"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 397: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 2 (ĐINH MÃO, 1087)

Bắt đầu từ ngày Tân Tỵ tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 2 đời Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 3, ngày Tân Tỵ, Thái sư Văn Ngạn Bác dâng tấu xin nghỉ hưu, Hữu bộc xạ Lữ Công Trước vì hạn hán xin từ chức, đều được chiếu đáp lại không chấp thuận.

[2] Phạm Thuần Nhân tâu: “Thần trộm thấy gần đây lâu không có mưa, lòng Thánh thượng lo lắng, sâu sắc xem xét lợi hại của quân dân, đặc biệt bãi bỏ nỗi khổ lao dịch xa xôi và tốn kém của quân sương, đủ để cảm động lòng trời, tiêu trừ tai họa hạn hán. Còn có việc quân cấm ngày thường tập luyện cung nỏ, sức kéo quá nặng, so với phép cũ của tổ tông, thúc ép rất nghiêm khắc. Tuy triều đình đã từng ban chỉ dụ giảm nhẹ, nhưng vì các tướng quan đều có thưởng phạt, khiến họ chỉ lo lợi hại của bản thân, không rảnh để thương xót mọi người. Những người mới được tuyển chọn hoặc người già cũ, hoặc mới khỏi bệnh, hoặc sức lực hơi kém, chắc chắn không thể đáp ứng đầy đủ quy cách, liền bị đánh đập thúc ép, không tránh khỏi xin nghỉ trăm ngày, cầu làm việc nhỏ, không chỉ uổng phí giảm bớt binh lính, lâu dài cũng là điều khó chịu đựng được của nhân tình. Kính mong Thánh thượng đặc biệt ban ý chỉ tuyên dụ ba vị tướng ở điện tiền, từ nay về sau các doanh trại tập luyện, đều theo phép cũ của tổ tông, cung nỏ và đá kéo, mỗi người tùy sức lực mà tập luyện, không cần phạt các nhân viên, và xin chỉ dụ Xu mật viện, tất cả thưởng phạt của các tướng quan khi thay thế, cũng đều tạm ngừng, chỉ lệnh cho Giám ty xét những người không làm tròn chức trách, tự nhiên sẽ không đến nỗi lười biếng. Như vậy thì lòng người vui vẻ, chắc chắn sẽ đem lại hòa khí. Thần giữ chức ở Xu mật viện, cũng nên tâu xin thi hành, nhưng vì việc này liên quan đến tình cảm của mọi người, không bằng đặc biệt ban thánh chỉ xử lý. Mấy ngày trước, có binh sĩ sợ phải tập luyện, bàn nhau tự tử, xin hỏi kín Yến Đạt ắt biết, nếu nói không biết, xin hỏi rõ Xu mật viện.”

(Việc này nên làm hay không nên làm cần xem xét. Việc bãi bỏ tốn kém lao dịch xa xôi của quân sương, có lẽ là chỉ dụ ngày 27, nay phụ chép vào đây.)

[3] Tháng đó, châu Hựu gửi công văn đưa về 318 người bị bắt giữ ở phương Bắc. Triều đình ban chiếu cho Kinh lược ty Phu Diên, khi họ đến bốn thành trại Gia Lô, Mễ Chi, Phù Đồ, An Cương, thì đặc biệt ban thưởng; còn những vùng đất không thuộc về các thành trại có thể trả lại, thì cử quan viên vạch định ranh giới, đào hào đắp lũy.

(Sách 《Chính mục》 có ghi hai việc lớn này, nhưng 《Thực lục》 không chép, cần xem xét thêm. Xem cuối tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ nhất và ngày Mậu Thân tháng 6 năm thứ tư để tham khảo.)

[4] Trước đó, Tư gián Vương Nham Tẩu tâu rằng: (hoặc chép vào mùa xuân năm thứ ba) “Thần vào ngày 16 tháng 12 năm ngoái tại điện Diên Hòa đã dâng sớ và tâu mặt rằng: Hai trại Gia Lô và Ngô Bảo nằm cách biệt bởi sông lớn, sâu trong địa phận giặc, từ khi xây dựng đến nay đã làm hao tổn Hà Đông mà thực sự không có lợi ích gì cho quốc gia, chi bằng bỏ đi, để làm kế lâu dài nuôi dưỡng dân chúng. Thần được nghe lời tuyên dụ muốn thi hành việc này, nhưng đến nay đã nhiều tháng, vẫn chưa nghe có quyết định gì khác. Thần nghĩ rằng việc bỏ hay giữ hai trại này liên quan đến sự an nguy của dân chúng cả một vùng, triều đình không nên bỏ qua mà không suy nghĩ, chắc hẳn đã có kế hoạch. Thần nghe nói rằng tiền công sứ của hai trại mỗi năm hơn hai nghìn quan, các châu quận ven sông đều không bằng. Các quan lại tại trại vì lợi lộc dồi dào, sợ rằng trại bị bỏ, nên thường phóng đại tình hình, tô vẽ sự việc để làm mê hoặc tai mắt trên dưới. Phàm có quan viên nào được cử đến trại, đều được biếu tặng hậu hĩnh, ai nấy đều vượt quá mong đợi, nên tại cửa phủ súy và các ty giám thường có người bênh vực. Thần e rằng dù có chỉ huy xuống cho bản lộ xem xét việc bỏ hay giữ, triều đình cuối cùng cũng không biết được thực hư lợi hại. Kính mong bệ hạ sâu sắc xem xét, đặc biệt lấy ý chỉ của thánh thượng mà chiếu cho miếu đường sớm quyết định việc lớn, đừng tham cái hư ngoài mà bỏ cái thực trong, để lại hối hận vô cùng về sau, thiên hạ may mắn lắm thay.”

Lời tâu thêm rằng: “Thần nghe đồn rằng trước đây triều đình từng có chỉ hỏi về lợi hại của việc bỏ hay giữ với ty Kinh lược bản lộ, nhưng họ không chịu trình bày rõ ràng sự hại thực tế, mà đẩy trách nhiệm cho các quan biên giới, các quan biên giới nói: ‘Đại súy còn không dám nói, chúng tôi sao dám nhận?’ Thần nghĩ rằng việc bỏ cái hại lớn, khôi phục cái lợi lớn, nếu không có quyết nghị của triều đình thì cuối cùng không thể thành công. Nếu trên dưới đều né tránh, không dám đứng ra nhận trách nhiệm, thì quốc gia còn trông cậy vào ai? Dân chúng còn mong đợi gì? Đó là điều thần vô cùng lo lắng. Kính mong bệ hạ xem xét.”

[5] Lại nói: “Hiện nay, số quân ở hai trại sau khi giảm bớt vẫn còn không dưới ba nghìn người, các quận trọng yếu vẫn không đủ, lại phải tự mua lương thực trong trại. Địa phương này không sản xuất được gì, hiện nay giá gạo mỗi đấu đã hơn hai trăm[1], vừa làm khổ dân xa xôi để nộp thuế, lại phải bỏ giá cao để mua lương, mà nuôi quân trọng yếu ở nơi vô dụng, ngồi mà tự làm khổ mình, há phải là kế lâu dài sao? Việc này không khó để thấy.”

[6] Lại nói: “Thần trộm nghĩ, quân lính trong thiên hạ, áo mùa đông nên phát vào ngày mồng 5 tháng 8, thần nghe nói các quân ở lộ Hà Đông, áo mùa đông mãi đến tiết Đông chí mới được phát, còn tiền thưởng Minh đường nhỏ, có nơi đến nay vẫn chưa chi trả. Việc này há được ổn thỏa sao? Sao bằng không tham đất mới, không thêm quân đồn trú, mọi việc đều tuân thủ theo biên giới cũ, quân số dùng theo số cũ, khiến trăm việc tự đủ đầy, há chẳng tốt sao?”

[7] Nham Tẩu lại tâu: “Thần trước đây đã bàn về việc hai trại Gia Lô và Ngô Bảo, từ khi thiết lập đến nay, hai châu Tấn và Giáng phải chuyển thuế phú đi lại hơn một nghìn bốn trăm dặm, dân chúng không chịu nổi những tệ hại. Không chỉ dân chúng chịu tệ hại, mà quốc gia cũng chẳng được lợi gì, xin hãy bãi bỏ để dứt mối họa lâu dài, nhưng đến nay vẫn chưa được thi hành. Chỉ thấy Ty Chuyển vận Hà Đông xem xét, xin cho những hộ dân phải chuyển thuế phú lương thảo đến các châu quân, một nửa số hộ được nộp tiền mặt tại châu, nửa còn lại vẫn phải đem lương thảo đến các trại nộp, lại nói nếu ai muốn nộp toàn bộ lương thảo tại các trại cũng được. Theo thần xem, đây chỉ là cái danh khoan giảm, chứ không có thực chất khoan giảm. Bởi một nửa nộp tiền mặt, các châu huyện định giá, ắt sẽ tăng thêm so với giá thực, lại thêm vào số lượng hao hụt, tính thêm tiền vận chuyển, khi nộp tiền lại phải chịu thêm một khoản phí công tư, ngoài ra vẫn phải mang một nửa lương thảo đi lại hơn một nghìn bốn trăm dặm để nộp, so với việc chuyển toàn bộ, thì lại càng thêm phiền nhiễu.

Ty Chuyển vận bản lộ tuy biết việc vận chuyển xa là có hại, nhưng vì hai trại này không có người canh tác gần đó, nên phải dựa vào việc chuyển thuế. Nếu hai trại còn tồn tại, thì việc vận chuyển xa không thể bãi bỏ, việc vận chuyển xa không bãi bỏ, thì sức dân không thể chịu nổi. Thần nghe nói dân phải vận chuyển xa, mỗi lần chở lương thảo đến Hoàng Hà, nếu gặp gió tuyết ngăn trở, có khi cả chục ngày không qua được sông. Phơi mình nơi bờ sông, tiến thoái không lối, chỉ biết cùng nhau khóc lóc. Bình thường đã như vậy, không biết khi có việc khẩn cấp, tăng thêm việc vận chuyển, dân chúng sẽ khổ cực đến mức nào! Thần xin hạ lệnh cho Ty Chuyển vận bản lộ xem xét, bãi bỏ hai trại này, chỉ dùng trại cũ ở trong sông để phòng thủ, ngoài thì dứt được mối lo biên giới, trong thì giảm bớt sức dân.”

