"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 409: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 3 (MẬU THÌN, 1088)

Từ tháng 3 đến tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 3 đời Vua Triết Tông.

[1] Tháng 3, ngày Mậu Thân (mùng 1), chiếu rằng: “Các lộ Kinh lược ty phải bàn bạc tìm ra biện pháp bảo vệ việc cày cấy, không để kế hoạch của giặc được thực hiện, khiến mất mùa xuân. Những thành trại mới khôi phục, nếu có chỗ gần biên giới chưa cày cấy, hãy tuyên bố chiêu mộ người đến khai khẩn, khiến địch không thể dò xét được.”

[2] Lại có chiếu rằng: “Các điều lệ trong sách biên soạn và ban hành vào mùa xuân thu không được in bán.”

(Sách cũ chép: “Từ năm Hi Ninh trở đi, quan lại biết học luật, nhưng không có sách mới để theo học, nên thỉnh thoảng cho phép in bán. Đến nay, vì có người tâu nên bãi bỏ.” Sách mới đã bỏ đoạn này. Nay theo sách mới.)

[3] Hộ bộ tâu: “Những vật dụng tích trữ hàng năm ở kinh đô để dùng, ngoài phần để dành, nếu có dư, xin cho đổi mới lấy cũ, bán đi khi thiếu. Nếu là vật không thể để lâu, thì nửa năm trước phải tính toán kỹ, báo lên cơ quan chủ quản xét thực, rồi tâu lên Thượng thư bộ để chuẩn bị.” Được chấp thuận.

[4] Ngày Kỷ Dậu, Tam tỉnh tâu: “Theo chỉ dụ, việc thi cử nhân ở điện Tập Anh, xin theo lệ cũ năm Thiên Thánh, Hoàng đế ngự ở điện Sùng Chính để thi cử nhân. Ngày 22, Thái hoàng thái hậu và Hoàng đế ngự ở điện Diên Hòa, buông rèm, tể tướng và các quan dâng bài thi; Hoàng đế ngự ở điện Sùng Chính, xướng danh, yết bảng; ban áo mũ, hia, hốt xong, rồi dẫn các quan đến điện Diên Hòa tạ ơn Thái hoàng thái hậu.” Chiếu rằng: “Theo lệ cũ, thi cử nhân ở điện Sùng Chính, khảo duyệt ở điện Cảnh Phúc. Từ năm Hi Ninh về sau, dời sang điện Tập Anh. Nay theo chỉ dụ đã ban, thi tại điện Tập Anh. Việc dâng bài thi, xướng danh, yết bảng đều do Hoàng đế ngự điện; sau khi ban áo mũ, hia, hốt và tạ ơn xong, dẫn các quan đến cửa Nội Đông tạ ơn Thái hoàng thái hậu.”

[5] Chiếu rằng: “Ty chuyển vận lộ Quỳ Châu chọn người đến dụ dỗ tù trưởng người Man ở Thi Châu là Điền Trung Tiến, theo chỉ dụ của triều đình tha tội, và hạn trong 100 ngày cho phép đến quan trình bày, vẫn được ở lại như cũ. Nếu qua được một năm, có thể khống chế được người Man, không tái phạm, thì sẽ lần lượt bảo tấu, đặc cách ban cho chức vụ chính thức.”

[6] Ngày Tân Hợi, chiếu cấp cho Dương Vương Hạo 3 vạn quan tiền, theo lời thỉnh cầu của Hạo.

[7] Ngày Nhâm Tý, Xu mật viện tâu: “Giặc Tây đóng quân tập trung, mỗi trại chỉ có khoảng 300-400 người, họ nói rằng sẽ gây rối. Muốn chúng ta phải dọn dẹp đồng ruộng, gây trở ngại cho việc gieo trồng mùa xuân, hoặc tự lo kế hoạch bảo vệ mùa màng; hoặc tỏ ra yếu thế để dụ quân triều đình đến, mai phục binh lính đông đảo, nhằm giành chiến thắng; hoặc muốn gây rối ở nơi khác để kéo quân ứng cứu của ta đi.” Chiếu rằng: “Triệu Tiết hãy xem xét kế hoạch của giặc, nếu chỉ là gây trở ngại cho việc gieo trồng mùa xuân của ta, thì hãy bàn bạc tìm cách bảo vệ mùa màng, đừng để giặc gây hại. Nếu chúng định gây rối, thì tùy cơ ứng biến, tính toán kỹ lượi hại, nhằm giành thắng lợi hoàn toàn. Lại nghiêm cấm các tướng, sứ thần, đừng để bị giặc dụ dỗ hoặc kích động, hành động hấp tấp.”

[8] Ngày Quý Sửu, chiếu rằng những người kinh minh hành tu nếu thi Hội không đỗ, cho phép theo lệ Tiến sĩ đặc cách, được dự thi Điện thí.

[9] Ngày Giáp Dần, chiếu cấp tiền có chênh lệch cho quân lính và dân binh đi đóng đồn ở lộ Kinh Hồ Nam, Bắc vì việc người Man.

[10] Người Man Thiên Thôn cướp phá Đa Tinh Bảo, chiếu rằng: “Hồ Điền hãy điều tra sự thật rồi tâu lên, và xem xét cách xử trí. Nếu do quan lại gây sự, và không xâm phạm trại bảo, giết hại bắt bớ dân chúng, thì tiến hành chiêu dụ. Nếu vô cớ tụ tập, tự ý gây rối, thì đánh úp bắt giết, phải bắt được thủ phạm và những kẻ chủ mưu, lại đặt thưởng để chiêu mộ người bắt giết. Những kẻ bị lôi kéo theo, có thể dụ dỗ tha tội, khiến chúng nghi ngờ, thế không thể lâu dài. Lại lệnh cho Lý Mậu Trực cùng bàn bạc xử trí rồi tâu lên.”

[11] Ngày Bính Thìn, Xu mật viện tâu: “Gần đây có chỉ dụ cho Kinh lược An phủ ty Quảng Nam Tây Lộ, lệnh ràng buộc Dương Thịnh Thiên và những người khác, nhanh chóng trở về nghề cũ, không được xâm phạm vượt qua các lộ lân cận gây rối.” Chiếu lệnh cho ty này điều tra Dương Xương Thành và những người khác, nếu thực sự cùng với Dương Xương Tinh tập hợp vượt qua Hồ Bắc, thì chọn người hiểu rõ để khuyên bảo, gọi về nghề cũ; nếu không nghe, thì sai tướng quân đem quân đánh dẹp, bắt giữ gia quyến của họ để làm biện pháp kiềm chế.

[12] Trấn Giang quân Tiết độ sứ, Thủ Tư không, Khai phủ Nghi đồng Tam ty trí sĩ, Khang Quốc công Hàn Giáng mất. Vua ngừng triều, đến viếng, mặc tang phục, truy tặng Thái phó, thụy hiệu là Hiến Túc.

