bớt từng thứ một, há có việc được đề cập hay không?’ Người bàn luận không thể thắng được lời nói của Phỉ, bèn làm theo chiếu. Ngày 26 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ nhất, lại có chiếu bàn về nghi chế Hoàng thái phi, lúc này Phỉ đang ở Lễ bộ.” Truyện này khác với truyện Hàn Trung Ngạn, tạm ghi lại, cần xem xét thêm.)
[55] Hình bộ tâu: “Tri châu Thiền Châu là Vương Lệnh Đồ dâng trạng, xin rằng những nơi có sông Hoàng Hà khô cạn, nếu có quân đào ngũ đi qua thì không bị tội vượt sông, còn các hạng người khác đều cho phép đi lại tự do. Nay muốn bỏ điều khoản vượt sông Hoàng Hà khô cạn, và điều khoản về việc chế tạo khí giới quân dụng không được đưa vào ba lộ, xin tu chỉnh lại.” Được chấp thuận.
[56] Chiếu rằng: “Các viên ngoại lang của Lục bộ được thăng làm lang trung, đổi sang bộ khác. Chuyển vận phán quan được thăng làm chuyển vận phó sứ, chuyển vận phó sứ được thăng làm chuyển vận sứ, phủ suy được thăng làm phán quan, đều tính chung thời gian tại nhiệm. Các chức tri châu, thông phán do triều đình bổ nhiệm, đều phải hoàn thành nhiệm kỳ. Các chức Quảng Tế hà đô đại quản câu thôi khiển liễn vận, Đề cử Tam Môn Bạch Ba liễn vận, Đề cử Thái Hà bát phát, Đề cử Hà Bắc địch tiện lương thảo, Đề cử Giác trà, đều có nhiệm kỳ 30 tháng.”
(Ngày 22 tháng 3, ngày 12 tháng 4.)
[57] Chiếu cho Công bộ viên ngoại lang Vương Cổ đi khảo sát tình hình thiên tai ở Hoài Nam và Kinh Đông lộ.
(Chính mục ngày 22 có ghi việc này, cần tra cứu thêm, không rõ Vương Cổ khi nào báo cáo. Lời của Vương Nham Tẩu xin phụ kèm theo đây.)
[58] Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu: “Thần trộm thấy chiếu chỉ nói rằng Kinh Đông lộ có Từ Châu, Hoài Dương quân cũng bị thiên tai, lệnh cho quan khảo sát Hoài Nam là Vương Cổ đồng thời khảo sát và cứu tế. Thần nghe nói thiên tai ở Kinh Đông không chỉ có hai nơi đó, nay giữa Duyện Châu và Vận Châu, có nơi một ấp có đến hàng trăm người già trẻ hoặc cả ngàn người mỗi ngày tranh nhau mua bã rượu để ăn, chưa chắc đều là dân Hoài Dương. Thần cho rằng nên tùy nơi mà cứu tế, nhưng thường bình, nghĩa thương ở các nơi thường không nhiều, khó lòng tiếp tục, xin giao cho Vương Cổ thống nhất cả lộ, nơi nào có dân đói thì khảo sát và lập kế hoạch cứu tế, để người dân lưu lạc đều được hưởng ơn Vua, xứng với ý cứu giúp tai ương của bệ hạ.” Thiếp hoàng: “Nghe nói các châu ở Kinh Đông, những huyện bị thiên tai vẫn còn bị đốc thu thuế nợ, dân chúng càng không chịu nổi. Kính mong ban chỉ thị thương xót.”
