VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 408: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 3 (MẬU THÌN, 1088)
Từ tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 2 đời Triết Tông đến hết tháng 12 năm này.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Tuất, Hiệu thư lang Vương Bá Hổ được cử làm quyền Tri châu Nhiêu, Chính tự Đặng Trung Thần được cử làm quyền Thông phán châu Doanh. Gián quan Hàn Xuyên tâu rằng hai người này không xứng đáng được chọn vào chức vụ trong quán.
(Việc này căn cứ theo chương thứ 7 trong bản tấu của Lưu An Thế đàn hặc Âu Dương Phỉ.)
[2] Khôi phục lại kho Quảng Huệ. Trước đây, Trứ tác lang kiêm Thị giảng Phạm Tổ Vũ tâu rằng: “Từ thời tổ tông đến nay, mỗi khi gặp tuyết lớn, triều đình đều miễn thuế nhà cửa công tư, cùng bán thóc gạo, mua than, phát tiền, người chết thì ban tiền chôn cất. Gần đây, triều đình không việc gì không thực hiện, lại còn xuất tiền trong kho nội phủ, ân đức dày dặn, không gì hơn được nữa. Thần trộm nghĩ, từ trước niên hiệu Gia Hựu, các lộ đều có kho Quảng Huệ để cứu giúp người cô độc nghèo khó, kinh sư có viện Phúc Điền Đông và Tây để nuôi dưỡng người già, trẻ nhỏ và người tàn tật. Đến năm Gia Hựu thứ 8, lại thêm viện Phúc Điền Nam và Bắc, tổng cộng bốn viện, đây là phép tắc cổ xưa để lại. Tuy nhiên, mỗi viện chỉ lấy 300 người làm mức, thần cho rằng dân chúng kinh sư, người cô độc nghèo khó không chỉ 1.200 người. Triều đình mỗi khi gặp mùa đông giá rét, thì tạm thời ban chỉ cứu giúp, tuy ân đức rộng khắp, nhưng dân đã chết đói chết rét nhiều rồi. Cứu đói trước khi đói, đặt ra phép tắc trước, thì người ta không đến nỗi chết đói; cứu rét trước khi rét, chuẩn bị trước, thì người ta không đến nỗi chết rét.
Thần cho rằng nên xây thêm nhà quan ở bốn viện Phúc Điền để chứa dân nghèo, không hạn chế số người, vẫn theo phép cũ mà nuôi dưỡng, giao cho các sứ thần đề cử tả hữu sương đặt nhiều phương lược cứu tế, không nhất thiết chỉ phát tiền mặt. Số người mà sứ thần cứu sống được, ghi thành thành tích, lượng ban thưởng, người chết nhiều thì cũng định hình phạt. Nếu sứ thần bốn sương đề cử khó khắp, thì giao Lại bộ tạm thời chọn thêm bốn viên sứ thần, cùng kiêm nhiệm đề cử, cũng theo phép của sứ thần bốn sương. Kho Quảng Huệ trong thiên hạ, xin khôi phục lại, khiến quan lại dốc lòng cứu giúp, phải làm sao cho ân huệ thực sự đến được dân nghèo. Việc bệ hạ làm gần đây, hơn hẳn việc này, nhưng điều thần trình bày, tuy rất nhỏ, nhưng thánh nhân xưa đều coi là việc cần làm trước, phép tắc không thể không đầy đủ.”
Vua nghe theo.
[3] Ngày Giáp Dần, Thông nghị đại phu trí sĩ Lưu Kỷ[1] mất.
[4] Ngày Ất Mão, Hà Đông phó tổng quản Lý Hạo và Quản câu Lân Phủ lộ Mã quân ty Tí Hổ đem quân kéo dài chiến dịch chống giặc phiên ở Kinh Nguyên lộ, chém giết và bắt được nhiều. Chiếu ban cho Lý Hạo, Tí Hổ và những người dưới quyền được ban thưởng hộp bạc, trà và thuốc theo thứ bậc.
(Bản mới không có đoạn này.)
[5] Ngày Bính Thìn, chiếu rằng vì trời xuân lạnh, kéo dài thời hạn bán than củi thêm 15 ngày[2]. Lúc này từ mùa đông năm ngoái có tuyết lớn và lạnh, kéo dài đến tháng này.
[6] Châu Nguyên tâu rằng, Đô tuần kiểm Khâu Trọng Văn và những người khác gặp giặc man Cửu Linh ở Châu Hợp, chém giết được 48 tên giặc man. Chiếu sai Hồ Bắc chuyển vận sứ Lý Mậu Trực đến xác minh số lượng giặc man, hỏi về tình hình chiến trận và người lập công đầu, đồng thời chuẩn bị phòng bị, những người đáng được khen thưởng thì nhanh chóng tâu lên.
[7] Ngày Đinh Tỵ, chiếu đổi tên kho Phong Trang tiền vật thành kho Nguyên Hựu, thuộc về Thượng thư tỉnh Tả Hữu ty.
(Ngày 18 tháng 3 và ngày 18 tháng 5.)
[8] Ngày Kỷ Mùi, triều hiến ở cung Cảnh Linh.
(Ngày 7 tháng 10 năm ngoái, định ra nghi lễ cung tạ; ngày 12 tháng 10, liên tiếp đến cung. Năm nay, ngày 11 tháng giêng, ngày 18 tháng 4, ngày 23 tháng 7 và ngày 15 tháng 10, bốn lần đến cung. Lời của Phạm Tổ Vũ nói rằng một năm mới xong, có thể tham khảo.)
[9] Ngày Canh Thân, chiếu phát lương thóc của quân cấm khuyết ngạch ở Kinh Tây Nam lộ hơn 50 vạn hộc, bán ra với giá giảm, đến ngày lúa mạch chín thì dừng. Vì tuyết lạnh khiến giá cả hàng hóa tăng vọt.
[10] Chiếu rằng các quan chức mạc chức châu huyện dù chưa qua khảo hạch, vẫn được cử thi khoa Hiền lương phương chính năng trực ngôn cực gián.
[11] Quyền tri Khai Phong phủ Tiền Hiệp và Quyền phát khiển Khai Phong phủ Suy quan Tất Trọng Du vì xử án có người bệnh chết, bị phạt tiền theo thứ bậc.
[12] Quyền phát khiển Kinh Đông Tây lộ Chuyển vận phán quan Trương Cảnh Tiên được tăng sai làm Hà Bắc lộ Chuyển vận phán quan. Cảnh Tiên đề nghị khai thông cửa sông Tôn Thôn để giảm nước, ý kiến này hợp với ý của chấp chính, nên có mệnh lệnh này.
(Thực lục chỉ ghi việc tăng sai, nay xét thêm vào. Cảnh Tiên từ chức Tri Bắc Ngoại thừa được bổ làm Kinh Đông Vận phán vào tháng 12 năm thứ 2. Ngày 8 tháng 5 năm thứ 4, Tằng Triệu có nói đến việc này để tham khảo.)
[13] Tri Tế châu Tôn Thăng được quyền phát khiển làm Kinh Đông Tây lộ Đề điểm hình ngục.
[14] Ngày Tân Dậu, chiếu cho Hồ Bắc Chuyển vận sứ Lý Mậu Trực: “Những người man ở Cừ Dương đã quy thuận, nếu là người đứng đầu hoặc chính tặc thì bắt giữ hoặc đưa đến Cừ Dương để giám sát, còn lại nhanh chóng vỗ về và cho trở về nơi cư trú cũ, đồng thời chiêu nạp những người chưa hướng về nhà Hán. Nếu trong số đó có thủ lĩnh vẫn không có ý quy thuận, thì theo lệnh đã ban trước đó mà xử lý.”
[15] Ở Quảng Nam Tây lộ, bọn giặc Lê ở Đông Môn động làm hại quan binh. Chiếu cho Kinh lược ty: “Đợi khi Chu Nhai quân sứ Thôi Chiếu đến, hãy trực tiếp truyền đạt theo lệnh gần đây, bỏ đi những tệ cũ, mở rộng ân tín, khiến cho người Lê sinh sống tự nhiên biết được có nơi để kêu oan. Nếu thủ lĩnh nào biết cải đổi tự mình làm mới, thì hãy đối xử ưu ái; nếu gian trá phản phúc, xét thấy không thể kiểm soát được, thì hãy dùng tiền thưởng hậu hĩnh để mộ người Lê quen thuộc giết lấy thủ cấp, hoặc dùng kế dụ dỗ, báo trước cho quan quân bắt giữ, không để họ tự tiện vào động Lê. Hãy báo cáo phương lược thực hiện lên trên.”
[16] Ngày Nhâm Tuất, vì trời âm u có tuyết, nên bãi bỏ việc du ngoạn trong tiết Thượng Nguyên.
[17] Ngày Ất Sửu, lệnh cho Hàn lâm học sĩ Tô Thức quyền giữ chức Tri Lễ bộ Cống cử, Lại bộ Thị lang Tôn Giác, Trung thư xá nhân Khổng Văn Trọng cùng giữ chức Đồng tri Cống cử. Thiên hạ tiến sĩ tổng cộng 4.732 người, đều đến Thái học để dự thi.
(Ngày Ất Sửu tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 3[3], khóa cửa Thái học để thi Lễ bộ tiến sĩ 4.732 người. Ngày Mậu Thân tháng ba, tâu danh sách 500 tiến sĩ, 2 người thuộc hoàng tộc. Tử Thiệm, Sân Lão, Kinh Phụ giữ chức Tri cử, Hi Thúc, Nguyên Dư, Ngạn Hoành, Lỗ Trực, Tử Minh giữ chức Tham tường, Quân Huống, Hi Cổ, Lý Trung, Khí Chi, Thành Quý, Minh Lược, Vô Cữu, Nghiêu Văn, Chính Thần, Nguyên Trung, Hà Thúc, Tử Phát, Quân Thành, Thiên Khải, Chí Hoàn giữ chức Điểm kiểm thí quyển. Đây là bia đá do Hoàng Đình Kiên viết cho Tôn Mẫn Hành, hiện còn lưu tại nhà Mẫn Hành. Phàm việc bổ nhiệm quan chức giữ chức Tri Cống cử đều phải ghi chép, nhưng bản cũ thiếu mất đoạn này, nay căn cứ vào bia đá của Đình Kiên để bổ sung. Ngày 22 tháng 10 năm Nguyên Niên tu sửa Cống viện, cần tra cứu thêm.)
[18] Chiếu lệnh cho quân Sương ở Kinh Tây lộ lấy 33.500 người làm định mức, theo quy định của Binh bộ.
[19] Ngày Bính Dần, chiếu lệnh cho Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông xem xét kỹ những người Phiên quy thuận, nếu có người đơn độc hoặc có dấu hiệu đáng ngờ phản trắc, thì phân tán đến các quận gần đó. Lại chiếu lệnh cho các Tổng binh quan Thiểm Tây, Hà Đông khi tâu công trạng phải ghi rõ số người trở về biên ải và nguyên nhân thất lạc; nếu không ra khỏi biên giới mà giặc rút lui, thì số người hiện quản lý cũng phải báo cáo tương tự.
[20] Xu mật viện tâu: “Giặc Hạ nghịch mệnh, không tu chức cống, sau đó đem cả nước đại phạm Kinh Nguyên, thất bại trở về, các lộ kìm chế, chém giết cũng nhiều. Xét lòng gian của chúng, ắt mưu tính lại đánh, nhưng chưa nghe các lộ báo tin về việc chúng chuẩn bị. Xem mưu kế của chúng, bên ngoài tỏ ra yếu đuối, làm kế hoãn binh, bên trong thì ngầm tập hợp, chờ thời tiết ấm áp, sẽ đánh thẳng tới. Lo rằng việc thám thính không chu đáo, phòng bị lơ là.” Chiếu cho các lộ Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông nghiêm khắc răn bảo tướng biên và quan thành trại, chiêu mộ người do thám, biết trước hướng tiến công, luôn cảnh giác như giặc sắp đến, phòng bị quá mức cần thiết.”
[21] Triều nghị đại phu Triệu Xưng làm Hộ bộ lang trung.
(Hành trạng của Xưng nói việc bãi bỏ Căn ma ty, nên kiểm tra kèm theo.)
[22] Ngày Đinh Mão, người tiến cống của Thạch Phiền ở Tây Nam được đặc cách cho vào yết kiến.
[23] Tăng thêm 800 quân Sương ở lộ Tử Châu, theo lời thỉnh cầu của Chuyển vận ty.
[24] Thị ngự sử Vương Địch tấu: (Biên loại chương sớ vào ngày 19 tháng giêng năm thứ 3.) “Tô Thức mùa đông năm ngoái ra đề thi sách ở Viện Học sĩ để thí sinh làm quan, tự cho là mượn chuyện Hán để ví với nay. Việc mượn để ví với nay, chính là chuyện Vương Mãng, Tào Tháo cướp nước dễ hay khó, các quan thấy đều kinh hãi. Thức quen thói nhẹ dạ, tham quyền lợi, không hiểu ý nghĩa đạo đức tính mệnh của tiên vương, chỉ chuyên mộ thuật tung hoành thời Chiến Quốc. Vì thế việc làm của ông ta phần nhiều không hợp lẽ phải, văn chương phần nhiều vượt ra ngoài pháp độ. Đề thi trước đây làm tổn hại quốc thể và khiến mọi người kinh hãi, không phải là lỗi lầm ngẫu nhiên, mà ý của Thức tự cho là nên như vậy. Thần thấy Thức tính tình lập dị, học thuật không chính, giỏi văn chương mà mờ mịt về nghĩa lý. Nếu để lâu ở triều đình, ắt sẽ làm những việc kỳ quặc, lấy đó làm phương tiện tiến thân; mưu mẹo hại người, để thỏa mãn tính khí nóng nảy. Triều đình nếu chưa muốn trị tội nặng Thức, thì nên cho ông ta làm quan ở một quận, để răn đe thói nhẹ dạ hiếu thắng.”
(Ngày 24 tháng chạp năm ngoái Dương Khang Quốc, ngày 28 Triệu Đĩnh Chi nói như vậy.)