(Cựu lục chép truyện Hàn Giáng rằng: “Ông nhiều lần tiến cử Tư Mã Quang có thể dùng, lại khen Trình Di có đạo đức, nhưng sau đó Quang làm loạn pháp, Di làm bại hoại phong tục.” Tân lục biện rằng: “Vương An Thạch làm loạn phép tắc cũ, Thần Tông về sau hối ngộ. Đến khi Tư Mã Quang làm tể tướng dưới triều Triết Tông, khôi phục lại phép tắc của tổ tông, mà sử thần chê là ‘Quang làm loạn pháp’, học thuyết của Trình Di lấy Khổng, Mạch làm thầy, mà nói ‘Di làm bại hoại phong tục’, đều là vu khống. Từ chữ ‘dĩ nhi’ đến ‘bại tục’ tám chữ, nay xóa bỏ.”)

[13] Ngày Đinh Tỵ, Vua ngự ở điện Tập Anh thi tiến sĩ.

[14] Xu mật viện tâu: “Dương Xương Tinh ở Hồng Châu, Nguyên Châu vượt qua đường Long Hệ vào Đại Doanh, giết sạch họ Lương.” Chiếu lệnh Kinh lược sứ Miêu Thời Trung chọn quan cùng điều tra sự việc, khuyên bảo rõ ràng về nghề cũ; nếu tình hình người Man cuối cùng khó yên ổn, thì ràng buộc tướng sĩ lập kế hoạch, nhất định phải giết chết kẻ cầm đầu, không để làm hại những người bị bắt ép, không nên khinh suất tham công, gây thêm hậu họa.

[15] Chiếu lệnh quân Sương về doanh trại sau một mùa, mới được nghe theo việc sai phái.

[16] Ngày Mậu Ngọ, thi đặc cách tiến cử và võ cử tiến sĩ.

[17] Xu mật viện tâu: “Dân chúng ở biên giới Thiểm Tây, Hà Đông, vì giặc Hạ tập trung ở biên giới, thường không dám cày cấy. Kế sách phá hoại cày cấy, lại bị chúng lợi dụng, thực sự gây hại lớn cho dân biên giới. Xin lệnh cho Triệu Tiết và những người khác điều tra thực tế tâu lên, đồng thời bàn bạc tìm kế sách bảo vệ cày cấy, để phá kế của giặc.” Vua đồng ý.

[18] Ngày Canh Thân, thi các khoa và đặc cách tiến cử.

[19] Ngày Quý Hợi, thi võ cử tiến sĩ về nghệ thuật bắn cung ở điện Sùng Chính, ban ơn bổ nhiệm làm quan cho 15 người.

[20] Xuống chiếu bãi bỏ phép thi riêng và khảo sát đối với thân thuộc tông thất.

(Sách 《Cựu lục》 chép: “Từ thời Hi Ninh, tông thất dần biết hướng đến việc học, nên khoa cử có phần khoan dung hơn so với tiến sĩ, bèn chia ra khảo sát để phân biệt, khuyến khích họ. Đến nay, bãi bỏ.” 《Tân lục》 bỏ đoạn này. Nay theo 《Tân lục》.)

[21] Tả chánh ngôn Đinh Chất tấu: (Biên loại chương sơ năm thứ 3, tháng 3, ngày 16.) “Thần từ năm ngoái đến nay, đã bốn lần dâng chương sớ, luận bàn về việc Hà Chính Thần phạm pháp, nhưng chưa được thi hành. Tội ác của Chính Thần chưa bị trừng trị, nên lời nói của thần vẫn chưa dừng lại. Từ khi hai Thánh lên ngôi, đã đề bạt người già dặn, loại bỏ kẻ hung ác, khiến trời đất và dân chúng đều vui mừng, nhưng riêng Chính Thần lại được bỏ qua, khiến các bậc thức giả trong thiên hạ không khỏi nghi ngờ, không biết vì sao hắn lại may mắn thoát tội.

Vụ án Thái học xảy ra đến sáu bảy lần, mà Thẩm Quý Trưởng, Diệp Đào, Vương Duyễn Chi, Diệp Đường Ý, Dư Trung, Trầm Thù, Tôn Ngạc, Cung Nguyên, Chu Thường đều bị tội oan, còn số Thái học sinh chết oan không thể đếm xuể. Vụ án Lô Châu mờ ám không rõ, mà Cao Bỉnh, Đổng Việt, nội thần Hàn Vĩnh Thức đều bị tước chức, lưu đày xa xôi, còn Hàn Tồn Bảo bị chém đầu.

Lúc ấy, dân chúng hoang mang, bị bắt bớ, truy nã không ngày nào ngừng. Chính Thần cậy quyền thế, được sủng ái, chỉ trong một hai năm đã leo lên địa vị thị tòng, kiêu ngạo, lười biếng, giao du với sĩ đại phu, tự cho là đắc kế. Tội ác đến mức này, quỷ thần không dung, pháp luật không tha, thế mà hắn vẫn ung dung ngao du trên giang hồ, ngày ngày cùng Thái Biện lên cao ngâm thơ, uống rượu ca hát, vui vẻ hết năm.

Thần không hiểu vì sao Chính Thần lại may mắn thoát tội. Hình bộ, Đại Lý xử án trong thiên hạ, quan lại quận huyện chỉ cần một cái đòn oan, một hình phạt sai cũng đều bị ghi vào tội trạng. Kẻ như Chính Thần dùng văn tự xảo trá vu cáo, còn tệ hơn cả việc bịa đặt, cầm pháp luật khắc nghiệt, còn hơn cả đảng cố. Lúc ấy, Ngự sử, Gián quan không chỉ ra lỗi lầm của hắn, các đại thần chấp chính cùng nhau bao che, để hắn ngang ngược như vậy.

Nay hai Thánh ở ngôi, trời xanh ngày sáng, mà vẫn bỏ qua không xét, nên các bậc thức giả vẫn còn nghi ngờ, thần cũng vì thế mà không ngừng luận bàn. Kính mong hai Thánh nghĩ đến tổ tông xã tắc, quyết đoán sáng suốt, trừ bỏ kẻ gian ác, tước đoạt danh hiệu, lưu đày đến nơi xa xôi, không chỉ để giải tỏa nỗi oan ức trong thiên hạ, mà cũng để an ủi hồn oan dưới suối vàng.”

(Cần xem xét việc này được thi hành thế nào. Chính Thần vào ngày 12 tháng 10 năm Nguyên niên từ Lộ Châu đổi sang Tử Châu, ở đây nói “trên giang hồ”, cần xem xét. Từ Tử Châu đổi sang Sùng Phúc cung, chưa rõ ngày tháng.)

Lại tâu: “Gần đây nghe đồn bọn tiểu nhân tạo ra lời báng bổ, có tên gọi ‘Ngũ quỷ’, ‘Thập vật’, xin hạ lệnh cho Ngự sử đài điều tra thi hành.”