[8] Tờ tấu dán vàng viết: “Thần nghe nói ở bờ đối diện Gia Lô là Khắc Hồ, bờ đối diện Ngô Bảo là gần Thượng Định Hồ, lại có phó tướng thứ năm trong kỳ nội đóng quân ứng viện hai trại. Nếu chẳng may quân giặc kéo đến, quân tiếp viện ở Khắc Hồ và Định Hồ chắc không thể nhanh chóng vượt sông, ngồi không hao tốn lương thảo, chẳng ích gì cho việc. Hơn nữa, quân trong kỳ nội không chịu được khổ nhọc, quân lính tuần tra dọc biên giới bên trong sông lớn, ngày nào cũng có kẻ phạm tội. Đầu xuân năm nay, trên sông đã xảy ra bảy vụ giết người và cướp bóc, đều do quân lính trong kỳ nội gây ra. Dân biên giới bất an, đều nói thực sự không lo bị giặc Tây cướp bóc, mà chỉ sợ quân Đông quấy nhiễu. Kính xin hạ lệnh cho bản lộ xử lý, nếu di chuyển quân mã hai trại dưới Gia Lô và Ngô Bảo qua sông, ngoài việc giữ lại quân đồn trú ở Khắc Hồ và Định Hồ, xin giảm bớt toàn bộ quân trong kỳ nội, để có thể tiết kiệm chi phí biên giới, yên ổn dân biên. Kính mong bệ hạ đặc biệt lưu tâm, sớm ban chỉ thị.”

[9] Nham Tẩu lại từng tâu mặt chầu rằng: “Bệ hạ muốn dưỡng sức dân, làm giàu quốc khố, thì cần phải bỏ những thành trại vô dụng ở biên giới, giữ lấy biên giới cũ, thì sức dân ngày càng nhàn rỗi, quốc khố ngày càng dồi dào. Sức dân và quốc khố đã dư dả, tự nhiên là đạo chế phục người xa. Nếu sức dân khốn khó, quốc khố lại trống rỗng, thì người xa sẽ sinh lòng khinh nhờn, điều này không thể không suy nghĩ trước. Các đại thần đều giữ ý kiến khác nhau, lại e ngại không dám bàn luận, ngày qua ngày, mối họa càng sâu, rất bất tiện. Việc này cần Bệ hạ quyết đoán một lời, các đại thần tự nhiên sẽ bàn định. Nay xin Bệ hạ trước hết hãy giải quyết hai trại này. Huống hồ những vùng đất này, dù có chiếm được vài thành, cuối cùng cũng không giữ được. Vì nằm trong địa giới của họ, việc cung ứng của ta rất tốn kém, họ không cần vội vàng tranh giành, chỉ cần để quốc gia tự khốn đốn, đó là kế sách hay. Họ âm thầm theo dõi khi ta kiệt sức, liền nhân cơ hội tấn công. Quốc gia nếu thấy trước, không bằng sớm tự lo liệu. Bên trong giảm bớt chi tiêu phù phiếm, tiết kiệm chi dụng, đều là việc nhỏ nhặt, chưa đủ giải quyết vấn đề, chỉ có việc hao tổn ở biên giới là lớn nhất, giảm được hai ba chỗ, thì lợi ích gấp vạn lần. Bệ hạ thử hạ lệnh cho hữu ty tính toán, xem hai trại này một năm tốn mười vạn, còn chưa tính được chi phí của dân gian. Trước đây, tiểu nhân lừa dối triều đình, tự mưu cầu công lao ban thưởng, xây dựng các trại này, đối với quốc gia hoàn toàn vô ích, chỉ thêm họa hại, khiến dân chúng khốn đốn. Nay Bệ hạ cứu dân khỏi họa, dẹp bỏ những việc này, dân chúng mới được an lạc lâu dài. Nếu ngày khác quận huyện liên tiếp gặp thiên tai, bên ngoài rợ Di đánh chiếm thành này, ta làm sao chống đỡ, tình thế cuối cùng cũng không giữ được. Đến lúc đó bỏ đi, thì đã muộn.

Lã Đại Phòng thích xây thành lập trại ở biên giới, thời Hi Ninh, đã từng cùng Hàn Giáng xây thành La Ngột, tốn vô số sinh mạng, rồi bị người Tây chiếm ngay, bỏ chạy thảm hại, lại khiến binh biến ở Khánh Châu, suýt nữa gây nguy hiểm cho Quan Trung. Phía Tây thì Hi, Hà, Lan, Hội, Diên Châu Tây Trại, phía Nam thì Thành Châu, Nguyên Châu[2], đều là tham hư danh, chịu thực hại, nên bỏ hết, để yên Trung Quốc. Bệ hạ xem trước khi quốc gia mở mang biên giới, biên hoạn thế nào, lòng người thế nào, uy binh thế nào, tài phú thế nào, sau khi mở mang, bốn điều ấy lại thế nào, sự việc rõ ràng, rất dễ thấy. Những nơi này, không biết quốc gia dùng để làm gì? Nếu đất ấy đủ tự nuôi còn được, huống hồ không đủ tự nuôi, lại làm phiền sự trợ giúp của Trung Quốc.

Thêm nữa, dân Hà Đông nghèo hơn các lộ khác, quốc gia từ khi có ba châu Lân, Phủ, Phong mà dân càng nghèo, nay lại thêm hai trại, càng không thể so với ba châu, ngày tháng lâu dài, e rằng dân chúng lòng dạ sinh oán, không phải là phúc của quốc gia.”

(Theo 《Nham Tẩu triều luận》 thêm vào.)

[10] Sùng Chính điện thuyết thư Trình Di dâng sớ nói: “Kẻ hèn mọn là thần, được bệ hạ cất nhắc vào hàng khuyên giảng, ngày đêm dốc hết tinh thần, suy nghĩ để báo đáp muôn một. Tháng sáu năm ngoái, thần từng dâng tấu trình việc phụ đạo nhà Vua, đã hơn nửa năm mà chưa được thi hành. Thần ngu muội nghĩ rằng lời thần nói rất nhiều, nếu đều không thể dùng, thì sự cuồng vọng của thần cũng quá lớn. Dù triều đình khoan dung, không muốn lấy lời nói mà trị tội, nhưng chúa thượng đang tuổi trẻ, nên gần gũi bậc đạo đức, há lại để kẻ cuồng vọng ở bên cạnh? Thần băn khoăn lo lắng, không thể tự yên. Huống chi lời thần nói không phải từ ý riêng, mà là phép tắc của tiên vương, truyền thống của tổ tông, không lẽ không có điều gì hợp ý thánh thượng. Thần nghi rằng văn tự quá nhiều, bệ hạ không thể xem kỹ, hoặc dù có xem mà chưa thấu hiểu ý thần, thần không thể nói lại từng điều, chỉ xin chọn việc cấp thiết nhất, lại trình bày với bệ hạ.

Trước đây thần từng xin giảng đọc ở Diên Hòa điện, Thái hoàng thái hậu mỗi khi việc chính sự thưa thớt, thánh thể khỏe mạnh, đến dưới rèm nghe các quan giảng nói, không chỉ xem xét sự tiến bộ của nhà Vua, mà cũng có ích cho đức độ của bệ hạ, đồng thời trong lúc phụ đạo, có nhiều việc cần tâu bẩm, có thể được thấu đạt. Nay thần nghĩ, Thái hoàng thái hậu ngày chẵn buông rèm nghe chính sự, ngày lẻ nếu lại thân đến giảng đọc, e rằng làm phiền thánh thể. Xin chỉ vào ngày buông rèm, sau khi nghe chính sự xong, thánh thể chưa mệt, triệu quan giảng ngày hôm đó đến trước rèm[3], hỏi về thứ tự tiến bộ của chúa thượng[4], giảng nói đến đâu, làm sao mở mang, để thiên hạ biết bệ hạ dụng tâm như vậy trong việc phụ dưỡng nhà Vua. Việc đối đáp với nho thần, từ xưa đã là việc tốt[5], bệ hạ thử nghe lời thần, sau sẽ biết không sai. Đây là việc nhất thời, chưa phải định chế, nếu không có ích, bãi bỏ cũng chưa muộn.

Từ trước đến nay, trong kinh diên ban ngồi uống trà, là thể hiện sự tôn trọng đạo Nho của nhà Vua. Thái hoàng thái hậu xem xét sự tiến bộ của chúa thượng, dù có khiến giảng nói, cũng không có lễ này. Thần nói lại việc này, vì trong lúc phụ đạo, có việc cần tâu bẩm, không có cách nào thấu đạt, nếu được đến trước rèm, có thể trình bày, việc này rất quan trọng. Bệ hạ hẳn cho rằng chúa thượng còn nhỏ, cách ngày giảng đọc là đủ, không có việc gì khác. Điều này rất không đúng. Vì từ trước chưa từng có ai vì bệ hạ mà cực lực trình bày đạo phụ dưỡng thiếu chủ, nên bệ hạ chưa suy nghĩ sâu. Mong bệ hạ thánh minh, không vì thân phận thấp hèn của thần mà coi thường lời nói, xét lòng thành của thần, há có gì khác, chỉ mong có ích cho nhà Vua mà thôi. Thần bày tỏ hết lòng, lời nói đến đây, mong bệ hạ xét nhận, thiên hạ may mắn biết bao!”

[11] Lại dâng sớ rằng:

[12] Thần gần đây tâu rằng điện Nhĩ Anh dần nóng, xin dời đến nơi rộng rãi mát mẻ, tờ thiếp hoàng nói rằng nếu không có chỗ nào thuận tiện khác, chỉ xin đến điện Sùng Chính hoặc Diên Hòa. Nghe nói Cấp sự trung Cố Lâm có lời tâu, cho rằng việc giảng đọc ở Diên Hòa là không nên. Thần vốn cho rằng điện Nhĩ Anh dần nóng, e rằng không thích hợp với thánh thể, nay nghe nói sửa chữa mở rộng Nhĩ Anh, nếu được chỗ rộng rãi mát mẻ, thì nguyện vọng của thần được thỏa mãn. Như lời của Lâm, đối với thần có thể không cần bận tâm, nhưng có điều rất hại, không thể không vì bệ hạ mà biện bạch. Nếu lời của Lâm khiến Thái hoàng thái hậu nghi ngờ, thần không phải là quan gián tránh, không biện bạch cũng được, nhưng nay cho lời của Lâm là đúng, thì làm lầm lạc tri kiến của chúa thượng, thần chức ở phụ đạo, sao có thể không biện bạch?