[25] Ngày Kỷ Tỵ, Thái trung đại phu Trần Dịch mất.
[26] Ngày Canh Ngọ, ban chiếu rằng: Nếu các chức vụ khuyết ở ba tỉnh do trung ương phê chuẩn giao cho Trung thư tỉnh, thì cả ba tỉnh cùng thực hiện.
[27] Chiếu rằng: “Văn Ngạn Bác dâng biểu xin nghỉ hưu, đã có chỉ dụ không cho các nơi nhận văn thư. Từ nay nếu có tấu trình khác, vẫn theo lệ cũ nhận và dâng lên.”
(Sách 《Ngự tập》 ngày 22 tháng giêng.)
[28] Tri châu Hi Châu Lưu Thuấn Khanh tâu: “Ban thứ mang thư tấu chữ Phiên của A Lý Cốt đến cửa quan, xin cho Quỷ Chương về Phiên. Xin chỉ cho Quỷ Chương gặp thân thuộc tại Hi Châu.” Chiếu cho Thuấn Khanh: A Lý Cốt nạp khoản, nghe chỉ. Lại tâu A Lý Cốt sai Lý Sa Lặc Mã đến tiến cống, chiếu cho phái đến kinh.
(Phạm Thuần Nhân có nói, có thể phụ vào đây.)
[29] Ngày Nhâm Thân, chiếu rằng: “A Lý Cốt đã sai người dâng biểu đến kinh tạ tội, lệnh cho tướng biên giới không xuất binh, đồng thời bãi bỏ việc chiêu nạp.”
[30] Quan văn điện học sĩ, Chính nghị đại phu Tôn Cố được cử làm Đề cử Trung Thái Nhất cung kiêm Thị độc, sau lại kiêm thêm chức ở Tập Hi quan.
(Kiêm Tập Hi quan vào ngày 26.)
[31] Chiếu cho Tư không, Khai phủ nghi đồng tam ty, Trấn Giang quân Tiết độ sứ trí sĩ Hàn Giáng, con là Triều tán đại phu, Vệ úy Thiếu khanh Hàn Tông Sư làm Trực bí các, đề cử Thái Bình cung. Vì Giáng đã trí sĩ, Tông Sư xin được phụng dưỡng cha nên có chiếu này. Sau đó lại có chiếu: khi Giáng từ biệt, cho Tông Sư đỡ cha vào điện.
(Thực lục ghi ngày 25 tháng này là Quý Dậu, Xu mật viện tâu: “Giặc Tây đánh phá Trấn Nhung, rút quân toàn bộ, e rằng chúng có âm mưu xấu, nên chiêu mộ nhiều người đi thăm dò sâu, hoặc có thể dùng kế ly gián. Những người bị bắt ở Hoàn Khánh lộ khi đánh dẹp Khúc Lục Luật, dần có thủ lĩnh quy hàng.” Chiếu cho Phạm Thuần Túy trước hết chọn cử quan phiên quản lý, cùng thủ lĩnh quy hàng thân thiết, dùng những gì họ thích để dụ dỗ, xem xét người nào có thể đi thăm dò sâu tình hình địch, thì bí mật bảo đảm một hai người, không để họ biết nhau, trao mật hiệu, dạy cách dùng kế ly gián, và tìm hiểu động tĩnh của địch để báo. Xét chiếu này là ngày 5 tháng 12 năm ngoái, có tấu nghị của Phạm Thuần Túy để khảo cứu, đã theo tấu nghị phụ vào ngày 29 tháng 12, bỏ đoạn này không ghi.)
[32] Ngày Giáp Tuất, xét xử tù nhân ở kinh thành và phủ giới, tội tử hình trở xuống đều giảm một bậc, đến tội đánh trượng thì tha, vì trời âm u lâu ngày không tan.
[33] Ngày Bính Tý, Ngự sử Trung thừa Hồ Tông Dũ, Thị ngự sử Vương Địch vào chầu, Vua tuyên dụ: “Trời âm u lâu ngày không tan, tuyết rơi rất lạnh, dân chúng khổ cực.” Tông Dũ đáp: “Bệ hạ ban tiền, bán gạo, chia bán củi than, dân kinh thành rất may mắn, chỉ có Hà Bắc, Kinh Đông bị thiên tai, cần phải cứu tế nhiều nơi.” Vua nói: “Đã có chỉ thị từng việc.” Tông Dũ, Địch nói: “Nghe nói hai cung lo lắng, trong cung không dùng nhạc ngày Thượng nguyên, không lên lầu, cũng không mở yến hội.”
[34] Thái Nguyên phủ lộ kiềm hạt, Hoàng thành sứ, Vinh Châu thứ sử Trương Thế Củ vì để lọt giặc Hạ, bị cách chức Vinh Châu thứ sử, miễn chức nhưng không bị cách hẳn.
(Theo bản này ghi là Tri Trấn Nhung quân, nay đổi làm Thái Nguyên phủ lộ kiềm hạt. Ngày 13 tháng 8 năm ngoái, Trương Chi Gián giữ chức Tri Trấn Nhung quân kiêm Kinh Nguyên kiềm hạt, ngày 10 tháng 9 năm đó, giặc cướp Trấn Nhung. Căn cứ vào 《Trương Thuấn Dân chí Lưu Xương Tộ mộ》, người thực sự giữ chức Tri quân là Trương Chi Gián. Ngày 24 tháng 11, Chi Gián được thăng làm Cáp sứ; ngày 16 tháng 12 nhuận năm thứ 3, được gia hạn khảo hạch. Không rõ Trương Thế Củ nhậm chức Tri Trấn Nhung vào ngày tháng nào, cũng không rõ Chi Gián mất vào ngày tháng nào, Thế Củ có lẽ là người thay thế Chi Gián, đều cần xem xét kỹ, có thể chữ “Trấn Nhung” là sai. Ngày 12 tháng 12 nhuận, năm Giáp Dần, Thế Củ với chức Hoàng thành, Vinh Châu thứ sử, Thái Nguyên lộ kiềm hạt, được ghi công cho con trai, điều này cho thấy ông không phải giữ chức Tri Trấn Nhung. 《Tằng Triệu chế tập》 có ghi Hoàng thành sứ, Vạn Châu đoàn luyện sứ Trương Chi Gián[4] giữ chức Tri Trấn Nhung quân, 《Lưu Ban chế tập》 có ghi Quyền Kinh Nguyên kiềm hạt, Hoàng thành sứ, Vạn Châu đoàn luyện sứ Trương Chi Gián được thăng hai bậc làm Tây thượng cáp môn sứ, Thái Nguyên phủ Đại Châu đô kiềm hạt, ngày Giáp Dần tháng 12 nhuận ghi công cho con trai của Thế Củ là Thiên Tích. Xét chứng cứ thì không nên ghi là “Tri Trấn Nhung quân”, nay đổi thành Thái Nguyên phủ lộ kiềm hạt.)
[35] Tháng 2, ngày Kỷ Mão, Hữu ty gián Phong Tắc, Hữu chánh ngôn Đinh Chất vào chầu, Vua tuyên dụ rằng: “Âm u kéo dài không tan, khí trời chưa hòa, các yến tiệc trong cung đều bãi bỏ.” Tắc và các quan tấu rằng: “Hai thánh thượng yêu dân như vậy, thiên hạ thật may mắn.”
[36] Chiếu rằng những người thân thuộc ngoài đời thứ hai, đã được cấp tiền gạo theo đầu người, những người cô quả không nơi nương tựa ở ngoại nhiệm, được cấp nhà ở của quan, hoặc cấp tiền thuê nhà, lệnh Lễ bộ lập pháp tâu lên. Việc này do Ngự sử trung thừa Hồ Tông Dũ đề xuất.
(Vương Nham Tẩu nói thêm…)
[37] Giám sát ngự sử Triệu Đĩnh Chi tâu: “Việc thi cử dùng sách 《Tam Kinh Tân Nghĩa》 để tuyển chọn người đã gần hai mươi năm. Nay nghe lời bàn tán bên ngoài, cho rằng Tô Thức chủ trì việc thi, ý muốn cải cách, nếu thấy thí sinh dẫn dụng 《Tân Nghĩa》, sẽ quyết định đánh trượt. Xin Lễ bộ và Cống viện xem xét việc thí sinh dẫn dụng 《Tân Kinh》 cùng chú sớ, đánh giá văn lý một cách công bằng.” Chiếu chỉ giao Cống viện xem xét.
(Tô Thức chủ trì việc thi, sách mới và sách cũ đều bỏ sót việc này. Xét Tô Thức ban đầu không có ý này, Đĩnh Chi nghe lời đồn mà tâu lên, dùng tình cảm để vu khống sự thật. Xét: kẻ tâu báo dùng tình cảm vu khống sự thật không chỉ việc này, ghi lại để thấy rõ đúng sai.)
[38] Xu mật viện tâu: “Giặc Khương nhiều mưu kế, điều quan trọng là phải lo liệu trước, không để mất cảnh giác. Từ mùa đông năm ngoái tuyết rơi lạnh giá, nay đã sang giữa mùa xuân, trời vẫn nhiều u ám, e rằng người Hạ âm thầm nuôi dưỡng âm mưu, vì trước đây ở Kinh Nguyên đánh không có lợi, các lộ kéo dài việc đánh dẹp, giặc cùng đường dễ nổi giận, mưu đồ xâm nhập sâu, mong được may mắn.” Chiếu chỉ giao các lộ Thiểm Tây, Hà Đông lo liệu kỹ lưỡng, chuẩn bị nhiều phương án để đối phó.
[39] Ngày Canh Thìn, vì mưa nhiều ngày, miễn triều hội năm ngày.
[40] Xu mật viện tâu: “Việc quản lý tiền lương của quân cấm bị thiếu hụt, các lộ đều thuộc Ty Đề hình, chỉ có phủ Khai Phong giao cho quan đề cử bán muối giải quản lý. Nay phủ Khai Phong đã đặt Ty Đề hình, xin xem xét thi hành.” Chiếu chỉ giao Ty Đề hình quản lý.
[41] Lại có chiếu chỉ: Số tiền thuế rượu dư ra ở các ty rượu lộ Kinh Tây đều giao về Ty Chuyển vận.
(Sách mới bỏ.)
[42] Ngày Tân Tỵ, chiếu chỉ: Những hộ nợ thuế thị dịch có hạn thu theo quý, có thể tạm ngừng thu một quý.
[43] Ngày Quý Mùi, Tri Xu mật viện sự An Đào tâu: “Từ mùa đông năm ngoái tuyết rơi bất thường, trời u ám lâu ngày chưa tan, dân nghèo thất nghiệp, khiến bề trên lo lắng, đều do việc phụ chính không tốt gây ra. Xin bị giáng chức để đền tội trời.” Thái hoàng thái hậu tuyên dụ: “Đây là do đức mỏng gây ra, không phải lỗi của các khanh. Triều đình gần đây cứu tế dân chúng, không gì không làm, nên mở rộng ra toàn thiên hạ, để mong hòa khí.”
(Sách mới chép: “Nên tìm cách cứu tế dân chúng nhiều hơn, để mong hòa khí.”)
[44] Chiếu rằng: “Từ nay, các chức Triều nghị, Trung tán, Chính nghị, Quang lộc, Ngân thanh quang lộc, Kim tử quang lộc đại phu, đều đặt thêm chữ ‘tả’ và ‘hữu’. Những người xuất thân tiến sĩ và giữ chức vụ, khi thăng chuyển đến chức Tả triều nghị, Trung tán, thì tính là hai bậc; những người khác thăng chuyển đến chức Triều nghị, Trung tán, thì phân biệt chữ ‘tả’ và ‘hữu’, tính là bốn bậc. Từ chức Chính nghị trở lên đến Kim tử quang lộc, đều phân biệt chữ ‘tả’ và ‘hữu’, tính là tám bậc. Những quan chức đã đạt đến các chức này đều được thăng thêm.”
Cựu lục chép: “Đây không phải là chế độ quan chức của Tiên đế.” Tân lục đã bỏ đi. Ngày 4 tháng 11 năm thứ 4, Canh Ngọ, từ Thừa vụ lang trở lên đến Triều thỉnh đại phu, những người xuất thân tiến sĩ thêm chữ ‘tả’, những người khác thêm chữ ‘hữu’.
Ngày 3 tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ 2, Mậu Thìn, bỏ chữ ‘tả’ và ‘hữu’ đối với các chức Quang lộc, Ngân thanh quang lộc, Chính nghị, Triều nghị, Trung tán đại phu, chỉ giữ lại chữ ‘tả’ và ‘hữu’ đối với các chức khác. Ngày 27 tháng 6 năm Đại Quan thứ 2, Bính Ngọ, lại đổi chế độ này.
Gần đây có người tên là Trần Uyên, viết trong 《Dương Thời Quy Sơn Ngữ Lục》 một đoạn rằng: “Nhân bàn về việc những người hàn sĩ mới được làm quan, không phải là không hiểu việc, nhưng thường làm bừa. Đại để khoa cử không chọn được người tài, nếu có được thì cũng là những bậc hào kiệt nhờ khoa cử mà tiến thân. Có người hỏi: ‘Lý Đức Dụ từng nói: Con em các gia đình công khanh đại phu có thể dùng được, còn tiến sĩ chưa chắc đã dùng được. Lời bàn này có thiên lệch không?’ Đáp rằng: ‘Lý Đức Dụ nói thế, đến nay người ta vẫn cho là thiên lệch, vì đương thời người ta cho rằng Đức Dụ nhờ ân tứ mà tiến thân, không qua khoa cử, nên mới nói thế. Điều này thật vô nghĩa. Với tài năng của Đức Dụ, ứng thí các khoa mục đời Đường rất dễ dàng, chỉ là ông không làm thôi. Hơn nữa, giữa việc nhờ ân tứ mà được làm quan và việc đỗ tiến sĩ mà được làm quan, cái nào hơn cái nào kém? Cho rằng tiến sĩ hơn, còn ân tứ là kém, đó là quan điểm tầm thường của đời sau, khiến người ta xấu hổ vì được hưởng ân đức của tổ tiên, mà lại cam tâm học những thứ vô ích để tranh đua với những kẻ hàn sĩ trong trường thi, may mắn đỗ đạt để lấy làm vinh, đó là cách nhìn nhận gì? Việc ứng thí cũng là do những người hàn sĩ không có lộc, bất đắc dĩ mới nhờ đó mà tiến thân. Nếu có thể không làm, thì cần gì phải ứng thí?