[59] Ngày Đinh Mùi, Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tấu: (Theo tài liệu biên loại chương sơ ngày 22 tháng 12 năm Nguyên Niên.) “Khi mới nghe chính sự, trước hết phát ra đức âm để giải oan cho thiên hạ, chọn những bề tôi gần gũi, lập ra cơ quan chuyên trách, để xem xét tình hình cụ thể rồi tâu lên. Ân đức sâu dày, cảm động cả cõi u minh, đây thực là việc làm đức lớn ngàn năm có một. Tuy nhiên, danh nghĩa thì rất tốt đẹp nhưng thực chất chưa đủ, ý tốt đã đến nhưng ân huệ chưa thấm nhuần, những người có kiến thức đều cho là đáng tiếc. Thần thấy việc xem xét đơn kêu oan và xóa án cho các quan phạm tội, tuy được triều đình đặc cách khoan hồng, nhưng đại thể chỉ là giảm nhẹ tội tham nhũng xuống tội đồ, đổi tội đánh trượng hoặc tội tư thành tội công, thay thế chức vụ từ nặng thành nhẹ, từ nhẹ thành thay thế khác mà thôi, số người được xóa án hoàn toàn rất ít. Nghe nói Lại bộ vì không có chỉ thị cho phép tính lại thời gian xét xử ban đầu, chỉ tính từ thời điểm hiện tại khi đã thay đổi, xét về lý thì điều này rất không hợp lý. Những người may mắn bị xét xử gần đây thì những việc như kéo dài thời gian phá khảo đều được tính lại, còn những người không may bị kết tội đã lâu thì những năm thăng chức, khảo hạch đã qua không thể được tính lại, điều này khiến người ta không khỏi than thở về sự bất công.
Lại như việc thay thế chức vụ vì tội công, không phân biệt nặng nhẹ, trước đây đã được ba lần đại xá vào năm Nguyên Phong thứ 8, lẽ ra phải được bổ nhiệm lại ngay, không cần xét nặng nhẹ. Nay vì kêu oan mới đổi thành nặng hơn hoặc nhẹ hơn, đó là đã được xá tội rồi lại bị kết tội, chẳng những không được khoan hồng mà còn bị xử nặng hơn. Thần e rằng đây không phải là ý ban đầu của bệ hạ khi ra chiếu chỉ cho các cơ quan. Xin bệ hạ đặc biệt xem xét, đối với những quan chức được xóa án hoặc giảm nhẹ tội danh, ngoài việc không cấp lương bổng, những việc liên quan đến oan ức thì nên tính lại thời gian xét xử ban đầu, xóa bỏ tội danh, khôi phục đầy đủ ân điển; những người có tình tiết đáng thương cũng nên được tính lại thời gian thăng chức, khảo hạch; những người được xóa án thì nên theo quy định như người không có tội. Xin bệ hạ không bị ràng buộc bởi quy định thường lệ của Hình bộ, đặc biệt chấp thuận lời thỉnh cầu của thần, ban chỉ rõ ràng, giao cho Lại bộ thi hành, để tùy theo mức độ nặng nhẹ của sự việc, mọi người đều được hưởng ân huệ thực sự, xứng đáng với chiếu chỉ khoan dung của triều đình, phù hợp với tấm lòng nhân từ của bệ hạ. Thiên hạ may mắn biết bao!”
[60] Ngày Mậu Thân, nước Hạ sai sứ đến chúc mừng ngày Chính đán.
[61] Chiếu rằng: “Lâu nay thiếu tuyết đúng mùa, lo ngục tù bị kéo dài, tại kinh thành giao cho Lang trung Hình bộ và quan Giám sát hình ngục của Ngự sử đài, ở phủ Khai Phong giao cho Ty Đề điểm hình ngục, các lộ giao cho Giám ty chia án thúc giục kết thúc.”
[62] Lại chiếu rằng: “Các lộ từ năm Nguyên Phong thứ 7 trở về trước, tiền thừa từ phường trường và miễn dịch, trừ ba lộ được giữ lại toàn bộ, các lộ khác cho phép giữ lại một nửa, số còn lại cho phép người dân tùy nghi mua bán. Các vật phẩm có thể chuyển đổi, không được phân phối trước hoặc phân phối cho dân, các vật phẩm này phải được tính toán và vận chuyển theo từng đợt[13], nộp vào kho Nguyên Phong, riêng ba lộ Thành Đô, Tử Châu, Lợi Châu thì nộp tạm tại phủ Phượng Tường và niêm phong lại.”
