VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 403: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 2 (ĐINH MÃO, 1087)
Từ tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ 2 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Tuất mùng một, có hiện tượng nhật thực, nhưng trời âm u mưa nên không thấy.
[2] Ngày Tân Hợi, Tập Hi Quan sứ, Trấn Giang quân Tiết độ sứ, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, Khang Quốc công Hàn Giáng được gia phong chức Thủ Tư không rồi về hưu.
[3] Triều Phụng lang Thẩm Quý Trưởng được bổ nhiệm làm Thiếu phủ Thiếu giám. Tả Gián nghị đại phu Khổng Văn Trọng tâu: “Quý Trưởng vốn không có học vấn và kỹ năng gì, chỉ là con rể của Vương An Thạch, rao giảng kinh nghĩa của họ Vương, làm mê muội học thuật. Nay đột nhiên triệu từ ngoại lộ về, bổ nhiệm làm phó chức trong tự giám. Đảng của Quý Trưởng bành trướng như kiến, một Quý Trưởng được tiến cử thì trăm Quý Trưởng sẽ kéo đến, không thể ngăn cản được.” Tả Ty gián Lã Đào cũng tâu như vậy. Chiếu chỉ bãi chức Thiếu phủ Thiếu giám của Quý Trưởng, cho làm Tri châu Tú Châu.
(Việc bãi chức xảy ra vào tháng 8, nay ghi chung vào đây.)
[4] Thừa Nghị lang Phong Tắc được bổ nhiệm làm Công bộ Viên ngoại lang.
[5] Phong Linh Huệ hầu làm Linh Huệ Ứng Cảm công.
(Nội giáng tráp tử: “Những năm gần đây, dân chúng trong kinh thành thường mắc bệnh dịch vào mùa xuân hè, đến đền Linh Huệ hầu xin nước thường được khỏi bệnh. Nên phong Linh Huệ hầu làm Linh Huệ Ứng Cảm chân quân.” Ngày 6 tháng 7, Tam tỉnh cùng tiến trình, phụng thánh chỉ đặc phong Linh Huệ hầu làm Linh Huệ Ứng Cảm công. Chế từ viết: “Cha ngươi trấn thủ đất Thục, xây dựng lợi ích của Tam Giang, công đức truyền đến đời sau. Ngươi cũng linh hiển ở phương Tây, cha con cùng được thờ cúng, truyền đến nay. Những năm gần đây, kinh thành nhờ ngươi mà được phúc, dân chúng gặp bệnh dịch, cầu đảo đều được ứng nghiệm. Người có công với dân ắt được hưởng báo đáp bằng tước vị, dù âm dương khác biệt, Trẫm đâu có phân biệt. Nay phong ngươi làm Thượng công, ban thêm mỹ hiệu, theo ý dân, để tôn vinh thần linh.” Xem 《Tằng Triệu chế tập》.)
[6] Hộ bộ tâu: “Thần trộm nghĩ rằng việc quản lý chi tiêu của quốc gia cần phải căn cứ vào thu nhập để quyết định chi tiêu, phải hiểu rõ số lượng vàng và lúa gạo trong thiên hạ, để xem xét tình hình tăng giảm, hư thực, từ đó mới có thể cắt giảm những khoản phiền phức và lãng phí; nghiên cứu những tệ nạn, cần dựa vào các quy định hiện hành để làm cơ sở tổng quát. Quốc gia ban đầu thiết lập chức quan Tam ty, tức là chức vụ của Hộ bộ ngày nay. Từ các niên hiệu Cảnh Đức, Hoàng Hựu, Trị Bình, Hi Ninh đều biên soạn sổ sách kế toán, phân loại các khoản mục, rõ ràng về thu chi. Đã nhiều năm trôi qua, chưa kịp biên soạn lại, nên cần phải xem xét và tu chỉnh để phục vụ việc tham khảo. Xin giao cho quan viên của bộ này biên tập.” Được chấp thuận. Thái hoàng thái hậu nói: “Những năm gần đây giảm bớt nhiều khoản thuế má, nhưng chi tiêu vẫn chưa giảm bớt.” Lữ Công Trước tâu: “Chi phí cho tông thất quá lớn.” Thái hoàng thái hậu nói: “Nghe lời Bộc vương nói, vào niên hiệu Thiên Thánh, số người tông thất được dự triều chỉ có bốn mươi bảy người, người được phong quan ngang với các quan trong triều, có người làm đến chức Sùng ban[1]. Từ thời Chương Hiến, mới bắt đầu đổi sang phong chức Hoàn vệ quan, tăng lương bổng nhiều lắm.” Nhân đó bàn về việc thay đổi nên thận trọng. Hàn Duy nói: “Người xưa làm việc thường cân nhắc thịnh suy, khi bắt đầu phải tính đến kết thúc.”
(Theo 《Lã Đại Phòng chính mục》 ghi: Thái hoàng thái hậu tuyên dụ: “Những năm gần đây tuy giảm thuế má, nhưng chưa tiết kiệm chi tiêu.” Các tể thần tâu: “Chi phí cho tông thất là lớn nhất.” Thái hoàng thái hậu nói: “Tông thất trước kia là quan trong triều, từ khi đổi sang chức Hoàn vệ, lương bổng mới tăng nhiều. Nhưng trước kia số lượng ít, Chương Hiến từng nói số người tông thất dự triều chỉ có bốn mươi bảy người, lúc nào mới thêm được ba người nữa để thành năm mươi người?” 《Thực lục》 ghi chép có chút khác biệt so với 《Chính mục》, nên theo 《Chính mục》. 《An Đào hành trạng》 ghi: Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu một hôm nói với Đào: “Tam tỉnh lo lắng quốc dụng không đủ, bàn việc giảm bớt một số khoản, khanh nghĩ thế nào?” Đào tâu: “Hiện nay chi tiêu đã rất tiết kiệm, nhưng Hộ bộ vẫn nghe nói khó khăn, muốn cho dưới đủ mà trên cấp, ắt phải có phương pháp. Nay lại bàn việc cắt giảm lương bổng của tông thất trước tiên, điều này càng không nên. Bệ hạ nên nghiêm khắc với ngoại thị để thể hiện sự công bằng, nhưng việc này cần phải suy nghĩ kỹ lưỡng.” Tuyên Nhân chợt tỉnh ngộ nói: “Xu mật nghị đúng.” Rồi bỏ qua. Việc này cần xem xét thêm.)
[7] Người Hạ cướp phá các đồn ở Trấn Nhung quân, chiếu cho Thiểm Tây chuyển vận sứ Phạm Tử Kỳ điều tra sự thật, và liệt kê tên các tướng quân để tâu lên.
(Cần tra cứu tên các đồn và ngày tháng bị cướp phá.)
[8] Lại chiếu: “Các phủ giới và ba lộ, việc huấn luyện bảo giáp bắt đầu từ ngày mùng một tháng 11. Nếu bị thiên tai, miễn thuế từ 5 phần trở lên thì được miễn huấn luyện; hoặc trong một đô bảo, số hộ được miễn quá nửa thì các hộ còn lại cũng được miễn.”
[9] Lại thi hành pháp lệnh xử phạt các trường vụ thua lỗ, không được giảm nhẹ dù đã thôi chức hay được ân xá.
(Cựu lục chép: “Thời Nguyên Phong, để trừng trị những quan lại lười biếng, mong được miễn tội nhờ ân xá, nên đặt ra pháp lệnh này. Đến đầu Nguyên Hựu, theo lời bàn mà sửa đổi. Nay Hộ bộ tâu lên tệ hại, nên khôi phục lại pháp lệnh cũ.” Tân lục biện rằng: “Việc thay đổi pháp lệnh, trong Cựu lục và Tân lục đều có thể thấy rõ, không cần giải thích, nên xóa bỏ.” Có thể tham khảo bản tự biện của Tô Thức.)
[10] Ngày Quý Sửu, Triều phụng lang, Quân khí thiếu giám Quách Mậu Tuấn được bổ làm Tri Tấn châu.
[11] Chiếu: “Những người đỗ chế khoa hạng ba và tiến sĩ đỗ đầu, đều được bổ làm Thừa sự lang, Thiêm thư tiết độ hoặc Quan sát phán quan sảnh công sự hoặc Tri huyện; khi mãn nhiệm, thăng làm Thông phán; hết nhiệm kỳ, được dự thi vào Quán chức. Người đỗ chế khoa hạng tư, được bổ làm Lưỡng sứ suy quan; khi mãn nhiệm, đổi làm chức quan thứ yếu. Hạng năm, được bổ làm Sơ đẳng chức quan; hết nhiệm kỳ, được bổ làm Lưỡng sứ suy quan. Người đã có chức tước thì tùy loại mà xin chỉ dụ.”
[12] Lại chiếu: “Những người được bổ làm các chức Thị lang, nếu chưa từng trải qua hai tỉnh hoặc chức Đãi chế trở lên, đều mang chữ ‘Quyền’, xếp hàng dưới các Thị lang, thứ bậc trên Thái trung đại phu, bổng lộc ngang Gián nghị đại phu, nhưng không được ban đai vàng, đợi đủ hai năm mới xin chỉ dụ. Các Lang trung ở Lục tào, dù có tư cách Tri châu, nhưng chưa từng thực làm Tri châu hoặc Giám ty, Lục tào Viên ngoại lang, Khai phong phủ Suy quan, thì chỉ được bổ làm Viên ngoại lang.”
(Cựu lục chép: “Thời Nguyên Phong có pháp lệnh, đến nay sửa đổi.” Tân lục xóa bỏ.)
[13] Tri châu Giáng Châu là Lý Nguyên Phụ bị tước bỏ một nửa chức quan và giảm thời gian khảo hạch. Trước đó, Ngự sử Lã Đào tâu rằng: “Nguyên Phụ nhân phẩm thấp kém, ngôn ngữ cử chỉ như kẻ buôn bán. Ông ta từng lợi dụng việc cha sắp chết để vay tiền người khác, làm việc bất chính, khiến dân làng đều ghét vì bất hiếu. Sau khi làm quan, ông ta trở thành tay sai của Tiết Hướng, giúp Hướng làm hại dân. Khi ở Bân Châu cùng làm quan với Thái Xác, ông ta thường dâng vàng lụa cho Xác, che giấu lỗi lầm của Xác nên được tha. Sau khi Xác lên chức, Nguyên Phụ được làm quan thuộc Tư Nông. Trước đây, khi vận chuyển tiền bạc từ Xuyên Hạp, ông ta đã khấu trừ 3-4 vạn quan từ mỗi 10 vạn quan tiền vốn, thu lãi ảo và phân phối tiền cho quận huyện mua vật phẩm giá rẻ, gây thiệt hại cho dân, khiến nhiều nơi bị quấy nhiễu. Khi hàng hóa đến Thiểm Tây, gặp lúc biên giới Phu Diên, Kinh Nguyên có việc, toàn bộ được chuyển đi, nhưng Nguyên Phụ lại tính giá thực tế ở Phượng Tường để làm lợi nhuận, lập công hão để được thăng hai chức và giảm hai năm khảo hạch. Từ chức Đề cử Thường bình, ông ta được thăng làm Chuyển vận Phó sứ và điều sang Hoài Nam Lộ[2], đều do Thái Xác vì tình riêng mà đề bạt. Từ tháng 3 năm ngoái, thần đã nhiều lần tâu về việc Nguyên Phụ có hành vi xấu, bị sĩ phu khinh rẻ, cùng tội mạo nhận thưởng thăng chức, nhưng triều đình chưa xử lý. Gần đây, thần thấy Lý Tông bị tội vì thu thuế ảo, những người được thưởng cùng Tông đều bị tước chức, kể cả Lữ Gia Vấn vì lãi ảo trong việc thị dịch mà thăng chức cũng bị tước bỏ. Xét việc Nguyên Phụ vận chuyển tiền bạc Xuyên Hạp cũng là thu lãi ảo, mạo nhận thăng chức, giống như Lý Tông và Lữ Gia Vấn, nhưng chỉ có ông ta được miễn, không hợp với công luận. Xin xét lại và truy thu, để thể hiện sự công bằng trong thưởng phạt.” Do đó có lệnh này.
(Bản cũ và mới chỉ ghi: Nguyên Phụ ban đầu được thăng chức vì có công vận chuyển tiền bạc Xuyên Hạp, đến nay, Ngự sử Lã Đào tâu rằng ông ta làm hại dân, thu lãi ảo để mạo nhận thưởng, nên có lệnh này.)
[14] Xu mật viện tâu rằng, việc cấp thưởng bạc cho các quân khi Điện tiền Mã bộ quân ty hàng năm xét duyệt chưa có định mức rõ ràng. Chiếu lệnh lấy mười phần làm chuẩn, chọn người được thưởng không quá ba phần, mỗi năm chỉ một lần.