Phạm Nghiêu Phu là người rất có kiến thức, nhưng cũng phân biệt giữa ân tứ và tiến sĩ, đề nghị thêm chữ ‘tả’ và ‘hữu’ vào chức vụ của những người có xuất thân và không có xuất thân, không thể nói là không có sự thiên lệch. Ông nói: ‘Muốn khiến con em các gia đình công khanh chăm chỉ đọc sách.’ Ý này rất hay, nhưng nếu cho rằng những người đỗ tiến sĩ là đọc sách, rồi khen thưởng khuyến khích họ, thì những người đọc sách đó chỉ dừng lại ở việc đỗ tiến sĩ mà thôi, há phải là người thực sự học đạo? Như Hàn Trì Quốc vốn là người có tài kinh bang tế thế, dùng làm chấp chính cũng rất giỏi, không thể vì không có xuất thân mà bỏ qua tài năng chấp chính của ông.’ Có người hỏi: ‘Những người mà Phạm Nghiêu Phu phân biệt, có phải là những người như thế không?’ Đáp rằng: ‘Chức chấp chính không phải là chức vụ có thể làm ngay từ đầu, mà phải từ chức vụ thấp dần dần thăng lên. Như sau này Ngô Thản Cầu, trong năm Thiệu Thánh bị bác bỏ chức bác sĩ, vì không có xuất thân. Ông ta vốn là người áo vải, triều đình thấy ông có học hạnh, ban cho tước mệnh, cho làm bác sĩ; lại vì không có xuất thân mà tước đi, đó là lý gì? Trong số những người nhờ ân tứ và đỗ tiến sĩ đều có người tài, chỉ cần dùng đúng người. Thêm chữ ‘hữu’ cũng là tự làm nản lòng người muốn làm điều tốt.'”
Xét rằng: Việc phân biệt chữ ‘tả’ và ‘hữu’ trong các chức giai quan, thực lục không ghi rõ là ai đề xuất, Dương Thời lại cho là do Phạm Thuần Nhân, không rõ căn cứ vào đâu. Lại xét: Ngày 4 tháng 2 năm thứ 3, Tân Tỵ, lệnh từ chức Triều nghị đại phu trở lên thêm chữ ‘tả’ và ‘hữu’, lúc đó Phạm Thuần Nhân đang giữ chức Đồng tri Xu mật viện, không tham gia việc ở Tam tỉnh. Đến ngày 5 tháng 4 năm đó, mới được bổ nhiệm làm Hữu tướng. Ngày 4 tháng 11 năm thứ 4, Canh Ngọ, lại lệnh từ Thừa vụ lang trở lên phân biệt thêm chữ ‘tả’ và ‘hữu’, nhưng Thuần Nhân đã bãi chức Hữu tướng từ ngày 4 tháng 6. Ghi chú thêm ở đây, phải chăng Thuần Nhân từng có đề xuất này, sau khi bãi chức, triều đình mới thi hành lời ông? E rằng 《Quy Sơn Ngữ Lục》 không đáng tin.
Nghị luận của Đinh Chất nên ghi chú thêm ở đây. Tưởng Chi Ký viết minh văn trên mộ Đinh Chất rằng: “Khi chế độ quan chức được thi hành, dùng chức giai để định bổng lộc, chức Triều tán đại phu ngang với chức Lang trung trước đây, chức Triều nghị đại phu ngang với chức Thiếu khanh, chức Trung tán đại phu ngang với chức Quang lộc khanh. Theo chế độ cũ, những người xuất thân tiến sĩ thường được thăng từ chức Chức phương lang trung lên Thái thường thiếu khanh, rồi lên Quang lộc khanh; nay từ chức Triều tán đại phu thăng lên Trung tán đại phu là hợp lý. Những người không có xuất thân phải thăng bốn bậc từ chức Giá bộ lang trung mới lên được chức Chính khanh, mà nay chỉ thăng hai bậc lên Trung tán, như thế là làm rối loạn chế độ cũ, khiến việc thăng tiến nhanh chậm lẫn lộn không phân biệt. Sau đó, triều đình thêm chữ ‘tả’ và ‘hữu’ vào các chức Triều nghị, Trung tán, những người không có xuất thân đều từ ‘hữu’ chuyển sang ‘tả’ để phân biệt; lại chia các chức từ Triều nghị đến Kim tử quang lộc thành ‘tả’ và ‘hữu’, đều thăng chuyển nhỏ để phù hợp với chế độ cũ. Từ chức Thừa vụ lang trở lên, cũng phân biệt ‘tả’ và ‘hữu’ theo việc có xuất thân hay không. Từ đó, việc phân biệt thanh trọc dần rõ ràng, phần lớn các đề xuất này đều do Đinh Chất khởi xướng.”)
[45] Chiếu rằng: “Khai Phong phủ từ mùa đông đến mùa xuân, gặp tuyết lạnh kéo dài, lệnh cho Ty đề hình xem xét những người muốn vay lương thực giống, và căn cứ vào hộ đẳng để cấp phát, sau đó báo cáo số lượng lên triều đình.”
[46] Lại chiếu lấy tiền và thóc từ kho thường bình cấp cho những người ăn xin trong kinh thành, đến cuối mùa xuân thì dừng.
(Theo《Chính mục》: “Chiếu cho phủ giới ba ngày phát tiền gạo một lần cho viện tế bần, mỗi người một thăng, mười đồng, trẻ dưới bảy tuổi giảm một nửa, đến ngày mồng 5 tháng 3 thì dừng, vì trời lạnh có tuyết.”)
[47] Chiếu ban vàng bạc, lụa là cho các quan lộ Phu Diên, Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Hội, để chiêu mộ người có thể dò xét tình hình địch.
[48] Ngày Giáp Thân, Thượng thư Hữu bộc xạ Lữ Công Trước tâu: “Mùa đông năm ngoái tuyết rơi nhiều hơn mọi năm, từ đầu mùa xuân đến nay, trời âm u không dứt, kéo dài nhiều tháng, dân chúng bị thiên tai. Xin bãi chức thần để đáp lại thiên biến.” Chiếu rằng: “Trẫm kế thừa đại thống, lo sợ đức hạnh không xứng, làm mất hòa khí âm dương. Từ mùa đông năm ngoái đến mùa xuân năm nay, trời âm u lạnh lẽo, tuyết rơi không ngớt, gánh chịu tai ương này, dân chúng có tội gì? Trẫm đang lo lắng, tìm cách sửa lỗi, mà các khanh lại xin từ chức để tránh trách nhiệm, điều này càng làm lộ rõ đức hạnh kém cỏi của Trẫm, và khiến Trẫm không thể đáp ứng ý trời. Các minh quân xưa gặp thiên tai thì lo sợ, tự sửa mình tu tỉnh để chấn chỉnh đức hạnh, chưa từng nghe chuyện đổ lỗi cho đại thần để che đậy sai lầm. Các khanh hãy đồng lòng, ngày đêm khuyên bảo, giúp Trẫm khắc phục thiếu sót, mong rằng tai ương sẽ tiêu tan, đúng như ý Trẫm. Hãy yên tâm ở lại chức vụ, lời thỉnh cầu không được chấp thuận.”
[49] Chiếu bãi việc tu sửa cầu điện ở Kim Minh trì, vì trời lạnh cần thương xót thợ thuyền.
[50] Thượng thư tỉnh tâu: “Từ năm Nguyên Phong thứ nhất đến trước năm thứ tám, ty Chuyển vận hai lộ Chiết Đông, Chiết Tây theo quy định phải chi trả tiền mua lụa và lĩnh vải trước ngày 15 tháng giêng. Ty Chuyển vận thiếu tiền, thường đợi đến năm sau mới thu mua theo giá thị trường, thực tế phải dùng giá cao, dẫn đến các năm sau phải vay mượn tiền của ty khác, nên khó bắt ty Chuyển vận nhận trả tiền lụa và lĩnh vải đã giảm giá. Xin chỉ thu theo số lượng định sẵn, không thi hành việc giảm giá nữa. Các lộ Kinh Tây, Kinh Đông, Giang Đông, Hoài Nam, Kinh Hồ Bắc đều thi hành theo cách này.” Vua đồng ý, các lộ khác cũng áp dụng tương tự.
(Đã bỏ.)
[51] Chiếu cho các lộ Giang Nam Đông, Giang Nam Tây, Kinh Hồ Nam, Kinh Hồ Bắc, Phúc Kiến, phủ Thành Đô, các châu Tử, Lợi, Quỳ, số tiền và vật phẩm đã phong trang trước năm Nguyên Hựu thứ hai, cho phép người dân nộp tiền hoặc mua vàng lụa, chuyển về kho Nguyên Hựu.
[52] Ngày Ất Dậu, ban đức âm: “Giảm án tử hình, tha tù phạm tội đồ trở xuống. Các lộ miễn trừ việc bắt phu dịch sửa sông và làm công trình vào mùa xuân năm nay, nếu đã đi trên đường thì đến nơi báo cho về. Các công trình cấp bách trên sông và các việc cần thiết khác, đều dùng quân sĩ và thuê dân nghèo tự nguyện làm, các việc khác tạm dừng một năm. Tội nhân bị bắt làm việc công từ tháng 3 năm nay trở đi, thi hành theo quy định. Các quận huyện bị thiên tai, nợ công tư được gia hạn một quý, thuế thu năm ngoái gia hạn một kỳ. Dân lưu tán và người đói nghèo, đều được cứu tế bằng nhiều cách, nếu việc cấp tiền gạo gặp trở ngại theo quy định, ty An phủ hoặc Kiềm hạt xem xét ứng phó rồi tâu lên.”
[53] Viên ngoại lang ty Huân là Hà Tuân Trực được gia hạn hai năm xét duyệt, vì làm mất ấn ty Huân và cáo thân. Ban đầu, bàn định xử phạt nặng Tuân Trực, Lữ Công Trước nói: “Tuân Trực làm mất ấn bộ mình quả là có tội, nhưng nếu xử phạt nặng, từ nay các lại gian sẽ có cách khống chế chủ ty.” Nhân đại xá, chỉ gia hạn thời gian xét duyệt thăng chức mà thôi.
[54] Thái thường bác sĩ Dương Quốc Bảo làm Chuyển vận phán quan lộ Thành Đô.
[55] Chiếu cho các ty Chuyển vận các lộ xuống châu huyện, nếu năm nay đã thu tiền miễn phu dịch mùa xuân, đều phải trả lại.
[56] Ba tỉnh tâu rằng những quân nhân bị phối và đào ngũ cần được đưa đi, nếu gặp tháng lạnh, tùy theo nơi xét xử và các châu đi qua, tạm giữ lại làm công dịch, cấp lương, đến tháng hai mới cho đi. Chiếu chỉ ở kinh đô và các lộ đặc biệt kéo dài đến tháng ba.
[57] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu rằng giặc Tây xâm phạm biên giới ở Phủ châu, tướng quan Kiềm Tông Dực đã đón đánh. Chiếu chỉ Tăng Bố nghiêm khắc răn dạy các tướng quan ở biên giới và sứ thần các thành trại phải đề phòng cẩn thận.
[58] Ngày Bính Tuất, chiếu chỉ vì thời tiết âm u tuyết rơi lạnh giá, lệnh cho Kinh lược ty lộ Hà Đông ngoài lệ thường xem xét chăm sóc và điều động quân lính đi thú.
[59] Hàn lâm học sĩ kiêm thị độc Tô Thức tâu rằng: “Thần trộm thấy bệ hạ ban bố đức âm, hạ chiếu sáng suốt, vì tuyết lớn quá mức, hơi ấm không đủ, nông dân thất nghiệp, thương nhân không đi lại, tự trách mình, ban ơn rộng khắp, đến cả nơi xa xôi, nhưng đêm hôm chiếu ban xuống, tuyết vẫn không ngừng rơi. Thần giữ chức gần gũi, thật lòng cảm thấy phẫn uất, bỏ ăn mà than thở, lui về suy nghĩ: Bệ hạ lên ngôi đến nay, ban bố chính sách, thi hành nhân nghĩa, không gì là không hợp lòng dân, thuận ý trời, đáng lẽ phải được báo đáp bằng năm được mùa, hình phạt không cần dùng đến, điềm lành như phượng hoàng, sao sáng, nhưng lại gặp lũ lụt, hạn hán, lạnh lẽo thường xuyên như hình phạt, hầu như không ngày nào không có, lẽ nào đây là điều tất nhiên? Thần thật ngu muội, không biết kiêng kỵ, xin thử bàn về điều gần giống như vậy, để bệ hạ lựa chọn.
Thần nghe nói pháp chế sai dịch, thiên hạ đều cho là chưa tiện, chỉ có mấy vị quan đài gián chủ trì ý kiến, cho là không thể thay đổi, mài giũa bốn phía, chờ người nói, nên người ta sợ mà không dám nói ra. Gần đây nghe nói tiểu thần xa xôi là Trương Hành mạnh mẽ nói lên tệ hại, mà gián quan Hàn Xuyên lại kịch liệt chê bai, đến mức muốn trừng trị nặng. Những người này cũng không có ý gì khác, khi Tư Mã Quang còn sống thì muốn hợp ý Quang, đến khi Quang mất rồi thì lại ngờ vực bệ hạ cho rằng chủ trương theo lời Quang. Há chẳng biết rằng Quang hết lòng vì công, vốn không cầu người hợp ý, mà bệ hạ rộng lòng không vì mình, há lại có chủ trương gì sao? Giả sử Quang còn sống đến nay, thấy pháp chế có chút tệ hại, thì đã sửa đổi từ lâu rồi. Thần mỗi lần gặp Lữ Công Trước, An Đào, Lã Đại Phòng, Phạm Thuần Nhân, đều nói sai dịch không tiện, nhưng vì là lệnh đã ban hành, không muốn thay đổi nhẹ, lại sợ đài gián tranh cãi, cuối cùng khó điều hòa.