[63] Trước đó, Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu: “Thần trộm nghĩ rằng sự thông suốt giữa có và không, sự cân bằng giữa nhẹ và nặng, sự hỗ trợ lẫn nhau giữa trên và dưới, sự tương trợ giữa trong và ngoài, là phương pháp tối thượng của thiên hạ[14]. Hiện nay, nỗi lo thường nằm ở chỗ thiên lệch trong việc nắm giữ, khiến thiên hạ phải chịu hậu quả. Quốc gia từ khi có các quan lại tham lam dựa vào pháp luật để bóc lột thiên hạ, tiền bạc từ tư gia chảy vào công khố chiếm đến chín phần mười, vì vậy vật giá ngày càng rẻ, tiền tệ ngày càng nặng, mà dân chúng ngày càng khốn khổ. May mắn thay, Bệ hạ đã ban ân đức, bãi bỏ tất cả các biện pháp thu thuế từ dân, đó là một ân huệ lớn. Tuy nhiên, tiền bạc một khi vào công khố thì không còn lưu thông ra ngoài, vì vậy dù thuế má đã bãi bỏ, nhưng tình trạng vật giá rẻ vẫn là nỗi lo chung của thiên hạ. Hiện nay, ở các vùng xa xôi, tình hình còn nghiêm trọng hơn. Thần nghe nói ở Phúc Kiến, số tiền miễn dịch dư thừa hiện có là hơn một trăm tám mươi vạn. Với một vùng đất nhỏ hẹp chỉ có tám châu, trong hơn mười năm, số tiền thu được và cất giữ trong quan phủ tích lũy đến mức như vậy, thì tình cảnh của dân chúng không cần hỏi cũng biết. Dân chúng đã trở nên trắng tay, mà tiền bạc trong quan phủ lại không lưu thông ra ngoài, trong khi nhu cầu sinh sống của quần chúng lại phụ thuộc vào điều này, vậy tình thế sẽ ra sao? Thần thực sự lo sợ rằng sẽ dẫn đến tình trạng gian tham tích tụ oán hận, kích động lòng người và gây ra họa loạn, làm phiền lòng triều đình.
Có người bàn rằng số tiền dư thừa của địa phương nên được dùng để mua các sản vật địa phương với giá cao hơn một chút, chuyển về kinh đô, không nên chỉ chú trọng vào việc thu lợi, như vậy không chỉ giúp tiền tệ lưu thông, vật giá dần ổn định, cứu vãn tình trạng nông dân bị thiệt thòi, mà còn giúp các vùng xa xôi giải tỏa được lượng tiền tích trữ, không kích thích lòng tham của kẻ gian, chẳng phải là một kế sách hay sao? Đây không phải là ý kiến riêng của thần, mà là sự đồng thuận của nhiều người có hiểu biết. Kính mong Bệ hạ không xem nhẹ, hãy suy nghĩ kỹ, đặc biệt ban chiếu cho các cơ quan liên quan nhanh chóng thực hiện, để mang lại phúc lành cho thiên hạ.”
Trong phần thiếp hoàng có viết: “Thần lấy Phúc Kiến làm ví dụ, thì tình hình các nơi khác cũng có thể thấy được. Nếu lời thần được chấp nhận, kính mong Bệ hạ ban chiếu cho các cơ quan cùng bàn bạc, để cứu vãn tình trạng tiền nặng vật nhẹ của thiên hạ.” Do đó, triều đình nghe theo lời tâu mà ban chiếu này.
(Chu Quang Đình trong tấu nghị cũng có đề cập đến việc này. Theo cựu lục và nguyên hữu mật sơ, việc này thực chất là do Vương Nham Tẩu đề xuất, gán cho Chu Quang Đình là sai.)
[64] Trung thư tỉnh tâu: “Sở Đề cử kinh thành tâu rằng, Sở Tu thiện kinh thành nguyên quản 57 viên đại tiểu sứ thần, nay xét thấy có thể bãi bỏ 47 người[15], lưu lại 10 viên để quản lý công việc. Các sứ thần đều xin không theo thường chế, tùy ý chỉ định người, mỗi người được tính thông lệ, ba năm làm một nhiệm kỳ.” Được chấp thuận.