[15] Ngày Giáp Dần, chiếu rằng: “Các lộ hàng năm sau tháng tám giải người thi võ nghệ đến kinh, Điện tiền ty hạn chế đến tháng giêng năm sau, Quân đầu ty hạn chế đến tháng hai trước khi xét nghiệm ban ân. Những người trình thi võ nghệ đạt hạng nhì, hạng ba cũng theo đó.”
[16] Khôi phục trấn Lâm Minh của châu Minh thành huyện.
[17] Ngày Ất Mão, Triều phụng đại phu Chu Diễn được đặc cách đổi làm Trang trạch sứ, do Thứ sử châu Văn là Miêu Thụ tiến cử rằng ông trầm tĩnh dũng cảm và có mưu lược. Sau đó, Diễn được lệnh làm Tri châu Kim, Diễn xin theo lệ của Chủng Ngạc, được bổ nhiệm làm quan ở các châu quân biên giới thuộc ba lộ, kiêm chức Phân kiềm hạt và Đô giám của một lộ. Nếu cho là không được, xin trả lại chức cũ, lại được chấp thuận.
(Việc Diễn được khôi phục làm Triều phụng đại phu vào ngày mùng 3 tháng 9, nay ghi chung lại, sự việc căn cứ theo 《Tằng Triệu chế tập》.)
[18] Ngày đó, Triều phụng lang, quyền Tri Khai Phong huyện La Thích được bổ làm Khai Phong suy quan, Triều phụng lang, quyền Khai Phong phủ suy quan Trương Thương Anh được bổ làm Đề điểm Hà Đông lộ hình ngục. Trương Thương Anh trước đó đã dâng thư nói: “Ba năm không thay đổi đạo của cha, nay đất lăng tiên đế chưa khô, sao lại dám khinh suất bàn việc thay đổi!” Lại từng gửi thư cho Tô Thức, muốn làm quan ngôn sự. Có người biết được, báo với Lữ Công Trước, Công Trước không vui, nên đẩy ông ra ngoài.
(Theo 《Huy Lục》 truyện Trương Thương Anh và 《Thiệu Bá Ôn Biện Vu》 ghi chép. Thiệu Bá Ôn viết truyện Chương Đôn nói: “Đôn sau khi làm tướng, tiến cử Thái Biện làm Hữu thừa, Lâm Hi làm Trung thư xá nhân, Trương Thương Anh làm Gián quan. Thái Biện vì Vương Kinh công phục hồi danh dự, lại cho rằng việc bổ nhiệm làm Tri Quảng Châu thời Nguyên Hựu là đẩy mình vào chỗ chết. Lâm Hi thời Nguyên Hựu từ Trung thư xá nhân ra làm Tu soạn, Tri Hàng Châu, không được bổ làm Đãi chế. Trương Thương Anh đầu thời Nguyên Hựu làm Khai Phong phủ suy quan, muốn làm quan ngôn sự, gửi thư cho Tô Nội hàn Tử Chiêm nói: ‘Lão tăng muốn vào chùa ô, mắng Phật chửi Tổ một phen, thế nào?’ Tình cờ Quán chức Tôn Phác đến thăm Tử Chiêm, lấy trộm được thư, đưa cho Lữ Thân Công là Hi Thuần, Hi Thuần báo với Thân Công, Thân Công không vui, đẩy Thương Anh ra làm Đề hình Hà Đông lộ. Ba người đều oán giận các tể tướng thời Nguyên Hựu.”
Hà Kỳ viết truyện Trương Thương Anh nói: “Năm Nguyên Hựu thứ nhất, được bổ làm Quyền phát khiển Khai Phong phủ suy quan công sự. Lúc đó triều đình dần muốn thay đổi phép dịch, có người can gián hoặc chê trách Dụ Lăng, ông dâng thư nói: ‘Cuối đời tiên đế, dùng lời của Hàn Kỳ, Phú Bật, sửa đổi những điều bất tiện trong tân pháp khoảng mười bảy tám phần. Làm con, nên tuân theo đạo của cha để giữ thành quả, nên 《Luận Ngữ》 nói: “Ba năm không thay đổi đạo của cha, có thể gọi là hiếu.” Nay đất lăng tiên đế chưa khô, đã bàn thay đổi, lý mà nói, có thể gọi là hiếu không? Nay quần thần chê trách thực nhiều, nếu chính sự tiên đế có điều không tốt, sao lúc tiên đế không dám nói thẳng, dâng sớ can gián, mà nay lại a dua thời thế, buông lời xằng bậy? Thần là người được tiên đế biết đến, khó lòng thay đổi tiết tháo ở triều, xin cho thần ra ngoài nhậm chức.’ Bèn bổ làm Đề điểm Hà Đông lộ hình ngục công sự. Khi từ biệt, lại dâng tráp tử nói rõ việc chính sự tiên đế không thể khinh suất thay đổi, lại nói: ‘Tư Mã Quang thời tiên đế, bất đồng quan điểm với Vương An Thạch[3], bị bỏ rơi gần mười lăm năm, ý chắc muốn thực hiện học thuyết của mình, điều này là có lý. Còn người khác, thời Hi, Phong thì a dua Hi, Phong, thời Nguyên Hựu thì a dua Nguyên Hựu, đó là kẻ phản phúc cầu lợi, không thể không xem xét.’ Nhân đó tự nói mình chịu ơn Dụ Lăng, không nỡ a dua bọn tiểu nhân, đến nỗi rơi lệ. Tuyên Nhân thương xót, nói: ‘Khanh là trung thần hiếu tử. Nhưng triều thần nhiều người nói chính sự thời Hi, Phong có điều chưa tiện, đã lệnh xem xét kỹ lợi hại, không phải khinh suất thay đổi.’ Lời ‘xem xét kỹ’ cũng chép trong quốc sử. Ông nghẹn ngào ra đi, từ đó với những người nắm quyền lúc đó lại thành kẻ thù.”
Vương Thưởng ở Sử viện viết truyện Trương Thương Anh nói: “Năm Nguyên Phong thứ tám, được triệu làm Thái thường thừa, vừa vào cửa thành thì Thần Tông băng hà. Năm Nguyên Hựu thứ nhất, được bổ làm Khai Phong phủ suy quan. Lúc đó triều đình dần thay đổi những điều bất tiện trong tân pháp, Thương Anh dâng thư nói: ‘Ba năm không thay đổi đạo của cha, có thể gọi là hiếu. Nay đất lăng tiên đế chưa khô, đã bàn thay đổi, có thể gọi là hiếu không?’ Bổ làm Đề điểm Hà Đông hình ngục. Khi từ biệt, nói rõ việc chính sự tiên đế không thể khinh suất thay đổi, nhân đó tự nói chịu ơn Dụ Lăng, không nỡ a dua, đến nỗi rơi lệ. Tuyên Nhân hậu nói: ‘Khanh là trung thần. Nhưng triều đình nhiều người nói chính sự thời Hi, Phong có điều chưa tiện, đã lệnh xem xét kỹ lợi hại, không phải khinh suất thay đổi.'” Án: Thương Anh từ phủ suy ra làm Hiến Hà Đông, Thiệu Bá Ôn ghi chép giống với hai truyện kia, Vương Thưởng đại khái theo Hà Kỳ, chỉ sửa chữa đôi chút, không rõ căn cứ vào đâu.
Án: Thương Anh năm Nguyên Hựu thứ nhất tháng tư ngày mười bốn được bổ làm phủ suy, lúc đó đã bãi bỏ phép dịch, mà ông lại nói dần muốn thay đổi, có lẽ không khảo cứu sự thực, chỉ ghi tùy tiện. Vả lại, lúc Thương Anh mới làm phủ suy, cũng chưa dám bất đồng với chấp chính, nên xem xét. Năm Nguyên Hựu thứ nhất tháng hai ngày ba, tuy có Khai Phong tri phủ và thuộc quan một viên cùng đối chỉ huy, lại án Tô Thức năm thứ ba tháng chín ngày năm dâng thư: “Từ Liêm trở lại, trừ tể chấp, đài gián, Khai Phong doãn ngoài, không còn ai được đối, chỉ có Nhĩ Anh giảng đọc hoặc được gần gũi.” Trương Thương Anh năm thứ hai tháng bảy ngày sáu từ Khai Phong suy quan ra làm Đề điểm Hà Đông hình ngục[4], không rõ sao lại được đối, e rằng việc này chắc không đúng, nay không chép.)
[19] Ngày Bính Thìn, ban chiếu rằng các châu quân mỗi năm dâng cống vật địa phương, ngoài số lượng cũ đã tiến, những phần thêm gần đây đều bãi bỏ.
[20] Ngày Đinh Tỵ, Thông trực lang Diêu Miễn bãi chức trí sĩ, được bổ làm Tông chính tự thừa. Miễn là người Sơn Âm, từng làm huyện lệnh Long Du. Mẹ già muốn về quê, xin được phụng dưỡng, ở nhà hai năm, rồi xin trí sĩ, đến nay lại được khởi dụng.
(Lữ Công Trước chép: Diêu Miễn chưa già đã xin nghỉ, làm Tông thừa, năm Thiệu Thánh thứ 4 tháng 3 có truyện[5]. Không rõ ai tiến cử, cần tra cứu.)
[21] Ban chiếu rằng các học quan trong ngoài đều chọn người từ 30 tuổi trở lên, có kinh nghiệm làm quan, theo lời xin của Ngự sử trung thừa Hồ Tông Dũ.
(Học quan từ khi bãi bỏ thi cử, phần nhiều do các quan gần gũi tiến cử. Tông Dũ nói: “Học giả vừa đỗ khoa cử, đã vội làm thầy, xin chọn những người từng làm quan lâu năm để bổ dụng.” Theo bản truyện.)
[22] Lễ bộ tâu, xin dùng nghi thức do Thái thường tự soạn theo lệ cũ cho ngày Khôn Thành tiết, các Tam sư, Tam công, Tể thần trở xuống dâng lễ chúc thọ, được chấp thuận.
(Tăng Triệu nói rõ ở ngày mồng 9.)
[23] Ngày Mậu Ngọ, nước Liêu sai Sùng Nghi quân Tiết độ sứ Tiêu Đức Sùng, Trung tán đại phu, Thủ Thái thường thiếu khanh, sung Can Văn các đãi chế Trương Lâm đến chúc mừng Khôn Thành tiết. Yến tiệc ở điện Thùy Củng, bắt đầu dùng nhạc.
[24] Thái sư Văn Ngạn Bác tâu: “Sứ giả phương Bắc vào chầu ở điện Tử Thần, yến tiệc ở điện Thùy Củng, tả hữu nội thị cầm giấy trắng và quạt lá chuối tẩm dầu hồng, giá trị chỉ hơn mười đồng. Đây là vật dụng tiện lợi hàng ngày của dân thường, nay bệ hạ ngự giá cầm dùng, cho thấy đức tính kiệm ước của Nghiêu, Thuấn. Các quan Tam tỉnh, Tể chấp và sứ giả phương Bắc dự yến tiệc, đều được chiêm ngưỡng, cho rằng Hán Văn đế mặc áo vải thô, sử sách xưa khen là đức lớn, so với nay, thật đáng hổ thẹn. Xin ghi vào sử sách.” Chiếu chuẩn.
[25] Trung thư xá nhân Tăng Triệu tâu rằng: “Kính thấy Thái hoàng thái hậu bệ hạ trước đây đã tự hạ mình, đặc biệt ban bố ân đức, không muốn ngự triều ngoại, mà lui về điện Sùng Chính để nhận sách phong. Chiếu thư vừa ban ra, trong ngoài đều than thở, những người trung nghĩa cảm động đến rơi lệ, huống chi thần đang mang tội mà được ở bên cạnh, từng dâng lời ngu muội, không ngờ lại hợp với ý thánh, được đặc biệt thu nhận, không chỉ thấy được đức thánh của bệ hạ là khắc kỷ phục lễ, mà còn biết được sự sáng suốt của bệ hạ là hư tâm nạp gián. Kẻ sĩ sinh ra trong thời này, không thể hết lòng trung thành, dốc hết trí tuệ để bổ ích dù chỉ một phần vạn, nếu thấy điều gì mà giữ im lặng, thì đó là chiếm lấy địa vị mà lừa dối trời cao, làm sao tránh khỏi trách nhiệm? Đó là lý do thần không tránh khỏi tội mạo phạm, dốc hết gan dạ, trình bày lên trước mặt bệ hạ. Nếu một lời có ích, dù chết vạn lần cũng không hối hận.