Xin bệ hạ hỏi Công Trước, bảo họ chỉ ra sai dịch và thuê mướn hai pháp chế, mỗi thứ có bao nhiêu lợi hại[5]? Ngày xưa thuê mướn, hộ trung đẳng mỗi năm xuất bao nhiêu tiền? Nay sai dịch, mỗi năm tốn bao nhiêu? Và mấy năm một lần sai dịch? Đều có thể lấy dài bù ngắn, ước tính số lượng, từ đó tính toán, lợi hại rõ ràng. Huống chi nông dân làm việc cho quan, tham quan nha lại trăm phương nghìn kế bòn rút, so với thuê người, khổ sở gấp mười lần. Lại nữa, dân năm lộ vốn chất phác, phải thuê người quen việc, chi phí không nhỏ, càng thêm khổ sở. Dân cùng khổ không kêu được, giám ty, thủ lệnh đứng nhìn không nói. Nếu không phải vì việc này, thì sao lại làm tổn thương hòa khí âm dương trong năm đến thế? Dù có tự trách, xóa tội, bỏ bữa, cầu đảo, nhưng việc này không thay đổi, e rằng cuối cùng cũng vô ích. Nay trong hàng thị tòng, kẻ chịu ơn sâu nhất không ai bằng tiểu thần, thần mà không nói, thì ai sẽ nói? Nhưng thần năm ngoái vì bàn định pháp chế sai dịch, bất đồng ý kiến với đài gián, nên bị bọn họ ghét, nhiều lần bị gièm pha. Nay những điều thần nói, nếu không hợp ý thánh, xin hãy trách phạt ngay, để răn kẻ nói bậy; nếu may ra có chút gì đáng nghe, xin hãy lưu lại, chỉ coi như ý thánh ban xuống, để trên đáp lại lời trời răn, dưới bảo toàn tiểu thần, thần vô cùng lo sợ, chờ tội.”
[60] Trương Hành, người Tuy Ninh, là cháu của Trương Thuật. Hành nói: “Thần Tông bàn việc thu tiền dịch, từng gọi là trợ dịch, cho rằng nếu chỉ là trợ dịch thì chưa thể miễn hoàn toàn, sẽ khiến đời sau vừa phải chịu dịch vụ, vừa phải nộp tiền, nên đổi thành miễn dịch, suy nghĩ rất sâu xa. Nay bỏ miễn dịch mà khôi phục dịch vụ, trên trái với kế hoạch yên dân của Tiên đế, dưới trái với nguyện vọng an cư lạc nghiệp của dân chúng, há có thể gọi là kế thừa sự nghiệp sao?” Lại nói: “Dịch vụ của hộ hạ trong một năm tốn kém, có khi bằng tiền dịch mấy năm, có khi bằng tiền dịch mấy chục năm. Cấp bậc càng thấp, tác hại càng sâu, không phải là ý nghĩa của thánh nhân lấy nhiều bù ít, đạo trời co duỗi.” Lại nói: “Thần e rằng người bàn luận cho rằng triều đình có ý đổi pháp, không có ý tiện dân. Hôm qua đổi vì dân thiên hạ, hôm nay khôi phục cũng vì dân thiên hạ, không nên để tâm riêng trong đó.” Dâng hàng chục chương tấu, Vua hạ chiếu cho các Giám ty răn dạy và tâu lên, Hành mới thôi.
[61] Hộ bộ Thị lang Tô Triệt tâu:
(Lời tâu của Triệt không rõ thời điểm, phụ theo sau Tô Thức.)
[62] Thần trộm thấy từ mùa đông năm ngoái đến nay, tuyết rơi liên tiếp, dân chúng đói rét, chết đói ngoài đường. Lòng thánh đế lo lắng, không gì là không làm, từng sai quan phát tiền trong kho nội phủ, xuất lương thóc của Tư nông, dùng hết than của Thái phủ để cứu tế khẩn cấp; vẫn cho là chưa đủ, nên tha tù nhân, bãi bỏ dịch phu, mọi việc có thể làm lợi dân đều không bỏ sót. Nhưng ý trời không thuận, mưa tuyết vẫn như cũ, thần lấy làm nghi ngờ.
[63] Thần từng xem các bậc tiên nho bàn về thuyết ngũ hành, cho rằng nghe không thông suốt, gọi là không mưu lược, tội lỗi là vội vàng, hình phạt là lạnh giá. Vì thế, cuối đời Chu, chính sự chậm chạp yếu đuối, quyền lực nằm trong tay bề tôi, nên trời ứng với thời tiết ấm áp; cuối đời Tần, hình phạt khắc nghiệt, thuế má nặng nề, thiên hạ sợ hãi, nên trời ứng với thời tiết lạnh giá. Vì vậy, nhà Chu mất không có năm lạnh, nhà Tần diệt không có năm ấm. Nếu đúng như lời này, thì chính lệnh của triều đình há có sai lầm vì vội vàng chăng?
[64] Ta nghĩ rằng từ khi hai vị thánh đế lên ngôi đến nay, đã bãi bỏ những tệ nạn, dẹp bỏ những phiền nhiễu, ban ân huệ để trách nhiệm, tất cả những biện pháp đưa ra, tuy chưa hoàn toàn đạt được, nhưng dân chúng đã đạt được nhiều điều họ mong muốn. Nếu cho rằng việc này là gấp gáp, thì dù là đứa trẻ ba thước cũng không tin. Vậy thì việc ứng nghiệm của tuyết âm, tội lỗi ấy ở đâu? Thần nghe rằng thời Vua Cao Tông nhà Thương, có con chim trĩ kêu trên đỉnh đỉnh, bề tôi là Tổ Kỷ bảo rằng: “Chỉ có cách làm Vua trước, sửa lại việc ấy.” Cái gọi là sửa lại việc ấy, không phải là việc thường, mà là nhân việc sai mà sửa lại mà thôi. Vì thế, thần suy xét từ chuyện xưa, cho rằng trời nổi sấm chớp gió lớn, mà Vua Thành Vương ứng lại bằng việc đón Chu Công; nước Vệ gặp đại hạn, mà Vua Văn Công ứng lại bằng việc đánh nước Hình. Việc thân đón tam công không phải là để ngăn gió, mà việc khởi binh đánh người không phải là để cầu mưa, họ đã làm mà không nghi ngờ, mà trời cũng báo ứng như tiếng vang, thực là đúng thời, hợp việc mà thôi.
[65] Thần trộm nghĩ rằng gần đây trời đất có biến đổi, thường nửa năm hạn hán, nửa năm âm u. Khí âm dương một khi có sự chênh lệch quá mức, sẽ lan tràn khắp nơi mà không thể trở lại bình thường. Nay mưa tuyết đã quá nhiều, kéo dài không dứt, thì đến mùa xuân hạ, lại sẽ tiếp tục hạn hán, điều này có lẽ do những nguyên nhân tương tự gây ra. Xưa kia khi trị nước, đức và hình phạt được sử dụng song song, khoan dung và nghiêm khắc bổ sung cho nhau, khiến thiên hạ vừa cảm nhận được ân huệ vừa sợ hãi uy quyền. Khí hòa tràn đầy, trời đất thuận theo, nên dương không quá mạnh mà âm cũng không lệch lạc. Từ gần đây, chính sách triều đình chỉ chú trọng vào việc làm hài lòng, trên dưới đều ngó nhau, hóa thành một. Các quan giám sát lấy việc không bắt tội người có tội làm điều hiền; quan lại quận huyện lấy việc khoan dung giảm thuế, buông lỏng thuế rượu làm điều tốt, đến cả các cơ quan như tỉnh, đài, tự, giám cũng chưa nghe nói có ai chính thân trị sự, làm việc hiệu quả. Tại sao vậy? Triều đình đang dung hòa phải trái, lấy việc không làm gì làm yên ổn, lấy việc không phân biệt trắng đen làm khoan dung, nên mới đến mức này. Thần trộm nghĩ ý của triều đình ban đầu có lẽ chỉ muốn dùng khoan dung để trị dân, nhưng không biết rằng bọn gian thần nha lại lợi dụng kẽ hở để ức hiếp dân lành, tệ hại không kể xiết, tuy danh là khoan dung nhưng thực chất là tàn bạo.
Bệ hạ thực sự muốn xóa bỏ biến đổi này, nên răn dạy các đại thần, bắt họ tuân thủ pháp luật, thiết lập kỷ cương, thưởng phạt nghiêm minh, khiến bề dưới biết sợ. Nếu triều đình không có chính sách thiên lệch quá mức, thì khí âm dương chênh lệch, lan tràn không dứt, có lẽ sẽ dừng lại. Nếu không, dù có bỏ hết kho tàng, cạn kiệt lương thực để cứu giúp người nghèo, phá bỏ ngục tù, đốt roi vọt để tha tội, thần e rằng ý trời đất khó mà thay đổi. Thần đang giữ chức địa quan, lo việc sổ sách gạo muối, vượt quyền mà nói, tội đáng chết. Nhưng bệ hạ gần đây từ nơi xa xôi đã đề bạt thần, trong hai năm đưa thần đến vị trí này, há chỉ muốn thần làm việc nhỏ nhặt để tự chứng minh sao? Vì vậy thần mạo muôn chết dâng lời, mong bệ hạ xem xét.
[66] Ngày Đinh Hợi, ban chiếu rằng từ nay, những ngày thiết triều ở điện Thùy Củng và điện Tử Thần, nếu gặp ngày nghỉ triều, thì xin chỉ dụ thiết triều ở điện Sùng Chính.
[67] Ngày Mậu Tý, Thượng thư Hữu bộc xạ Lữ Công Trước cùng các quan tâu rằng: “Thần đây từ mùa đông đến mùa xuân, tuyết đọng lâu ngày, trời u ám, việc điều hòa không có kết quả, xin được miễn chức, nhưng chưa được chấp thuận. Thần tự nghĩ mình giữ chức vụ trọng yếu, nhiệm vụ là điều hòa nhân thần, nhưng hiện nay khí hòa không đầy đủ, tai dịch khác thường, Bệ hạ kính cẩn tự răn, lo sợ hết mực, thương xót ngục tù, khoan hồng sức dân, lệnh ban ra, trong ngoài đều cảm động. Tuy nhiên, trời vẫn âm u lạnh lẽo, chưa tạnh ráo, là do tài năng của thần không xứng với chức vụ, không thể giúp ích cho hoàng hóa, bổ trợ được gì. Xin được miễn chức để hợp với dư luận.” Chiếu rằng: “Trẫm cho rằng trời cảnh báo con người, tuy như bóng với hình, nhưng tai họa xảy ra, đâu chỉ do một nguyên nhân? Muốn ứng phó với trời, không gì bằng thành thật. Tuyết âm không tạnh, từ mùa đông đến mùa xuân, dân chịu tai họa, Trẫm ngày đêm lo sợ. Kinh Thư nói: ‘Chỉ có cách vương, chính sự mới đúng.’ Khanh hãy xem xét những việc chính sự chưa đúng, để giúp Trẫm, khiến dân không còn than thở. Nếu muốn rút lui vì tai họa, là đặt Trẫm vào chỗ có lỗi, càng không thể ngăn được thiên tai mà đạt được hòa khí, Trẫm không chấp nhận điều đó. Hãy yên tâm giữ chức vụ, để hợp với lòng Trẫm, lời thỉnh cầu không được chấp thuận, và không cần tâu lại.”
[68] Ban chiếu: “Những người bị thích mặt hoặc không thích mặt phải phối hợp với lao thành của bản châu để biên quản hoặc cơ quản, nếu đã qua đại xá minh đường mà không được tha, tính đến trước năm nay theo đức âm, nếu đã đủ thời gian theo quy định, hoặc những người bị biên quản, cơ quản do liên lụy, cũng đã đủ mười năm trở lên, thì được tha theo chiếu xá.”
[69] Ty chế trí giải diêm Thiểm Tây tâu rằng, châu Giai mua độc quyền muối đá và muối đất sản xuất tại địa phương, tuy mỗi năm có thu được lợi nhuận và thuế, nhưng dân tình không thuận tiện, xin được giữ như cũ. Chiếu định giá mua độc quyền không được thi hành.
[70] Ngày Kỷ Sửu, Thừa nghị lang, Tả ty gián Phong Tắc được bổ nhiệm làm Quốc tử tư nghiệp.
[71] Dương vương Hạo, Kinh vương Quần từng sai quan Tẩu mã thừa thụ phủ lộ Thành Đô làm thảm gấm trải đất, Phong Tắc báo với Ngự sử trung thừa Hồ Tông Dũ, xin dẫn các thuộc hạ tâu lên. Tông Dũ do dự chưa quyết, Tắc liền một mình dâng sớ hặc tội, cho rằng hai thánh thượng tiết kiệm giản dị, muốn giáo hóa thiên hạ, mà thân thuộc gần gũi lại xa xỉ vượt mức đến thế, quan lại lại vâng mệnh làm theo, nên đều phải xét tội để làm gương cho thiên hạ. Giám sát ngự sử Triệu Ngột lúc ấy cùng Tắc vào chầu, lui ra bảo Tắc rằng: “Nghe lời ngài nói, khiến Ngột mồ hôi ướt đẫm lưng.” Cấp sự trung Triệu Quân Tích nói: “Gián quan như thế, thiên hạ ắt thái bình.” Chẳng mấy ngày sau, Tắc được điều chuyển làm quan khác.
(Việc này căn cứ theo di sự của Phong Tắc do Lý Phác biên soạn. Tằng Triệu phong hoàn từ đầu của Vương Địch nói: “Phong Tắc bàn việc trong cốt nhục của bệ hạ, vẫn được bao dung tha thứ, lại còn được thăng chức tốt.” Chính là nói việc này. Nay truyện về Tắc lại không chép việc này.)
[72] Chiếu phát 3 vạn quan tiền từ kho Quảng Huệ cùng tiền, lương, áo của binh lính khuyết ngạch để cấp cho dân nghèo ứng tuyển làm việc, nhằm cứu giúp họ.