[65] Xu mật viện tâu: “Kinh lược ty Quảng Tây tâu rằng, Tả tàng khố phó sứ, Đô tuần kiểm sứ Tả Giang, châu Ung là Thành Trác trình: ‘Người tiến phụng là Lê Chung bí mật báo với quận vương, xin cầu đất đai. Chưa nhận được chiếu chỉ trả lời.’ Xin ghi lại thư và trạng của Lê Văn Thịnh trước đây, khi về sẽ bẩm báo lại với quận vương. Nếu Lê Chung đến kinh đô lại xin cầu, hãy đem thư dài của Lê Văn Thịnh và những lời giải thích tường tận để Lê Chung biết rõ và xét kỹ. Trước đây Thành Trác đã bảo đảm việc bàn định biên giới với người Giao Chỉ sẽ không xảy ra phản phúc, đã y theo đó ban chiếu chỉ xong xuôi. Nếu người Giao Chỉ đến kinh đô, dám có lời xin cầu bậy, triều đình tất khó xử lý khác.” Chiếu chỉ cho Miêu Thời Trung: “Nếu người Giao Chỉ không ngừng gửi văn thư, còn lấy đất đai làm lý do, hãy một mặt đáp lại đầy đủ lý lẽ, nhất định phải khiến họ phục tùng. Còn Thành Trác, lệnh cho Kinh lược ty bàn việc công, triệu về châu Quế.
(《Tân lục》 sửa lại rằng: Xu mật viện tâu: “Kinh lược ty Quảng Tây tâu[16], Tả tàng khố phó sứ, Đô tuần kiểm sứ Tả Giang, châu Ung là Thành Trác trình: Người tiến phụng là Lê Chung bí mật báo với quận vương xin cầu đất đai, chưa từng nhận được chiếu chỉ trả lời.” Chiếu chỉ cho Miêu Thời Trung: “Nếu người Giao Chỉ không ngừng gửi văn thư, còn lấy đất đai làm lý do, hãy một mặt đáp lại, nhất định phải khiến họ phục tùng. Còn Thành Trác, lệnh cho Kinh lược ty bàn việc công, triệu về châu Quế.” )
[66] Tả tàng khố sứ, Quản câu Sùng Phúc cung là Thạch Đắc Nhất mất.
[67] Ngày Kỷ Dậu, nước Liêu cử sứ là Lợi Châu Quan sát sứ Tiêu Mục, Cao Châu Quan sát sứ Gia Luật Độ, Phó sứ là Triều nghị đại phu, Thái thường thiếu khanh, Sử quán tu soạn Triệu Vi, Khách tỉnh sứ, Quảng Châu Phòng ngự sứ Lưu Ngạn Ôn đến chúc mừng ngày Chính đán.
[68] Chiếu rằng: “Xét việc chuyên trách của sở Đề cử kinh thành gần đây tâu rằng đã giảm bãi 47 viên sứ thần, không thuộc về khuyết chức của Thượng thư Lại bộ. Từ nay nếu tâu xin sai sứ thần, có thể đặc cách cho sở Kinh thành theo chỉ huy của sắc mệnh ngày 19 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 8[17].”
(Ngự tập ngày 25 tháng 12 ban xuống, chỉ huy năm Nguyên Phong cần xét lại.)
[69] Chiếu rằng các hộ trước đây xuất miễn dịch tiền trên 300 quan, đều theo lệ hộ đơn đinh nộp thuế, được miễn sắc dịch. Theo lời tâu của sở Tường định dịch pháp.
(Cuối tháng 10, Lã Đào dâng sớ xin xét lại kỹ. Cuối tháng giêng năm sau, Tôn Thăng, Vương Nham Tẩu nói thêm.)
[70] Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu rằng:
[71] Thần trộm xem trong điều khoản mới ban hành về luật dịch, các hộ cao cường trước đây nộp miễn dịch tiền trên 300 quan, theo pháp hộ đơn đinh nộp trợ dịch tiền. Thần thu thập ý kiến của nhiều người, đều cho rằng không thấy lợi mà chỉ thấy hại, không phải là pháp lệnh có thể áp dụng lâu dài. Họ nói rằng:
[72] Pháp sai dịch của tổ tông chỉ đặt ra đại cương mà thôi. Hộ thượng đảm nhận dịch lớn, hộ trung đảm nhận dịch vừa, hộ hạ đảm nhận dịch nhỏ, chưa từng so đo từng chút một, mà hơn trăm năm qua, thiên hạ không có lời than phiền gì. Nay nhất định muốn hạn chế những hộ quá cao mà san bằng, thì cũng không có lý do gì để san bằng, không biết rằng chính là tạo ra sự bất bình. Giả sử hộ xuất 280, 290 quan, cách nhau bao nhiêu? Một khi phải đảm nhận sai dịch, ba năm năm sau mới được nghỉ ngơi; một khi nộp trợ tiền, cả đời không có lúc nào ngừng, không đến nỗi gia đình tan nát thì không được miễn, đây là điều bất tiện thứ nhất.