Thần nghe nói gần đây có quan viên đề nghị[6], ngày lễ Khôn Thành tiết ở điện Sùng Chính làm lễ chúc thọ, việc lên điện ban rượu và thứ tự bái biểu của văn võ bá quan, đều theo như lệ cũ năm Thiên Thánh thứ ba mà thi hành. Thần xét lệ cũ năm Thiên Thánh thứ ba: Tể tướng, Xu mật, Tam ty sứ, Học sĩ, Tri chế cáo, Đãi chế, Tiết độ sứ, Lưu hậu, Quan sát sứ, sứ Khiết Đan đứng hàng ở sân điện, làm lễ chúc thọ theo nghi thức, ban rượu ba tuần, bá quan đến cửa Đông Nội dâng biểu chúc mừng. Đến năm Thiên Thánh thứ chín, mới ngự ở điện Hội Khánh, bá quan làm lễ chúc thọ theo nghi thức ngày Càn Nguyên tiết. Từ năm Thiên Thánh thứ ba đến năm thứ tám, tổng cộng sáu năm, đều theo chế độ năm thứ ba, cũng đủ thấy tấm lòng giữ lễ sợ nghĩa của quân thần thời đó, thật là đến mức tột cùng.
Nay Tam tỉnh, Xu mật viện lại không dùng hết lệ cũ năm Thiên Thánh thứ ba, và theo đề nghị của quan viên hiện nay, đặc biệt ban chỉ triều đình, lệnh văn võ bá quan, các tướng hiệu quân đội theo ban hàng làm lễ chúc thọ, điều này thần không hiểu. Thái hoàng thái hậu trước đây ban chiếu thư, cho rằng không dám tự đồng với Thái hậu Chương Hiến ra ngự triều ngoại, nên lui về điện Sùng Chính nhận sách phong. Kính xét ý thánh, cốt ở chỗ tự hạ mình, nay lại lệnh bá quan, tướng hiệu đều đến sân điện Sùng Chính đứng hàng làm lễ chúc thọ, thì đó là điều chưa từng có trước năm Thiên Thánh thứ tám, lễ nghi lại càng tăng thêm so với trước. Đối với chí hướng khiêm cung tự hạ của bệ hạ, trước sau dường như không tương xứng, thần ngu muội cho rằng đây chắc không phải là ý của Thái hoàng thái hậu, mà là do các đại thần chấp chính không suy nghĩ kỹ mà thôi.
Kính nghĩ Thái hoàng thái hậu bệ hạ, có đức thịnh không gì sánh được của các thái hậu đời trước, có công lớn là cho dân chúng nghỉ ngơi, nuôi dưỡng vạn vật, được sự yêu mến kính trọng của bốn biển chín châu, sự tôn quý đã đến mức tột cùng, há cần bá quan tướng hiệu đứng hàng ở sân điện[7], rồi mới là quý sao? Thần ngu muội mong bệ hạ đặc biệt ban chiếu cho quan viên, hoàn toàn theo lệ cũ năm Thiên Thánh thứ ba ngày Trường Ninh tiết mà thi hành, để thiên hạ biết được chí hướng khiêm cung tự hạ của bệ hạ, trước sau như một, đầu cuối tương xứng, chép vào sử sách, làm gương cho muôn đời, há chẳng tốt sao! Sách viết: ‘Không chú ý đến việc nhỏ, cuối cùng sẽ làm hỏng đức lớn; xây núi chín tầng, công lao thiếu một sọt đất.’ Xin bệ hạ lưu ý đừng bỏ qua, thiên hạ may mắn biết bao! Thần với thân phận cô lẻ xa xôi, ở triều ít người giúp đỡ, được bảo toàn và đề bạt, đều nhờ ơn thánh. Thường hận không thể báo đáp dù một phần vạn, nên gặp việc là nói ra, không biết kiêng kỵ. Kính mong bệ hạ lắng lòng xét kỹ, nếu có điều gì khả thủ, chỉ xin xuất phát từ ý thánh, nhanh chóng ban hành.”
[26] Ngày Kỷ Mùi, Thái hoàng thái hầu hạ chiếu: “Lễ Khôn Thành tiết có thể chỉ theo nghi thức trước năm Thiên Thánh thứ 8, khi Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu ngự tại điện Sùng Chính để chúc thọ.”
(Tằng Triệu đã tấu trình vào ngày mùng 9 tháng 7, ngày mùng 10 được phê chuẩn. Thực lục không ghi chép, nay căn cứ vào tập của Triệu để bổ sung trước ngày Kỷ Mùi, có thể thấy được đức tính biết nghe lời can gián của Tuyên Nhân Thánh Liệt.)
[27] Ngày Canh Thân, Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức được tiến phong làm Nam Bình vương.
[28] Ngày Tân Dậu, Xu mật viện tâu: “Con trai nối ngôi của nước Hạ là Càn Thuận đã được phong tước, nhưng chưa cử sứ giả đến báo tạ. Vào ngày sinh thần của ông ta, hãy lệnh cho ty Đô đình Tây dịch thông báo với Kinh lược ty lộ Phu Diên: chưa nhận được thông báo, nếu người Tây đưa công văn về ngày sinh thần, thì không nhận.” Được chấp thuận.
[29] Đổi châu Thành thành quân Cừ Dương, theo đề nghị của Đô kiềm hạt, Chuyển vận, Đề hình ty lộ Kinh Hồ Bắc.
(Đến tháng 10 năm thứ 3, ngày Bính Tuất, lại bãi bỏ quân, đổi thành trại. Cả thực lục mới và cũ đều ghi vào ngày 12 tháng này, ngày Tân Dậu: “Tả ty gián Lã Đào làm Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Tây, Điện trung thị ngự sử Thượng Quan Quân làm Tỷ bộ viên ngoại lang.” Xét: Trong tờ tâu xin từ chức Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Tây để nhận chức ở quận nhỏ, Lã Đào nói rằng Hàn Duy, Đỗ Thuần đã bị miễn chức, lúc đó Đào vẫn còn giữ chức gián quan. Duy bị giáng làm Thứ sử châu Đặng, ngày 15 đã nhận được chỉ dụ, đến ngày 22 mới thi hành. Thuần được thăng làm Hữu ty, thực lục ghi vào ngày 25, Đào không thể trước đó 10 ngày đã được thay đổi chức vụ, rồi 10 ngày sau vẫn giữ chức gián quan như cũ, e rằng thực lục có nhầm lẫn. Tra cứu cáo từ bổ nhiệm Đào làm Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Tây, thì là ngày 16, nay ghi kèm vào ngày 16. Tuy nhiên, ngày 16 đã thi hành, không rõ vì sao đến ngày 22 vẫn còn giữ chức gián quan, hoặc có thể Thuần được thăng làm Hữu ty cũng đã nhận chỉ dụ trước, đến ngày 22 mới thi hành. Chính mục ghi việc Đào làm Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Tây, Quân làm Tỷ bộ viên ngoại lang, cũng vào ngày 12.)
[30] Bảo Văn các đãi chế, Đề cử Sùng Phúc cung Vương Lâm mất.
[31] Ngày Nhâm Tuất, Vua ban chiếu gửi đến Trung thư tỉnh rằng: “Môn hạ Thị lang Hàn Duy từng tâu mặt rằng Phạm Bách Lộc giữ chức Hình bộ Thị lang làm việc không chính đáng, cùng hơn mười việc không hợp lý, đến nay đã nhiều ngày, nghi ngờ không có tấu chương, lại sai khai trình tâu lên, lại nói cần phải tìm kiếm. (Trong 《Ngự tập》 có ban tay chiếu cho Hàn Duy: “Khanh trước đây ở điện Diên Hòa tâu, đợi cùng Phạm Bách Lộc xử lý mười mấy việc, có thể ngay lập tức khai trình dâng lên.” Không biết là ngày tháng nào, nay phụ vào đây.) Bậc phụ thần tấu hặc bề tôi, nên viết thành chương sớ, bàn rõ đúng sai, há chỉ nói miệng, ý không có dấu vết. Đã không có văn bản rõ ràng, thì khác gì lời nói gian dối? Duy làm phụ thần, không chính đáng như vậy, Trẫm còn trông cậy gì nữa! Có thể bãi chức Môn hạ Thị lang, giữ nguyên chức quan, phân ty ở Nam Kinh, và miễn tạ từ.”
(Việc Bách Lộc và Duy tranh chấp việc thu lệ về Trung thư, xảy ra vào ngày 28 tháng 3 năm thứ hai. Tô Thức ngày 7 tháng 10 năm thứ ba có nói, có thể tham khảo.)
[32] Hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang Lữ Công Trước liền dâng sớ nói: “Thần nghĩ rằng từ khi Bệ hạ lâm chính đến nay, lòng nhân từ khoan dung, phân biệt kẻ trung người tà, đối với các bề tôi phụ tá thường ban ơn lễ hậu, nên trên dưới đều an vui, lòng người vui phục. Nay Hàn Duy chắc là trong lúc tiến thoái đã có lời lẽ sai trái, chạm đến long nhan, nhưng Duy trước đây cùng Phạm Bách Lộc tranh luận về hình danh, nếu cho là tính cương trực hiếu thắng thì có, nhưng chưa thấy có hành vi gian tà. Nếu cho rằng việc tấu hặc bề tôi phải có chương sớ, thì từ xưa các đại thần bàn luận kín đáo cũng chưa từng cần có chương sớ. Gần đây lời phê tội trạng, e chưa đủ để làm gương cho thiên hạ. Hơn nữa, Duy vốn có tiếng tốt, lâu nay vì nói thẳng mà bị bỏ rơi, Bệ hạ mới lên ngôi, chính sự trong sáng, vừa được trọng dụng. Đột nhiên bị trách phạt nặng nề, tội trạng chưa rõ, e rằng có kẻ thù hiềm thêu dệt lời xấu để làm hại, làm mê hoặc thánh thính. Huống chi trong năm sáu mươi năm qua, các đại thần chấp chính chưa từng bị giáng chức như thế, e rằng trong ngoài nghe tin đều kinh hãi, từ đó lòng người không dám yên ổn. Thần lại nghĩ rằng Hoàng đế Bệ hạ tuổi còn trẻ, cần nhờ Thái hoàng thái hậu Bệ hạ dạy bảo đạo nhân hậu, điều hòa vui giận, để khôi phục chính sách của Nhân Tổ. Nếu đại thần đột nhiên bị tội, thì tiểu thần làm sao tự bảo toàn? Thần được Bệ hạ ban ơn, khác với người thường, muốn giúp Vua thành bậc minh quân như Nghiêu, Thuấn, giữ nước vững bền, để báo đáp Bệ hạ. Vì thế, dù đang đối mặt với cơn thịnh nộ của Bệ hạ, thần cũng không dám tiếc thân, để đẩy Bệ hạ vào chỗ sai lầm. Kính mong Bệ hạ suy xét lại, lời phê giáng chỉ huy hiện chỉ ở chỗ thần, xin chờ chỉ dụ của Bệ hạ.”
[33] Hôm đó, Công Trước lại tâu rằng: “Thần vừa rồi đã tâu đầy đủ về việc Hàn Duy không đáng bị giáng chức. Thần đang giữ chức tể thần, nếu bệ hạ có hành động sai trái, thần là người đầu tiên phải can gián. Huống chi Hàn Duy vốn có danh tiếng, nay bị kết tội không rõ ràng, đột nhiên bị giáng chức. Nếu mệnh lệnh này ban ra, dư luận chắc chắn sẽ kinh ngạc, đều cho rằng triều đình thất chính, khiến bệ hạ rơi vào tình thế có lỗi, thần cũng sao yên lòng được. Kính mong bệ hạ rộng lượng bao dung, tạm để ông ấy giữ chức, đợi khi ông ấy xin từ chức thì cho phép, để giữ trọn đạo quân thần, tránh bị thiên hạ chê cười.” Chiều hôm đó, có chỉ dụ gửi cho Công Trước rằng: “Xem lời tâu của khanh về việc Hàn Duy. Duy không chỉ tính cố chấp hiếu thắng, nay xem thấy người thân và đồng liêu của Duy đang nắm giữ các chức vụ quan trọng, so với khanh thì ai nhiều hơn? Vì thế nhiều người bất bình. Sự cường hoành của Duy, nếu đợi ông ta xin từ chức rồi mới bãi nhiệm, thì từ nay về sau triều đình còn dám làm gì? Kỷ cương từ đây không thể phục hồi. Khanh hãy suy xét kỹ, viết tờ tấu dâng lên.”