[13] Thần nghĩ rằng từ xưa đến nay, cái họa lớn nhất của quốc gia không gì bằng người tại vị không biết học. Người tại vị không biết học, thì nhân chủ không được nghe đại đạo, triều đình không thể đạt được sự trị yên. Không nghe đạo, thì những lời bàn cạn cợt dễ dàng thâm nhập, lời đạo nghĩa khó mà tiến cử. Công đức cao thấp của nhân quân, đều hệ ở chỗ này. Thần không dám dùng lời nịnh hót để làm vui lòng bệ hạ, nghe nói bệ hạ đọc rộng sử sách, xin bệ hạ xem xét các sách vở, đời trước mẫu hậu lâm triều, có ai không làm hỏng kỷ cương không? Có ai lấy chí công làm lòng, chăm chỉ cầu trị như việc của bậc anh chủ như bệ hạ không? Điều này bệ hạ tự biết. Bệ hạ có đức lớn mà sách vở không ghi, thì thiên hạ cũng mong bệ hạ làm nên sự nghiệp mà sách vở không ghi, không chỉ như các đời trước duy trì năm tháng, đợi nhân chủ lớn lên mà thôi, mà mong bệ hạ đem lại sự trị yên cho thiên hạ, để lại mưu kế lâu dài cho con cháu. Để lại mưu kế, đạt được sự trị yên, nên nghĩ đến đức thánh ngày càng cao, sự trị yên ngày càng mới. Tiến đức ở chỗ cầu đạo, mưu trị không gì bằng xét cổ. Đạo tất phải hỏi người có đạo, cổ tất phải hỏi người xét cổ. Còn những kẻ tục tục nông cạn, cho rằng giữ đạo là ngu xuẩn, xét cổ là cứng nhắc, chỉ đủ làm rối loạn tai nghe của nhân chủ.

[14] Những năm gần đây, phong khí của sĩ phu ngày càng suy đồi, chí hướng thấp hèn, bàn luận nông cạn, người có kiến thức cao xa ngày càng ít, đã thành thói quen. Nếu không thay đổi tình trạng này, thần cho rằng đó không phải là điềm lành của sự hưng thịnh, mà là dấu hiệu của sự suy vong. Phần lớn những kẻ tầm thường cho rằng thuận theo là yêu Vua, hạ mình là tôn kính chủ, theo thói tục là biết thay đổi, quen với điều sai là giữ lẽ thường. Đó là mối họa lớn của ngày nay. Nếu những kẻ như vậy nhiều, thì dù Vua có tầm nhìn cao xa, há có thể một mình gánh vác được sao?

[15] Thần không biết lời nói về đạo đức mà tiến lên, có thể giúp ích cho đức độ của bậc thánh là bao nhiêu, nhưng những điều làm tổn hại đến kế hoạch lâu dài của bệ hạ, làm thay đổi ý tốt của bệ hạ thì có, như lời của Cố Lâm là một ví dụ. Thần đoán ý của Lâm, chỉ là cho rằng quan giảng không thể ngồi trên điện, lấy việc tôn quân làm lý do. Việc giảng giải trên điện, là đạo lý chí công chí chính, từ xưa vẫn thường làm. Thần không cần dẫn chứng xa xôi, chỉ lấy việc cũ của triều đại ta mà nói, Thái Tổ hoàng đế triệu Vương Chiêu Tố giảng Kinh Dịch, Chân Tông sai Thôi Di Chính giảng Kinh Thượng Thư, Hình Bính giảng Kinh Xuân Thu, đều diễn ra trên điện. Lúc đó vẫn là ngồi giảng, nghi thức đứng giảng chỉ bắt đầu từ ý của Minh Túc Thái hậu. Đây là việc tốt đẹp của tổ tông tôn trọng Nho giáo và đạo lý, không chỉ con cháu nên noi theo, mà các đế vương muôn đời cũng nên học tập, nhưng Lâm lại cho là không thích hợp. Lâm nói quan giảng không thể ngồi trên điện, thì Chiêu Tố là kẻ áo vải, lại càng không thể hơn nữa. Việc giảng đọc ở Nhĩ Anh chỉ bắt đầu từ thời Nhân Tông, cũng là tùy tiện, không phải để tránh điện thượng. Nếu tránh điện thượng, thì không nên đặt chức Sùng Chính thuyết thư. Dù lấy tên điện để đặt chức, không nhất thiết phải giảng sách ở điện đó, nhưng cũng không thể đặt quan thuyết thư ở nơi không thể giảng giải. Thần mỗi lần tiến giảng, chưa từng không khuyên nhủ chúa thượng lấy việc tốt đẹp của tổ tông làm khuôn mẫu, như ý của Lâm, thì là cấm chúa thượng không được làm việc ưu đãi Chiêu Tố, và ý định đặt chức Sùng Chính, việc tốt đẹp của tổ tông, khiến chúa thượng không được làm. Nếu chúa thượng tin theo, thì tổn hại há chẳng lớn sao?

Giảng sách trên điện cũng là việc thường, đạo tôn trọng Nho giáo của bậc quân chủ, không gì quan trọng hơn việc này. Thần hôm nay chưa dám nói, nhưng trong lòng chỉ muốn giúp nuôi dưỡng tấm lòng trọng đạo của chúa thượng, như các bậc minh chủ đời trước, làm rạng rỡ sử sách, không chỉ việc này mà thôi. Cái thấy của Lâm với lòng thần, sao lại khác nhau đến thế! Huống chi giảng kinh với yến tiệc, việc nào quan trọng hơn? Thời Chân Tông, Nhân Tông đều mở tiệc cho quan giảng đọc ở điện Sùng Chính. Xưa nay dự yến đều ở trên điện, mà giảng kinh lại không được ở trên điện, thần không hiểu ý nghĩa đó. Ý của Lâm ắt nói đó là việc nhất thời, ngày thường thì không được. Nếu hợp đạo lý, ngày thường có hại gì? Nếu không hợp đạo lý, thì nhất thời cũng không được.

[16] Thần lúc mới nói ra, các đại thần chấp chính chưa cho là sai, đến khi Cố Lâm nói một lời, thì cho là đúng mà nghe theo. Theo thần suy xét, có người cho Lâm là đúng cũng có thể có, nhưng nếu nói bốn năm đại thần đều cho là đúng, thì chắc chắn không phải vậy. Vì việc này không khó biết, không nên bốn năm người đều thấy như thế. Chỉ vì bệ hạ tin lời Lâm, lại bị bó buộc bởi nghĩa tôn quân, nên không dám nói ra, e rằng không phải là nghĩa lấy đạo thờ Vua. Người đời nay có thể nói lời tôn quân, nhưng không biết đạo tôn quân. Vua chỉ càng cao đạo đức thì càng được tôn trọng, còn địa vị quyền thế thì đã cao tột, tôn nghiêm tột bậc, không thể thêm nữa, quá lễ thì thành vô lễ, cưỡng tôn thì không còn tôn.

Hán Minh Đế đối với Hoàn Vinh tự mình cầm nghiệp, có thể nói là khiêm nhường. Chu Tuyên Đế xưng là trời, tự so với Thượng Đế, quần thần phải trai giới thanh tịnh mấy ngày mới được triều kiến, có thể nói là tự tôn. Nhưng xét về lý, Hán Minh Đế là bậc Vua hiền minh, được trăm đời tôn trọng; Chu Tuyên Đế là bậc Vua hôn loạn, bị trăm đời khinh bỉ. Theo cách nhìn của Lâm, ắt cho Hoàn Vinh là không biết tôn quân, còn bề tôi Chu Tuyên Đế là biết tôn quân. Người không biết đạo càng tiến, lời không hợp lý càng nghe, dù Vua thánh minh, quen nghe thấy, cũng e rằng không thể không tổn hại. Công nghiệp đời sau càng thấp kém, đạo thuần mỹ của tiên vương không còn thấy ở đời, chính vì lời bàn nông cạn dễ tin mà được thi hành. Đạo tiên vương tuy chưa thể thực hiện hết, nhưng lòng noi theo cổ nhân không thể không có. Như học giả đối với việc thánh hiền tuy chưa thể làm hết, nhưng lòng ngưỡng mộ không thể không có. Đó là đạo tiến học cầu lợi ích. Nay ý của Lâm cho rằng việc xưa không đáng noi theo, việc nay là đủ, không thể tiến thêm nữa. Đó là đóng cửa đường tiến đạo, chặt đứt lối noi theo cổ nhân.

Đang lúc bệ hạ tuổi trẻ, lúc tiến đức, mà dâng lời như thế, khiến quan khuyến giảng phải suy nghĩ về chức nghiệp, không biện bạch sao được? Nếu bệ hạ cho lời thần là sai, thì tội cuồng vọng, thần không dám tránh; nếu vạn nhất cho lời thần là đúng, thì xin bệ hạ tỏ rõ ý thích cổ cầu đạo, để triều đình ai nấy đều biết, dù kẻ hèn mọn, thấy bệ hạ ý thánh cao minh, không thích điều tầm thường, cũng sẽ gắng nghĩ nghĩa lý, không dám để cái thấy hèn kém, sợ bị bệ hạ khinh bỉ. Nếu thực như thế, thì sẽ thấy đạo học ngày càng sáng, lời hay ngày càng tiến, tệ tục ngày càng đổi, lợi ích nào lớn hơn thế? Thần chức phải biện minh, nghĩa không dám im lặng.

(Lã Đào cũng tấu bác. Di xin riêng biện luận với Cố Lâm, chắc là sớ của Lâm đưa ra. Ngày 12 tháng 4, Cố Lâm được bổ làm Đãi chế, chuyển sang Hà Bắc, có lẽ vì nghị luận này không hợp. Ngày 20 tháng 4, Tô Thức xin giữ lại Cố Lâm.)

[17] Giám sát ngự sử Thượng Quan Quân tâu:

[18] Thần năm ngoái đã từng dâng sớ bàn về tệ nạn quan lại quá nhiều, xin được cắt giảm, làm trong sạch nguồn gốc của việc nhập sĩ. Sau đó nghe nói triều đình đã đưa tờ sớ của thần xuống cho các quan chức như cấp sự, xá nhân và Lại bộ họp bàn. Gần đây nghe nói đã trình lên đô tỉnh, nhưng việc phần lớn vẫn giữ nguyên, hoặc chỉ cắt giảm chút ít để đối phó với chiếu chỉ. Thần e rằng những người bàn bạc quen với những gì mắt thấy tai nghe thường ngày, bị ràng buộc bởi tình cảm không muốn thay đổi, mà không đi sâu tìm hiểu gốc rễ lợi hại, xin được vì bệ hạ bàn kỹ và trình bày rõ ràng.