[73] Tri phủ Đại Danh Phùng Kinh tâu: “Theo chiếu chỉ khai đào sông Giảm Thủy, ở phía nam đê ngang hộ thành của bản phủ[6], xin hạ lệnh cho các cơ quan lo liệu trước.” Chiếu lệnh cho Đô đề cử tu hà ty chiếu theo.
(Việc đào sông Giảm Thủy, thực lục chép vội ở đây, ban đầu không có đầu đuôi, nay xét lại biên vào sau đây. Ngày Kỷ Tỵ tháng 8 năm Nguyên Phong thứ 8, sớ của Hàn Giáng có thể tham khảo.)
[74] Ban đầu, vào tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8, triều đình theo kế của Vương Lệnh Đồ, định khôi phục dòng sông cũ của sông Hoàng Hà, xuống chiếu cho Lý Thường đi xem xét. Lý Thường tâu rằng không thể làm được[7], công trình đã khởi công rồi lại dừng lại, đó là vào tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất. (Điều này căn cứ theo tấu của Vương Nham Tẩu, xem ngày 6 tháng giêng năm thứ nhất.)
Đến tháng 9, lại xuống chiếu cho Trương Vấn cùng Vương Lệnh Đồ xem xét việc khai thông cửa sông Tôn Thôn để phân giảm thế nước, triều đình đã đồng ý nhưng sau đó lại dừng lại. (Việc phân thủy ở cửa sông Tôn Thôn, căn cứ theo truyện cũ của Trương Vấn.) Tháng 2 năm thứ hai, Vương Lệnh Đồ qua đời, Vương Hiếu Tiên thay thế làm Đô thủy, cũng muốn khai thông cửa sông Tôn Thôn để giảm thế nước, theo kế của Vương Lệnh Đồ. Tri Xu mật viện An Đạo dâng hai bản tấu nói: “Triều đình bàn bạc lâu về việc hồi sông, chỉ sợ tốn kém, không nghĩ đến hậu họa lớn. Từ trước khi sông Tiểu Ngô chưa vỡ đê, dòng sông đổ ra biển tuy nhiều lần thay đổi, nhưng đều nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, nên kinh đô dựa vào đó để ngăn chặn kẻ địch mạnh, việc ở Thiền Uyên năm Cảnh Đức là bằng chứng. Hơn nữa, mỗi khi sông vỡ đê về phía tây, thì đoạn cuối sông lại lệch về phía bắc. Dòng sông đã lệch về phía tây, thì đã chạm đến biên giới phía bắc, nếu không dừng lại, thì bờ nam sẽ thuộc về địch, họ ắt sẽ xây cầu, đóng quân ở các châu quận, như việc năm Khánh Lịch, nhân chiếm đất của dân thục hộ ở phía nam sông, rồi xây thành để nhòm ngó phía ngoài sông, kết quả đã rõ ràng như vậy. Từ phía nam sông trở đi, địa thế bằng phẳng, thẳng đến kinh đô, nghĩ xa xôi mà lo lắng, thật đáng sợ. Hơn nữa, triều đình bỏ lợi ích ở đông nam, một nửa để nuôi quân trọng binh ở phía bắc sông, ý phòng bị rất sâu sắc. Nếu kẻ địch đến được phía nam sông, thì sẽ không kịp ứng phó. Nay các quan thủy chỉ bàn về địa hình, so sánh chi phí, còn các quan hiến nạp lại đưa ra lý luận cao xa, thần há không hiểu sao? Nhưng xét kỹ lợi hại, thì phải cân nhắc nặng nhẹ. Nay muốn thuận tiện cho việc trị sông, mà chậm trễ trong việc phòng thủ, không phải là kế sách tốt.” (Điều này căn cứ theo hành trạng và truyện của An Đạo.)
Thái sư Văn Ngạn Bác có ý kiến giống An Đạo, Trung thư thị lang Lã Đại Phòng cũng đồng tình. Ba người này kiên quyết chủ trương ý kiến đó, các quan khác không thể thay đổi. Trung thư xá nhân Tô Triệt gặp Hữu bộc xạ Lữ Công Trước, nhân lúc rảnh hỏi: “Ngài tự xem trí dũng so với Tiên đế thế nào? Thế lực lớn mạnh có thể cổ vũ thiên hạ so với Tiên đế thế nào?” Công Trước kinh ngạc hỏi: “Ông nói gì vậy?” Triệt đáp: “Sông vỡ đê chảy về phía bắc, từ thời Tiên đế đã không thể hồi lại, mà các ngài lại muốn hồi lại, đó là tự cho rằng trí dũng thế lực hơn Tiên đế. Hơn nữa, sông vỡ đê từ năm Nguyên Phong, dẫn nó chảy về phía bắc cũng từ năm Nguyên Phong, đúng sai được mất, nay không liên quan gì. Các ngài không dựa vào cái cũ mà sửa chữa cái chưa hoàn thiện, lại muốn lấy lại mà hồi về, sức lực khó khăn, mà trách nhiệm lại nặng nề.” Công Trước gật đầu nói: “Sẽ bàn bạc với các ngài.” (Điều này căn cứ theo lời tự thuật của Tô Triệt.) Nhưng cuối cùng không thể thay đổi, công trình hồi sông bèn khởi công.
(《Thực lục》 chép việc hồi sông rất sơ lược, nay tham khảo các sách để bổ sung. Tô Triệt nói Văn Ngạn Bác coi việc sông là trọng sự, Lã Đại Phòng, An Đạo đồng tình. Căn cứ theo hành trạng của An Đạo, thì trước đó đã có ý kiến này, không phải là đồng tình với Ngạn Bác, nay lược bớt và sửa lại. Không rõ việc khai thông sông giảm thủy bắt đầu từ ngày nào, cần tra cứu thêm.)
[75] Ngày Tân Mão, ban chiếu cho phép tông thất mới tham gia tuyển chọn giám đương được bổ nhiệm ngoài ngạch vào các châu và huyện có trên một vạn hộ.
(Sách 《Tân》 không ghi chép.)
[76] Xu mật viện tâu: “Văn thần đổi sang chức võ, trước đây thuộc quyền bản viện, từ khi cải cách quan chế thì thuộc về tam tỉnh. Vì sau khi đổi sang chức đại sứ thần, việc bổ nhiệm do Xu mật viện tâu xin, lại có trường hợp võ thần do bản viện bổ nhiệm vì lý do nào đó xin chỉ đổi chức[8], cách xử lý không thống nhất, nên theo lệ cùng tâu xin chỉ dụ.” Chiếu rằng từ nay văn thần đổi sang chức đại sứ thần, đều do tam tỉnh và Xu mật viện cùng xin chỉ dụ.
[77] Chiếu rằng: “Dân binh Quảng Nam Tây lộ, hộ thuộc đẳng thứ tư trở lên có hai đinh; hộ đẳng thứ năm không kể số đinh nhiều hay ít, và Đông lộ không kể hạng hộ cao thấp, đều được miễn tập luyện.”
[78] Giám sát ngự sử Triệu Ngột tâu: (Biên soạn chương sớ ngày 14 tháng giêng.) “Năm ngoái vì Trương Thuấn Dân bàn việc, đột ngột bãi chức ngôn quan, các quan đài gián tranh cãi nhưng không giữ được, cũng lần lượt bị bãi chức. Phó Nghiêu Dũ bị bãi chức Ngự sử trung thừa, bổ làm Thị lang Lại bộ; Vương Nham Tẩu bị bãi chức Thị ngự sử, bổ làm Khởi cư xá nhân. Hai người này kiên quyết từ chối không nhận, xin ra ngoài bổ nhiệm, sau đó Nghiêu Dũ ra làm Tri châu Trần châu, Nham Tẩu ra làm Tri châu Tề châu. Lương Đào vì trách mặt Trương Vấn không thể phong bác, bị bãi chức Gián nghị đại phu, làm Tri châu Lộ châu. Tôn Thăng bàn luận việc này, bị cho là phụ họa Lương Đào, bị bãi chức Điện trung thị ngự sử, làm Tri châu Tế châu. Đến nhiệm sở đều đã nửa năm. Những người như Nghiêu Dũ, Nham Tẩu, Đào, Thăng, tài năng học thuật, lời nói trung thành và mưu lược tốt đẹp, Bệ hạ đã biết rõ, và đã được thử thách. Mong cho họ trở lại triều đình, tùy tài mà sử dụng, thăng lên chức thị tòng, hoặc lại bổ nhiệm vào đài gián.”
(Theo chương sớ biên soạn thêm vào. Ngày 14 tháng tư, Ngột bị bãi chức Ngự sử, lại nói “khiến người trung trực phải xấu hổ khó tiến”, có lẽ cùng một tờ tâu với việc này, nay ghi cả hai.)
[79] Ngày Quý Tỵ, Chính nghị đại phu, Tri An Châu Thái Xác được phục chức Quan văn điện học sĩ, Tri Đặng Châu; Chính nghị đại phu, Đề cử Động Tiêu cung Chương Đôn sung chức Tư chính điện học sĩ. Sau đó, Cấp sự trung Triệu Quân Tích dâng tấu phản đối, nên bãi bỏ việc phục chức, Thái Xác giữ chức Tri Đặng Châu[9], Chương Đôn giữ chức Tri Việt Châu.
(Việc bãi chức diễn ra vào ngày 23, nay ghi chung. Ngày 12 tháng 10, Lưu An Thế hặc tấu Hồ Tông Dũ rằng: “Thái Xác, Chương Đôn bị tội cách chức, mùa xuân năm nay lại dùng lệ thường phục chức, đài gián dâng tấu nêu rõ tội ác lớn của họ, nên mới bị thu hồi, nhưng Tông Dũ ban đầu không nói gì.” Việc đài gián dâng tấu cần xem xét. Theo Chính mục, ngày 16 tháng 2, Thái Xác được phục chức Quan văn điện học sĩ, Tri Đặng Châu; Chương Đôn được phục chức Tư chính điện học sĩ, Tri Nhữ Châu. Ngày 24, Thái Xác giữ nguyên chức Tri Đặng Châu, Chương Đôn giữ nguyên chức Tri Việt Châu. Hành trạng của Chương Đôn chép: “Được cử làm Đề cử Động Tiêu cung, đón thân nhân về Ngô Trung. Năm sau, được bổ làm Tri Việt Châu, từ chối không nhận, đổi làm Tri Tô Châu.” Bản truyện không chép việc Tri Việt Châu và Tô Châu, hành trạng cũng không chép việc phục chức, thực lục cũng không chép việc trước đó được bổ làm Tri Nhữ Châu, hơi khác so với Chính mục. Việc Chương Đôn đổi làm Tri Tô Châu diễn ra vào ngày 14 tháng 4.)
[80] Xuống chiếu bãi bỏ yến tiệc mùa xuân.
[81] Lễ bộ tâu: “Đô tỉnh gửi xuống tờ tấu của Triều phụng lang, Giám sát ngự sử, sung Tập hiền hiệu lý Triệu Đĩnh Chi: ‘Thần trộm thấy gần đây có chế độ thay đổi khoa cử, dùng cả kinh nghĩa và từ phú để chọn người. Theo ý thần, việc được người hay mất người trong khoa trường đều do năng lực của quan chấm thi. Vì nghĩa lý của lục kinh vốn có ý chỉ sâu xa, còn từ phú và thanh luật, xét về kỹ thuật, cũng có lý lẽ tinh vi. Người xưa học kinh nghĩa, tạo đạo không thể không có tinh thô; người học từ phú, làm văn không thể không có khéo vụng. Người thô vụng còn không thể hiểu được chỗ tinh xảo, huống chi những người chưa từng đọc tụng, học tập, mà vội cho làm chủ khảo, thì việc chọn bỏ, thăng giáng làm sao không sai lầm? Từ phú bị bãi bỏ đã gần hai mươi năm, những người đỗ tiến sĩ chỉ học một kinh. Trước đây, khi chọn quan chấm thi, chỉ hỏi về xuất thân, mà không xét lúc đầu đỗ khoa học kinh gì. Người học Lễ lại cho chấm Thư, người học Thi lại cho chấm Dịch, khiến người đỗ một kinh phải chấm cả năm kinh, thường xảy ra sai sót, hỗn loạn. Nay nếu lại cho tham khảo từ phú, thần e rằng khó mà chọn bỏ, thăng giáng, người may mắn được và người không may mất sẽ nhiều, e rằng không phải là ý của triều đình khi đặt khoa cử để chọn người.
Thần xin đặc biệt giao cho hữu ty, lập rõ quy chế chọn quan chấm thi trong tương lai: mỗi kinh chọn một quan chấm thi, chỉ chấm kinh đó; riêng chọn người đỗ từ phú, hoặc từng ứng thí từ phú đỗ giải, sau dùng kinh nhập sĩ, chuyên chấm từ phú, căn cứ số lượng thí sinh mà định số lượng. Nếu khó tìm được người, xin kiêm chọn trong số thông phán, hoặc xin tập hợp ba đến năm châu, quân lân cận, tổ chức thi chung tại một quận lớn, để dễ dàng có đủ quan chấm thi, mà việc chấm thi phải tinh tế. Xét kỹ, thi Hương và thi Hội tuy dùng cả kinh nghĩa, từ phú, luận sách, nhưng mỗi phần thi riêng một trường, nên thí sinh có thể phát huy hết sở trường. Nếu thi Đình gộp kinh nghĩa hoặc luận sách, từ phú cùng thi trong một ngày, e rằng thời gian gấp gáp, khiến thí sinh vội vàng khó làm tốt. Xin vẫn chỉ thi một bài sách, để thí sinh dẫn chứng cổ tích, nghiệm việc hiện tại, đủ thấy được học thức và trí lự thường ngày.’