[73] Dân chúng trong thiên hạ đang cùng nhau vui mừng, cổ vũ vì được khôi phục lại phép sai dịch, nhưng riêng hạng người này lại không được hưởng lợi từ ân trạch. Đều là thần dân của vương triều, mà may mắn và bất hạnh lại cách xa nhau như vậy, không phải là cách để thống nhất lòng người và dẹp bỏ oán than. Đây là điều bất tiện thứ hai.
[74] Lại nói về những gia đình giàu có, trước đây khi định mức tiền sai dịch, phần lớn là do quan phủ ép buộc tăng số tiền. Trong hai mươi năm qua, vì không chịu nổi gánh nặng mà nhiều gia đình đã suy sụp, tan cửa nát nhà. Hiện nay những gia đình còn lại không nhiều, lẽ nào lại tiếp tục áp dụng mức cũ để bóc lột họ đến cùng? Đây là điều bất tiện thứ ba.
[75] Trước đây, năm hạng đều phải nộp tiền sai dịch, nên việc tăng hay giảm hộ khẩu đều không thể trốn tránh. Nay chỉ thu từ những hộ giàu nhất, thế tất họ sẽ tìm cách lẩn tránh, như chia tách gia đình, hoặc bán tài sản, chỉ cần giảm được ba trăm ngàn tiền là có thể miễn trừ. Phép này thi hành chưa đầy hai ba năm, thiên hạ sẽ mất đi những hộ giàu có. Đây là điều bất tiện thứ tư.
[76] Đã không thể ngăn cấm việc chia tách gia đình hay bán tài sản để trốn tránh, về sau chắc chắn sẽ có người đề nghị đặt mức thu từ hai trăm quan, rồi lại có người đề nghị thu từ một trăm quan trở lên. Một khi mở đầu như vậy, hậu họa về sau sẽ khôn lường, phép sai dịch sẽ bị hủy hoại quá nửa. Đây là điều bất tiện thứ năm.
[77] Tiền sai dịch trước đây nay tuy giảm một nửa, nhưng số ít vẫn phải nộp hơn một trăm năm mươi quan. Ở phương Bắc, vào mùa thu, phải mua năm sáu trăm thạch lúa mới đủ nộp, chưa kể các khoản chi phí khác. Phép thu tiền sai dịch, từ hạng ba trở lên, dù gặp hạn hán hay lũ lụt đều không được miễn. Giả sử thường không có thiên tai, cũng đã khó chịu đựng, huống chi một khi gặp hạn hán hay lũ lụt liên tiếp, thì biết làm sao? Đây là điều bất tiện thứ sáu.
[78] Những hộ đơn đinh, nữ hộ, thì ở đâu cũng có, có thể dùng để bổ trợ. Như những nhà trước đây nộp tiền dịch trên ba trăm quan, có những châu rộng lớn không có một hộ, có những lộ không quá ba bốn nhà, tính cả thiên hạ thì được bao nhiêu? So sánh với số thu được, thì có ích gì cho đại kế? Mà chỉ mang tiếng cận lợi trong thiên hạ, thật đáng tiếc cho triều đình, đây là điều bất tiện thứ bảy.
[79] Triều đình thu tiền dịch của thiên hạ đã gây hại lớn, một ngày kia hạ chiếu khôi phục phép sai dịch, đày người đầu tiên đề xuất ra biển. Nay mực chiếu chưa khô, mà lại đi theo vết xe đổ, không chỉ tội nhân sẽ có lời biện bạch, mà dư luận thiên hạ, lời bàn hậu thế, sẽ đánh giá triều đình ra sao? Đây là điều bất tiện thứ tám.
[80] Vả lại, theo những gì thần nghe biết, tác hại đã như vậy, nếu tìm hiểu sâu rộng khắp nơi, hỏi han nhiều người, thì tác hại còn không kể xiết. Kính mong Thánh từ đặc biệt ra lệnh bỏ điều khoản này, để thống nhất phép tắc thiên hạ, yên lòng thiên hạ, không để quốc gia bị nghi ngờ, thật may mắn biết bao!