[19] Việc trị thiên hạ cốt yếu là ở chỗ chọn được người tài giỏi làm quan, mà chọn được người tài giỏi làm quan thì phải ở chỗ không để lọt lưới những kẻ không xứng đáng. Hiện nay, việc tuyển chọn quan lại có thể nói là quá lộn xộn. Có nhiều loại người được tuyển chọn: tiến sĩ, con em được hưởng ân tứ, quan nhiếp chức, người được đặc cách tiến cử, lại viên, và người nộp lương thực để được bổ nhiệm. Xét những người từ nhỏ đã chăm chỉ học hành, hiểu rõ đạo lý, trải qua nhiều kỳ thi do các cơ quan tổ chức, được xét duyệt kỹ lưỡng, không có sự may mắn tiến thân quá mức, thì không ai bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, cứ ba năm mới tổ chức một kỳ thi, số tiến sĩ đỗ đạt chỉ khoảng năm trăm người, trong khi những cử nhân già cả được ban ân mỗi lần không dưới bốn năm trăm người, còn những người được hưởng ân tứ, lại viên, v.v., trong vòng ba năm, không biết có bao nhiêu người được bổ nhiệm. So sánh như vậy, số người được đặc cách tiến cử và những người được hưởng ân tứ, lại viên, v.v., thường nhiều hơn số tiến sĩ. Người hiền tài và kẻ ngu dốt đứng ngang hàng, cùng nhau đổ xô đến Lại bộ, nên số quan chức kinh thành từ chức Thừa vụ lang đến Triều nghị đại phu có đến hơn hai nghìn tám trăm người, số người được tuyển chọn hơn một vạn người, đại sứ thần hơn hai nghìn năm trăm người, tiểu sứ thần hơn một vạn ba nghìn người.

Tính cả số chức vụ khuyết trong thiên hạ cũng không đủ để bổ nhiệm hết số người nhập ngạch, nên Lại bộ phải dùng chức vụ khuyết của quan chức kinh thành và đại tiểu sứ thần, thường phải chờ hơn một năm; người được tuyển chọn phải chờ hơn hai năm, hoặc ba năm mới được bổ nhiệm; tiếp theo, xa hơn nữa là người được tuyển chọn phải ở nhàn chờ chức vụ khuyết, trong vòng bảy năm mới hoàn thành một nhiệm kỳ. Những người nhập ngạch có thể nói là quá nhiều và lộn xộn. Tính toán số người nhập ngạch, những người có tài năng để trị sự, thích danh tiếng để làm việc thiện, đều không ai bằng tiến sĩ, nhưng thường lo lắng vì thời gian ở nhàn quá nhiều, thời gian tại chức quá ít, là do sự lộn xộn của các loại người khác chiếm chỗ, cản trở sự tiến thân của họ. Không thanh lọc được nguồn gốc, muốn người tài không bị trì trệ, là điều không thể. Người tài bị trì trệ ở chỗ nhàn rỗi, mà để những kẻ tầm thường, ngu muội, già cả giữ các chức vụ tạp nhạp, muốn chính sự thiên hạ được trị yên, là điều không thể.

Vì vậy, thần trước đây đã tấu trình xin bãi bỏ việc nộp lương thực để được bổ nhiệm, giảm bớt số lượng con em được hưởng ân tứ, hạn chế sự lộn xộn của việc đặc cách tiến cử, tăng số lượng người được cử làm quan nhiếp chức, ngăn chặn sự may mắn tiến thân của lại viên. Bốn việc này đã được giảm bớt, thì những người tiến sĩ có tài năng sẽ không bị trì trệ ở chỗ nhàn rỗi lâu nữa.

[20] Thần trộm nghĩ rằng triều đình dùng ơn cha mẹ để bổ nhiệm con cái, không phải vì tài năng đạo đức của họ đáng khen, mà là vì ơn huệ đó để không dứt dòng dõi của họ; dùng danh hiệu đặc biệt để trao chức quan, không phải vì tài đức của họ có thể dùng được, mà là thương xót họ khốn khổ già cả mà cấp lộc cho họ; để cho lại dịch nhận chức, không phải vì họ tuân thủ pháp luật cẩn thận liêm khiết, mà là thương họ chăm chỉ lâu năm. Thần trộm nghĩ rằng, đặt ra chức quan phân chia nhiệm vụ là để đợi người hiền tài, chọn quan cho người là để trị lý chính sự. Vì vậy không nên ban ơn may mắn để làm hại công nghĩa của thiên hạ, nuôi dưỡng kẻ bất tài để cản trở sự tiến thân của người có tài. Tuy nhiên, tập tục đã lâu, không thể thay đổi ngay được, nên thần trước đây đã tâu xin định rõ ơn bổ nhiệm con cái, để có số lượng nhất định, thì ơn cha mẹ không đến nỗi quá nhiều; đặc biệt cử nhân theo số lần thực tế, để họ thi ở tỉnh, điện, mỗi bậc hạn định số người, thì ban ơn không đến nỗi quá lạm; tăng số lượng cử nhân nhiếp chức ở Quảng Nam, cắt giảm số năm thưởng công của lại dịch ba tỉnh[6], thì vào ngạch không đến nỗi quá may mắn. Bốn điều này đã được cắt giảm, thực hiện trong mười mấy năm sau, thì quan lại già cả ngu muội sẽ ít đi, mà nhân tài tiến sĩ có thể dùng được sẽ không bị trì trệ ở chỗ nhàn rỗi, ngày chờ khuyết sẽ ít đi, mà ngày tại chức sẽ nhiều lên, chính sự của thiên hạ không có gì là không được trị lý.

[21] Thần trộm nghĩ rằng việc sửa đổi và thiết lập pháp chế là kế sách lâu dài cho đất nước, chỉ cần xem xét lý lẽ đúng sai, lợi hại của sự việc, không cần đợi mọi người đều hài lòng rồi mới cho là tiện. Từ những năm gần đây, tình trạng quan lại quá nhiều có thể nói là rất nghiêm trọng. Nếu không nghĩ cách giảm bớt, vài năm sau, việc tiến cử quan lại sẽ càng thêm lộn xộn, kẻ hèn kém và già yếu sẽ càng nhiều, người tài sẽ càng bị bức bách, chính sự thiên hạ sẽ càng không được trị lý. Thần trộm nghĩ rằng các quan trong hội nghị không phải không biết tệ nạn quan lại quá nhiều, nhưng bàn luận suốt nửa năm, cầm bút nhìn nhau, không dám giảm bớt chút nào, là vì sợ bị thế tục chê trách. Sợ thế tục chê trách mà không tính đến lợi hại của triều đình, thương xót kẻ hèn kém không được tiến cử mà không nghĩ đến người tài bị bỏ phí, không phải là kế sách hay. Thần mong ban chiếu cho các đại thần chấp chính xem lại chương tấu trước của thần, bàn kỹ về tệ nạn quan lại quá nhiều, nghiêm túc giảm bớt, thực sự không phải là việc nhỏ. (Chương tấu trước kèm theo ngày 26 tháng 8 năm Nguyên Niên.) Sau đó, Quân lại xin được đối đáp, trực tiếp trình bày tệ nạn quan lại quá nhiều không thể không cải cách, Thái hoàng thái hậu khen ngợi và chấp nhận. Quân xin thi hành pháp luật trước hết với người quyền quý gần gũi, Thái hoàng thái hậu nói: “Nên bắt đầu từ nhà ta.”

(Chương tấu trước của Quân vào ngày 26 tháng 8 năm Nguyên Niên, phần này dựa theo gia truyền của Quân thêm vào. Ngày Ất Sửu tháng 11 năm thứ 3, bắt đầu cắt giảm ân điển bổ nhiệm từ Tể chấp trở xuống. Ngày Giáp Dần tháng 12, Thái hoàng thái hậu cắt giảm trong nhà mình. Vì Quân xin đối đáp không rõ thời gian[7], nên phụ thêm vào dưới chương tấu này.)

[22] Thị ngự sử Vương Nham Tẩu tâu: “Thần trộm thấy Hàn lâm học sĩ Tô Thức dâng lời, xin xuất tiền bạc trong kho nội phủ để bổ sung vào số tiền và thóc của kho Thường bình là ba triệu quan, thạch[8], dùng hết để mua ruộng và chiêu mộ người làm việc, muốn thay đổi hoàn toàn pháp chế của bệ hạ, việc này liên quan rất lớn. Vốn không có chỉ dụ của triều đình bảo ba lộ xem xét, mà cơ quan Tường định dịch pháp tự tiện ban hành, thần e rằng nhân tình các quận huyện ba lộ sẽ kinh động, ngờ vực nhà nước muốn thay đổi. Bệ hạ đang lấy sự yên tĩnh để nuôi dưỡng thiên hạ, việc hôm nay không nên khinh suất lay động. Thần mong bệ hạ trước hết hạ chiếu cho các đại thần chấp chính xem xét kỹ có được hay không, nếu các đại thần chấp chính đều cho là được, lại xin hạ lệnh cho các cận thần họp bàn, các cận thần cũng cho là được, sau đó mới hỏi ý kiến bốn phương, cũng chưa muộn. Thần xin ban lệnh ngay cho cơ quan Tường định dịch pháp thu hồi văn thư xem xét của ba lộ, và bảo họ phân tích rõ nguyên do rồi tâu lên.”

[23] Nham Tẩu lại tâu:

[24] “Thần trộm thấy Tô Thức đề nghị xin phát hết số tiền và thóc dư của kho Thường bình trong thiên hạ là ba triệu quan, thạch, để mua ruộng chiêu mộ người làm việc, muốn lập nên một việc lớn, tự trình bày năm điều lợi và hai điều hại. Thần xét thấy năm điều lợi đều là lời khó tin, hai điều hại đều là lẽ tất nhiên, nhưng chưa đủ, thần cùng các sĩ đại phu xét kỹ lời bàn ấy, lại thấy mười điều hại, xin trình bày với bệ hạ.

[25] Dân vô tri chỉ mong được lợi, ban đầu có thể ứng mộ để cày ruộng, trong ba năm năm, hoặc vì tội mà bị đình chỉ[9], hoặc vì bệnh tật mà bỏ, hoặc già chết, nhà họ không có người trai tráng thay làm việc, thì sẽ phải tước ruộng mà chiêu mộ người khác, như vậy là giữa đường đẩy cả nhà họ vào chỗ chết. Đó là một điều hại.”

[26] Dân giàu mời khách làm tá điền, mỗi năm trước khi thu hoạch, cho vay mượn chu cấp đủ thứ, một khi không được đối xử tử tế, năm sau ắt bỏ đi nơi khác. Nay một hai khoảnh đất trống, tá điền đứng ra ứng mộ, nhà cửa, công cụ canh tác, chi phí cỏ lương, trăm thứ không có một, lấy gì để sống, ai sẽ lo liệu? Đó là tệ thứ hai.