[34] Trung thư thị lang Lã Đại Phòng cũng dâng tấu rằng: “Đêm nay Lữ Công Trước đã gửi đến bản ghi chép về việc giáng chỉ của Trung thư tỉnh, trong đó có một mệnh lệnh do Hoàng đế phê chuẩn, liên quan đến việc Môn hạ thị lang Hàn Duy tấu trình rằng Phạm Bách Lộc không xứng đáng, nên giữ nguyên chức vụ và điều về Nam Kinh; đồng thời còn nói rằng đã tấu trình xin thu hồi mệnh lệnh trước đó[8]. Thần xét thấy Hàn Duy vốn là người trung trực, được sĩ phu kính trọng. Từ khi Bệ hạ mới lên ngôi, đã đề bạt Hàn Duy từ chỗ bị chìm đắm, giao cho trọng trách, các bậc hiền sĩ đều ca ngợi đức lớn của Bệ hạ, cùng nhau chúc mừng. Nay đột nhiên vì một sai sót nhỏ trong việc tấu trình mà lập tức trách phạt[9], e rằng không phải là cách để làm gương cho thiên hạ, cũng không phù hợp với thể chế tiếp nhận ý kiến của quần thần. Lữ Công Trước không cho thần biết, tự mình tấu trình, chắc hẳn đã hết lòng thành khẩn, mong giúp ích cho việc trị quốc. Kính mong Bệ hạ xem xét kỹ, đặc biệt chấp nhận lời tâu. Hơn nữa, lỗi của Hàn Duy rất nhỏ, chỉ là vụng về trong việc tấu trình, không nên trách phạt nặng. Nếu mệnh lệnh này được ban ra, mọi người sẽ cảm thấy bất an, ảnh hưởng đến nền tảng của việc trị quốc hiện nay. Kính mong Bệ hạ suy nghĩ thấu đáo, giảm bớt uy quyền sấm sét, để giữ trọn đạo làm tôi. Thần vô cùng lo sợ và mong mỏi!” (Tờ tấu của Lã Đại Phòng, gia đình ông vẫn còn giữ bản gốc, có dấu ấn của Hoàng đế, được dâng lên vào ngày 13 tháng 7, nay ghi chép kèm theo đây.) Hoàng đế phê chuẩn gửi cho Lã Đại Phòng rằng: “Đã xem tờ tấu của khanh về việc Hàn Duy. Hàn Duy là đại thần, khi nói về lỗi lầm của bề tôi, nên công khai, sao lại chỉ nói miệng? Đây không phải là tội sao?[10] Nên thi hành theo mệnh lệnh đã ban. Nếu sau này có bề tôi nào dám bàn tán hay can thiệp, tất sẽ bị trọng phạt.”
[35] Ngày Quý Hợi, Công Trước lại dâng tấu rằng: “Hôm qua, hai tờ tráp tử bàn về việc Hàn Duy không đáng bị trách giáng, may được thánh ân đặc biệt ban chỉ, hơi nguôi cơn giận, lại sai thần xem xét kỹ hơn để soạn văn bản dâng lên. Thần dám khăng khăng tâu bày, là vì Hàn Duy trong các anh em có tiếng tốt nhất, cũng không có biểu hiện gian tà rõ rệt, nếu chiếu mệnh ban ra, e rằng sẽ khiến thiên hạ chê cười. Thần nghĩ bệ hạ từ mùa xuân năm ngoái đến nay, bao dung Thái Xác, để họ tự xin từ chức, riêng với Hàn Duy sao không thể nhẫn nại chút ít? Huống chi chức Môn hạ Thị lang là vị trí cực kỳ trọng yếu, nếu không phải tội ác rõ ràng, ắt phải đợi họ xin, rồi mới cho từ chức, như vậy mới là đúng đắn. Kính mong thánh từ hãy suy xét kỹ, còn chỉ dụ ban xuống trước đây, thần xin kính cẩn niêm phong dâng lên.”
Hôm đó, có chỉ trung phê gửi Công Trước rằng: “Khanh tâu rằng Hàn Duy là người hiền nhất trong các anh em, xét theo anh em thì có chút hư danh, nhưng xét thực chất thì chưa thấy. Duy có tội lừa dối, đáng không tha, nhưng vì khanh nhiều lần tâu xin, nên không muốn trách phạt nặng, chỉ cách chức Môn hạ Thị lang, cho làm Tri châu. Khanh hãy chọn trước một châu quận[11], niêm phong dâng lên, sẽ ban chỉ dụ thi hành sau.”
Công Trước liền dâng tấu rằng: “Đời tổ tông, các quan chấp chính bị cách chức vì tội, cũng đều được giữ chức cũ hoặc thăng chức, trong cáo từ không nói rõ nguyên nhân, chỉ cách chức bình thường; nhưng nếu không phải do tự xin, thì không phải là cách chức tốt. Gần đây Ngô Khuê, Thần Tông vì ông giữ Hàn Kỳ, bài xích Vương Đào, từ chức Lễ bộ Thị lang, Tham tri chính sự, được thăng làm Hộ bộ Thị lang, Tư chính điện Đại học sĩ, Tri Thanh châu; anh thần là Công Bật, vì tranh chấp với Vương An Thạch, Hàn Giáng[12], cũng không phải do tự xin, từ chức Xu mật sứ, Hình bộ Thị lang, được thăng làm Quan văn điện Học sĩ, Lại bộ Thị lang, Tri Thái Nguyên phủ. Nay Hàn Duy nếu chỉ không được thăng chức, cho giữ chức cũ làm Tri châu, tức là bị cách chức, nhưng e rằng khi mệnh lệnh ban ra, các quan chấp chính, phụ thần cùng đài các, thị tất sẽ có người bàn cãi. Nay thần xin đề cử hai châu Đặng, Tương và cho giữ chức Tư chính điện Đại học sĩ, kính xin bệ hạ xem xét quyết định.”
[36] Ngày Giáp Tý, Vua hạ chiếu bãi chức Hàn Duy, giáng làm Tư chính điện Đại học sĩ, nhậm chức Tri châu Đặng, nhưng vẫn dùng lời trách cứ trước đó. Lã Công Trước bèn cùng Trung thư Thị lang Lã Đại Phòng dâng tấu rằng: “Đây là việc lớn, xin bệ hạ hỏi thêm ý kiến Thái sư Văn Ngạn Bác.”
Đồng tri Xu mật viện Phạm Thuần Nhân tâu: “Thần nghe nói Hàn Duy có mệnh lệnh đi nhậm chức ngoài. Thần thấy Hàn Duy trung thành, thật thà, bẩm tính trời sinh, bàn luận thưởng phạt đều dựa vào lý lẽ, thẳng thắn trình bày, hết lòng vì nước nhà, không tránh né điều tiếng. Bệ hạ dùng ông làm chấp chính, có thể nói là cánh tay đắc lực. Kính nghĩ bệ hạ khoan dung độ lượng, giao phó việc nước cho quần thần, thăng giáng các bậc phụ tá đều xuất phát từ sự công bằng. Nay Hàn Duy chưa nghe có lỗi lầm gì lớn, chưa đợi dâng sớ xin từ chức, đã vội vàng đuổi đi, ắt có kẻ gian dùng lời gièm pha bí mật, làm mê muội thánh ý, khiến bệ hạ dùng người hiền không đến nơi đến chốn, khiến đại thần mất đi tiết tháo trong việc thăng giáng, thật sợ người ngay thẳng sẽ thất vọng, làm tổn hại đến chính sự thánh minh. Kính mong bệ hạ suy nghĩ thấu đáo, hoặc nhân việc các bề tôi trình bày, hãy thu hồi mệnh lệnh trước đó, để thành tựu đức tính biết từ bỏ ý riêng, nghe theo người khác của Đế Nghiêu, nối tiếp vẻ đẹp biết sửa lỗi không ngần ngại của Thương Thang. Thần được ơn sâu, khó lòng im lặng, kính mong thánh từ xét kỹ, thiên hạ may mắn biết bao!
Thần với Hàn Duy cũng có quan hệ thông gia, vừa muốn giúp ích cho thánh hóa, khó lòng tránh né để yên thân. Lại xin thánh từ hỏi khắp các đại thần từ Văn Ngạn Bác, Lã Công Trước trở xuống, thì sẽ biết Hàn Duy là người chính trực hay gian tà. Nếu Hàn Duy quả là người chính trực, thì dù có chút sai lầm nhỏ, cũng mong bệ hạ bảo vệ; nếu vì lỗi nhỏ mà bãi chức, thì sẽ khiến kẻ gian được thỏa ý, e rằng không phải là phúc của thiên hạ. Thần nghe những kẻ gièm pha Hàn Duy đa phần nói ông tiến cử người thân thích, xin bệ hạ hỏi khắp Tam tỉnh xem những người thân thích của Hàn Duy được tiến cử trước đây, nguyên là ai đề xuất, có phải do Hàn Duy hay không, tự nhiên sẽ rõ ràng có hay không việc thiên vị, để khỏi làm sai lệch ý chí công bằng tối thượng của bệ hạ.”
[37] Trung thư xá nhân Tăng Triệu phong hoàn từ đầu của Hàn Duy, tâu rằng: “Thần trộm nghĩ, việc triều đình thăng giáng các đại thần chấp chính, trên quan hệ đến quốc thể, dưới động đến lòng người, nếu có điều gì chưa ổn, thì hậu quả sẽ không nhỏ. Nay Bệ hạ trách Hàn Duy vì trước đây đã từng tâu mặt đối mặt rằng Phạm Bách Lộc làm những việc không chính đáng, cùng hơn mười việc phi lý, lại bảo phải trình bày rõ ràng để tâu lên, nhưng lại nói cần phải tìm hiểu thêm, đã không có văn bản rõ ràng, thì khác gì việc gièm pha hủy báng. Thần trộm nghĩ, nếu lời Hàn Duy nói thực sự là gièm pha, thì tất nhiên là có tội, nhưng chưa thấy Hàn Duy chỉ ra những việc không chính đáng và phi lý của Phạm Bách Lộc, thì việc lời nói ấy đúng sai thế nào vẫn chưa thể biết được. Nếu Phạm Bách Lộc quả thật có những việc không chính đáng và phi lý, thì lời Hàn Duy nói là đúng, tội ở Phạm Bách Lộc; nếu Phạm Bách Lộc không có, thì Hàn Duy không phải là không có tội. Thần mong Bệ hạ hạ chiếu cho Hàn Duy chỉ ra những việc không chính đáng và phi lý của Phạm Bách Lộc, sau đó Bệ hạ đem ra chất vấn công luận, thì đúng sai tự nhiên sẽ rõ. Còn chiếu cáo, thần chưa dám soạn thảo.” Thái hoàng thái hậu phê vào tờ tâu của Tăng Triệu rằng: “Các phụ thần tấu hặc thần liêu, há lại có việc không có án tịch rõ ràng, chỉ dùng lời nói suông mà thôi sao? Đó là vì họ coi thường, cho rằng ta nghe xem có thể bị lừa dối. Vì thế mà bãi chức họ, há lại là để so sánh đúng sai với Phạm Bách Lộc, rồi mới cho là có tội sao! Nên theo như mệnh lệnh trước, soạn văn bản thi hành.”
[38] Triệu Phục dâng tấu nói: “Thần trước đây đã dám trái chiếu mệnh, dám trình bày ý kiến của mình, sau khi xét lại sự xấc xược của mình, đã kính cẩn chờ đợi hình phạt. Không ngờ bệ hạ tha thứ cho sự ngu muội của thần, đặc biệt ban chiếu thư, ân cần dạy bảo, như cha dạy con. Thần há không biết rằng tuân theo mệnh lệnh, thuận theo ý chỉ là hợp lễ, còn trái mệnh lệnh, nghịch ý chỉ là có tội sao? Nhưng trong nhà thần, đời đời được hưởng ân huệ của quốc gia, bệ hạ lại cất nhắc thần giữ chức vụ gần gũi, ân đức sâu nặng. Nếu thần chỉ vì tham lam mà vâng mệnh, giữ lòng không hết, khiến thiên hạ bàn tán rằng bệ hạ xử lý vạn việc, ba năm nay, phân biệt trung tà, thưởng phạt công tội, không gì là không thỏa đáng, mà riêng việc này lại có lỗi lầm, thì tội của thần đối với quốc gia, làm sao trốn được? Nghĩa vụ báo đáp bệ hạ của thần, còn ở đâu? Đó là lý do thần không tránh trách nhiệm ngàn lần chết, dốc hết tấm lòng, mong có chút ích lợi.
Thần trước đây đã tấu xin cho Hàn Duy chỉ ra những việc làm không chính đáng và những việc phi lý của Phạm Bách Lộc, không phải để Duy và Bách Lộc tranh cãi đúng sai, mà chính là để xem xét Duy có lừa dối bệ hạ hay không. Nếu những điều Duy trình bày đều trúng bệnh của Bách Lộc, thì Duy là bậc đại thần, dám vì triều đình phân biệt chính tà, đúng sai, thật là đúng phép làm đại thần, dù không có văn bản, chỉ là lời nói, há có thể gọi là lừa dối sao? Nếu những điều Duy trình bày đều không đúng sự thật, thì việc lừa dối bệ hạ, bịp bợm trên, sự lý rõ ràng, xử phạt đúng phép, lòng người tự phục. Vì bậc đại thần tham gia bàn luận quốc sự, khi bàn luận khen chê người khác, không cần phải viết ra từng chữ, chỉ cần xem lời nói có đúng hay không, thi hành thì lòng người có phục hay không, há có thể vì không có văn bản mà cho là lừa dối? Chỉ có các quan lại trong các cơ quan khi trình bày việc gì, phải có trát tử, tấu trạng tự trình, không như các đại thần thường xuyên vào chầu, nên không thể không làm như vậy. Người xưa ngồi bàn đạo, gọi là tam công, há có lấy việc soạn văn bản làm việc sao?