Bộ xét kỹ việc chọn quan chấm thi, xin trong tương lai, nếu chọn ba quan, thì hai quan chấm kinh nghĩa, một quan chấm từ phú; nếu chọn hai quan, thì mỗi loại một quan. Việc chấm thi vẫn theo quy định. Việc xin tập hợp ba đến năm châu, quân lân cận thi chung, e rằng một quận khó đảm đương, xin vẫn theo quy định cũ. Việc thi Đình, thí sinh kinh nghĩa và từ phú cùng thi một bài sách, xin theo chỉ đạo của triều đình, trong ngoài đều theo đó mà chọn quan.” Chiếu y theo lời tâu của Lễ bộ, vẫn thi hành trước.
(Ngày 29 tháng 5, Tô Thức tấu.)
[82] Chiếu rằng các cử nhân thi kinh nghĩa và từ phú trong kỳ thi điện đều phải thi thêm một bài sách. Đây là theo đề nghị của Triệu Đĩnh Chi.
Cuối tháng 10, Phó Nghiêu Dũ và các quan bàn luận. Sách 《Lữ Công Trước truyện》 chép: “Lữ Công Trước dưới triều Nhân Tông từng đề nghị tiến sĩ thi sách luận trước; đầu triều Thần Tông, lại dâng sớ xin lấy kinh thuật để tuyển chọn nhân tài; đến khi giữ chức tri cử năm Hi Ninh thứ 3, bèn mật tâu xin chỉ dùng sách trong kỳ thi điện. Không lâu sau, Công Trước vì bàn việc thanh miêu mà bị tội, phải rời chức, Vương An Thạch nắm quyền, bèn bãi bỏ hết thi thơ phú, chỉ dùng kinh nghĩa, riêng cho rằng 《Xuân Thu》 là sách tàn khuyết không thể đọc, bãi bỏ môn học này, học giả không được dùng để ứng thí. An Thạch lại cùng con trai là Vương Bàng và đồ đệ là Lữ Huệ Khanh, Lữ Thăng Khanh soạn định nghĩa lý các sách 《Thi》, 《Thư》, 《Chu Lễ》, in ấn ban bố khắp thiên hạ. Từ đó, thí sinh ứng thi, dù chỉ một câu cũng không được dùng nghĩa lý cũ, phải dùng nghĩa lý mới. Do vậy, học giả không còn suy nghĩ về ý nghĩa kinh điển, cũng không đọc chính kinh, chỉ đọc sách của An Thạch và Huệ Khanh, ai thuộc lòng thì được đỗ cao. Khi quan chức ra đề sách, trước hết phải ca ngợi chính sách đương thời, thí sinh đối đáp cũng dùng lời tâng bốc để ứng phó. Lại thường dùng sách Phật để chứng minh lục kinh, thậm chí dùng toàn tiếng Phạn để khoe khoang. Về sau, An Thạch lại chuộng chữ học, dùng sách chữ để tuyển chọn nhân tài, khiến học giả không còn giải kinh mà chỉ chuyên giải chữ, thường tách rời nét chữ, giải thích một chữ đến hàng trăm lời, càng xa rời ý nghĩa kinh điển. Vì thế, trong ngoài đều trách cứ kinh nghĩa, mà nhớ lại thơ phú.
Đầu niên hiệu Nguyên Hựu, các quan đài gián, đãi tòng, quán các và người dân khắp nơi dâng sớ, tranh nhau nói về tệ đoan khoa cử, xin khôi phục chế độ cũ thời Nhân Tông, Anh Tông. Lữ Công Trước nói: ‘Tiên đế canh tân pháp độ, như việc thi tiến sĩ bằng kinh thuật, là gần với cổ chế nhất. Huống chi sáu kinh của Khổng Tử có gì phụ bạc hậu thế, chỉ là phép khảo thí của An Thạch sai lầm mà thôi. An Thạch giải kinh chưa hẳn đã không hay, chỉ là việc ông ta muốn người khác theo mình là sai lầm lớn.’ Tư Mã Quang cũng cho rằng thơ phú không thể khôi phục, nhưng các quan bàn luận thấy rõ tệ đoan của kinh nghĩa, lòng phẫn nộ không thể kìm nén, bèn định chế: Tiến sĩ thi kinh nghĩa ở trường đầu, tiếp theo là thơ phú, luận sách, thí sinh đối đáp kinh nghĩa được phép dẫn dụng luận thuyết của các nho gia xưa nay và ý kiến riêng. Lại ban chiếu lập khoa 《Xuân Thu》, đặt hai chức bác sĩ 《Xuân Thu》 ở Thái học, cấm quan chức ra đề từ sách 《Trang Tử》, 《Lão Tử》, bài thi không được dùng học thuyết hình danh của Thân Bất Hại, Hàn Phi và dẫn sách Phật, đồng thời bãi bỏ thi luật nghĩa.
Đến lúc này, sắp thi điện, các quan chấp chính lại cho rằng từ khi khôi phục thi sách năm Hi Ninh, tiến sĩ Diệp Tổ Hợp chê bai tổ tông, từ đó về sau, thí sinh đối sách đều chê bai triều trước để nịnh hót đương thời, nên cho rằng có thể bỏ thi sách, khôi phục ba đề thơ, phú, luận. Lữ Công Trước nói: ‘Thiên tử ngự điện ra đề sách, mời các cống sĩ khắp nơi, hỏi về đạo trị nước, há chẳng phải là phép hay gần với cổ chế sao? Còn việc đối đáp đúng sai, chính tà, là ở chỗ quan khảo tuyển chọn mà thôi.’ Bèn vẫn theo lệ cũ thi sách. Sau đó, việc bàn luận về khoa cử vẫn chưa dứt, đến khi Lữ Công Trước mất, thơ phú càng thịnh hành, mong bãi bỏ hẳn kinh nghĩa, nhưng đây không phải ý của Công Trước.”)
[83] Đông thượng các môn sứ, Quả Châu đoàn luyện sứ, Hoàn Khánh lộ phó tổng quản Khúc Trân được thăng làm Trung Châu phòng ngự sứ, Tẩu mã thừa thụ Lý Nguyên Tự được giảm thời gian khảo khóa năm năm, ban thưởng ban đầu cho việc đánh dẹp vùng biên giới phía tây, bắt được tướng Khúc Lục Luật. (Tấu chương của Phạm Thuần Túy xin ban thưởng hậu hĩnh cho Khúc Trân đã được phụ lục vào ngày 22 tháng 12 năm trước. Khúc Trân ban đầu được bổ nhiệm làm Đông các sứ, Quả Châu đoàn luyện sứ vào ngày 17 tháng 9 năm trước. Thực lục chép: “Khúc Trân đánh dẹp người Hạ, chém và bắt được 1.223 người, nên được thăng chức này.” Đã ghi chép vào ngày 16 tháng 9 năm thứ hai.) Ban thưởng bạc và lụa cho Triệu Tiết và Phạm Thuần Túy, ban sắc thư khen ngợi.
[84] Ngày Ất Mùi, Triều tán lang, Hữu chánh ngôn Đinh Chất được bổ nhiệm làm Tả chánh ngôn, Tuyên đức lang, Chính tự Lưu An Thế được bổ nhiệm làm Hữu chánh ngôn. Sau khi Tư Mã Quang qua đời, Thái hoàng thái hậu hỏi Lữ Công Trước: “Trong số môn khách của Quang, ai là người thân thiết và có thể đảm nhiệm chức vụ đài gián, nên dùng ai trước?” Lữ Công Trước tiến cử Lưu An Thế, nên ông được bổ nhiệm.
(Theo ghi chép trong hành trạng của Lưu An Thế. Ba chương sớ của Lưu An Thế được phụ lục vào cuối tháng, hoặc chỉ lấy chương đầu tiên ghi vào ngày này.)
[85] Triều tán đại phu Vương Tử Thiều được bổ nhiệm làm Vệ úy thiếu khanh. Triều phụng lang, Tư phong lang trung Hàn Tông Cổ được bổ nhiệm làm Tri Châu Tào Châu. Phụng nghị lang, Bí các hiệu lý, quyền phán Đăng văn cổ viện Lưu Đường Lão được bổ nhiệm làm Thái thường bác sĩ.
[86] Chiếu thư ban thưởng cho Quang lộc đại phu, Lại bộ thượng thư Tô Tụng, Triều tán lang, thí Đại Lý khanh Đỗ Hoành, Phụng nghị lang, thí Thị ngự sử Vương Địch, Triều tán lang Vương Bành Niên, Triều phụng lang Tống Thục, Chúc Khang, Phụng nghị lang Vương Thúc Hiến, Tuyên đức lang Thạch Ngạc, Lý Thế Nam, Thừa vụ lang Tiền Cái, mỗi người được thăng một chức; Sái Châu quan sát phán quan Triều Đoan Đức được thăng theo thâm niên; Tuyên nghị lang Trương Ích được giảm thời gian khảo khóa một năm; Phụng nghị lang Trần Sân, Thừa phụng lang Lưu Công Ngạc được giảm thời gian khảo khóa hai năm. Đây là phần thưởng do việc hoàn thành việc biên soạn sách “Nguyên Hựu sắc lệnh thức”.
[87] Ngày Kỷ Hợi, chiếu thư bãi bỏ việc bán các vật phẩm trong kho Nguyên Phong của Thị dịch ty, theo đề nghị của Tam tỉnh.
[88] Kinh lược sứ Hà Đông lộ Tăng Bố xin lập lại năm chức Đô đồng tuần kiểm ở vùng Hà Ngoại. Được chấp thuận.
[89] Chiếu rằng những nơi sai hương hộ làm việc nha tiền, phải nhanh chóng tuyển người thay thế. Nếu người đang làm việc nguyện không ngại việc hộ dịch mà xin nhận việc, thì cho phép.
(Lưu An Thế hặc tấu chương về Hồ Tông Dũ, cần xem xét.)
[90] Ngày Tân Sửu, Triều phụng đại phu Lữ Hi Tích được bổ nhiệm làm Thiếu phủ Thiếu giám.
(Lữ Hi Tích là con thứ hai của Lữ Công Trước.)
[91] Ngày Ất Tỵ, chiếu xử trảm Nội điện Sùng ban, Cáp môn Chi hậu, Quảng Nam Đông lộ Binh mã Đô giám kiêm quyền Đông Nam Đệ thập nhất tướng Đồng Chính, Phong, Khang, Hạ, Tân châu Đô tuần kiểm sứ Quách Chiêu Biện được tha chết, đánh trượng vào lưng và đày ra đảo Sa Môn. Vì bắt giặc Sầm Thám mà tự ý giết 63 người vô tội. Kinh lược An phủ sứ Tưởng Chi Kì xử lý có công, được sung chức Bảo văn các Đãi chế; Binh mã Kiềm hạt Dương Tòng Tiên có công điều tra phát hiện, được thăng một bậc.
(Chính mục ngày 28 chiếu rằng: “Quảng Đông Đô giám Đồng Chính bị xử trảm, vì tội tự ý giết hơn 60 người.” Ghi chép này giống với thực lục. Lời của Tô Thức, xem thêm ngày Mậu Thân tháng 9, cần xem xét.)
[92] Chiếu cho Thiểm Tây lộ Chuyển vận Phán quan Tôn Lộ cứu tế dân hộ bị thương và bị cướp bóc ở Trấn Nhung quân.
[93] Quyền tri cống cử Tô Thức, đồng tri Tôn Giác, Khổng Văn Trọng tâu rằng: “Thần trộm thấy từ trước đến nay, mối họa của thiên hạ không gì lớn hơn việc quan lại quá nhiều. Ai cũng có thể nói về tệ nạn này, nhưng không thể loại bỏ được tác hại của nó. Chỉ có những năm trước, Hàn Kỳ, Phú Bật đã dám cắt giảm chức vụ con em và kéo dài thời gian khảo khóa. Khi mới đề xuất ý kiến, các quan lại nhìn nhau, không ai dám đứng ra chịu trách nhiệm, vì sợ sẽ bị chỉ trích. Nhưng Hàn Kỳ và những người khác không ngại, sau khi thiết lập thành pháp luật, thiên hạ đều kính nể, không ai dám phản đối. Tại sao vậy? Vì tư dục không thể thắng được công luận. Tệ nạn này đến nay đã đến mức cực điểm, một chức quan khuyết thường có bốn năm người tranh giành, chen lấn nhau, đạo đức liêm sỉ đều mất hết. Những quan lại tầm thường, chức nhỏ, xa xôi, nghèo khó, khi đến nhậm chức, tìm cách vơ vét lợi lộc, không việc gì không làm, khiến dân chúng khổ sở. Tệ nạn ngày nay giống như người ốm yếu mà phải gánh vác ngàn cân, dù chưa thể giảm bớt, há lại nỡ thêm gánh nặng?
Thần từ khi vào cống viện, thấy các cử nhân miễn giải từ khắp nơi dâng sớ xưng rằng đây là khoa thi long phi, xin được ban ơn ngoài pháp luật, nhiều không kể xiết. Thần đều không chấp nhận. Lại có những người đã được triều đình gửi sớ xuống, nhưng thần chỉ theo điều lệ mà cáo thị. Gần đây theo thánh chỉ, theo lệ các khoa thi trước, các cử nhân trượt đều được đặc cách dựa trên số lần dự thi, ước tính khoảng bốn trăm năm mươi người. Hôm nay lại nhận được tờ chiếu của Thượng thư tỉnh, lấy theo thánh chỉ trước, ngoài số đặc cách, mỗi người giảm một lần dự thi, nếu theo số này thì lại thêm vài trăm người. Tuy chưa biết triều đình sẽ xử lý thế nào, nhưng không nên đề xuất trước, chỉ sợ mệnh triều đình đã ban hành thì tâu trình không kịp.
Thần trộm thấy những người được bổ nhiệm qua ân điển, phân bố khắp các châu huyện, đều đã già yếu, không còn tiến thủ, chỉ lo vơ vét của cải để lo cho tuổi già, tham nhũng bất chính, mười người thì chín. Triều đình đã ban ân điển cho mấy ngàn người rồi, đã thấy ai tự mình phấn đấu, nổi tiếng trong thiên hạ chưa? Còn những kẻ hại dân hại nước thì không kể xiết. Từ đó có thể thấy việc này có hại mà không có lợi, không cần nói cũng rõ. Nay những người bàn luận chỉ cho rằng lúc mới lên ngôi nên ban ân huệ rộng rãi. Nếu chỉ để làm vui lòng mấy trăm kẻ may mắn tham lam, mà không biết rằng Lại bộ với số quan chức có hạn, phải đối phó với vô số quan lại, Hộ bộ với tài chính có hạn, phải cấp lương cho những người vô dụng, còn các châu huyện đều phải chịu hậu quả. Đó là việc làm quá đáng lúc mới lên ngôi, gọi là ân huệ, thần không hiểu được.