[27] Ruộng gần thành, người ta thường tiếc, không đến mức bất đắc dĩ thì không đổi. Nay quan lại quận huyện vì bị ép thi hành pháp luật, hoặc tăng gấp đôi tiền quan, khéo léo dụ dỗ, hoặc dựa vào thế lực công, thẳng tay ép buộc. Dân ngu xuẩn, một là vì tham lợi, hai là vì sợ uy, không nghĩ xa, đành phải bán. Khi tiền quan vào tay, tiêu pha ngay, khiến anh em nảy sinh tranh chấp, cha con có hiềm khích, quy chế cũ đổ vỡ, phong tục tốt cũng suy. Đó là tệ thứ ba.

[28] Nông dân giỏi cày ruộng, không bóc lột đất quá, nên thu hoạch ổn định, lợi ích vô tận. Nay người ứng mộ, biết ruộng quan không phải của mình, cày cấy gieo trồng chắc chắn không hết sức, chỉ cốt vắt kiệt đất, để tạm thu hoạch, thu hoạch ngày càng ít, bỏ đi càng dễ. Phép này mà thi hành, vài năm sau, không chỉ biến ruộng dân thành ruộng quan, mà còn thấy đất tốt thành đất xấu. Đó là tệ thứ tư.

[29] Trước kia dùng tiền thuê người làm việc, tệ ở kẻ tiểu nhân nơi thị thành, nay dùng ruộng mộ người làm việc, lại chỉ được kẻ khách trôi nổi nơi thôn quê, đều không thể làm việc quận huyện. Đó là tệ thứ năm.

[30] Dù gọi là ứng mộ, nhưng thực tế không rời nhà, có việc thì tạm thời ứng dụng, không việc thì quanh năm ở ruộng. Dù có đến lượt thay phiên, cũng không ảnh hưởng việc nông, không như các loại dịch khác, suốt ngày ở công môn, vẫn nghe kẻ chưa đủ khó chiêu[10], kẻ đã chiêu thì thường bỏ đi. Lấy đó so sánh, không hợp tình hình. Đó là tệ thứ sáu.

[31] Hộ dân từ bậc thứ ba trở lên đều có thể tự túc, chắc chắn không muốn chiếm ruộng công, nguyện làm việc vĩnh viễn. Nay đã lập pháp, phải cho phép hộ dân từ bậc thứ hai trở lên được làm cung thủ, từ bậc thứ ba trở lên được làm các chức dịch như tán tòng quan trở xuống, đó là lấy danh nghĩa cấp ruộng để chiêu mộ, nhưng thực chất là dựa vào sổ sách để định sai dịch. Đã nói rằng dân chúng vui lòng ứng mộ, vậy tại sao từ bậc thứ tư trở xuống lại phải cần hộ bậc nhất, bậc nhì bảo lãnh? Một khi có người bỏ trốn, liền bắt người bảo lãnh phải nhận ruộng và làm dịch, đó là biết việc không thể làm nhưng vẫn cố tình ngăn chặn. Vừa không thể giúp hộ dân dưới yên ổn làm ăn, lại không thể khiến hộ dân trên sống vui vẻ. Đó là tệ thứ bảy.

[32] Việc dân gian cầm cố, bán ruộng đất phần lớn là do gấp gáp vì hôn nhân, tang ma, thường phải khẩn khoản xin chủ nợ trước tiên mượn tiền, sau đó mới làm hợp đồng, gặp chút trở ngại cũng phải trình bày. Nay bán ruộng cho nhà nước, quan lại gây khó khăn, thủ tục chắc chắn nhiều, dù pháp luật nghiêm ngặt nhưng cuối cùng khó mà ngăn chặn được. Hoặc đã trình quan muốn bán, nhưng quan chức chưa rảnh để đi kiểm tra, hoặc đã định giá bán xong, nhưng chưa có người nào tình nguyện nhận ruộng, chưa dám nhận tiền, bị giữ lại nhiều ngày, dân chúng muốn bỏ cũng không được, muốn khiếu nại cũng không có đường. Đó là tệ thứ tám.

[33] Những người ứng mộ, nếu toàn là dân nghèo, thì khi gặp hạn hán, đói kém, làm sao ngăn họ di cư? Nếu toàn là hộ dân trên, thì việc chuyển dịch, biến đổi sẽ đổ lên ai? Đó là tệ thứ chín.

[34] Triều đình lo rằng pháp luật về việc không xử lý quan lại bị cách chức, giảm tội do ân xá là quá nặng, vừa ra chiếu cho các cơ quan sửa đổi, lại lập thêm điều luật này, đó là vì người bàn luận tự thấy khó khăn, nên chỉ muốn dùng sức mạnh để kiểm soát sự việc, dùng pháp luật để điều khiển con người. Nếu vì lâu dài mà việc chiêu mộ không thực hiện được, quan lại đều bị xử phạt vì vi phạm quy định[11], lại không được giảm tội do ân xá hoặc cách chức, thì tất cả quan lại từng làm việc ở ba lộ quận huyện, sẽ không còn ai lành lặn. Đó là tệ thứ mười.

[35] Thần tuy đã trình bày mười điều tệ hại, nhưng chỉ liên quan đến việc của dân chúng và các cơ quan, chưa đề cập đến kế sách quốc gia. Có ba điều đáng tiếc lớn. Điều mà Bệ hạ dựa vào để trị quốc là phép tắc thành văn của tổ tiên. Trong các phép tắc đó, điều mà thiên hạ đều cho là có lợi và không thể thay đổi, không gì lớn hơn phép sai dịch. Bệ hạ đã khôi phục và thực hiện được mấy ngày, nay lại đột nhiên dâng nghị muốn thay đổi. Đây là điều đáng tiếc thứ nhất. Người nắm thiên hạ thường lấy được lòng dân làm khó. Từ khi Bệ hạ cho dân chúng nghỉ ngơi, lòng người đều coi Bệ hạ như cha mẹ. Giữ vững mà không để mất, phúc an lạc đủ để vô cùng, cớ gì lại muốn gây rối? Đây là điều đáng tiếc thứ hai. Kho tàng trong cung, tích trữ của kho thường bình, tích lũy rất khó khăn, quốc gia nên giữ lại để phòng bất trắc, cứu giúp dân chúng lúc nguy cấp. Nay bình thường không có việc gì, lại muốn tiêu hết, không biết sau này lấy gì để đối phó với việc bất thường? Đây là điều đáng tiếc thứ ba.

[36] Thần thực sự ngu muội không đủ để hiểu việc thiên hạ, chỉ biết rằng dân chúng thiên hạ không thể chịu thêm sai lầm nữa, nên dốc hết lòng trung mà không tránh né. Mong Bệ hạ giữ vững phép tắc, củng cố lòng dân, tiết kiệm quốc dụng, vì kế sách lâu dài của xã tắc và sinh linh, thiên hạ sẽ rất may mắn! Xin hạ lệnh đem chương tấu của thần và nghị của Thức tham khảo rồi chọn lựa.

[37] Tờ thiếp hoàng nói: “Người đề xuất kiến nghị nói: ‘Cấp ruộng để chiêu mộ người làm việc, đúng là ý định ban đầu của Tiên đế.’ Thần tra xét vào tháng 5 năm Hi Ninh thứ 7, do Lý Thừa Chi phụng mệnh đi sứ Thiểm Tây, trong việc sửa đổi pháp lệnh về việc làm, đã trình bày xin thi hành. Đến tháng 4 năm sau, triều đình liền ban chỉ dụ bãi bỏ. Nếu không phải Tiên đế đã thấy rõ việc này không thể thực hiện được, sao lại có chỉ dụ sau này? Xin giao cho Trung thư tỉnh tra cứu văn bản gốc để xem xét kỹ lưỡng. Lại có người đề xuất kiến nghị nói: ‘Pháp lệnh về cung thủ đã có sẵn, không có gì đáng nghi ngờ.’ Thần xét: Năm Nguyên Phong thứ nhất, Kinh lược sứ Hà Đông là Hàn Giáng tâu rằng, ở ba châu Lân, Phủ, Phong, sau khi chiêu mộ cung thủ, số người bỏ trốn và được miễn trừ ngoài số thiếu hụt, vốn do đất đai cằn cỗi nên không thể chiêu mộ được. Ban đầu khi chiêu mộ, chỉ dựa vào việc mượn trâu bò, nông cụ, tiền bạc của quan phủ để đáp ứng lợi ích trước mắt, lại gặp phải nhiều năm mất mùa, quan phủ phải cấp lương thực nuôi dưỡng, số người bỏ trốn và được miễn trừ là hai nghìn người, nợ tiền bạc và lương thực hơn mười bảy nghìn quan, thạch, cùng với những người không biết làm ruộng, chỉ ở thành thị bán đồ ăn chín, còn đất đai bỏ hoang phần lớn là đất cát không thể canh tác. Tấu chương này vẫn còn, xin được xem xét kỹ. Lại có người đề xuất kiến nghị nói: ‘Ruộng đất của quan phủ trước hết phải hỏi người đang canh tác, nếu không có người ứng mộ, hoặc tự nguyện không làm việc, mới được chiêu mộ người khác.’ Xét thấy dân ba lộ canh tác ruộng đất của quan phủ rất nhiều, thường là cha truyền con nối, xây dựng nhà cửa, trồng cây cối, đã thành nghiệp lâu dài. Một sớm một chiều bị lấy đi, họ sẽ đi về đâu? Thần e rằng sẽ làm tổn thương lớn đến lòng dân, không phải là ý của Bệ hạ ngày nay.”

[38] Ba lộ, năm Nguyên Phong thứ 8, số hộ đang canh tác ruộng hoang và ruộng bỏ hoang tổng cộng là 11.680 khoảnh lẻ: Hà Bắc 3.838 khoảnh, Hà Đông 3.178 khoảnh, Thiểm Tây 8.671 khoảnh.

(Tấu nghị của Chu Quang Đình, quyển 5, cùng với tấu chương này của Nham Tẩu đều giống nhau.)

[39] Hữu ty gián Vương Địch tâu:

[40] Thấy Tô Thức kiến nghị miễn dịch khoan thặng tiền hộc hơn ba mươi triệu quan, thạch, trước đây vì việc quân sự đã mượn gần một nửa, xin xuất kho nội phủ vàng lụa để khôi phục đủ ba mươi triệu quan, thạch, mua ruộng ở ba lộ Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây để chiêu mộ người làm dịch, sở Tường định dịch pháp đã hạ lệnh cho ba lộ xem xét. Thần trộm nghĩ rằng đó không phải là kế sách hay.