Nay bệ hạ trách Duy chỉ là lời nói, cho là có ý lừa dối, thần sợ rằng khi mệnh lệnh ban ra, lòng người hoang mang, cho rằng bệ hạ vì tội nghi ngờ mà đuổi đại thần, e rằng uy đức của bệ hạ không khỏi bị tổn hại. Các đại thần từ nay lấy Duy làm gương, không dám mở miệng bàn luận khen chê người khác, Vua tôi trên dưới chỉ chú trọng hình thức, e rằng không phải là đạo bệ hạ đối xử chân thành với đại thần, cũng không phải là đạo đại thần hết lòng phụng sự bệ hạ. Bậc đại thần, là người được thiên tử kính trọng, cùng chia sẻ an nguy trị loạn. Người xưa cho rằng uy nghiêm của bậc Vua như cung điện, quần thần như bậc thềm, bậc thềm xa thì cung điện cao. Lại nói hai ngàn thạch được tôn trọng, khó bị nguy hiểm, mới có thể sai khiến kẻ dưới. Hai ngàn thạch chỉ là một quận thủ, còn không thể dễ dàng bãi chức, huống chi là các đại thần bên cạnh bệ hạ, có thế lực như cung điện bậc thềm? Thần được bệ hạ ban ơn sâu, hưởng bổng lộc trọng của triều đình, há dám vì riêng Hàn Duy mà phụ bệ hạ? Nhưng thần khắc khoải không thể tự chủ, là vì tiếc thể diện tiến thoái đại thần của triều đình. Kính mong bệ hạ xét lòng thần, suy nghĩ kỹ, nếu được chấp nhận, xin như lời thần tấu trước mà thi hành.” Không được trả lời.
[39] Trước đó, Tư gián Lã Đào nhiều lần dâng sớ luận tội Hàn Duy: “Ỷ thế chuyên quyền, ngầm nắm quyền uy. Khi Bệ hạ buông rèm nghe chính sự, không nên để đại thần chuyên quyền như vậy. Nếu không sớm cách chức, mưu đồ gian tà ắt sẽ thực hiện, bè đảng gian tà ắt sẽ thắng thế, đó không phải là phúc của triều đình.” (Gia truyền của Lã Đào nói rằng Lã Đào năm lần dâng sớ luận tội Hàn Duy, nhưng chưa thấy năm chương sớ đó. Thực lục chép rằng Ngự sử luận tội Hàn Duy nhiều lần bổ nhiệm người thân, chính là chỉ Lã Đào. Lã Đào luận tội Hàn Duy bổ nhiệm người thân cũng không chỉ một chương sớ. Đến khi Hàn Duy bị cách chức, Lã Đào đã làm Gián quan, không còn là Ngự sử nữa. Không rõ Ngự sử mà Thực lục nói đến là ai. Thượng Quan Quân từ Viện Điện cùng ngày với Lã Đào được điều đi làm quan khác, hoặc Quân trước đây từng luận tội Hàn Duy, nhưng chương sớ đó không được công bố. Nay căn cứ gia truyền của Lã Đào tạm ghi lại mấy lời này, cần xem xét thêm. Nay Huy lục, truyện của Quân cũng không chép từng có chương sớ hặc tội Hàn Duy, tấu nghị cũng không có.) Đến lúc này, lại tâu: “Thần nghe nói có chỉ sai Hàn Duy làm Tri Đặng Châu, đó là thuật khống chế đại thần sâu sắc của Bệ hạ, làm chấn động bốn biển, khuất phục muôn quan[13], từ xưa đến nay các bậc thánh quân anh chủ không ai vượt qua được, xã tắc thật may mắn! Thiên hạ thật may mắn! Nhưng Tằng Triệu dám phong hoàn từ đầu, là vì Triệu trước đây từng làm Trung thư xá nhân, nhiều lần bị các quan đàn hặc, Hàn Duy vốn thích Triệu, ra sức bảo vệ, nay Triệu lấy việc này để báo đức. Thần lại nghe đồn Triệu bàn việc kết thông gia với họ Hàn, nếu quả như vậy, xin Bệ hạ thánh minh xem xét thêm.”
[40] Ngày Ất Sửu, Tả ty gián Lã Đào được bổ làm Kinh Tây chuyển vận phó sứ, Điện trung thị ngự sử Thượng Quan Quân làm Tỷ bộ viên ngoại lang. (Lã Đào được thăng chức Tư gián, Thượng Quan Quân được thăng chức Điện trung vào ngày Đinh Mão tháng 5. Theo 《Lưu Ban chế tập》: Thượng Quan Quân từ chức Điện trung thị ngự sử được bổ làm Binh bộ viên ngoại lang, Diệp Tổ Hợp từ chức Binh bộ lang trung được bổ làm Lễ bộ lang trung, cùng một sắc lệnh. Không rõ vì sao 《Thực lục》 lại ghi Thượng Quan Quân từ Điện trung đổi làm Tỷ bộ viên ngoại lang, cần xem xét thêm. 《Chính mục》 cũng ghi giống 《Thực lục》.) Trước đó, Thị ngự sử Đỗ Thuần, Hữu ty gián Cổ Dịch và các quan khác vì việc của Trương Thuấn Dân đã hặc tội Lã Đào và Thượng Quan Quân lừa dối đồng liêu, Lã Đào cũng tự xin ra ngoài làm quan, dâng sớ bàn về nạn bè đảng rằng:
(Việc Đỗ Thuần hặc tội Lã Đào lừa dối đồng liêu, theo hành trạng do Triệu Bổ Chi soạn, và nói rằng Đỗ Thuần vì thế mà trái ý Vua. Việc Cổ Dịch hặc tội Lã Đào thì căn cứ theo sớ của Lã Đào. Việc của Thượng Quan Quân cần xem xét thêm.)
[41] Xưa nay, các bậc thánh quân hiền thần cùng nhau lo việc trị nước, có thể mở rộng con đường chính đạo, ngăn chặn cửa ngõ của những kẻ gian tà, công nghiệp hưng thịnh, danh tiếng lẫy lừng, phương pháp của họ không gì khác ngoài việc dứt bỏ mối họa bè đảng mà thôi. Mối họa bè đảng không chỉ là quên việc nước, lo vun vén tư lợi, vin vào những lời nói mơ hồ để kết giao và giữ lấy ân sủng. Mối họa thực sự nằm ở chỗ làm tổn thương những người trung trực. Người trung thành bị tổn thương trước, thì những ai có lòng trung sẽ không được dung thứ; người ngay thẳng bị bài xích trước, thì những ai giữ vững sự ngay thẳng sẽ không tránh khỏi. Từ đó, dẫn dắt thiên hạ trở thành những kẻ bất trung, bất trực, cùng nhau lừa dối Vua, đó chính là mối họa của bè đảng vậy.
[42] Bậc quân chủ không lo không biết đạo trị nước, mà lo không biết được bè đảng; không lo không biết được bè đảng, mà lo ở chỗ không thể trừ bỏ bè đảng. Xưa kia, Lưu Hướng bàn về bè đảng hàng nghìn lời, Lý Đức Dụ mở rộng thuyết ấy, nhưng cả hai người cuối cùng đều bị bè đảng hãm hại. Nếu nhà Vua biết được tệ hại của bè đảng, thì hai người ấy há lại không thể tự minh oan sao? Cho nên nói rằng cái lo là ở chỗ không biết được. Đường Văn Tông thông minh tuấn tú, có chí hướng trị nước, than rằng: “Dẹp giặc Hà Bắc dễ, trừ bè đảng của hai họ Lý khó.” Ban đầu mất đi sự kiểm soát, cuối cùng dẫn đến loạn lạc, dẫu muốn nghiêm trị, nhưng tình thế không cho phép. Cho nên nói rằng cái lo là ở chỗ không thể trừ bỏ. Bởi vì điều mà bậc quân chủ dựa vào để trị thiên hạ, phục vạn dân chính là công luận. Bè đảng nổi lên, thì công luận tiêu tan, lòng người không còn chỗ dựa, trên dưới xu nịnh nhau, khen chê làm rối loạn sự thật, nhà Vua dẫu một mình giữ lòng công chính ở trên, thì thiên hạ ai cùng đồng tâm với ngài về phải trái, vui buồn đây?
[43] Thần xem xét những biến cố trong quá khứ, đã từ lâu cảm thán và suy ngẫm. Khởi đầu từ chỗ xa xôi, không có sự giúp đỡ của tả hữu, Bệ hạ đã chọn thần từ trong đám đông, giao phó trách nhiệm giám sát và can gián. Thần cảm kích, tự thề lòng, hận không có nơi chết để báo đáp muôn một. Tuy nhiên, thần từng cho rằng chức vụ gián quan, ngự sử phải tôn trọng triều đình, nghiêm khắc với bề tôi, cẩn thận về danh phận, chỉnh đốn kỷ cương, tránh xa sự kết bè kết phái, như vậy mới xứng đáng với chức vụ. Vì vậy, gặp việc gì thần đều nói, không kịp lo cho bản thân, đã nhiều lần xung đột với đồng liêu, cũng đã nhiều lần chống lại quyền quý. Gần đây, vì Trình Di không nghiêm túc trong việc phân biệt quân thần, muốn đến biệt điện giảng sách, thần cho rằng lễ nghi quý ở chỗ phòng ngừa từ nhỏ, việc cần phải cảnh giác từ từ, danh phận một khi vượt quá, thực sự sẽ sinh ra tai họa, nên thần đã dâng tấu chương, bàn về việc không thể làm như vậy. Tấu chương vừa dâng lên, Bệ hạ đã nhận ra sai lầm, có chỉ sửa đổi, như vậy là yêu cầu sai trái của Di không cần đợi thần nói, Bệ hạ đã tự nhận ra. Thần với Di vốn không có hiềm khích, những điều thần tấu trình chỉ là vì chức trách, không phải muốn ngăn cản Di để đề cao mình. Đồng liệu vì việc này mà trở mặt nhìn nhau, không khác gì kẻ thù, âm thầm nuôi dưỡng hận thù, chờ cơ hội để trả thù.
[44] Không lâu sau, Trương Thuấn Dân bị bãi chức, các quan ngự sử và gián quan đều bàn bạc xôn xao về việc cứu giúp, cũng muốn kéo tôi cùng dâng sớ. Tôi vốn suy nghĩ nông cạn, ban đầu cũng muốn cứu ông ta, nên đã đồng ý với các vị trưởng quan và phó quan rằng có thể tâu lên. Nhưng sau khi suy nghĩ lại, thấy lý lẽ không ổn. Sau đó, cả đài ngự sử đều dâng sớ, hết sức ép tôi, tôi bèn phân tích kỹ rằng lời của Thuấn Dân không nên nghe theo, việc bãi chức Thuấn Dân không nên cứu, nên đã từ chối thẳng thừng[14], không dám a dua theo. Đến khi được triệu đến ba tỉnh để nghe tuyên dụ, mọi người đều cho là điều nhục nhã, lòng oán hận càng sâu, muốn khiến tôi không thể thoát khỏi một mình, bèn dâng tấu chương vu cáo, làm phiền đến thánh thượng. May nhờ bệ hạ thông minh trời ban, soi thấu sự gian tà, thần linh xã tắc không phù hộ kẻ phi đạo, bè đảng của người ấy tự tan vỡ, kẻ cô thần như tôi được bảo toàn, lại được tiến vào hàng ngũ gián quan, đó là ân huệ của trời đất vậy. Nay những tay chân của Hàn Duy, những kẻ tử đảng của Trình Di vẫn còn lấy việc của Thuấn Dân để công kích tôi, thế lực bè đảng lại nổi lên, triều đình có thể bị lừa dối, đó là mối lo sâu xa của thiên hạ. Tôi sao có thể nhẫn nhịn mà không biện bạch, nhẫn nhịn mà không từ chức[15]? Lý do tôi biện bạch, nhỏ thì muốn minh oan cho bản thân, lớn thì muốn cứu vãn mối họa cho thiên hạ. Mong bệ hạ lắng nghe và xem xét.