(Biên loại chương sơ năm thứ 2, tháng 9, ngày 17, nay gộp vào đây.)

[22] Giáp Tý, Tư chính điện Đại học sĩ, Tri Nhữ Châu Hàn Duy được cử làm Đề cử Sùng Phúc cung, vì xin được lo việc tang lễ cho anh là Hàn Giáng.

[23] Người Man ở Dung Châu cướp phá Văn Thôn Bảo, bắn bị thương quan phòng thác là Lưu Trạch và những người khác. Triều đình sai Kiềm hạt Trương Chỉnh đem quân đi đánh dẹp. Chiếu cho Kinh lược sứ Miêu Thời Trung xử trí, lệnh các bảo trại phải nghiêm ngặt phòng bị và cố thủ, đồng thời trước hết phải trừng trị kẻ cầm đầu, dùng kế mưu để phân tán những người bị cưỡng bức theo giặc.

[24] Chiếu rằng: “Việc kết hôn của tông thất, từ hàng Ti ma trở lên phải hai đời, hàng Đản miễn phải một đời có quan chức, không được là con cháu của những người xuất thân từ các ty, tiến nạp, kỹ thuật, công thương tạp loại, hoặc gia đình có tội ác nghịch. Nếu vi phạm hoặc giả mạo, người phạm tội cùng với người làm mối, người bảo lãnh đều bị xử theo tội vi chế, tông thất chủ hôn nếu biết tình cũng bị xử tội như vậy, và không được hưởng ân xá, giảm tội hoặc tự thú để được khoan hồng. Những người không phải là thân thuộc hàng Đản miễn thì áp dụng theo luật dành cho người thường.”

(Ngày 14 tháng 4, Triệu Ngột tâu; ngày 27, chiếu.)

[25] Ất Sửu, chiếu đổi tên kho Nguyên Phong, Nguyên Hựu thành kho Nguyên Phong Nam, Bắc, và thêm một viên Giám quan cho kho Nam.

(Ngày 9 tháng giêng, ngày 11 tháng 5.)

[26] Tam tỉnh tấu: “Tiền vật phong trang của triều đình dùng để phòng bị biên giới, đê điều và chi dùng khi cấp bách, vốn thu ở Giác hóa vụ, xin dùng chỗ cũ của Tư nông tự làm kho.” Chiếu đặt tên là kho Nguyên Phong, và cử riêng Giám quan.

(Sách 《Chính mục》 chép việc ngày 18, cần xem xét.)

[27] Xu mật viện xin rằng: “Ruộng đất ven biển ở Lan Châu, Thông Viễn Quân nên chiêu mộ người làm Cung tiễn thủ, những người cũ ở các lộ khác được phép đem theo đất cũ để đổi chỗ, đều cấp ruộng theo lệ, người tự mua ngựa được thêm 50 mẫu, và quan phủ cho vay tiền lương, đợi đến ba năm sau mới bắt đầu phục dịch.” Triều đình đồng ý.

[28] Chiếu rằng: “Những người được tiến cử để đổi chức quan, huyện lệnh, nếu có phạm tội nhẹ hay nặng hoặc hình danh đặc biệt khác nhau, lệnh cho Lại bộ xem xét tình hình, so sánh rồi xin chỉ.”

[29] Thượng thư Lại bộ Tô Tụng cùng các quan tâu: “Xét việc thi pháp luật, trước đây mỗi năm tổ chức hai kỳ thi vào mùa xuân và mùa thu. Nay theo chiếu chỉ, kỳ thi mùa thu đã bãi bỏ, hiện nay mỗi năm chỉ còn một kỳ thi mùa xuân. Nếu cứ theo quy định, mỗi năm phải tâu lên Đô tỉnh để ấn định ngày đến kinh, rõ ràng là phiền toái vô ích. Xin cho việc thi pháp luật được ấn định mỗi năm một kỳ thi mùa xuân, người dự thi phải đến kinh trước ngày 15 tháng 2 năm đó, miễn phải tâu lên triều đình ấn định thời hạn mỗi lần. Nếu ban hành quy định này, cũng khiến người dự thi mỗi năm biết trước ngày thi, theo hạn đến kinh.” Vua nghe theo.

[30] Hộ bộ tâu: “Triều thỉnh lang, Kim bộ viên ngoại lang Phạm Ngạc cùng Kinh Đông lộ chuyển vận ty tâu: ‘Theo chỉ dụ triều đình, đi đến Kinh Đông lộ hội họp với chuyển vận ty cùng bàn bạc việc thiết lập thị bạc ty ở Mật châu, xin bảo đảm và tâu lên. Sau khi thăm hỏi, được biết trấn này từ trước đến nay, các thương nhân từ Quảng Nam, Phúc Kiến, Hoài, Chiết đi thuyền biển chở các loại hương liệu và các vật phẩm thuế khác đến, cùng với các thương nhân từ Kinh Đông, Hà Bắc, Hà Đông chở tiền mặt, tơ lụa, lụa là qua lại giao dịch, buôn bán rất thịnh vượng.

Tuy nhiên, khi thương nhân biển đến, các mặt hàng như nhũ hương, tê giác, ngà voi, châu báu, tuy theo pháp luật đều bị cấm buôn bán, nhưng vì người nhỏ mọn đuổi theo lợi nhuận, leo núi vượt biển, dùng trăm phương ngàn kế, ắt không thể tránh khỏi việc lừa dối, che giấu, thất thoát. Tệ nạn tích tụ lâu ngày, dù có hình phạt nghiêm khắc và phần thưởng lớn cũng không thể ngăn chặn được, đó là điều tất yếu.

Vì vậy, các bàn luận trên dưới đều cho rằng, thay vì cấm buôn bán, để họ lén lút giấu giếm, thu lợi về tư nhân, chi bằng công khai đặt ra quy định để thu hút, khiến họ vui vẻ nộp thuế cho quan phủ, như vậy cả công lẫn tư đều có lợi.

Xin thử nói sơ lược: Thứ nhất, nếu pháp chế thị bạc ở Bản Kiều được thiết lập hoàn chỉnh trong tương lai, thì các vật phẩm từ nước ngoài tích trữ trong kho tàng của triều đình chắc chắn sẽ nhiều gấp đôi so với hai châu Minh và Hàng. Vì sao? Vì buôn bán ở Minh và Hàng chỉ giới hạn trong một lộ, còn Bản Kiều có giao dịch với thương nhân từ nhiều lộ phía tây bắc, mà tơ lụa, lụa là lại là mặt hàng mà thương nhân nước ngoài ưa chuộng, đây là lý do khiến thương nhân từ nam bắc đổ xô đến, có thể thấy rõ.