[41] Mọi tấc đất đều là đất của Vua, mọi người dân đều là dân của Vua. Từ khi trời đất phân chia, Vua tôi đã lập, dân làm việc cho Vua cũng đã lâu rồi. Mệnh ngắn dài là do Vua định; việc hợp với trời đất là do Vua xem xét. Cho nên ăn tô thuế, bắt làm việc mà không phải là bạo ngược. Dù bị đẩy vào nước lửa cũng không dám từ chối, dù đối mặt với lưỡi dao cũng không dám oán hận, đó là vì phận đã định. Nay bàn việc mua ruộng chiêu mộ người làm dịch, xa thì không theo đạo thường hành của hai đế ba vương, gần thì không dùng phép đã thành của một tổ năm tông, mà lại muốn như nhà giàu họ lớn may mắn thấy láng giềng phá sản bán ruộng, thì dụ bằng lợi lớn để thôn tính, rồi sau đó mới có thể ăn tô thuế và bắt người làm việc, thật là thô bỉ vậy. Ruộng liền nghìn mẫu, thuộc về tá điền, kẻ thường dùng thế để hùng cứ một làng thì được; nếu cho rằng thật sự có thể làm phép tốt về sức dịch cho người có thiên hạ, thì há chẳng phải là mê hoặc sao!

[42] Nay vùng biên giới Thiểm Tây tiếp giáp với đất Khương Nhung, đan xen như răng chó, nên triều đình bỏ đất ấy để chiêu mộ dân làm nghề bắn cung tên, miễn thuế ruộng cho họ. Những người làm nghề bắn cung tên vốn trước đây phải chịu lao dịch thường xuyên. Họ được đất để cày cấy, không lo thuế má, còn ta được người để chống giặc, giảm bớt chi phí nuôi quân. Người đời cho là tiện lợi, chẳng phải hợp lý sao? Đến như Trấn Nhung, Đức Thuận đều ở nơi biên ải xa xôi, những người được chiêu mộ tuy có chức vụ thường xuyên, nhưng họ chịu ứng mộ cũng chỉ vì ruộng đất không phải nộp thuế mà thôi. Còn lại chỉ có vài châu như Đào, Hà là chưa có dân không nộp thuế[12], nhưng việc ở Đức Thuận, Trấn Nhung cũng tương tự, đã không có hộ nộp thuế năm hạng để sai dịch, thì tình thế bất đắc dĩ, e rằng phải cấp ruộng để chiêu mộ. Vì thuế thường đã không đánh vào họ, nên họ cũng muốn làm dịch nhân. Nhưng lẽ nào lại phải bắt chước nhà giàu họ lớn, bỏ tiền ra mua ruộng rồi mới làm được sao? Nay nếu mua ruộng của dân, thi hành phép ấy ở nội địa, lại miễn thuế thường cho họ, thì triều đình trước hết phải tốn tiền mua ruộng, lại hàng năm lấy thuế ruộng ấy để thuê người làm dịch, khác gì việc cấp tiền thuê người? Chỗ khác nhau chỉ là trước kia thuê người, tiền do dân đóng, nay thuê người, thuế do quan đóng mà thôi. Thuế đã bị thiệt hại nhiều, chẳng phải là hại đến kinh phí sao? Nếu không miễn thuế thường cho họ, thì một hai khoảnh ruộng mỗi năm thu được bao nhiêu, mà vừa bắt họ làm việc, lại bắt nộp thuế, khiến họ cả đời không được nghỉ ngơi, lại thêm gánh nặng cho con cháu, chẳng phải là tàn nhẫn sao? Những kẻ dân không hiểu biết, ban đầu tuy lấy việc được ruộng làm vui, nhưng đến khi mệt mỏi vì lao dịch, khốn khổ vì đói kém, thì chỉ còn cách bỏ trốn để tự thoát thân mà thôi, đâu phải là kế lâu dài?

[43] Phép sai dịch hiện nay, một ấp có vạn hộ, mỗi năm chỉ phải đi phục dịch không quá vài trăm người. Chọn vài trăm người trong vạn hộ, chỉ những người có tài sản dồi dào mới được chọn, lại có lúc được thay phiên nghỉ ngơi. Thế mà những người bàn luận vẫn lo rằng họ không thể đảm đương được việc phục dịch, nên mới nảy ra ý kiến dùng ruộng đất để chiêu mộ người đi phục dịch. Những người dân phải đi phục dịch đó, được nhận ruộng đất từ quan phủ, tuy là một điều may mắn nhất thời, nhưng nếu xét kỹ, thì việc nhận ruộng từ quan phủ và nhận ruộng từ cha ông, có gì khác nhau? Lợi ích từ đất đai sinh ra đều có hạn cả. Há chẳng phải những người không nhận ruộng từ cha ông, dù ruộng nhiều, lại có thời gian nghỉ ngơi, mà vẫn lo không đảm đương nổi việc phục dịch; còn những người nhận ruộng từ quan phủ, dù ruộng ít, lại không có thời gian nghỉ ngơi, mà lại có thể phục dịch mãi mãi sao? Điều này không cần suy nghĩ sâu xa cũng có thể biết được.

[44] Tô Thức bàn rằng: “Năm Hi Ninh, từng thi hành phép cấp ruộng để mộ người làm dịch[13], nghe từ dư luận, xuất phát từ ý chỉ của Tiên đế. Nhưng các đại thần bên cạnh lại muốn nhanh chóng thành công, lại muốn lợi dụng số tiền dư để làm việc khác, nên tranh cãi nhau, cuối cùng không thực hiện được. Người hiếu thảo là người khéo kế thừa chí hướng của người khác, khéo kể lại việc của người khác, đó là lý do Vũ Vương và Chu Công được ngàn đời ca ngợi.”

Thần cũng cho rằng không phải vậy. Nói rằng phép ấy xuất phát từ ý chỉ của Tiên đế, thì không phải điều thần có thể biết. Nói rằng phép ấy bị bãi bỏ vì ý riêng của các đại thần, cũng không phải điều thần có thể biết. Nhưng có điều có thể biết được, lúc đầu thi hành, thì Tiên đế ắt cho rằng phép ấy là đúng, mà cuối cùng bãi bỏ, thì Tiên đế ắt cho rằng phép ấy là sai. Nay chỉ muốn kế thừa ý chỉ của Tiên đế khi thi hành phép ấy, mà không thể kế thừa ý chỉ của Tiên đế khi bãi bỏ phép ấy, há chẳng phải là mê hoặc sao?

Người hiếu thảo là người khéo kế thừa chí hướng của người khác, khéo kể lại việc của người khác, đó vốn là việc của Vũ Vương và Chu Công. Nhưng chí hướng của thánh nhân, chỉ có thánh nhân mới có thể hiểu được, điều dễ hiểu được, chỉ là việc mà thôi. Cái gọi là việc, cũng tùy thời mà thêm bớt, đó mới gọi là khéo kể lại. Vì thế, Văn Vương dựng Phong ấp, không phải không tính đến kế lâu dài, đến Vũ Vương thì không ở đó mà dựng Hạo Kinh. Văn Vương trị vì đất Kỳ, chợ búa chỉ kiểm soát mà không đánh thuế, đầm hồ không cấm, không phải không tính đến phép lâu dài, đến Chu Công giúp Thành Vương trị vì nhà Chu, thì chợ búa có thuế mà đầm hồ có cấm. Việc của Chu Công và Vũ Vương há hoàn toàn giống với Văn Vương sao? Nhưng đời sau cho rằng Vũ Vương và Chu Công là bậc đạt hiếu, vì việc của họ hợp với thời thế, mà thêm bớt thay đổi, không hại gì đến việc khéo kế thừa và khéo kể lại. Nếu phép mua ruộng để mộ người làm dịch, Tiên đế cuối cùng thi hành mà không hợp với hiện tại, vẫn nên thay đổi, huống chi Tiên đế xét thấy nó sai mà bãi bỏ ư?

[45] Dân chúng không thể bị động nhiều lần. Trước đây, triều đình thấy rằng pháp miễn dịch không thể tránh khỏi tệ nạn, nên đã thay đổi thành pháp sai dịch. Sai dịch là pháp cũ của tổ tiên, đã có sách thành văn, thực hiện rất dễ dàng, nhưng vẫn còn nhiều ý kiến bất đồng, dân tình nghi ngờ, phải mất một năm mới ổn định. Nay lại muốn thay đổi vô cớ, khiến các quận huyện hoang mang, làm rối loạn dân chúng ba lộ, không phải là đạo an định. Thần xin Thánh thượng xem xét kỹ, ra lệnh cho các cơ quan hữu trách, bãi bỏ ý kiến dùng ruộng đất để mộ dịch, để yên lòng dân. (Ý kiến của Tô Thức về việc mua ruộng mộ dịch được ghi chép vào tháng 4 và tháng 6 năm đầu. Ý kiến của Vương Nham Tẩu, Tôn Thăng, Vương Địch tự chú là ngày 18 tháng 3. Ý kiến của Tôn Thăng nói là sau tháng giêng, nhưng không ghi rõ ngày. Nay nhân dịp cuối tháng 3, ghi thêm ý kiến của Vương Nham Tẩu, Vương Địch và Thượng Quan Quân.) Điện trung thị ngự sử Tôn Thăng tâu:

[46] Thần từng đọc sách 《Thi》 nói: “Không sai không quên, noi theo phép cũ.” Thần nghĩ rằng tổ tiên hơn trăm năm, thánh hiền kinh luân, tạo nên sự nghiệp thái bình, từ thời Tam đại đến nay, chưa từng có sự trị vì như ngày nay. Vậy nên pháp độ điển chương, con cháu muôn đời tuân theo và giữ gìn, không thể thay đổi. Dù phép tắc của thánh nhân, thi hành lâu ngày, ắt sẽ có thiên lệch và tệ nạn, điều cốt yếu là đời sau cứu chữa sự thiên lệch, bổ khuyết tệ nạn mà thôi. Kính nghĩ Bệ hạ từ khi lên ngôi đến nay, kính cẩn noi theo phép cũ, kế thừa công nghiệp tiền nhân, thấu hiểu sâu sắc rằng việc miễn dịch thu tiền làm khổ dân và gây hại cho thiên hạ, nên từ đầu năm Nguyên Hựu, đã ban ân chiếu, ra lệnh khắp nơi khôi phục lại phép tắc trăm năm của tổ tiên, bãi bỏ việc thu tiền miễn dịch, hoàn toàn áp dụng theo điều lệ trước năm Hi Ninh nguyên niên. Ngày lệnh ban xuống, dân chúng khắp nơi đều vui mừng. Nhưng từ giữa tháng chín năm ngoái trở đi, lại bàn việc thu tiền từ hạng năm trở lên ở thành thị, (ngày 18 tháng chín.) Từ tháng giêng năm nay, lại khiến các làng xã có từ 300 quan trở lên được giảm một nửa tiền miễn dịch. Trong vòng một năm, chiếu lệnh đã thay đổi đến ba lần. Thần nghe ngóng dân chúng khắp nơi, từ khi có chỉ dụ giữa tháng chín, lại thấy điều lệ ban ra tháng giêng năm nay, đều lo lắng bất an, cho rằng mệnh lệnh triều đình thay đổi không ổn định, và phép tắc cũ của tổ tiên sắp bị thay đổi. Những kẻ bóc lột tích trữ, lén lút rình mò, mong có cơ hội, lại ra tay độc ác. Thần từng dốc hết lòng ngu muội, dám trình lên thiên tử, nhưng cuối cùng vẫn chưa được triều đình xem xét thi hành.