[81] Tờ thiếp vàng nói: “Những hộ giàu mạnh, khiến cho châu huyện khắp thiên hạ đều có vài nhà, đặc biệt đặt ra phép luật, thì còn có thể. Nay nhiều châu huyện chưa có một hộ, mà muốn chỉ định để bổ trợ, thần thấy chỉ là đặt ra văn bản hư ảo, làm hỏng phép tốt, thật đáng tiếc. Thần mong triều đình suy nghĩ sâu xa, bàn bạc kỹ lưỡng, đừng cho là keo kiệt.”
[82] Lại tâu: “Thần trộm thấy chiếu bổ trợ ban hành thêm, đã lập ra pháp nộp tiền, lại có điều khoản dư thừa, lại có chỉ dụ giao cho Ty đề hình tập hợp, thiên hạ nghe thấy, sao không nghi ngờ triều đình lại làm việc thu gom tiền của? Thần mong bỏ qua lời ngu muội của thần, xin xem xét kỹ, khi ban lệnh, hãy trân trọng danh tiếng này. Thần thấy hạng nhất đã có pháp kéo dài năm, đến năm năm thì dừng, nay hộ hào cường cũng bắt phải đi phục dịch, thì tự nhiên phải phục dịch bảy năm, so với pháp cũ của tổ tông đã là rất nặng. Thêm nữa, bảy năm tuy đã mãn, chưa chắc được nghỉ ngơi, tình thế phải lại là hộ kế tiếp, tự nhiên không có lý do được miễn, thế là không khác gì phục dịch vĩnh viễn, không cần phải ngại họ may mắn được miễn mà lập ra pháp nộp tiền.”
(Lời của Nham Tẩu vì theo chỉ dụ ngày 25 tháng 12, nay phụ vào ngày này. Lời của Tôn Thăng phụ vào cuối tháng giêng năm sau.)
[83] Ngày Canh Tuất, chiếu cho quân địa phương ở Hi Hà Lan Hội lộ, 30 chỉ huy giữ lại 12 chỉ huy, quân địa phương ở lộ này dời chỉ huy đến đóng quân ở Tần Lũng châu, Phượng Tường phủ. Vì giá cả ở biên giới quá đắt đỏ.
[84] Ngày Tân Hợi, Xu mật viện tâu: “Các lộ ở phủ giới mỗi năm xuân thu đều tổ chức tập luyện lớn cho quân đội, có những người nhiều năm liền đáng được thưởng, nhưng vì số người quá đông, lại có những người tài giỏi hạng sau không được hưởng ân thưởng, điều này rất không phù hợp với ý khuyến khích rộng rãi. Nay xin xem xét lại các điều khoản hiện hành, tăng thêm số người được thưởng.” Được chấp thuận.
(Sách mới bỏ đi.)
[85] Hộ bộ tâu: “Muốn theo như muối ăn ở kinh đô và Nam Kinh, in thêm giấy muối theo quy định, giao cho Ty chế trí giải diêm ở Thiểm Tây điền vào, kêu gọi người dân dùng văn khế nhà đất thế chấp, ấn định thời hạn theo lệ đến giải trì xin mua, chuyên chở đến kho muối Viên Khúc ở Châu Nhạc nộp; và căn cứ vào số lượng muối trà cần mua ở phủ giới, Kinh Đông, tạm thời mượn từ số muối chưa giao dịch ở thị dịch để ứng phó, đợi khi vận chuyển đến, sẽ hoàn trả theo số lượng.” Được chấp thuận.
(Sách mới bỏ đi.)
[86] Tương độ việc nước ở Hà Bắc là Trương Vấn tâu: “Thần đi qua quân Vĩnh Tĩnh, nghe nói quân này có kho lương dự trữ ở biên giới cùng với kho của ty Thố Trí, tổng cộng khoảng hơn bốn mươi vạn thạch. Nay sông Ngự đã bị bồi lấp, hoàn toàn không còn dùng để vận chuyển lương thực[18], chỉ còn là lương thực cũ đã để lâu ngày. Từ cuối đông đến nay, giá lương thực ở quân Vĩnh Tĩnh dần tăng cao, dân chúng khó khăn trong việc kiếm ăn. Nếu nhân lúc này, dù có thiệt hại một ít vốn ban đầu, nhưng nhanh chóng bán ra, thì đó là dùng thứ chắc chắn sẽ bỏ đi trong tương lai để cứu đói cho dân. Mong được chỉ thị cho các cơ quan liên quan thi hành.” Được chấp thuận.