Thứ hai, thuyền buôn được thông hành, không còn nỗi khổ bị vu oan phạm tội do vi phạm lệnh cấm, và tài sản của họ cũng không còn lo bị tịch thu, lâm vào cảnh khốn cùng. Không chỉ vậy, ở các quận huyện mà thuyền buôn đi qua, thuế khoá của các trường vụ chắc chắn sẽ tăng lên rất nhiều. Hàng năm, ba tỉnh thu mua vật phẩm từ thị bạc và các châu báu của nước ngoài để cung ứng cho triều đình, sẽ không còn tốn kém chi phí vận chuyển hàng ngàn dặm đường, cũng không lo ngại việc thuyền bị đắm do gió lớn trên sông Hoài. Những vật phẩm dư thừa ở trấn này cũng có thể chuyển đi các lộ khác, phân phối hoặc dùng để chi trả, thưởng cấp. Tất cả những điều này đều là nguồn lợi tự nhiên, không xâm phạm ai, thực sự là lợi ích lâu dài trăm đời. Nay xét thấy trấn Bản Kiều hoàn toàn có thể thiết lập thị bạc ty.’ Hộ bộ xét duyệt, muốn theo lời tâu của Phạm Ngạc.”

Triều đình đồng ý, đổi trấn Bản Kiều thành huyện Giao Tây, đặt tên quân hiệu là “Lâm Hải quân”.

(Thực lục[1]: Ở Mật châu, Bản Kiều thiết lập thị bạc ty, đồng thời đổi trấn thành huyện Giao Tây, quân hiệu là Lâm Hải quân. Nay thêm vào theo sách pháp. Việc thiết lập thị bạc ty ở Tuyền, Mật đều do Lý Thường đề xuất, có thể tra cứu trong truyện của Lý Thường.)

[31] Kim bộ Viên ngoại lang Phạm Ngạc làm Kinh Đông lộ Chuyển vận phó sứ.

[32] Ngày Bính Dần, Long Đồ các Trực học sĩ, Triều nghị đại phu, Tri Trịnh Châu Vương Khắc Thần được thăng làm Thái trung đại phu. Do Khắc Thần khiếu nại việc bị cách ly khảo xét suốt mười tám năm, nên được đặc cách thăng chức.

[33] Ngày Mậu Thìn, Triều phụng lang, Trung thư xá nhân Khổng Văn Trọng mất.

(Khổng Văn Trọng có truyện cũ, bản mới ghi chép và biện bạch những lời vu cáo, nay phụ chép vào đây. Truyện cũ chép: “Vì dẫn kinh điển trái lý, lại ôm lòng dị biến để cầu hợp ý quan khảo, Thần Tông xét ra, bèn bãi chức không dùng nữa.” Bề tôi bàn rằng: “Phạm Trấn tâu rằng Văn Trọng đối sách thẳng thắn, mà sử quan cho là dẫn kinh trái lý. Ôm lòng dị biến để cầu hợp, e không đúng sự thật. Từ chữ ‘dẫn’ đến chữ ‘toại’ gồm 18 chữ, nay xóa bỏ.” Lại chép: “Bàn rằng Trình Di, giữ chức Sùng chính điện thuyết thư, hèn hạ xảo trá, vốn không có hạnh kiểm tốt, khi giảng kinh diễn nghĩa thì vượt quyền quên phận, khắp nơi yết kiến quý thần, đến tận đài gián, nên đuổi về quê để làm gương.” Bề tôi bàn rằng: “Trình Di là bậc danh nho một thời, được người đời kính trọng, nói rằng ông hèn hạ xảo trá, vốn không có hạnh kiểm tốt, cùng việc khắp nơi yết kiến quý thần, đến tận đài gián, e không đúng sự thật. Xóa bỏ 25 chữ.”

Lại chép: “Phàm những chính sự triều trước, đều bị ông chê bai không chừa chỗ nào.” Bề tôi bàn rằng: “Gián quan bàn việc, ý kiến mỗi người khác nhau, gọi là ‘chê bai’, e quá lời. Nay xóa bỏ.” Lại chép: “Sau đó, Tể tướng Lữ Công Trước cho rằng ông bị Tô Thức dụ dỗ ép buộc, bàn việc đều theo ý Thức, thì nhân phẩm Văn Trọng có thể biết được.” Bề tôi bàn rằng: “Lời Lữ Công Trước, e chưa chắc đã có. Vả lại, những điều Văn Trọng bàn về phép Thanh miêu, Miễn dịch, Bảo giáp, Bảo mã, Trà diêm, lúc ấy các quan trong triều bàn luận không ít, công luận một thời như một, há đều bị Tô Thức dụ dỗ ép buộc mà theo hết ý Thức sao? Rõ ràng không phải lời Lữ Công Trước. 29 chữ trên nay xóa bỏ.” Lại chép: “Năm Thiệu Thánh thứ 4, chiếu rằng Văn Trọng trong niên hiệu Nguyên Hựu giữ chức Ngôn quan, vu cáo chê bai phép tắc, phụ họa kẻ gian hiểm, tuy chỉ vào bề tôi, thực là báng bổ tiên liệt, truy giáng làm Mai Châu Biệt giá.” Bề tôi bàn rằng: “Văn Trọng mất vào tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 3, chiếu truy giáng năm Thiệu Thánh, tự có ghi chép ở sau, bản truyện không cần chép. Nay xóa bỏ 36 chữ.”)

[34] Ngày Kỷ Tỵ, ban cho Tiến sĩ Lý Thường Ninh cùng 24 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, 296 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, 188 người đỗ Tiến sĩ đồng xuất thân. Trong đó, người trong tông thất là Tử Thục được phong làm Thừa vụ lang, Lệnh Phi được phong làm Thừa phụng lang. Các khoa Minh kinh có 73 người, mỗi người được ban cho bản khoa cập đệ, xuất thân, đồng xuất thân khác nhau.

[35] Ngày Canh Ngọ, ban cho những người đỗ đặc cách Tiến sĩ, Võ cử, các khoa Cử nhân Tiến sĩ, Kinh minh hành tu Vương Lân Thần cùng những người đỗ Ngũ kinh, Tam lễ, Học cứu xuất thân, giả Thừa vụ lang, Kinh phủ Trợ giáo, các châu Văn học Trợ giáo: Hữu ban Điện trực, Tam ban Phụng chức, Tá chức, Sai sứ, tổng cộng 533 người.

[36] Ngày Tân Mùi, Triều thỉnh đại phu, Quốc tử Tế tửu, Tập hiền Hiệu lý Trịnh Mục được bổ nhiệm làm Trực Tập hiền viện, Thị giảng các vương phủ.

[37] Ngày Nhâm Thân, nước Vu Điền phái sứ giả đến triều cống.

[38] Chiếu rằng: “Lý Mậu Trực cùng các tướng phải nghiêm ngặt chỉ huy quân lính, đến các động của bọn giặc man đang gây loạn, bắt giữ gia quyến của chúng, đốt phá sào huyệt, kìm chế quân giặc, và phục kích chặn đánh ở biên giới. Ty An phủ Kiềm hạt Kinh Hồ Nam lộ phải nghiêm ngặt phòng bị, phô trương thanh thế quân đội để làm viện trợ.” Vì Kinh lược ty Quảng Nam Tây lộ tâu rằng, bọn giặc man Dung châu là Dương Thịnh Đài đã tuyên bố sẽ sang năm cướp phá các trại Văn Thôn.