[47] Thần lại nghe các nghị sĩ kiến nghị muốn bãi bỏ phép sai dịch của tổ tông, mà mua ruộng để chiêu mộ dân làm việc. Trong ngoài đều nghe đồn, không ai không lấy làm lạ và kinh hãi, nhưng bàn luận ở triều đình không thể bác bỏ được lời nói cuồng loạn ấy, quan chức định ra phép dịch lại sợ hãi tránh né không quyết đoán, bèn hạ lệnh cho ba lộ xem xét. Thần e rằng bốn phương nghe tin ấy, lòng dân càng thêm bất an. Huống chi việc mua ruộng chiêu mộ dân làm việc, vào thời Hi Ninh đã từng thực hiện, chưa được mấy tháng đã bãi bỏ. Nay người đề xuất kiến nghị ấy, cho rằng nghe từ dư luận, là ý của Tiên đế. Thần nghĩ rằng Tiên đế chăm lo việc chính sự, tất phải có ý kiến rõ ràng ở triều đình, há lại nghe từ dư luận bên ngoài? Việc mua ruộng chiêu mộ dân làm việc, dù kẻ ngu muội cũng biết là không thể thực hiện, không cần đợi thần nói mới thấy rõ.

Thần xin dẫn lời người đề xuất tự nói về năm cái lợi và hai cái hại, cái lợi lớn nhất chẳng qua là dùng ba triệu quan tiền dư thừa từ việc miễn dịch để mua ruộng, khiến dân biết rằng Tiên đế không có ý thu thuế nặng, mà là để dùng vào việc ngày nay. Thần cho rằng dân trong thiên hạ, dù là kẻ ngu phu ngu phụ, không ai không biết Tiên đế có lòng nhân từ yêu thương dân chúng, mà bọn quan lại tham lam, thi hành pháp luật quá đáng, há cần phải dùng những việc nhỏ nhặt để tự minh oan sao? Há cần phải đợi lời của nghị sĩ rồi mới tin sao? Cái hại lớn nhất là khiến Bệ hạ bỏ phép tắc thái bình trăm năm của tổ tông, mà khiến dân chúng phải chịu họa đến cả con cháu. Nặng nhẹ được mất, so sánh rõ ràng dễ thấy. Người xưa nói rằng lợi không gấp trăm lần thì không thay đổi phép tắc, nay cấp ruộng chiêu mộ dân làm việc, cái lợi nhỏ, còn nói không quá năm điều, mà cái hại lớn, tự nói phải có hai điều, như vậy là lợi chưa tới trăm mà hại đã quá nửa rồi, chỉ làm rối loạn thiên hạ.

[48] Kính nghĩ Bệ hạ mới lên ngôi, đang là lúc phải tuân thủ phép tắc của tổ tông, không nên dễ dàng thay đổi, làm động lòng người, kính mong Thánh từ xem xét kỹ, sớm ban chỉ dụ xuống cơ quan định ra phép dịch, nhanh chóng ngăn chặn việc ba lộ xem xét thi hành, để yên lòng dân bốn phương, thì thiên hạ may mắn lắm thay! Giám sát ngự sử Thượng Quân Quân tâu:

[49] Thần thấy Hàn lâm học sĩ Tô Thức gần đây bàn việc mua ruộng để chiêu mộ dân làm việc công, triều đình giao cho cơ quan phụ trách pháp chế xem xét. Ngày nghị sự đưa ra, các quan trong ngoài đều kinh ngạc, cho rằng về lý không thể thực hiện được. Thần nhân đó dựa vào các điều khoản lợi hại mà Tô Thức đã trình bày, xin được trình bày chi tiết. Tô Thức cho rằng những người được chiêu mộ làm việc công phần lớn là dân châu huyện, nếu ruộng mua ở quá xa châu huyện thì lâu ngày khó mà chiêu mộ được, nên xin quy định khoảng cách từ ruộng mua đến châu và huyện. Thần cho rằng cung thủ được cấp 2 khoảnh ruộng, tán tòng quan được cấp 1 khoảnh, tính ra mỗi huyện ít nhất cũng cần gần trăm người, cấp gần 200 khoảnh ruộng. Diện tích ruộng đã nhiều, lại phải gần thành quách, tất nhiên khó mà đủ được. Bởi ép dân bán ruộng thì gây oán, dụ dân bán ruộng thì hại dân, để họ tự nguyện thì không thể có đủ ruộng, đây là điều không thể thực hiện thứ nhất.

[50] Tô Thức cho rằng hiện nay các quan lại ở ba lộ đang thực hiện việc này, e rằng có thể sẽ ép buộc dân bán ruộng[14], hoặc chiêu mộ những kẻ lang thang, hoặc mua nhiều ruộng đất cằn cỗi, chỉ lo giải quyết tạm thời, không nghĩ đến hậu quả sau này. Ông muốn chọn ba người tri châu có tư chất thuần hậu, để họ tự chọn các huyện thuộc quyền, mỗi lộ chọn một châu thực hiện trước, trong một năm sẽ sơ bộ hình thành quy củ, sau đó có thể mở rộng ra toàn lộ, giao cho chuyển vận sứ và đề hình sứ thường xuyên đôn đốc. Nếu không thực hiện hoặc thực hiện sai phương pháp, triều đình phát hiện sẽ nghiêm trị.

Thần cho rằng dân bán ruộng chưa chắc đã là ruộng màu mỡ, và ruộng màu mỡ cũng chưa chắc gần châu huyện. Nay đã không cho phép ép buộc, thì số người bán ruộng đạt tiêu chuẩn sẽ ít đi. Dù có chọn các thái thú tư chất thuần hậu tự chọn các huyện lệnh, nhưng nếu không ép buộc bán ruộng, chiêu mộ kẻ lang thang, chỉ lo giải quyết tạm thời, thì làm sao trong một năm có thể hình thành quy củ được? Sĩ, nông, công, thương, mỗi người đều có sở trường riêng, việc gì cũng có chỗ thích hợp. Việc phân biệt đất tốt xấu, chọn giống cây trồng là việc của nhà nông, không phải là việc của kẻ sĩ. Các sĩ đại phu trong thiên hạ tự mua ruộng đất, không phải là không cẩn thận, nhưng thường giá cao mà ruộng xấu, đất rộng mà thu hoạch ít. Tại sao vậy? Vì đó không phải là việc họ quen làm. Nay nếu vì huyện lệnh mua nhầm ruộng xấu với giá cao mà cho là thực hiện sai phương pháp, liền trách phạt, mà không xét đến các việc khác, thì những quan lại tốt sẽ có kẻ không may bị cách chức. Hơn nữa, đã giao cho giám ty đốc sát, thì họ thường sẽ dò xét ý triều đình, cốt sao cho nhanh chóng hoàn thành. Giám ty đốc châu, châu đốc huyện thuộc, trên dưới nối tiếp nhau, chỉ lo ứng phó cho đúng pháp luật, tất sẽ dẫn đến ép buộc bán ruộng, mua nhiều ruộng xấu để trốn trách nhiệm. Từ thời Hi Ninh đến nay, các giám ty tuân theo pháp luật phần nhiều đều như vậy. Bởi tuân theo pháp luật nghiêm ngặt thì kỷ luật quan lại càng khắt khe, kỷ luật quan lại khắt khe thì tâm lý trốn tránh nảy sinh, chỉ có hình thức mà không có thực chất, dân chúng chịu thiệt hại, đó là lẽ tất nhiên. Đây là điều không thể thực hiện thứ hai.

[51] Tô Thức cho rằng dân chúng bán ruộng phải trước tiên trình báo với quan, lệnh tá tự mình kiểm tra, xác nhận là ruộng tốt mới được mua. Nếu giá quan định thấp, thì cho phép bán cho những hộ khác, không được ép buộc. Lại nữa, mua được ruộng chưa được nhận tiền, trước tiên phải triệu tập người có tên trong sổ, tự nguyện nhận ruộng để làm việc, mới được nhận tiền, không được ép buộc. Thần cho rằng dân chúng không muốn giao dịch với quan phủ, là vì trên dưới cách biệt, tình ý không thông, lại thêm bọn lại dịch xoay xở đòi hỏi, trăm phương mưu lợi, dù quan trên nghiêm minh cũng không thể ngăn chặn được. Dẫu quan phủ mua ruộng với giá bằng giá tư, dân chúng vẫn thích tự giao dịch với nhau. Nay bắt người bán ruộng phải trước tiên trình báo với quan, giá quan định thấp mới được bán cho những hộ khác, gọi là không ép buộc, nhưng thực chất chẳng khác gì ép buộc. Lại nữa, dân làng xã, nếu không phải vì túng quẫn cần dùng gấp, ắt không chịu bán ruộng tốt. Nay bắt người bán phải trình báo với quan, lệnh tá kiểm tra, rồi mới mua, người làm việc tự nguyện nhận ruộng, mới được nhận tiền, gần thì phải nửa năm, xa thì hơn một năm. Vừa không thể giải quyết được nhu cầu trước mắt, lại thêm tốn kém đi lại hối lộ, dù quan phủ không đến nỗi thua thiệt, nhưng người bán ruộng[15] lại càng thêm khốn đốn, đây là điều không thể thực hiện thứ ba.