[45] Khi các quan đài gián mới nhậm chức, thường phải có tấu chương, những việc nói đến phải lấy việc xa, việc lớn làm trước, việc gần, việc nhỏ làm sau, đó là thể lệ. Nay chính lệnh được mất, lợi hại của dân chúng, ắt có việc lớn hơn việc của Thuấn Dân, nhưng không nói trước, lại vội vàng nói về thần, ý không phải khác, một là Giả Dịch vì Trình Di báo thù, hai là Đỗ Thuần mượn việc này để lấy lòng Hàn Duy. Hàn Trần làm sai chính sự của Thần Tông, Hàn Tông Sư nhận chức ở Bí Các một cách hổ thẹn, Hàn Tông Nho có hành vi xấu xa, Quách Mậu Tuấn phạm tội tham nhũng, thần nhiều lần đàn hặc, nên Hàn Duy cũng rất oán hận thần. Đỗ Thuần kia kết thông gia với họ Hàn. Hàn Cương đã làm phán quan ở Bắc Kinh, xin cử Đỗ Thuần làm Vận phán ở lộ này. Triều đình khởi dụng Đỗ Thuần từ chỗ bị bãi chức mà phái đi. Ở Hà Bắc chưa được mấy tháng, lại triệu về làm Thiếu Khanh Đại Lý. Mang ơn họ Hàn, há chẳng báo đáp? Người ấy tính tình khắc nghiệt, giữ pháp luật nghiêm khắc, mỗi khi xử án nghi ngờ, chủ trương xử nặng, để hợp ý Hàn Duy. Hàn Duy thường nghe theo lời ấy, do đó trong ngoài tương thành, bất đồng ý kiến với Phạm Bách Lộc, Hàn Duy vì thế càng khen ngợi. Bỗng nhiên được bổ làm Thị Ngự Sử, khi mệnh lệnh vừa ban ra, không hợp với công luận, lúc ấy thần rất muốn tấu trình, nhưng gặp lúc việc của Phó Nghiêu Dũ chưa rõ ràng, sợ người không hiểu thần lại cho rằng thần gây thêm tranh cãi, nên đành nhẫn nhịn mà thôi. Vậy lời Đỗ Thuần nói về thần để lấy lòng Hàn Duy, dấu vết cũng đã rõ ràng. Còn như Giả Dịch là đồ đảng của Trình Di, thì sĩ đại phu ai cũng biết.
[46] Nay hai người ấy, không biết lấy lời gì để định tội thần? Bảo rằng thần đã từng nói muốn cứu Thuấn Dân, rồi sau lại không cứu, có tội phản phúc chăng? Đó là không cho thần suy nghĩ sâu xa, mà muốn thần tùy tiện đồng ý. Xưa Quý Văn Tử ba lần suy nghĩ rồi mới làm, Khổng Tử nghe thế nói: “Hai lần là được rồi.” Bởi tính người bình thường, soi xét lý lẽ không thể hoàn toàn sáng suốt, phàm gặp việc biến cố, ắt phải suy nghĩ đi suy nghĩ lại, thì mới mong không hối hận, dù thánh nhân cũng cho phép. Với sự thánh thiện của Khổng Tử, còn cho phép Quý Văn Tử suy nghĩ hai lần, mà đài gián không dung thứ cho thần suy nghĩ sâu xa, cũng đã quá đáng rồi. Bảo rằng thần thấy đồng liêu bị cách chức, không ra sức cứu giúp, là bạc bẽo về phong nghĩa chăng? Thì việc vốn có nặng nhẹ, lý lẽ vốn có lấy bỏ, không thể cố chấp một mặt mà nói được. Thần tuy không cứu đồng liêu, bạc bẽo về phong nghĩa, tội ấy nhỏ thôi; nếu biết không nên cứu, mà tùy tiện dùng lời lẽ, phụ họa bè đảng để cứu, thì là lừa dối triều đình, tội ấy lớn lắm. Thần thà có tội nhỏ, chứ không dám phạm tội lớn, thà để đồng liêu oán hận sâu sắc, chứ không làm lỡ việc lớn của quốc gia, thần có gì đáng hổ thẹn! Tội của thần chỉ đến thế, mà người nói cứ mãi không thôi, ắt muốn thần bị phế truất rồi mới thôi, thần rất đau xót vì tệ nạn bè đảng đến mức này vậy.
[47] Những kẻ kết bè kết đảng, giả vờ trung thành để che đậy sự nịnh hót, mượn danh ngay thẳng để che giấu sự gian trá, dùng trí tuệ để giúp đỡ, dùng sự táo bạo để thành công, không thể không xem xét kỹ. Xưa kia, Lưu Sùng Lỗ (Ghi chú: Nguyên bản viết là Lưu Tê Sở, nay căn cứ theo 《Lý Tặc truyện》 sửa lại.) khóc Lý Tặc khi tờ chiếu trắng được ban ra, là để nịnh hót Thôi Chiêu Vĩ; Trương Hựu Tân bịa đặt oan khuất cho Lý Thân, là để phụ họa Lý Phùng Cát. (Ghi chú: Theo 《Lịch đại danh thần tấu nghị》, Trương Hựu Tân được viết là Lưu Tê Sở. 《Đường thư》 chép rằng Trương Hựu Tân cùng Lưu Tê Sở đều vì Lý Phùng Cát mà bịa đặt oan khuất cho Lý Thân, nhưng Trương Hựu Tân còn tệ hơn, nên viết là Trương Hựu Tân là đúng sự thật, nay vẫn giữ nguyên bản.) Há nên để thời thánh triết này lại khơi dậy phong khí ấy? Chia rẽ từng nhóm nhỏ, rồi dẫn đến sự cấm đoán lớn, dần dần không thể để phát triển. Thần từng nghe Hoàng đế Chân Tông dặn các quan gián rằng: “Không được bí mật kết bè kết đảng, ngầm hãm hại người khác.” Lời răn dạy của tổ tông, ghi chép trong sử sách, sao có thể quên được?
[48] Kính nghĩ Hoàng đế bệ hạ có lòng nhân như Vua Nghiêu, hiếu thảo như Vua Thuấn, quy mô trời đất rộng lớn, đối đáp sáng tỏ lời dạy của tổ tiên, đối diện với mệnh trời sáng chói. Kính nghĩ Thái hoàng thái hậu bệ hạ thánh triết nhân từ, vượt xa ngàn đời, bốn biển được trị yên, muôn việc được xử lý đúng đắn, thần gặp mà tâm ngộ, đối với việc tà chính, không hề bỏ sót. Thần tuy chỉ là mạng sống nhỏ bé như kiến, đứng giữa đám hổ báo, nhờ sức mạnh của trời đất, chưa bị ban cho hình phạt chém đầu, nên có thể an nhiên sống mà không lo lắng. Nhưng thần vẫn có điều không thể không nói, vì lời nhiều người có thể làm tan chảy vàng, lời phỉ báng tích tụ có thể làm tiêu tan xương, như chuyện Tăng Sâm giết người, trong chợ có hổ, lời đồn ba lần đến, không khỏi sinh nghi ngờ, chỉ cần một bước sai lầm, sẽ rơi vào cạm bẫy của bè đảng, đó là điều thần lo lắng sâu sắc. Hết lòng phụng sự Vua, chết cũng không đổi lòng, chết vì nghĩa, có gì phải hối tiếc? Thần chỉ lo không được chết dưới lưỡi rìu của bệ hạ, mà sẽ chết trong cạm bẫy của bè đảng, thì thần vẫn còn hối tiếc. Kính mong bệ hạ thương xét, soi xét, bãi chức gián quan của thần, để tránh những lời bàn tán rối ren làm phiền đến tai trời, thần vô cùng may mắn!
[49] Lại nói: “Đỗ Thuần đến đài từ trước đến nay, triều đình nhiều lần gửi các việc công về hình danh đến đài để định đoạt, Thuần một mình giữ ý kiến sâu xa, ý muốn giết người, cùng với Hồ Tông Dũ và những người khác đều dâng sớ luận tấu việc gần đây về sự việc của A Viên (việc A Viên cần xem xét). Điều này cũng có thể thấy ông ta phụ họa theo Hàn Duy. Cổ Dịch đã nói về thần, lại muốn dẫn Khổng Văn Trọng cùng lên điện luận tấu, Văn Trọng từ chối. Trình Di vốn không qua lại với Văn Trọng, bỗng nhiên đến yết kiến Văn Trọng, khen ngợi việc Cổ Dịch nói về thần, nhân đó dùng lời dụ dỗ Văn Trọng khiến ông ấy giúp nói, Văn Trọng rất bất bình với lời nói đó, điều này có thể thấy rõ sự kết bè kết đảng.” Lại nói: “Quan đài mới được bổ nhiệm là Triệu Đĩnh Chi, anh vợ của Hình Thứ, theo học Trình Di, nhờ Đỗ Thuần tiến cử làm Ngự sử. Vì Di và Thuần, chắc chắn cũng sẽ nói về thần, mong bệ hạ xem xét.”
[50] Dịch Phàm dâng năm trạng văn nói về Lã Đào, đại lược rằng: “Phó Nghiêu Dũ, Vương Nham Tẩu gần đây từng đàn hặc Lã Đào vì không hề bàn luận việc của Trương Thuấn Dân mà lại dối gạt đồng liệt, nói rằng đã có văn bản, được triều đình hạ chỉ lệnh cho phân tích. Nghe đồn Lã Đào không tự nhận lỗi, còn dám hủy báng trung lương, cho rằng bị cường hành ép buộc phải nói việc. Nếu quả như vậy, sao Lã Đào tiểu nhân mà không kiêng sợ đến thế! Huống chi Nghiêu Dũ, Nham Tẩu thẳng thắn một lòng, mong báo đáp quốc gia, trời đất quỷ thần cũng đã soi xét lòng thành, các bậc sĩ đại phu nếu có biết, ai chẳng khen ngợi họ là người hiền mà tiếc nuối sự ra đi của họ. Còn Lã Đào, kẻ gian xảo, lại yên vị phục chức. Xét: Lã Đào tập tục thấp hèn, giống như kẻ chợ búa, lòng dạ sâu kín, hiểm ác hơn núi sông, nhờ cậy bè phái để tự an, mang mưu kế mà khó giữ.” (Biên loại chương sớ vào ngày 19 tháng 6 năm thứ hai.)
Lại nói: “Nghe nói ngày 16 tháng này, ba tỉnh cùng phụng thánh chỉ, bổ nhiệm Lã Đào, Thượng Quan Quân sai khiển. Các đại thần chấp chính biết là không đúng, nhưng do dự chần chừ, gần đến mười ngày, cuối cùng không có gì để biện chính, đành phải làm vì bất đắc dĩ. Huống chi đại thần đã không vì bệ hạ trình bày lẽ phải trái, mà các quan đài gián lại đều mang lòng riêng, e dè, chỉ biết im lặng giữ mình. Như vậy thì bệ hạ còn trông cậy vào sự giúp đỡ của tay chân tai mắt sao?”
Lại nói: “Nghe nói bè đảng của Lã Đào đã đông, gốc rễ đã sâu, có thế lực không thể lay chuyển. Thật sợ bọn gian tà làm mê muội quốc gia, trở thành mối họa lớn cho thiên hạ, muốn vì bệ hạ nhổ tận gốc mà ngăn chặn, không để chúng lan rộng mà không cứu được. Nay bè đảng chết của Lã Đào đã lan khắp từ các đại thần chấp chính, quan lại trọng yếu, cùng nhau qua lại, ngày đêm mưu tính, muốn trừ hết những người ngay thẳng trung lập, sau đó tha hồ thỏa mãn dục vọng, chiếm lấy quyền lực cao. Những người trung nghĩa, không ai không căm phẫn.”
Lại nói: “Bè đảng của Lã Đào ở chỗ trọng yếu, đã trợn mắt nổi giận, lộ rõ trong lời nói sắc mặt, e rằng mưu kế sẽ bùng phát khắp nơi, đẩy thần vào họa không lường được.”
Lại nói: “Ngoài đồn rằng bè đảng của Lã Đào là những kẻ mạnh trong cận thần, cùng một hai đại thần vốn là đồng bọn. Gần đây lấy lợi hại uy hiếp các đại thần đó, bắt họ tiến lời, xin hạ lệnh trước, nên đã bí mật tâu lên bệ hạ, do đó mệnh lệnh của Lã Đào và Thượng Quan Quân lại được ban ra. Việc này hư thực thế nào, chỉ có bệ hạ biết. Nếu quả như lời đồn, thì những kẻ làm đại thần cũng thật là bất trung quá mức.” (Biên loại chương sớ vào ngày 28 tháng 6.)
Lại nói: “Lã Đào trước đây bị bãi chức Tả ty gián, vì có tội bất trung, công luận trong ngoài đều cho là đúng, chỉ tiếc rằng việc trục xuất ông ta quá muộn. Lã Đào nhục nhã mà vẫn mong may, nhờ cậy xin cứu, nên lại được phục chức. Nếu quả vì tội bất trung mà bị tội, qua tháng có thể phục chức sao? Kẻ tham lợi kia, chỉ mong được chút lợi, mà vô sỉ là thói thường, sao triều đình lại sai lầm đến thế!” (Biên loại chương sớ vào ngày 5 tháng 7, nay cùng phụ vào đây.) Đến lúc này, Lã Đào và Thượng Quan Quân bị bãi chức ngôn quan, Lã Đào ra ngoài bổ nhiệm còn Thượng Quan Quân được điều vào trong.