[39] Ngày Giáp Tuất, tăng thưởng cho các Tiến sĩ mới đỗ 100 vạn tiền, 500 hũ rượu, làm chi phí hội họp.

[40] Ngày Ất Hợi, nhà tù ở Khai Phong phủ không còn tù nhân, chiếu giao cho Sử quán ghi chép. Quyền Tri phủ Tiền Hiệp được thăng một chức, các quan Suy, Phán được ban áo mũ.

[41] Quân Hạ xâm lược trại Đức Tĩnh, tướng quan Trương Giới[2] cùng các tướng đánh bại chúng, mỗi người được thăng một chức, và quân lính Hán, Phiên được ban thưởng tiền, lụa, bạc khác nhau.

[42] Tháng này, Tô Thức tâu rằng:

[43] Thần gần đây phụ trách việc thi cử, đứng hầu ở điện, chờ xem yết bảng, thấy có thí sinh phạm húy tên cũ của hoàng đế, được đặc ân cho phép vẫn được xếp hạng như cũ; lại có người phạm húy tên cũ của Chân Tông, các quan chấp chính cũng xin theo lệ mà thu nhận, nhưng bệ hạ đích thân phán rằng người này phạm húy tổ tiên, không thể không giáng hạng; sau đó lại có người phạm húy Hi Tổ, có chỉ đuổi ra. Mọi người trong triều đều cúi đầu kính phục. Thần cùng các đồng liêu lui ra bàn bạc, không chỉ thấy được ý tôn kính tổ tiên của thánh nhân, mà còn biết được bệ hạ nghiêm khắc trong việc tuyển chọn nhân tài, không ham mê ân huệ nhỏ để cầu hư danh. Thần đang giữ chức gần bệ hạ, nên phải suy rộng ý chỉ của thánh nhân, thuận theo điều tốt đẹp, và bổ sung những điều còn thiếu. Kính xin trình bày các việc cần làm trong kỳ thi như sau:

[44] 1. Thần thấy theo chế độ cũ của tổ tiên, thí sinh qua kỳ thi ở bộ, khi vào thi điện, bị đánh trượt không ít. Điều này vừa thể hiện sự thận trọng trong việc chọn người, vừa cho thấy quyền uy danh vị đều thuộc về bệ hạ. Đến niên hiệu Gia Hựu, mới bắt đầu ban cho tất cả đỗ đạt, nhưng vẫn không nhận những người phạm lỗi lặt vặt. Gần đây, tệ lậu lan tràn, những người phạm lỗi nhỏ cũng được nhận, khiến thí sinh qua kỳ thi ở bộ coi như đã đỗ, dù có sai sót cũng làm nhục khoa cử, ân huệ quá lạm dụng, danh vị tự nhiên bị coi thường, không phải là ý của tổ tiên. Trước đây, thí sinh qua kỳ thi ở bộ phải chờ nhiều năm, tích lũy lâu ngày mới được đặc cách tiến cử. Nay chỉ qua một lần thi ở bộ, thi điện không đỗ, năm đó liền được danh hiệu tiến sĩ, điều này có nghĩa gì? Kính xin bệ hạ hạ lệnh cho Hữu ty lập pháp: Từ nay về sau, kỳ thi điện, ngoài những người đỗ, còn lại đều bị đánh trượt, hoặc xin lấy điểm số để định ngạch tuyển chọn, nhằm tránh sự nương tay ở trên và dứt bỏ tâm may rủi ở dưới. Nghe nói đã có chỉ thị loại bỏ hai phần, nhưng có pháp mà không thi hành thì cũng như không có pháp. Nếu đã có pháp, xin được tuyên bố rõ ràng, và cáo dụ thiên hạ, từ nay về sau kỳ thi điện phải theo pháp mà loại bỏ.

[45] 1. Từ trước đến nay, những người đỗ cử nhân, chỉ có người đứng đầu kỳ thi ở Nam tỉnh hoặc người đứng đầu trong kỳ thi của mình được xướng danh, những người đứng gần cuối đôi khi được chỉ thăng lên một bậc, nhưng đều xuất phát từ ý chỉ của hoàng đế, ban đầu không có quy định cụ thể. Hiện nay, những người đỗ trong top 10 ở Nam tỉnh trở lên, người đứng đầu kỳ thi đặc biệt, người đỗ đầu kỳ thi quốc học ở Khai Phong, người đỗ đầu kỳ thi võ cử, những người đỗ cử nhân kinh minh hành tu, và tất cả những người được đặc cách tấu danh đỗ chính thức, đều được quy định thăng lên một bậc. Việc này diễn ra ồ ạt, khiến các sĩ tử không còn coi việc thăng bậc là vinh dự, mà quyền lực lại nằm trong tay các cơ quan, ân điển không thuộc về hoàng đế, điều này thật vô nghĩa. Thần cho rằng việc liên tục tấu danh đã là sự ban ân quá mức, còn việc kinh minh hành tu lại càng là một quy định tồi tệ, trong đó có đủ loại thủ đoạn quyền thế và nhờ vả, xâm phạm hạn ngạch, tôn vinh những hư danh, có gì là công lao mà lại được thăng bậc? Hoàng đế dùng khoa cử để rèn luyện và sàng lọc nhân tài, chính là dựa vào sự thăng giáng, vinh nhục trong các cấp bậc thi cử, nay lại dễ dàng ban phát, không còn coi trọng, thần thật không hiểu nổi. Kính mong hoàng thượng cùng các đại thần xem xét lại quy định này, xin hãy bãi bỏ, từ nay về sau, khi xướng danh trong kỳ thi điện, ngoại trừ người đứng đầu mỗi kỳ thi ở Nam tỉnh được tùy thời nhận chỉ dụ, còn lại đều không được thăng bậc, để quyền thăng giáng hoàn toàn thuộc về hoàng đế. Còn về khoa kinh minh hành tu, cũng xin được xem xét và sớm bãi bỏ.

[46] 2. Thần gần đây ở Cống viện cùng Tôn Giác, Khổng Văn Trọng dâng tấu chương, bàn về việc ân điển dành cho những người được đặc cách tấu danh quá lạm dụng, nhưng chưa được thi hành. Kính mong hoàng thượng xem xét lại tấu chương trước, giao xuống cho các cơ quan liên quan xem xét và cắt giảm, đồng thời xin lập pháp quy định rằng những người được đặc cách tấu danh nhận chức văn học, trưởng sử, từ nay về sau trong các chiếu thư xá tội Nam Giao, không được phép triệu bảo để ra làm quan.