(Theo sự việc tháng 12 trong 《Nguyên Hựu Mật Sơ》, nay phụ lục vào cuối tháng.)
[87] Chính Nghị đại phu, trí sĩ Cung Đỉnh Thần mất.
[88] Năm đó, có 38 người con trong tông thất được ban tên và phong chức. Trong thiên hạ, số hộ chính thức đăng ký với Hộ bộ là 1.190.368 hộ, với 2.774.160 đinh; số hộ khách là 605.342 hộ, với 1.233.106 đinh. Xử án tử hình 5.787 người.
(Trần Sư Đạo trong 《Đàm Tùng》 viết: “Năm đầu niên hiệu Nguyên Hựu, Tư Mã Ôn Công phụ chính, năm đó, thiên hạ xử tử hình khoảng một nghìn người. Sau đó, hai họ Lã kế nhiệm, số người bị xử tử mỗi năm thường gấp mấy lần, đây há phải là sức trí tuệ có thể vượt qua được sao?” Xét lời của Sư Đạo khác hẳn với thực lục, phụ chú để đợi xem xét.)
- Từ nay về sau, các chức vụ từ Hiệu lý trở lên đều phải xuất cáo, 'xuất' nguyên bản là 'trừ', căn cứ theo các bản và 《Tống hội yếu》 tuyển cử 31/38 sửa lại. ↵
- Nội tiến Trung thư tỉnh kiểm hội cố sự, chữ 'tiến' nguyên là 'cận', theo 《Tống đại chiếu lệnh tập》 quyển 4, Chiếu phục trừ không lên tôn hiệu sửa lại. ↵
- Bệ hạ suy nghĩ sâu xa và lo sợ, chữ 'tư' nguyên là 'tứ', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại. ↵
- Chi phí nuôi quân vạn người, theo ý văn, nghi ngờ chữ 'Cụ' là chữ 'Thả' viết nhầm. ↵
- Nguyên bản là 'nhất niên chi thế', căn cứ theo các bản khác và 《Tống hội yếu》 binh 5-11, 《Tống sử》 quyển 196, Binh chí sửa lại. ↵
- Nguyên bản là 'Cổ Phương', căn cứ theo hai sách trên sửa lại. ↵
- không tính vào hạn ngày, chữ 'kế' nguyên là 'Quý', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại. ↵
- Nay triều đình muốn noi theo sự trung hậu của Nhân Tổ, chữ 'sư' nguyên bản là 'tư', căn cứ theo văn trên và 《Tô Đông Pha tập tấu nghị tập》 quyển 3, bài 《Biện thí quán chức sách vấn tráp tử》 mà sửa. ↵
- Ngày 17 tháng 1 năm sau lại dâng lên, chữ 'chính' nguyên bản là 'tứ', căn cứ theo chú thích và cùng sách trên mà sửa. ↵
- Ngày 12, chữ 'nguyệt' nguyên là 'nhật', theo bản các và chú thích dưới, sách này quyển 394, ngày Ất Sửu tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 2 sửa lại ↵
- Chữ 'luân' nguyên bản viết là 'thâu', theo nghĩa văn mà sửa. ↵
- Kiểm tra theo sắc lệnh, tu định các vật phẩm trong ngày sinh thần và các tiết lệ của Hoàng thái phi, chữ 'đáo' nguyên là 'lệ', căn cứ vào các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- các vật phẩm này phải được tính toán và vận chuyển theo từng đợt, chữ 'phát' nguyên bản là 'Đăng', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 13-30 sửa lại. ↵
- Thiên hạ chí thuật dã, chữ 'chí' nguyên là 'chi', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại ↵
- Nay xét thấy có thể bãi bỏ 47 người, chữ 'nay' nguyên bản là 'lệnh', căn cứ vào bản trong các và 《Tống hội yếu》 phương vực 1-18 sửa lại. ↵
- Kinh lược ty Quảng Tây tâu, chữ 'tâu' nguyên bản thiếu, căn cứ vào chính văn bổ sung. ↵
- Ngày 19 tháng 5 năm Nguyên Phong thứ 8, chữ 'Ngũ' trong các bản khác là 'Chính'. ↵
- 'Dụng' trong bản các các là 'kỳ'. ↵