(Hai người đều bị bãi chức ngôn quan, Thượng Quan Quân được điều vào trong còn Lã Đào ra ngoài bổ nhiệm, vì Dịch Phàm công kích Lã Đào rất mạnh, nên mệnh lệnh bổ nhiệm khác nhau. Việc của Thượng Quan Quân cần xem xét thêm. Triệu Đĩnh Chi được bổ làm Ngự sử vào ngày 28 tháng 6.)
[51] Ngày Đinh Mão, trời mưa, bãi bỏ yến tiệc ở điện Tập Anh.
[52] Ngày Mậu Thìn, sứ giả nước Liêu từ biệt.
[53] Lữ Công Trước ở điện tiện lại bàn việc trách cứ Hàn Duy. Hôm đó, có lời phê trong cung gửi cho Lữ Công Trước rằng: “Khanh vừa tấu xin sửa lại lời phê cho Hàn Duy, ý định làm gì?” Lữ Công Trước liền dâng tấu trình bày. Sau đó, chiếu cho Trung thư tỉnh, lời cáo từ của Hàn Duy nên làm theo ý nghĩa chia đều công việc. Xá nhân Tô Triệt thực hiện việc này.
[54] Chiếu cho Kiềm hạt Hi Hà Lan Hội lộ là Miêu Lý nhanh chóng lên đường nhậm chức.
(Ngự tập ngày 19 tháng 7.)
[55] Thiên Chương các đãi chế, Tri Tương châu Ngô Ung mất.
[56] Ngày Canh Ngọ, Binh bộ tâu: “Kinh lược an phủ sứ ty Hi Hà Lan Hội lộ tâu: Từ khi khai thác vùng này và các lộ dùng binh đến nay, những người dũng cảm hiệu lực, nhờ lập được chiến công, được bổ nhiệm từ Giáp đầu đến Tam ban viện sai sứ rất nhiều. Xin theo phép của Quân tướng, Điện thị, Đại tướng, Tam ban sai sứ, cho phép đổi bổ nhiệm những người làm việc ở Cung tiễn thủ, so sánh loại để định ra chức danh hợp lý.” Được chấp thuận.
[57] Đặt ba tiền giám ở phủ Hà Trung, huyện Long Môn, huyện Hàn Thành.
[58] Chính nghị đại phu bị giáng chức, Tri Tương châu Thôi Đài Phù mất.
[59] Ngày Tân Mùi, Chính nghị đại phu, Thủ Môn hạ thị lang Hàn Duy được làm Tư chính điện đại học sĩ, Tri Đặng châu.
(Tân lục và Cựu lục đều chép rằng Ngự sử luận tội Hàn Duy dùng nhiều người thân thuộc, nên bị bãi chức, nhưng không ghi tên Ngự sử. Xét: Việc luận tội Hàn Duy dùng nhiều người thân thuộc có chương sớ của Lã Đào để khảo cứu, nhưng lúc đó bãi chức Hàn Duy là do tội miệng nói xấu Phạm Bách Lộc mà không có văn bản. Gia truyền của Lữ Công Trước chép về ngự trát mà nhà Lã Đại Phòng cất giữ cùng tấu nghị của Tăng Triệu, ghi chép việc này rất chi tiết, không rõ vì sao Cựu lục không chép, mà Tân lục lại theo đó.)
[60] Tả ty viên ngoại lang Vương Địch được bổ làm Thị ngự sử, Thị ngự sử Đỗ Thuần được bổ làm Hữu ty lang trung. Ngự sử trung thừa Hồ Tông Dũ tâu rằng Thuần có tính khí kỳ quặc, sâu sắc nhưng không có học thuật, thăng tiến không qua khoa cử, dùng pháp luật theo ý riêng, xin bãi chức Thị ngự sử của ông. Các quan chấp chính ra sức biện hộ cho Thuần, và có chỉ dụ cho phép Thuần và Địch đổi chức cho nhau. Tông Dũ lại tâu rằng Thuần nịnh hót và dựa vào Hàn Giáng, nên bị điều ra làm Tri châu Tương châu.
(Thuần làm Tri châu Tương châu vào ngày 28, nay ghi chung lại. Việc các quan chấp chính biện hộ cho Thuần, căn cứ theo truyện của Tông Dũ.)
[61] Triều phụng đại phu, Trực long đồ các, Tri Hà Trung phủ Diệp Khang Trực được bổ làm Tri Tần châu.
(Ngày 24 tháng 11 năm Nguyên niên, lúc đầu từ Thiểm Tây vận phó được bổ làm Trực long, Tri Tần châu, Tằng Triệu từ chối; ngày 6 tháng 12, Tô Triệt lại từ chối; ngày 28 tháng 2 năm nay, bãi chức; ngày 28 tháng 6, đổi bổ làm Tiểu long, Hà Trung; nay lại đổi bổ làm Tri Tần châu.)
[62] Xu mật viện vì việc biên giới chưa yên, cần tham khảo các điển cố về việc dùng binh ở Hà Đông, Thiểm Tây từ thời Khang Định, Khánh Lịch, xin mượn 《Nhân Tông triều thực lục》, đợi khi việc biên giới yên ổn sẽ trả lại Bí thư tỉnh. Được chấp thuận.
(Sách mới không ghi.)
[63] Ngày Nhâm Thân, ra chiếu trả lại các đồ dùng bằng vàng mà các quan tiến dâng nhân dịp lễ Khôn Thành.
[64] Khôi phục huyện Mạo thuộc châu Mạo.
[65] Ngày hôm đó, Vua ban chiếu chỉ cho Lữ Công Trước và các quan, yêu cầu chọn trong hàng ngũ văn thần ba đến năm người có tài năng, phong cách mạnh mẽ, am hiểu việc biên giới, và có thể đảm nhận trọng trách lớn, ghi rõ tên họ và viết tay vào phong bì kín dâng lên.
Lữ Công Trước liền dâng tấu rằng: “Thần trước khi nhận được chiếu chỉ, đã từng suy nghĩ và cân nhắc, trong số các quan cận thần, người thực sự có thể đảm nhận việc lớn cũng không dễ tìm. Nay tạm chọn người có ưu điểm trong số những người còn thiếu sót, xin liệt kê một số người:
Quan văn điện học sĩ Tôn Cố là người ôn hòa, đức độ, từng giữ chức Xu trưởng và biên tướng, nhưng tài năng và nhận thức còn hạn chế; Lại bộ Thượng thư Tô Tụng tính tình ôn hòa, am hiểu điển chế, nhưng nhân cách chưa cao; Hộ bộ Thượng thư Lý Thường là người yêu mến hiền tài, xử lý công việc công bằng, nhưng phong cách không mạnh mẽ lắm; Lại bộ Thị lang Tôn Giác học thuật và đạo đức được mọi người kính phục, nhưng khi xử lý việc có lúc không nhanh nhạy; Hộ bộ Thị lang Triệu Chiêm là người ôn hòa, hiểu biết việc biên giới;
Thiên chương các Đãi chế Cố Lâm là người trung nghĩa, phóng khoáng, cũng thích bàn luận việc biên giới, nhưng mới được bổ nhiệm chưa lâu, có thể dần dần thăng chức; Ngự sử Trung thừa Hồ Tông Dũ vốn có tiếng thẳng thắn, nhưng việc hạch tội Đỗ Thuần trước đây có phần sai lầm, nghi ngờ bị tiểu nhân xúi giục, xin hãy tiếp tục quan sát.”
Lại tâu: “Hiện nay, công việc của ba tỉnh giống như Trung thư thời trước, Trung thư Tể tướng và Tham chính vốn có bốn người, nếu chưa tìm được người phù hợp, ba tỉnh tạm thời không thêm người, và Xu mật viện hãy để An Đào, Phạm Thuần Nhân tiếp tục tại chức. An Đào ở Xu phủ đã lâu, khá quen việc; Phạm Thuần Nhân được bệ hạ đặc cách thăng chức đến đây, lại am hiểu việc biên giới. Dù An Đào thường bị người ta nói xấu, Phạm Thuần Nhân cũng từng xin từ chức, nhưng nên để họ tiếp tục tại chức, cũng chưa đến mức gây trở ngại công việc.”
(Chú: Chiếu chỉ hỏi về người có tài năng, phong cách mạnh mẽ, am hiểu việc biên giới, có thể đảm nhận trọng trách lớn, Phạm Thuần Nhân cũng nhận được chiếu chỉ này, có lẽ lúc đó hỏi khắp các quan chấp chính, không chỉ riêng Lữ Công Trước. Gia truyền của Lữ Công Trước có ghi tên những người được tiến cử, nên ghi chép đầy đủ, nhưng vẫn nói rõ “giao cho Lữ Công Trước và các quan” để không sai lệch sự thật. Những người Phạm Thuần Nhân tiến cử không có tên, nên không ghi riêng. Gia truyền của Lữ Công Trước chép tấu này có thể đã bị cắt bớt, có lẽ vì riêng tư cần tránh. Thần Đào có được bản khác từ Uông Ứng Thần, nay chú thích ở sau, và thêm vào một ít.
Lữ Công Trước tấu: “Thần vào ngày 23 tháng này nhận được ngự phê, lệnh thần chọn trong hàng ngũ văn thần ba đến năm người có tài năng, phong cách mạnh mẽ, am hiểu việc biên giới, và có thể đảm nhận trọng trách lớn. Thần trước khi nhận được thánh chỉ, cũng đã suy nghĩ và cân nhắc, ngoài những người đã được trọng dụng hiện nay, còn lại các quan từ hai chế trở lên và các cựu chấp chính, đều chưa thấy ai thực sự có tầm nhìn xa, cứng cỏi, có thể đảm nhận việc lớn, làm trụ cột quốc gia.
Những người am hiểu việc biên giới lại càng khó tìm, nay tạm chọn người có ưu điểm trong số những người còn thiếu sót, xin liệt kê một số người: Quan văn điện học sĩ Tôn Cố từng giữ chức Tri Xu mật viện thời tiên triều, cũng từng trải qua các chức vụ biên giới Hà Bắc, là người ôn hòa, đức độ, nhưng tài năng và nhận thức còn hạn chế; Lại bộ Thượng thư Tô Tụng tính tình ôn hòa, am hiểu điển chế cổ kim, nhưng nhân cách chưa cao; Hộ bộ Thượng thư Lý Thường là người yêu mến hiền tài, xử lý công việc công bằng, nhưng phong cách không mạnh mẽ lắm; Lại bộ Thị lang Tôn Giác học thuật và đạo đức được mọi người kính phục, nhưng khi xử lý việc có lúc không nhanh nhạy, Giác hiện đang giữ chức Thị lang, xin gần đây thăng làm Lại bộ Thượng thư; Hộ bộ Thị lang Triệu Chiêm là người ôn hòa, quen thuộc việc quan, vốn là người Quan Trung, khá hiểu biết việc biên giới, nhưng mới được bổ nhiệm chưa lâu, xin hãy quan sát thêm, nếu Hộ bộ Thượng thư có khuyết, có thể tạm thử dụng; Thiên chương các Đãi chế Cố Lâm là người trung nghĩa, phóng khoáng, có chí lớn báo quốc, cũng thích bàn luận việc biên giới, nhưng mới được bổ nhiệm chưa lâu, xin bệ hạ ghi nhớ, thử thách thêm tài năng; Ngự sử Trung thừa Hồ Tông Dũ vốn được mọi người khen ngợi là cứng cỏi, có học thức, nhưng việc hạch tội Đỗ Thuần trước đây có phần sai lầm, nghi ngờ bị tiểu nhân xúi giục, xin hãy tiếp tục quan sát. Trên đây xin bệ hạ xem xét kỹ. Ngày 24 tháng 7.”
Thiếp hoàng viết: “Xét thấy công việc của ba tỉnh hiện nay giống như Trung thư thời trước, Trung thư Tể tướng và Tham chính vốn có bốn người, nay nếu chưa tìm được người phù hợp, ba tỉnh tạm thời không thêm người, và Xu mật viện hãy để An Đào, Phạm Thuần Nhân tiếp tục tại chức. An Đào tuy không được lòng dân, nhưng ở Xu phủ cũng khá chuyên tâm và quen việc; Phạm Thuần Nhân từng giữ nhiều chức vụ ở biên giới phía tây, được bệ hạ từ chức quan nhỏ thăng lên làm phụ tá, nên tạm để yên tại chức, cũng chưa đến mức gây trở ngại công việc. Xin hãy xem xét kỹ.”)