[47] Một, thần thấy gần đây Lễ bộ đặt ra pháp luật, từ nay về sau trong các khoa trường, nếu cử ba quan viên coi thi thì một người chuyên về thi phú, hai người chuyên về kinh nghĩa; nếu cử hai người thì một người thi phú, một người kinh nghĩa. Thần cho rằng pháp luật này không thể thi hành. Phàm cử quan viên coi thi, cốt ở chỗ chọn được người có tài văn chương. Nếu được người tài giỏi thì dù người đó đỗ khoa kinh nghĩa cũng không ngại gì khi ra đề về thi phú; người đỗ khoa thi phú cũng không ngại gì khi ra đề về kinh nghĩa. Nếu không được người tài giỏi, dù dùng đúng chuyên khoa cũng không tránh khỏi sai sót. Gần đây từ khi thanh luật biến thành kinh nghĩa, thì những người giỏi thi phú liền được cử làm quan coi thi, đâu cần phải tìm người đỗ khoa kinh nghĩa rồi mới chọn người? Nếu nhất định phải dùng đúng chuyên khoa để ra đề thi, thì kinh nghĩa, thi phú, sách vấn, luận văn bốn trường, văn lý khác nhau, cũng phải cử riêng một quan viên coi thi mới được. Đây vốn là lời bàn lo xa của người nói, mà các quan không xét kỹ, liền đặt ra điều luật này, từ khi có khoa trường đến nay chưa từng có chuyện như vậy.

Từ nay về sau, mỗi viện thi chia làm hai hạng quan viên coi thi, người ra đề kinh nghĩa thì chủ trương văn chương hư phù, người ra đề thi phú thì coi trọng thanh luật, tranh cãi lẫn nhau, lý lẽ không nghi ngờ gì, từ đó khoa trường ngày càng có nhiều kiện tụng, hại không nhỏ, mà chẳng được lợi ích gì. Nay triều đình vừa khôi phục thi phú, lại đặt ra điều luật này, thần rất lo các quan giám sát trong thiên hạ hiểu lầm ý triều đình nhất định muốn dùng người giỏi thi phú làm quan coi thi, không hỏi có tài văn chương hay không, đều cử cả. Trong số đó có những người đã lâu không dự thi, hoặc đã bỏ học, nếu dùng hư danh để cử làm quan, rõ ràng không bằng những người đỗ khoa kinh nghĩa có tài văn chương. Thần xin đặc biệt chỉ thị, từ nay về sau cử quan viên coi thi, không phân biệt kinh nghĩa hay thi phú, chuyên chọn người có tài văn chương. Những điều luật gần đây Lễ bộ đặt ra, xin đừng thi hành nữa.

(Tô Thức cùng Khổng Văn Trọng, Tôn Giác bàn về việc ân trạch đặc tấu danh quá lạm, đã ghi ngày 29 tháng 2.)

[48] Tô Thức lại tâu: “Thần gần đây nhân được triệu kiến, đích thân vâng mệnh chỉ:[3]‘Vì sao nhiều lần dâng sớ xin về quận?’ Thần đã trình bày rõ tình trạng bệnh tật, lại được tuyên dụ: ‘Chẳng lẽ vì đài gián có lời bàn nên vậy sao? Anh em cô độc, từ trước đến nay việc tiến cử đều do hoàng đế và thái hoàng thái hậu quyết định, không nhờ ai khác, nay cứ yên tâm, đừng lo lắng vì lời người, không cần dâng sớ xin từ chức nữa.’ Thần lui về suy nghĩ, từ khi được triệu từ Đăng Châu về, đến khi nhậm chức Trung thư xá nhân, ban đầu không ai nói gì, chỉ từ khi tham gia bàn luận về phép dịch, và được thăng làm Học sĩ, liền bị Chu Quang Đình, Vương Nham Tẩu, Cổ Dịch, Hàn Xuyên, Triệu Đĩnh Chi đều công kích không ngừng, thậm chí bịa đặt ngôn từ, khéo léo thêu dệt, gọi là phỉ báng; chưa vào viện thi, đã nói trước là tùy ý chọn người. Dù được thánh chúa biết thần vô tội, nhưng thần tự nghĩ, có lẽ do thần tính tình cương trực, lời bàn không thuận theo, mà ân sủng quá nhiều, địa vị gần gũi, nên dẫn đến nhiều lời bàn tán, cũng là lẽ đương nhiên. Thần chỉ muốn kiên quyết xin về một quận, thì là phụ lòng thánh trí, trên trái với ân chỉ; muốn im lặng mà không xin, thì là đối địch với đài gián, không tránh được sự công kích, tình thế ắt không yên. Thần nghĩ mình gặp nhiều gian nan, sớm suy yếu, không còn tâm tiến thủ, mong được về nơi thôn dã, dưỡng tuổi già, ngọt ngào như rau tề. Nay đã không được phép xin về quận, thần cũng không dám xa rời bên cạnh, chỉ xin giải chức Học sĩ, cho thần một chức quan nhàn nhã ở kinh sư, như Bí thư giám, Quốc tử tế tửu, hoặc chỉ làm việc ở kinh diên, để tránh sự chú ý của các quan, có thể được yên ổn phần nào.”

[49] Phụng Nghị lang, quyền phát khiển Thiều Châu Lưu Nghị được cử làm việc ở Linh Tiên Quán, vì Nghị dâng biểu tạ ơn khi nhậm chức có lời oán trách ngông cuồng. Hai năm sau, lệnh cho Lại bộ bổ nhiệm làm Tri quân, được nhậm chức ở Hán Dương Quân.

(Theo sách của Trương Sân biên soạn, tập hợp trong vạn ngôn thư của Lưu Giang Tây. Ngày 16 tháng 12 năm thứ hai, sách Chính Mục chép: “Lưu Nghị vì dâng chương sớ, được bổ làm cung quan.” Có thể chuyển đoạn này vào chỗ kia.)

[50] Triều Thỉnh lang, Phó sứ chuyển vận Hà Đông Lộ Tỉnh Lượng Thái được bổ làm Tri Hoa Châu. Trước đó, Lượng Thái từ chức Phán quan chuyển vận Kinh Đông Lộ chuyển sang Hà Đông, đến lúc này, dân Kinh Đông đói kém, không có gì để cứu tế, nên bị cách chức.