[52] Thức cho rằng nếu các quan lại mua ruộng đất cằn cỗi, dẫn đến việc chiêu mộ lâu dài không thành, thì quan lại đều bị xử tội vi phạm chế độ, phân biệt cố ý hay vô ý để định tội, và không được giảm tội dù đã từ chức hoặc được ân xá. Thần cho rằng năng lực của các quan lại nằm ở tấm lòng công bằng, yêu dân, khoan dung sáng suốt, không gây phiền nhiễu, xử lý mọi việc lớn nhỏ đều chu toàn, đó mới là chính sách tốt. Không nên chỉ dựa vào một hai việc để đánh giá họ là giỏi hay kém. Nay có những quan huyện lệnh được đời coi là quan lại mẫu mực, nhưng khi mua ruộng đất lại không phân biệt được, mua phải mấy chục mẫu đất cằn cỗi, chiêu mộ không thành, liền bị kết tội vi phạm chế độ. Như vậy là vì một việc nhỏ mà bỏ qua trăm việc lớn, há chẳng phải là xử oan sao? Vào đầu niên hiệu Hi Ninh, các đại thần đã tính toán quá mức, quan lại nào vi phạm phép Bình Thường mới, dù đã từ chức hoặc được ân xá cũng không được giảm tội. Lúc đó, quan lại bị tội vì việc này nhiều không kể xiết, trong ngoài đều bàn tán, cho là không hợp lý. Nay đã bãi bỏ những điều phiền nhiễu rồi, lại muốn theo cách tính toán quá mức trước đây, thật chẳng thấy có gì hay. Đại để những người bàn luận lập pháp, ý muốn pháp luật được thực hiện nghiêm túc, thì phải đặt ra pháp cấm nghiêm khắc. Nhưng pháp cấm quá nghiêm khắc, thì người ta lại tìm cách lách luật để thoát tội, không còn quan tâm đến lợi hại của dân nữa. Đó là điều không thể thực hiện thứ tư.

[53] Thức cho rằng nếu ruộng đất công đang có người canh tác, thì trước hết phải hỏi người canh tác đó. Nếu họ không có người để ứng mộ, hoặc tự nguyện không muốn đi làm dịch vụ, thì mới được chiêu mộ người khác. Thần cho rằng ruộng đất công mà dân xin canh tác, gần thì năm bảy năm, xa thì vài chục năm, trong thời gian đó họ đã khai khẩn, bón phân, tốn kém tiền của. Đất đai đã canh tác thuần thục, một sớm một chiều mà cướp đi, sẽ làm tổn thương lòng người. Đó là điều không thể thực hiện thứ năm.

[54] Tô Thức lại cho rằng dân ứng mộ cũng giống như dân làm nghề bắn cung nỏ, không khác gì nhau. Thần cho rằng vùng đất biên giới vốn khó có ruộng, lại thêm dân làm nghề bắn cung nỏ lúc bình thường không phải chịu dịch vụ, chỉ mỗi năm tập trung một lần, nên dân biên giới vui vẻ nhận ruộng của quan. Nay thì nhận một hai khoảnh ruộng mà phải chịu dịch vụ suốt đời, lại liên lụy đến con cháu, há phải là điều dân mong muốn sao? Dù nói là nhận hai khoảnh ruộng, nhưng phải phục dịch chạy ngược xuôi, tốn kém một nửa, sao bằng làm tá điền cho nhà giàu, chia đôi lợi nhuận, làm việc nghỉ ngơi tự do, không bị hình phạt trách phạt thì tiện hơn? Dân nguyện vọng đã không ứng mộ, mà kẻ lang thang lại không được phép sung vào dịch vụ, sẽ thấy có danh mà không có thực, làm sao có thể giảm bớt dịch vụ và nới rộng cho nông dân được?

[55] Tô Thức lại cho rằng lúa rẻ làm hại nông dân, mà nông dân bán ruộng thường không bán được, nếu quan mua thì ruộng và lúa đều tăng giá, nông dân có thể đỡ khổ. Thần cho rằng mấy năm gần đây, dân bán ruộng nhiều là vì phải nộp tiền trợ dịch, lấy lãi từ kho thường bình, bọn quan lại tham lam tăng cường bóc lột, dân trung lưu khốn khổ vì thiếu thốn, nên bán ruộng nhiều. Tiền về kho công, năm nào cũng không lưu thông, người bán ruộng nhiều, người tích trữ tiền ít, nên ruộng khó bán. Nay đã bãi bỏ phép thường bình và trợ dịch, mọi lợi lộc đều về tay dân, thực hiện hơn một năm, sức dân đã đỡ, từ nay về sau, người bán ruộng ắt ít đi. Người bán ruộng đã ít thì không lo không bán được. Nếu quan xuất tiền mua ruộng, giá cao hơn giá tư, thì là dụ dân phá sản, không tiện cho cả công lẫn tư; nếu giá bằng giá tư thì dân không muốn bán, không có cách nào khả thi. Thần chưa thấy việc này có thể làm tăng giá ruộng lúa, giúp nông dân đỡ khổ.

[56] Tô Thức lại cho rằng nộp tiền cho quan, thường khổ vì tiền nặng[16], nếu dùng tiền đó mua ruộng thì tiền tệ sẽ được phân bố đều hơn. Thần cho rằng tiền các lộ hiện đã dùng để mua lúa giá rẻ, lại tùy theo sản vật của các châu quận mà chuyển đổi hàng hóa, nên số tiền tích trữ trước đây đã lưu thông trong dân rồi, không cần đợi mua ruộng rồi mới có thể phân bố tiền tệ đều được.

[57] Tô Thức lại cho rằng pháp này đã thi hành, dân được hưởng lợi, nhớ lại ý của Tiên đế khi lấy tiền khoan thặng, tất cả đều là vì ta dùng mà thôi, nghi ngờ và phỉ báng đều tiêu tan, ân đức được tỏ rõ. Thần cho rằng Tiên đế thần thánh văn vũ, dựng lập pháp độ, để lại muôn đời, như mặt trời chiếu sáng, ai chẳng thấy. Còn về tiền dịch khoan thặng, là do bề tôi mưu lợi lo lắng quá mức, điều này thiên hạ đều biết, sao phải đợi đến khi bỏ tiền mua ruộng rồi mới giải tỏa nghi ngờ và phỉ báng?

[58] Tô Thức lại cho rằng tiền dịch khoan thặng, giao cho các cơ quan chi tiêu dần dần, cuối cùng cũng không thể lập nên việc lớn, tạo lợi ích vô cùng. Nếu dùng để mua ruộng, như nhà dân biến vàng bạc thành ruộng đất, mới là kế sách lâu dài vạn toàn. Thần cho rằng mua ruộng để mộ dịch, thần đã nhiều lần trình bày có năm điều không thể thi hành. Còn việc bỏ tích trữ của thường bình để mua bán lương thực, để phòng khi hạn hán đói kém, đó chính là lấy sức dân mà dùng cho dân, cũng là để kết chặt lòng dân và làm giàu cho dân. Hiếu kế chí, lợi ích vô cùng, còn gì lớn hơn thế! Lại cần gì phải như nhà dân biến vàng bạc thành ruộng đất, rồi mới là kế sách lâu dài? Huống chi biến tiền thành ruộng, thường bình sẽ không còn vốn, lấy gì để mua bán kịp thời giúp nông dân? Nếu lo cơ quan chi tiêu phung phí, thì đặt ra chế độ tiết chế, vừa đủ là được, ngày giảm tháng mất, cần gì phải lo lắng?

[59] Thần cho rằng từ thời Tam đại đến nay, qua các triều đại, các bậc thánh vương kế tiếp nhau, pháp độ có thêm bớt, không có gì là không có. Đến như chính sách trị dân, dùng sức để cung cấp dịch vụ, dùng ruộng đất để nộp thuế, đã mấy nghìn năm chưa từng thay đổi. Vào niên hiệu Hi Ninh, tiên đế theo lời thỉnh cầu của các quan nghị thần, mua ruộng để chiêu mộ người làm dịch, thực hiện được nửa năm, ruộng đất khó mua, dân ít người ứng mộ, các bậc sĩ phu bàn luận cho là không tiện, nên không thực hiện được. Với sự suy xét sáng suốt và quyết đoán anh minh của tiên đế, hết lòng lo việc trị nước, nếu thấy pháp này là tiện lợi, há lại do dự vì lời bàn của tả hữu mà dừng lại giữa chừng? Thần nghĩ rằng không phải như vậy. Nay phép dịch đã hoàn thành, ban bố khắp bốn phương, dân chúng bốn phương được nghỉ ngơi yên ổn, thấm nhuần ơn thánh, đã phần nào ổn định. Kính mong bệ hạ đừng vì lời bàn riêng của một thần mà phá vỡ công luận của thiên hạ, nhanh chóng dừng lại, để giải tỏa sự nghi ngờ trong ngoài, thiên hạ may mắn biết bao!


  1. 'đấu' nguyên bản viết là 'năm', theo bản trong các kho sách sửa lại.
  2. Phía Nam thì Thành Châu, Nguyên Châu, chữ 'Nguyên' nguyên bản là 'Hãng', theo 《Tống sử》 quyển 493, 《Tây Nam Khê Động Chư Man truyện》 sửa lại.
  3. triệu quan giảng ngày hôm đó đến trước rèm 'đương' nguyên là 'thường', theo 《Nhị Trình tập - Hà Nam Trình thị văn tập》 quyển 6, 《Hựu thượng Thái hoàng thái hậu sớ》 sửa.
  4. hỏi về thứ tự tiến bộ của chúa thượng 'nghiệp' nguyên là 'đức', theo sách trên sửa.
  5. từ xưa đã là việc tốt 'cổ' nguyên là 'ngôn', theo sách trên sửa.
  6. Cắt giảm số năm thưởng công của lại dịch ba tỉnh 'ba' nguyên là 'hai', theo bản cải.
  7. 'thỉnh' nguyên bản là 'chư', theo các bản khác sửa lại.
  8. ba triệu quan thạch, chữ 'thiên' dưới nguyên có thêm chữ 'tam', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 65-27 mà bỏ.
  9. hoặc vì tội mà bị đình chỉ, chữ 'đình' nguyên là chữ 'đắc', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 65-48 mà sửa.
  10. vẫn nghe kẻ chưa đủ khó chiêu 'nghe' chữ nguyên thiếu, theo bản các và 《Tống hội yếu》 thực hóa 66-56 bổ.
  11. Quan lại đều bị xử phạt vì vi phạm quy định 'vi' nguyên bản là 'viễn', căn cứ vào các bản, bản hoạt tự và 《Tống hội yếu》 thực hóa 65.49, 66.57 sửa lại.
  12. 'có' nguyên bản là 'được', theo bản in các và bản in hoạt tự sửa lại.
  13. Năm Hi Ninh từng thi hành phép cấp ruộng để mộ người làm dịch, chữ 'từng' nguyên bản là 'thư', căn cứ theo 《Tô Đông Pha tập tấu nghị tập》 quyển 2, bài 'Luận cấp điền mộ dịch trạng' mà sửa
  14. e rằng có thể ép buộc dân bán ruộng, chữ 'ức' nguyên bản là 'ngưỡng', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại
  15. Người bán ruộng 'bán' nguyên là 'phí', theo bản cải.
  16. 'Tiền nặng' nguyên văn là 'tệ nặng', theo bản các bản sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.