Xin bệ hạ quyết đoán, rõ ràng ra lệnh cho các đại thần, những cử nhân đặc cách chỉ theo thánh chỉ gần đây, lại ra chiếu cho các quan chấm thi điện thí, xem xét kỹ lưỡng, chọn lấy một hai mươi người thực sự có học vấn, văn từ xuất sắc, thì cho ra làm quan, còn lại đều bổ làm các chức như văn học trưởng sử, không tính vào hạn tuyển chọn, để tránh tệ nạn tích tụ quá mức, ngày càng nặng nề. Thần không phải không biết nói ra sẽ sinh oán giận, nhưng đã là cận thần, khó lòng im lặng.” Tờ thiếp hoàng viết: “Thần Giác đang làm việc ở Lại bộ, tận mắt thấy tác hại, mỗi khi có chức khuyết, tranh giành đến một hai mươi người, dù là những nơi xa xôi, khí độc như Tứ Xuyên, Quảng Đông, Phúc Kiến, không kể ngày tháng xa gần, chỉ muốn tranh nhau được bổ nhiệm trước. Thần lấy làm lạ, bèn hỏi thăm, mới biết sau khi được bổ nhiệm, họ xin tiền thuê người, nhiều đến năm bảy mươi quan, lại được vay trước lương, nơi xa được vay ba tháng, lại được hơn bốn mươi quan. Những kẻ tham lam vô tri, lại già yếu, khi đến nhậm chức, mong họ liêm khiết, tuân theo pháp luật, tận tụy vì dân, thì không thể được.”
[94] Ngày Đinh Mùi, Nội điện sùng ban Tiêu Chính được thăng làm Cung bị khố phó sứ, Tây đầu cung phụng quan Trương Chí Thanh và Hạ Ngạc đều được thăng làm Nội điện sùng ban; Phan quan Tả tàng khố sứ Ngưu Nột Chi được thăng làm Hoàng thành sứ, Hoàng thành phó sứ Bao Chính và Tả tàng khố phó sứ Ba Ngạc Trác Khắc Thần đều được thăng làm Tây kinh Tả tàng khố phó sứ, Tả tàng khố phó sứ Kết Bố và Tây kinh Tả tàng khố phó sứ Ngạc Đức đều được thăng làm Hoàng thành phó sứ, Văn tư phó sứ Lăng Chiêm Kết và Kham Bố Già đều được thăng làm Tả tàng khố phó sứ, Tây kinh Tả tàng khố phó sứ Ngạc Đặc Lăng Đôn, Ba Khố Tư, Kết Ma Ước Tứ, Cung bị khố phó sứ Hạt Lăng Kết đều được thăng làm Văn tư phó sứ, Cung bị khố phó sứ Ô Đan được thăng làm Tây kinh Tả tàng khố phó sứ. Tất cả đều được thưởng do bắt được Quỷ Chương.
[95] Tháng này, Đồng tri Xu mật viện Phạm Thuần Nhân tâu: “Thần trộm thấy từ mùa đông năm ngoái đến nay, tuyết lạnh quá mức bình thường, nay đã sang giữa mùa xuân, khí âm vẫn chưa tan, thương nhân bó tay không thể buôn bán sinh sống, dân nghèo khổ chết rất nhiều. Thánh tâm lo lắng, tu đức để trừ tai biến, cứu tế đầy đủ, cầu đảo thành kính, nhưng vẫn chưa thấy dấu hiệu tiêu tan. Thần trộm nghĩ, quân tử là dương, tiểu nhân là âm, có lẽ trong triều đình, quân tử ít mà tiểu nhân nhiều, khiến khí âm quá thịnh mà dương không thắng nổi. Kính mong bệ hạ hạ chiếu cho ba tỉnh chọn dùng người chính trực, những người ở ngoài thì cho trở về triều, những người ở kinh thì bổ nhiệm vào chức vụ quan trọng, để họ có thể tập trung tinh thần, bàn bạc chính sự, giúp ích cho thánh trị. Đó gọi là cử người ngay thẳng, bỏ kẻ gian tà, khiến lòng dân vui phục, tự nhiên khí hòa ứng với lòng thành, tai dị không xảy ra. Thần trước đây được thánh ân, được bổ nhiệm không theo thứ tự, chỉ vì thần từng giữ chức suý thần, biết chút ít về việc biên cương, nên khi Tây Hạ chưa yên, được tham gia vào việc kinh lược. Nay người Hạ tuy đã nhận phong sách[10], nhưng không cử sứ đến tạ ơn và dâng lễ chúc mừng tiết Khôn Thành, hoàn toàn mất đi sự cung thuận, mùa thu này e rằng sẽ phải dùng binh. Đều do thần mưu kế không hiệu quả, dẫn đến tình cảnh này, thần hưởng bổng lộc nặng mà khó lòng chuộc tội. Dù trời đất có ân, khoan dung tha thứ, nhưng thần sao dám yên lòng? Kính mong bệ hạ cho thần một châu ở Thiểm Tây, hoặc nếu Tây Hạ tất phản, có thể sai khiến thần, để thần được tận tâm lo việc chiến thủ, đáp lại thánh ân. Hôm nay trước rèm thần đã tâu trình, kính mong bệ hạ đặc biệt chuẩn y.” Vua sai trung sứ tuyên dụ, đóng lại tờ tấu.
[96] Thuần Nhân lại tâu: “Thần gần đây thấy Tây Nhung kiêu ngạo, việc biên cương đáng lo, nguyện giữ một quận Thiểm Tây, để có thể thân chinh chỉ huy, thề dùng sức mọn, đáp lại ơn tri ngộ. Hôm qua trước rèm, may được Thánh thượng tuyên dụ, bảo thần thôi dâng sớ, không khỏi cảm thương rơi lệ, càng biết ơn nặng mệnh khinh. Kẻ hèn này lo lắng quá mức, không khỏi lại dâng lời tâu bày, chưa được chỉ dụ, lui về không yên lòng. Vì thần hiểu biết nông cạn, tuổi già dần suy yếu, ứng biến ngoài mười ngày, chế địch cách mấy ngàn dặm, giúp kế sách triều đình, há tránh khỏi sai lầm? Lỡ mất cơ hội, động đến an nguy, một khi để Thánh thượng lo lắng, thần dù chết cũng chẳng ích gì? Gần đây các nơi dò xét đều nói trong giặc điểm binh, nên sai bề am hiểu việc, đến gần coi sóc việc biên phòng. Thần tuy không tài cán, nhưng nghĩa phải xin đi, mong như ngựa già biết đường, hiểu phần nào hướng đi, may ra có ích, việc hệ trọng chẳng nhẹ. Kính mong Thánh thượng xét lòng thành, vì kế nước, quyết đoán sớm, ban cho theo lời xin.”
(Sách 《Ngôn hành lục》 nhầm là việc năm thứ hai, nay dời đến đây.)
[97] Trung thư xá nhân Tăng Triệu tâu: “Thần vừa đi sứ Khiết Đan về, có dân chúng hai châu Hùng và Doanh đều trình bày việc sai dịch bất tiện. Tuy đã trả lại các tờ trình đó, nhưng sau khi hỏi thăm thì biết rằng hiện nay chi phí cho việc sai dịch nhiều hơn so với trước đây khi nộp tiền. Lấy hai châu này suy ra, thần e rằng các châu huyện khác và các lộ cũng có tình trạng như đã trình bày. Thần vốn không hiểu rõ lợi hại của phép sai dịch, nhưng vì đảm nhận chức vụ, đi sứ về, đã thấy hai châu có trình bày, không dám giấu giếm. Kính mong Thánh từ ban chiếu cho các cơ quan hữu trách xem xét thêm, nếu thấy phép sai dịch hiện nay ở các nơi vẫn còn bất tiện cho dân, thì không ngại sửa đổi, sao cho thuận tiện cho dân, để xứng với ý của triều đình là thương xót sức dân.” Lời dán thêm nói: “Khi cải cách phép sai dịch vào niên hiệu Hi Ninh, anh thần là Tăng Bố làm Phán Tư nông tự, thực sự tham gia việc này. Nay thần nói ra, không phải là không có điều đáng ngại. Nhưng thần đã tận mắt thấy hai châu có trình bày, nếu vì sợ hãi mà không dám tâu lên, thì tuy là kế hay để tránh hiềm nghi, nhưng đối với nghĩa vụ phụng sự Vua và lo việc nước, e rằng chưa trọn. Vì vậy thần không ngại tội vượt quyền, mạo muội tâu lên, kính mong Thánh minh xét cho.” Lại nói: “Dân châu Doanh tự nói đã từng trình bày lên Hộ bộ và Chuyển vận ty, nhưng sau đó chưa có chỉ thị gì.”
[98] Triệu lại tâu: “Trước đây thần phụng mệnh đi sứ Khiết Đan, khi trở về đến Hà Bắc, nghe nói triều đình sai Vương Hiếu Tiên khai sông giảm nước ở cửa Tôn Thôn, muốn thực hiện kế hoạch đổi dòng sông, điều động dân phu ở Hà Bắc và các vùng lân cận để đáp ứng công việc. Hỏi thăm dọc đường, mọi người đều nói: ‘Hiện nay dòng sông đang chảy xuống, địa hình cũ rất cao, lại là vùng đất lùi của sông Hoàng Hà, e rằng khó thành công, trong khi Hà Bắc liên tiếp gặp thiên tai, không nên có việc này.’ Thần vừa định tâu lên những điều nghe được, thì thấy chiếu thư bãi bỏ việc điều động dân phu, lại lệnh đợi đến mùa xuân năm sau mới khởi công. Dân đói khổ, một sớm được miễn trừ lao dịch, trở về ruộng vườn, kịp thời canh tác, ơn đức sâu dày, thấm vào xương tủy, đủ để cảm hóa khí hòa, tiêu trừ tai biến.
Tuy nhiên, thần cho rằng triều đình đã đợi đến mùa xuân năm sau mới khởi công, thì thời gian còn xa, trong khoảng một năm, vẫn có thể bàn bạc lợi hại, không cần nhất định giữ ý kiến về cửa Tôn Thôn. Thần trước đây ở Hà Bắc, thấy Chuyển vận sứ Tạ Khanh Tài nói: ‘Dòng sông đã chảy vào lòng đất, dần hình thành lòng sông, tính nước chảy xuống, e rằng không thể đổi dòng được, chỉ nên đóng các nhánh sông, để nước chảy về phía bắc, chính là làm việc không gây phiền hà.’ Khanh Tài từng vẽ tám việc tâu lên triều đình, lời lẽ đơn giản rõ ràng, có vẻ đáng tham khảo. Kính mong bệ hạ lại xuống lệnh cho các quan thủy lợi và Giám ty ở Hà Bắc, cùng nhau bàn bạc lợi hại của việc khai cửa Tôn Thôn và những điều Khanh Tài trình bày, xem cái nào được cái nào mất, triều đình chọn điều tốt nhất, quyết định rồi thi hành, để sớm định đoạt ý kiến, những kẻ mong cầu công lao không còn cơ hội may rủi, không uổng phí sức dân, lại gây hối hận về sau. Thần sinh trưởng ở phương nam, cũng chưa từng làm quan ở tây bắc, về lợi hại của sông lớn, thực chưa hiểu rõ, nhưng giữ chức gần bệ hạ, nhân đi sứ, có nghe thấy điều gì, không dám im lặng, xin bệ hạ xét đoán.”
(Khanh Tài vào tháng 10 năm Nguyên niên từ Thiểm Tây chuyển đến Hà Bắc; ngày 24 tháng 6 năm thứ 4, lại được bổ nhiệm[11]; năm thứ 8, chuyển đến Hà Đông; ngày 8 tháng 7, kiêm lĩnh chức Đô thủy sứ giả.)
[99] Hữu chánh ngôn Lưu An Thế tâu:
(Theo《An Thế ngôn hành lục》, hoặc chỉ ghi vào ngày 18, lúc mới nhận chức.)
[100] Thần vừa được ơn Thánh, bổ nhiệm vào hàng ngũ gián quan, trong lòng tự thấy nông cạn, hổ thẹn không xứng đáng, liền dâng sớ từ chối, nhưng chưa được chấp thuận. Thần trộm nghĩ, việc Bệ hạ không theo thứ tự mà dùng thần, há chỉ là để bổ sung số lượng cho hai tỉnh, làm đẹp triều đình mà thôi sao? Hẳn là ban cho danh vị thì phải đòi hỏi thực chất, giao phó chức vụ thì phải yêu cầu hiệu quả. Thần khi mới nhận mệnh, chưa dám chỉ trần chính sự, mà trước hết bàn về gốc rễ của trị loạn, đại thể của bậc quân chủ, mong có thể đáp ứng được ý thành của triều đình khi giao phó trọng trách. Đó là điều thần ngu muội thường ngày học được, chỉ mong Bệ hạ không ngại phiền mà thử nghe qua.