(Lượng Thái làm Phán quan chuyển vận Kinh Đông vào tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 8; chuyển sang Hà Đông vào tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ 2. Theo sách chế tập của Lưu Ban thêm vào. Sách chế của Ban cũng trách Trương Thục, nhưng Thực Lục không chép, nay phụ thêm vào. Sách chế của Ban viết: “Phó sứ chuyển vận Hà Đông Tỉnh Lượng Thái có thể làm Tri Hoa Châu, Triều Phụng đại phu Trương Thục có thể làm Tri Đường Châu. Nhiệm vụ ngoài kế hoạch, là làm gương cho một đạo, việc nước không gì quan trọng hơn tiền bạc và lương thực, việc dân không gì cần thiết hơn điều hòa và phân phối, trí tuệ không đủ, bỏ bê nhiệm vụ quá mức. Các ngươi trước đây mượn quyền lực, đi đến vùng đất phía đông, không biết điều cốt yếu, chẳng có phương pháp thu thuế, khiến dân đói mà không có gì cứu tế, lương thực cạn kiệt mà phải vất vả vận chuyển. Trách cứ vì không làm tròn nhiệm vụ, nên có hình phạt, cách chức giữ một châu, đó là sự khoan hồng.” Trương Thục vào tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ nhất từ Đề hình Hà Bắc đổi làm Phán quan chuyển vận Kinh Đông, chưa thấy chuyển đi đâu, nay lại cùng với Lượng Thái bị cách chức làm Tri châu, nhưng Thực Lục cũng không chép, phụ thêm để tham khảo.)

[51] Mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu Dần, chiếu không nhận chương tấu xin về hưu của Thượng thư Hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang Lữ Công Trước, vì ông đã nhiều lần xin.

[52] Long Đồ các Trực học sĩ Hứa Tướng được bổ làm Hàn Lâm học sĩ. Thừa Nghị lang, quyền phát khiển Phó sứ chuyển vận Hà Bắc Lộ Đường Nghĩa Vấn chuyển sang Hà Đông Lộ, vì chức quan chuyển vận Hà Bắc có người dư thừa.

(Trương Cảnh Tiên được bổ sung, nên có người dư thừa, theo sách chế tập của Tăng Triệu.)

[53] Tiến sĩ Đỗ Tảo, người trúng tuyển trong kỳ thi do triều đình tổ chức, là cháu họ của Chiêu Hiến Thái hậu, được đặc cách bổ nhiệm vào chức vụ sơ đẳng, cho phép ông được chọn nơi nhậm chức.

[54] Chiếu chỉ cho các quận huyện trên toàn quốc trình bày rõ những lợi hại của pháp luật về sai dịch, phân tích từng điều để tâu lên.

(Lý Thường trong bản tấu nghị nói: “Trước đây tuy có chỉ dụ của triều đình, yêu cầu các giám ty ở các lộ cùng với châu huyện xem xét kỹ lưỡng những điều chưa hoàn thiện và bất tiện, hạn trong hai tháng phải tâu lên, nhưng sau đó không thấy ai trình bày gì.” Đây có lẽ là chiếu chỉ ngày mồng 2 tháng 4.)

[55] Chỉnh đốn lại bộ Thương, giao việc kiểm tra, xử lý nợ, hồ sơ bằng chứng và việc in ấn, phát hành giấy tờ cho bộ Tỷ, Thái phủ tự.

[56] Ngày Kỷ Mão, Nội điện thừa chế, Tri quân Càn Ninh là Trương Phó, do có công lao trong việc bảo vệ đê điều khi nước sông lớn dâng cao, được ban sắc thư khen ngợi, đồng thời ban ân cho bảy người thuộc cấp của ông.

[57] Chiếu chỉ cho các lộ và châu trình bày bản đồ, phân tích rõ quá trình xây dựng, thành trì, quan lại, hộ khẩu, cống phẩm, núi sông, địa lý, gửi lên bộ Chức phương.

[58] Tả chánh ngôn Đinh Chất tấu: (Biên soạn chương sớ ngày mồng 3 tháng 4.) “Thần trộm thấy chiếu chỉ minh bạch, muốn lấy thi phú để tuyển chọn nhân tài trong kỳ thi khoa cử sắp tới, đây là điều may mắn cho học giả trong thiên hạ. Tuy nhiên, gần đây các bác sĩ Thái học và giáo thụ các châu quận phần lớn được tiến cử nhờ kinh nghĩa, không thông thạo về chương cú, đối ngẫu, e rằng khó có thể dạy dỗ học sinh. Thần ngu muội xin hạ lệnh cho hai tỉnh, các quan chức trong quán, các vị đứng đầu tự giám, và giám ty các lộ bên ngoài, mỗi nơi tiến cử hai người từng xuất thân từ thi phú hoặc được đặc cách tiến cử, để bổ nhiệm làm giáo quan trong và ngoài triều. Bởi vì pháp luật về kinh nghĩa đang thịnh hành, các bậc thầy già, nho sĩ lâu năm quen với thi phú, không thể theo kịp học thuật đương thời, đều không tham gia khoa cử, chỉ đợi đủ số lần tiến cử mới được ban ân mệnh. Nay nếu tiến cử họ làm giáo quan, chắc chắn sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thần khẩn thiết xin hai Thánh thượng sớm ban chỉ dụ, để các sĩ tử khắp nơi thay đổi phong khí hư đản, xuyên tạc, hướng tới học thuật quy củ, chuẩn mực, thiên hạ sẽ vô cùng may mắn!”

[59] Ngày Tân Tỵ, Kim tử quang lộc đại phu, Thủ thượng thư hữu bộc xạ kiêm Trung thư môn hạ thị lang Lữ Công Trước được phong làm Tư không, Đồng bình chương quân quốc sự, vẫn một tháng ba lần đến kinh diên, hai ngày một lần vào triều, nhân đó đến đô đường bàn việc. Trung đại phu, Thủ trung thư thị lang Lã Đại Phòng được thăng làm Thái trung đại phu, Thủ thượng thư tả bộc xạ kiêm Môn hạ thị lang, Trung đại phu, Đồng tri xu mật viện sự Phạm Thuần Nhân được thăng làm Thái trung đại phu, Thủ thượng thư hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang.

[60] Trước đó, Thái hoàng thái hậu đã ban chiếu thư thực phong giao cho Lã Đại Phòng rằng: “Lữ Công Trước vì tuổi già kiên quyết xin nghỉ hưu, hiện nay hoàng đế còn nhỏ tuổi, rất cần các đại thần có đức độ lớn tuổi phụ tá, Lữ Công Trước há dễ tìm được sao? Muốn kiên quyết giữ ông lại như cũ để tiếp tục làm việc, nhưng lo rằng công việc hàng ngày ở Trung thư và Thượng thư hai tỉnh quá bận rộn, e rằng chưa xứng với ý tôn trọng bậc lão thần. Nay muốn thăng chức, bãi chức Thượng thư hữu bộc xạ, bổ nhiệm làm Nhiếp Thái bảo, Đồng bình chương quân quốc sự, mỗi tháng ba lần đến giảng kinh, hai ngày một lần vào triều, nhân đó đến Đô đường bàn việc quân quốc, không biết thế nào? Khanh có thể cân nhắc xem cách nào thuận tiện, tự tay viết thư thực phong dâng lên.”