[66] Ngày Quý Dậu, Hoàng thành sứ, Nội thị áp ban, Quyền quản câu nhập nội tỉnh áp ban công sự Phùng Tông Đạo được lĩnh chức Thứ sử Huệ Châu.
[67] Chiếu bãi bỏ chức quan Thái bộc tự, ba tỉnh và Xu mật viện cùng xin chỉ dụ. Vì việc quản lý ngựa thuộc về Xu mật viện.
[68] Chiếu miễn cho con côi của những người chết vì việc nước không phải nộp tiền lương không đáng được cấp. Theo đề nghị của Hộ bộ.
[69] Ngày Ất Hợi, Hộ bộ tâu rằng Chuyển vận ty của Hà Đông lộ xin cho phép thu thuế đồng tiền lớn loại hai cũng như đồng tiền nhỏ. Được chấp thuận.
[70] Ngày Đinh Sửu, Đoan minh điện học sĩ, Quang lộc đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung Phạm Trấn xin nghỉ hưu. Chiếu thăng làm Ngân thanh quang lộc đại phu, vẫn giữ chức cũ mà nghỉ việc.
(Thực lục chép: “Lúc đó, những người bị tội dưới triều trước đều được dẫn dắt để khởi dụng. Bọn gian thần muốn dùng Trấn để giúp mình, nhưng Trấn kiên quyết từ chối, cuối cùng không khởi dụng, được sĩ luận khen ngợi.” Tân lục biện rằng: “Chính sách Nguyên Hựu, khởi dụng bậc lão thành để tự giúp, nhưng Trấn vì già yếu nên kiên quyết từ chối, không phải vì việc chức vụ không hợp. Lời của sử thần như vậy thực là vu khống, nay xóa bỏ.” Việc Trấn từ chối không khởi dụng đã ghi rõ vào ngày 24 tháng 11 năm đầu tiên khi ông giữ chức Đề cử Sùng Phúc cung, Tân lục cũng chưa nói rõ.)
[71] Chiếu cho các Kinh lược sứ các lộ Thiểm Tây, Hà Đông xem xét hội bàn: “Việc lớn phòng thủ biên giới, quý ở chỗ lo liệu trước. Gần đây, người Hạ tỏ ra ngạo mạn, không tuân thần chức, đoán rằng chúng sẽ gây họa vào mùa thu này. Căn cứ vào các báo cáo thám thính trước sau, giặc Hạ từ khi nước ta đánh xa đến Linh Châu, thường có ý định tràn vào báo thù. Lại từ sau khi đánh Kim Thành không thành, có thể chúng sẽ đổi kế hoạch tiến sâu vào. Nay mưu kế của giặc tuy chưa biết hướng tấn công, nhưng nếu chỉ như mọi năm xâm phạm biên giới cướp bóc, thì triều đình đã có chỉ thị, răn dạy các lộ biên giới, phải phòng bị cẩn thận. Nếu chúng liều lĩnh, không kể thành bại, tập trung binh lực một hướng, xông thẳng vào sâu, thì không rõ các lộ nên đóng quân ở đâu để chặn đánh, ngăn chúng không thể xông pha; hoặc nếu cho chúng tiến sâu vào gần, thì nên chặn đánh ở đâu để chặn đường rút lui, cần nhờ các tướng soái bàn bạc trước. Các ngươi hãy xem xét kỹ các việc trên, không được để lộ xuống cấp dưới, bí mật tra cứu các tài liệu cơ mật trước sau, xem có từng có kế hoạch phòng bị đối phó với việc giặc tiến sâu hay không, và hỏi thêm những người có kinh nghiệm cũ, so sánh lợi hại, bàn bạc kỹ lưỡng để quyết định hai kế sách chặn đánh và đánh chặn, mỗi nơi nên đóng quân ở đâu để đảm bảo thắng lợi, không để xảy ra sai sót, nhanh chóng trình bày tấu lên. Việc trên đây, chỉ là triều đình lo liệu trước, giao cho các lộ bàn bạc, quý ở chỗ có kế sách rõ ràng, phòng khi bất ngờ, không bị mất phòng bị. Không được làm ồn để lộ tin, khiến dân chúng trong nước hoang mang lo sợ. Mỗi khi tấu sự, phải để quan cơ nghi tự tay viết, không được để lộ chút nào.”
(Cựu lục chép lược bỏ chiếu này rất sơ sài, nay chép đầy đủ.)
[72] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ Phạm Thuần Túy tấu: “Ngoài việc tra xét các văn bản, pháp thức, đồ bản trước đây không có quy định về việc phòng thủ chống quân địch xâm nhập sâu, từ khi thần nhận chức, đã suy nghĩ về việc này và tham khảo ý kiến mọi người. Tuy không có người từng trải, nhưng tình hình và lợi hại cơ bản có thể thấy rõ. Vùng nội ngoại của lộ này núi non trùng điệp, ít có đồng bằng rộng lớn. Trước đây, quân Hạ nhiều lần xâm lược, đặc biệt năm Hi Ninh thứ ba, quân địch mạnh nhất, khi đó chỉ chia quân đánh các thành trại dọc biên giới Khánh Châu, đồng thời phái kỵ binh nhẹ cướp bóc các làng mạc. Kỵ binh nhẹ từng đến cách Khánh Châu 40 dặm về phía bắc rồi rút lui, chưa từng dùng toàn quân đánh thẳng vào phủ Kinh lược. Nếu quân địch tấn công với số lượng gấp đôi trước, việc chúng tiến đến dưới thành cũng không có gì lạ. Nhưng nếu cho rằng chúng dám vượt qua phủ Kinh lược, đánh sâu vào nội địa thì e rằng không hợp lý. Vì quân địch đã xâm phạm biên giới, nếu không dùng quân phòng thủ các trại biên giới trước, thì sao dám bỏ mặc hậu phương mà tiến sâu? Đã phải phòng thủ các trại biên giới trước khi tiến sâu, thì dọc biên giới có hơn mười thành trại, cần ít nhất 20 vạn quân, ngoài ra cần thêm 10 vạn quân nữa mới có thể đánh thẳng vào phủ Kinh lược.
Từ hè thu năm nay, thần đã tính đến việc quân địch sẽ bao vây phủ Kinh lược. Các thành trại biên giới chỉ lệnh phòng thủ nghiêm ngặt, tuân theo quân pháp, dù có lợi nhỏ cũng không được tùy tiện xuất quân; gần đây do tin tức cấp báo khẩn cấp, đã lệnh thực hiện kế thanh dã tránh quân địch. Ngoài ra, đã chọn các tướng tá có thể chiến đấu, lệnh tập hợp quân chiến đấu[16], sắp xếp nghỉ ngơi, đợi quân địch áp sát thì dần dần rút quân, hợp với quân chủ lực của phủ Kinh lược để ứng biến. Dù quân địch đánh thẳng đến phủ Kinh lược, bao vây tấn công, cũng chỉ nên cố thủ. Vì quân địch từ xa đến, ỷ vào số đông, thế mạnh khí hăng, muốn đánh nhanh. Ta lực lượng yếu hơn, chỉ nên án binh bất động, làm suy yếu khí thế địch. Chúng biết quân chủ lực ta ở trong, không muốn đánh nhanh, lại đã thực hiện thanh dã, không cướp được gì mà ngày càng tổn thất, thần cho rằng quân địch e ngại đường rút lui, chưa dám bỏ các trại bên ngoài, đánh vào phủ Kinh lược rồi tiến sâu vào nội địa.
Nếu quân địch còn dư lực, không màng thành bại, không sợ quân chủ lực ta ở sau, vẫn tiến sâu, thì lúc đó sẽ tùy cơ ứng biến, hoặc tiến hoặc lui, hoặc tập trung hoặc phân tán, hoặc thừa cơ đánh vào sơ hở, hoặc đợi chúng suy yếu chặn đường rút, tất cả tùy tình hình quyết định, không thể dự đoán trước. Thần thực sự ngu muội, may được giao trọng trách, chỉ biết hết lòng, cho rằng nên làm như vậy, không dám tự cho là đúng, chỉ mong nhờ uy linh triều đình, hy vọng hoàn thành trách nhiệm. Những việc nhỏ nhặt khác, thần đã theo ý chỉ của bệ hạ, thi hành kín đáo.”
[73] Văn Ngạn Bác tấu: “Các quan trong ngoài dâng lời rằng, nước Hạ nhận sách phong của triều đình, ân lễ hết sức ưu đãi, ban thưởng lại càng hậu, thế mà dám quên ơn trái đức, tự tiện làm công văn truyền đạt cho quan lại biên giới, tự cắt đứt với trời, không tuân cống phụng[17], trời đất không dung, thần người đều giận, xin thi hành thiên thảo để trị tội chúng. Xin hạ chiếu cho tướng biên giới, liền ra bảng cáo thị để răn dạy trong ngoài. Nếu triều đình tạm thời muốn yên dân, mở rộng đức lớn của trời đất, khoan dung rộng lượng, kìm nén sự phẫn nộ của mọi người, không tính toán với giặc xấu, thì xin rõ ràng dạy bảo quan biên giới, nghiêm ngặt phòng thủ, yên lặng chờ đợi, ắt sẽ giành toàn thắng. Còn việc triều đình tiếp tục phái đại quân, hãy lệnh cho đóng quân ở các châu quân dọc biên giới, để phòng khi cần kíp điều động.”
(Theo tập của Ngạn Bác, tự chú rằng năm Nguyên Hựu thứ hai, nay phụ vào cuối tháng bảy, cần xem xét thêm.)
[74] Phạm Thuần Nhân nói: “Thần sớm đã bàn với An Đào, vì phái trung sứ đi các nơi Thiểm Tây, Hà Đông để phủ dụ các tướng, và kiểm tra việc quản lý các tri châu dọc biên giới, nhân tiện mang theo văn thư yêu cầu số lượng binh lương, khí giáp, cùng bí mật điều tra những việc biên phòng chưa hoàn thiện, chưa tiện lợi, vừa mới dâng lên. Thần lại nghĩ, bệ hạ phái sứ bí mật dặn bảo các tướng về trọng trách được giao, nay lại lệnh điều tra việc biên giới, e rằng không phải ý bệ hạ chuyên trách các tướng. Xin trong tờ trát phó thân của mỗi người, bỏ đi phần bí mật điều tra việc biên giới, chỉ xin mặt đối mặt bảo họ bí mật tìm hiểu, khi về để phòng khi hỏi han.”
(Lời Thuần Nhân nói, chính là chiếu này, nhưng thực lục không chép việc phái trung sứ, cần xem xét thêm.)
- chữ 'Sùng' nguyên là 'Tông', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại ↵
- Chữ 'Hoài' nguyên bản viết là 'tiến', theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Bất đồng' nguyên bản là 'Nghị', theo các bản khác sửa. ↵
- 'Nhị' nguyên bản là 'tam', 'Thất' nguyên bản là 'Thập', theo các bản khác và chính văn sửa. ↵
- Diêu Miễn chưa già xin nghỉ làm Tông thừa, năm Thiệu Thánh thứ 4 tháng 3 có truyện, ý nghĩa chưa rõ, nghi có chỗ thiếu ↵
- Thần nghe nói gần đây có quan viên đề nghị 'ngày' nguyên là 'trăm', theo bản các mà sửa. ↵
- Há cần bá quan tướng hiệu đứng hàng ở sân điện 'cần' nguyên là 'đặc', theo bản các mà sửa. ↵
- Chữ 'tấu chước' trong câu này ban đầu bị đảo ngược, đã được sửa lại theo bản gốc. ↵
- Chữ 'khiển' ban đầu viết sai, đã sửa lại theo bản gốc và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 104, phần Hàn Duy giải chức. ↵
- Chữ 'hà' trong câu này có thêm hai chữ 'vi tội', có lẽ là đúng. ↵
- 'Châu quận' nguyên bản là 'Tri châu', căn cứ theo sách trên mà sửa. ↵
- 'Hàn Giáng' nguyên bản là 'Hàn Duy', căn cứ theo các bản và 《Đông Đô sự lược》 quyển 52 《Lữ Công Bật truyền》 mà sửa. ↵
- 'Khuất phục muôn quan' chữ 'khuất' nguyên là chữ 'sợ', căn cứ vào các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 104 'Hàn Duy giải cơ chính' sửa. ↵
- 'từ chối thẳng thừng' nguyên văn là 'mà từ chối', căn cứ vào các bản khác và sách trên mà sửa ↵
- 'Tôi sao có thể nhẫn nhịn mà không biện bạch, nhẫn nhịn mà không từ chức' sách trên viết là 'Tôi sao có thể im lặng, không biện bạch mà từ chức' ↵
- 'Đoàn' nguyên là 'vi', theo bản khác sửa ↵
- Không tuân cống phụng, chữ 'phụng' nguyên là 'tấu', theo bản trong các sách sửa lại. ↵