[101] Thần nghe sách xưa khen đức của Vua Nghiêu rằng: “Xét ý dân chúng, bỏ mình theo người.” Vua Thuấn răn bề tôi rằng: “Ta sai, ngươi hãy sửa, đừng chỉ vâng theo trước mặt, sau lưng lại nói khác.” Y Doãn khuyên Thái Giáp rằng: “Lời nào trái với lòng ngươi, hãy xét xem có hợp đạo không; lời nào thuận với ý ngươi, hãy xét xem có trái đạo không.” Phó Duyệt đáp lời Cao Tông rằng: “Gỗ theo dây mực thì thẳng, Vua nghe lời can thì sáng.” Như vậy, bậc quân chủ thông minh sáng suốt thời xưa, lý do có thể vượt xa người thường, không ai là không lấy việc nghe lời can gián làm nhiệm vụ hàng đầu. Nay Bệ hạ ở vào thời kỳ thái bình lâu dài, nắm thế vững chắc, đề cao giáo hóa, tu sửa pháp độ, rực rỡ theo kịp thời thịnh trị của ba đời, há có gì khác đâu? Chỉ vì Bệ hạ chí thành khiêm tốn, mở rộng đường ngôn luận, nên mọi người đều tự hết lòng, vui vẻ chỉ ra điều hay, mà tình hình thiên hạ không gì là không thông suốt. Tuy nhiên, thần vẫn còn nghi ngại, từ năm ngoái trở đi, nhiều lần bãi bỏ chức quan gián nghị, trong ngoài thần dân không rõ chi tiết, thường bàn tán riêng, cho rằng ý hảo hiền của Bệ hạ đã hơi khác so với những năm đầu, tấm lòng nghe lời can gián dần lơ là so với trước, thần thật lấy làm lo lắng.
[102] Kính nghĩ rằng từ thời tổ tiên đến nay, đặc biệt coi trọng chức vụ đài gián, dù những lời nói ra chưa hẳn đều tốt đẹp, người được dùng chưa hẳn đều hiền tài, nhưng nhờ vào quyền lực để đàn hạch, nuôi dưỡng khí thế dám nói thẳng, chính là để ngăn chặn mưu đồ gian tà từ khi chưa manh nha, phòng ngừa sai lầm của chính lệnh từ khi chưa bộc lộ. Nay bệ hạ ở sâu trong cung cấm, chính sự đều do đại thần quyết định, vốn nên mở rộng trí tuệ, chú ý lắng nghe và tiếp thu, nhưng mấy ngày trước, mấy vị đài gián liên tiếp bị cách chức, thậm chí không xét đến đúng sai trong những điều họ bàn luận, không xem xét phải trái trong những việc họ tranh cãi, bề ngoài ban cho chức vụ tốt đẹp, bên trong tước đoạt trách nhiệm nói thẳng, khiến bề tôi trung chính phẫn uất mà không thể bộc lộ, kẻ sĩ thanh liêm hổ thẹn mà không dám nhận. Nếu việc này thực sự xuất phát từ ý chỉ của bệ hạ, thì đã làm tổn hại đức độ của thánh nhân, không thể không cảnh giác; nếu xuất phát từ mưu kế của đại thần, thì bệ hạ nên xem xét dụng tâm của họ, chẳng qua chỉ muốn bài trừ công luận trong thiên hạ để thỏa mãn ý riêng mà thôi. Thần trộm nghĩ rằng khi kẻ gian bắt đầu nắm quyền, dùng đài gián đủ để phá tan mưu đồ của họ, nhưng khi mầm họa đã hình thành, dù thánh hiền cũng không thể cứu vãn được tai họa. Bệ hạ xem tình hình hiện nay so với triều đại tổ tiên thế nào, mà lại để mặc đại thần muốn làm gì thì làm, che lấp chức trách của tai mắt, khuất phục khí thế trung nghĩa, không phải là cẩn trọng từ đầu đến cuối vậy.
[103] Lý do thần dâng lời này trước tiên, không phải vì thần đang giữ chức gián quan mà dám ép Vua để giữ vị trí. Thực ra là vì việc này liên quan đến cơ nguy an nguy của tông miếu xã tắc, dưới ảnh hưởng đến sự thịnh suy của quân tử và tiểu nhân, nên thần đã nhiều lần bàn luận, mong có thể lay động lòng Vua. Còn những điều mà người đời cho là đáng ngờ, thần vốn không tránh né. Kính mong bệ hạ trong lúc rảnh rỗi, xem xét kỹ lời nói mù quáng của thần, khen thưởng người lương thiện, tiếp nhận lời can gián thẳng thắn, tham khảo ý kiến công luận, giữ vững tấm lòng thành thực, yêu ai thì phải biết điều xấu của họ, ghét ai thì phải biết điều tốt của họ, khiến bề tôi không thể lợi dụng kẽ hở để thực hiện ý đồ riêng, thì lời trung ngôn kế sách hay sẽ tiếp tục được dâng lên. Thần vốn tính ngay thẳng, không biết kiêng kỵ, chỉ mong bệ hạ thấu hiểu lòng thành yêu Vua lo nước của thần, ban cho chút ít sự lắng nghe, thật là may mắn vô cùng.
[104] Lại nói: “Thần từng xem xét sách vở để suy ra đạo của các bậc tiên vương, tuy lễ nhạc hình chính được gọi là công cụ trị quốc, nhưng cái để thực hiện chúng, chính là ở mệnh lệnh. Ngày xưa, người giỏi quan sát nước người khác, không xem thế lực hưng thịnh hay suy yếu, mà trước hết xem xét mệnh lệnh của họ có được nới lỏng hay siết chặt; chưa bàn đến chính sự tốt xấu, mà trước hết xem xét mệnh lệnh của họ phức tạp hay đơn giản. Chỉ khi suy nghĩ đã chín chắn, mưu lược đã chu toàn, ban hành không tùy tiện, và kiên trì thực hiện, thì mới vững như vàng đá, tin như bốn mùa, khiến thiên hạ đều lắng nghe và kính phục, đó là cách mà thánh nhân dùng để khích lệ muôn dân. Sách 《Thượng Thư》 nói: ‘Hãy thận trọng khi ban hành mệnh lệnh, mệnh lệnh ban ra phải được thực hiện, không được phản lại.’ 《Kinh Dịch》 nói: ‘Mồ hôi tuôn ra như lệnh lớn.’ Truyện nói: ‘Mệnh lệnh nghiêm thì Vua được tôn trọng.’ Lại nói: ‘An nguy của nước nằm ở việc ban hành mệnh lệnh.’ Tất cả những điều này đều thể hiện sự thận trọng của thánh nhân.
Thần thấy mệnh lệnh của triều đình thay đổi quá nhiều, xa thì không quá một hai năm, gần thì chỉ vài tháng, thậm chí có khi ban hành buổi sáng mà buổi chiều đã sửa đổi, cũng có khi chiếu trước chưa ban ra, mà lệnh sau đã bãi bỏ, khiến quan lại không biết phải tuân theo cái nào, dân chúng không biết phải nghe theo ai. Tìm ra nguyên nhân của tệ nạn này, là do việc bàn bạc chưa kỹ, suy nghĩ chưa thấu đáo, tình người chưa được xem xét hết, lý lẽ chưa thông suốt, hoặc bị chi phối bởi tư lợi yêu ghét, hoặc sa vào lời nịnh hót, không phân biệt được đúng sai, không có tiêu chuẩn để lựa chọn, nên chỉ cần một người nói là lập tức thay đổi. Khi bình thường vô sự đã coi nhẹ như vậy, thì lúc gấp rút có việc, làm sao lấy được lòng tin của người? Thần mong bệ hạ hãy lấy bài học xưa làm gương, thận trọng suy nghĩ cho việc hiện tại. Đến như việc bãi bỏ hay thiết lập pháp độ, cải cách hay duy trì chính sự, cần phải khiến các đại thần cùng nhau bàn bạc công tâm, xem xét kỹ lợi hại, rộng xem xét và lựa chọn cẩn thận, sao cho phù hợp với đạo lý. Thay đổi những gì có thể thay đổi, thì không ngại trái với tục lệ; giữ lại những gì có thể giữ, thì không ngại theo lối cũ. Hãy nghiêm khắc răn dạy các quan ở cửa khuyết, đừng để họ chỉ đọc qua loa cho xong việc, nếu có sắp xếp không đúng, trước sau mâu thuẫn, thì phải thực hiện chức trách phê phán và bác bỏ. Như vậy thì chiếu lệnh mới được rõ ràng đơn giản, khiến dân tin phục, việc có thể thực hiện lâu dài, không đến nỗi phải thay đổi.”
[105] Lại tâu rằng: “Thần trộm thấy Tiên đế xét xưa xem điển chương, đặt ra chức quan trị lý, mọi việc trong thiên hạ chia ra do Tam tỉnh quản lý, phân thuộc vào Lục bộ, xét danh mà trách thực, đại thể tuy tốt, nhưng việc sắp đặt pháp độ chưa kịp xem xét kỹ, đó là lý do người bàn luận nói về tệ quan lại quá nhiều, mà đầu tiên là các tự, giám. Thần nghĩ rằng khi Bệ hạ mới lên ngôi, ngoài các khoản thu thường lệ, đã miễn giảm hết thảy, thu nhập có hạn, nên quốc dụng có chỗ lo không đủ, vì thế đặt riêng các cục quan, cắt giảm chi phí dư thừa (ngày 18 tháng 4 năm Nguyên niên, chiếu cho Hộ bộ cắt giảm chi phí dư thừa), rồi Thiện bộ sáp nhập vào Chủ khách, Ngu bộ nhập vào Đồn điền, lại xét việc nhiều ít mà định số người, Lục bộ giảm tổng cộng 19 viên, mà quan không bỏ việc, người không có ý kiến khác, là do xử lý hợp lý. Thần thường xem thời Tiên đế, các tự, giám thường không đặt đủ trưởng, phó, cũng có khi không có khanh, thiếu mà chỉ có thừa, bạ đảm nhiệm công việc. Nay Thái bộc, Vệ úy, Hồng lô, Quang lộc, Thái phủ mỗi nơi có hai khanh, Quân khí, Tướng tác, Thiếu phủ mỗi nơi có hai giám, thừa, bạ và các quan thuộc vẫn không dự vào. Các bộ giảm chỉ 12 viên, mà các tự, giám tăng gấp đôi trước kia, chiếu giảm quan trước đây thành ra vô hiệu, bớt chỗ này thêm chỗ kia, có ích gì cho việc trị nước?
Xưa Đỗ Hựu dâng kiến nghị với nhà Đường, nói rằng: ‘Cao Dao làm Sĩ, chính ngũ hình, nay Thượng thư Hình bộ, Đại Lý khanh là hai Cao Dao vậy; Thùy làm Cộng công, chế tạo khí dụng, nay Thượng thư Công bộ, Tướng tác là hai Thùy vậy; Bá Di làm Trật tông, coi việc lễ nước, nay Thượng thư Lễ bộ, Lễ nghi sứ là hai Bá Di vậy; Bá Ích làm Ngu, coi núi rừng, nay Lang trung Ngu bộ, Đô thủy sứ là hai Bá Ích vậy. Tên cũ không bỏ, chức mới ngày càng thêm, chỉ còn hư danh, đều không có thực việc.’ Thần thường yêu thích lời ấy, rất hợp lý. Nay trăm quan tâu bày, phải qua các tự, giám, mà trưởng, phó ít dám quyết đoán, đều phải xin ý kiến Lục bộ. Không chỉ tốn công văn tự, kéo dài hàng tháng, mà lại có khi chỉ thị của bộ, tự khác nhau, các cơ quan trong ngoài khó tuân theo, thêm nữa quan lại quá nhiều, hao tốn bổng lộc, nếu không cải cách, tệ hại sẽ không chịu nổi. Mong Bệ hạ xem xét điển cố, xét danh thực, những chức vụ ở tự, giám có thể giao về Lục bộ thì nên bỏ hết; hoặc việc thực sự nhiều, và liên quan đến quốc thể, không thể bỏ thì cũng nên định số người, không để quá nhiều, mong rằng quan đúng người, kinh phí dễ cấp.”
- Lưu Kỷ, 'Kỷ' nguyên là 'Kỷ', theo 《Tống sử》 quyển 262 và 《Đông đô sự lược》 quyển 30, truyện Lưu Kỷ sửa lại. ↵
- 'Kéo dài thời hạn bán than củi thêm 15 ngày', chữ 'bán' nguyên là 'thưởng', theo 《Tống hội yếu》 phần Thụy dị 2-16 và 《Tống sử toàn văn》 quyển 13 sửa lại. ↵
- Ngày Ất Sửu tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 3, 'Nguyên Hựu' nguyên bản ghi là 'Hi Ninh'. Theo 《Tống sử》 quyển 338, truyện Tô Thức, và quyển 344, truyện Khổng Văn Trọng, hai người này giữ chức Tri Cống cử năm Nguyên Hựu thứ 3, không có việc giữ chức Tri Cống cử năm Hi Ninh thứ 3. Lại xem chú thích ở đoạn dưới ngày Quý Tỵ tháng hai trong quyển này, Lữ Công Trước giữ chức Tri Cống cử năm Hi Ninh thứ 3. Chỗ này 'Hi Ninh' rõ ràng là nhầm với 'Nguyên Hựu', nên sửa lại. ↵
- Chữ 'Chi' trong 'Trương Chi Gián' nguyên bản viết là 'Tử', theo bản khác sửa lại. ↵
- lệnh chỉ ra sai dịch và thuê mướn hai pháp chế, mỗi thứ có bao nhiêu lợi hại 'ra' nguyên tác 'Huy', theo các bản và sách 《Kinh Tiến Đông Ba Văn Tập Sự Lược》 quyển 32, 《Đại Tuyết Luận Sai Dịch Bất Tiện Tráp Tử》 sửa. ↵
- Ở phía nam đê ngang hộ thành của bản phủ, hai chữ 'hộ thành' nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào bản trong các các mà sửa lại. ↵
- Chữ 'không' trong câu 'Lý Thường tâu rằng không thể làm được' vốn bị thiếu, căn cứ theo bản trong các sách và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 111 về việc hồi sông mà bổ sung. ↵
- có trường hợp võ thần do bản viện bổ nhiệm vì lý do nào đó xin chỉ đổi chức, chữ 'nhân' nguyên bản là 'đồng', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại ↵
- Bãi bỏ việc phục chức, Thái Xác giữ chức Tri Đặng Châu ('chức Xác' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo các bản và ý nghĩa trong chú thích của điều này mà sửa lại cho đúng). ↵
- Nay người Hạ tuy đã nhận phong sách 'nhận' nguyên là 'trao', theo bản cải. ↵
- 'Nhiệm' nguyên là 'Sĩ', theo các bản, bản hoạt tự sửa. ↵