Đại Phòng liền tấu rằng: “Thần xem kỹ chiếu chỉ, thấy rõ ý tôn trọng đức độ và ưu đãi bậc lão thần của bệ hạ, mọi việc đều được xử lý tinh tế, thần ngu muội không xứng đáng, thật là may mắn lớn. Theo ý thần, chỉ nên dựa vào chức cũ mà ưu đãi, chỉ thăng một bậc, làm Đặc tiến, vẫn giữ chức Hữu bộc xạ như trước, thêm chức Bình chương quân quốc sự, như vậy những việc phiền toái đều được miễn bỏ, cũng không đến nỗi thiếu sót. Nếu chưa hợp ý thánh thượng, xin bãi chức Hữu bộc xạ, thăng hai bậc, làm Tư không, Bình chương quân quốc sự, và lệnh cho Tam tỉnh, Xu mật viện mỗi nơi bàn bạc các điều mục về quân quốc rồi tấu lên, còn lại theo như chỉ huy mà Văn Ngạn Bác đã nhận được.”

Thiếp hoàng nói: “Theo chế độ cũ, trong các đại lễ, quan được cử làm việc gọi là ‘Nhiếp’, nay chức sự quan e rằng không thể gọi là ‘Nhiếp’.”

Chiếu thư lại giao cho Đại Phòng rằng: “Xem tấu chương về việc Lữ Công Trước, với đức vọng của ông, muốn kiêm thêm một chức Bảo phó, để đứng sau Thái sư Văn Ngạn Bác một bậc. Cần phải hợp với lòng người, thực sự có ích cho việc giảng dạy. Nhưng chức vụ của Lữ Công Trước còn xa mới đến Bảo phó, khanh có thể cân nhắc thêm một chức Bảo phó, xem trong điển chế thế nào? Theo quyền nghi tạm thời thế nào? Nay muốn bổ nhiệm làm Thủ Tư không, Hành Thái bảo sự, Đồng bình chương quân quốc sự, còn lại như đã bàn. Bốn chữ ‘Hành Thái bảo sự’ có hợp lý không? Nếu không cần thêm chức Bảo phó, thì bỏ bốn chữ ‘Hành Thái bảo sự’.”

Đại Phòng lại tấu rằng: “Thần xem kỹ chiếu chỉ, Lữ Công Trước được thăng làm Tam công, Bình chương quân quốc sự, và mỗi tháng đến giảng kinh, đủ để đứng sau bậc sư thần, đã làm thỏa lòng người nhiều rồi, e rằng không cần thêm chức Bảo, Phó nữa. Nếu chính thức bổ nhiệm làm Thái bảo, thì e rằng vượt quá nhiều; nếu dùng bốn chữ ‘Hành Thái bảo sự’, thì e rằng không hợp điển chế. Về việc thể hiện nay, cũng không cần dùng quyền nghi tạm thời, mong thánh thượng xem xét kỹ.”

(Đây đều căn cứ vào chiếu thư và tấu chương mà Lã Đại Phòng nhận được, nay lược bớt để ghi chép. Phạm Thuần Nhân chắc cũng tham gia bàn bạc, nhưng không có chứng cứ.)

Thái hoàng thái hậu nghe theo, vẫn cùng Đại Phòng, Thuần Nhân cùng được bổ nhiệm, lại ban chiếu cho Lữ Công Trước vào Đô đường bàn việc, không hạn giờ ra khỏi tỉnh, văn thư thường lệ miễn ký tên, và cho phép ở gần Đông Tây phủ để làm việc, các chấp chính có việc bàn bạc, cho phép đến bàn. Chế từ của Lữ Công Trước, Lã Đại Phòng, Phạm Thuần Nhân do học sĩ Tô Thức soạn thảo.

[61] Tối hôm đó, Tô Thức vào chầu ở điện nhỏ cửa Đông trong cung, vâng mệnh xong, Thái hoàng thái hậu bỗng truyền dụ Tô Thức rằng: “Nhà Vua ở đây chăng?” Tô Thức đáp: “Vừa mới vào chầu rồi.” Thái hoàng thái hậu nói: “Có một việc muốn hỏi Nội hàn, năm trước khanh giữ chức gì?” Tô Thức đáp: “Thần giữ chức Đoàn luyện phó sứ ở Nhữ Châu.” Thái hoàng thái hậu hỏi: “Nay giữ chức gì?” Tô Thức đáp: “Thần được bổ làm viên ở Hàn lâm, sung chức Học sĩ.” Thái hoàng thái hậu hỏi: “Vì sao đến được như vậy?” Tô Thức đáp: “Nhờ ơn bệ hạ.” Thái hoàng thái hậu nói: “Chẳng liên quan gì đến ta.” Tô Thức nói: “Ắt là do nhà Vua.” Thái hoàng thái hậu nói: “Cũng chẳng liên quan gì đến nhà Vua.” Tô Thức nói: “Hay là do các đại thần tiến cử?” Thái hoàng thái hậu nói: “Cũng chẳng liên quan gì đến các đại thần.” Tô Thức kinh ngạc nói: “Thần tuy vô dụng, nhưng cũng không dám xin xỏ gì.” Thái hoàng thái hậu nói: “Đã lâu muốn cho học sĩ biết, đây là ý của Thần Tông hoàng đế. Khi ngài đang ăn uống mà dừng đũa xem văn tự, thì các cung nhân ắt nói: ‘Đây là văn tự của Tô Thức.’ Thần Tông thường khen: ‘Kỳ tài, kỳ tài!’ Chỉ tiếc chưa kịp dùng học sĩ thì ngài đã băng hà.” Tô Thức khóc thành tiếng, Thái hoàng thái hậu và nhà Vua cùng tả hữu đều khóc. Sau đó, Thái hoàng thái hậu truyền cho ngồi và ban trà, nói: “Nội hàn hãy hết lòng phụng sự nhà Vua, để báo đáp tri ngộ của tiên đế.” Tô Thức lạy tạ rồi lui ra, được đốt đuốc sen vàng đưa về viện. (Theo 《Vương Củng Tùy Thủ Tạp Lục》 bổ sung).

[62] Ngày Nhâm Ngọ, Quan văn điện học sĩ, Chính nghị đại phu kiêm Thị độc Tôn Cố giữ chức Môn hạ thị lang, Trung đại phu, Thủ Thượng thư tả thừa Lưu Chí giữ chức Trung thư thị lang, Trung đại phu, Thượng thư hữu thừa Vương Tồn giữ chức Thượng thư tả thừa, Chính nghị đại phu, Tri Xu mật viện sự An Đào được thăng làm Hữu quang lộc đại phu, vẫn giữ chức Tri Xu mật viện sự như trước, Thí Ngự sử trung thừa Hồ Tông Dũ được thăng làm Trung đại phu, giữ chức Thượng thư hữu thừa, Thí Hộ bộ thị lang Triệu Chiêm được thăng làm Xu mật trực học sĩ, Thiêm thư Xu mật viện sự.

(Năm Hi Ninh thứ 8, tháng 12, Tăng Hiếu Khoan khi làm Thiêm thư vẫn mang chữ “Đồng”, nhưng nay Triệu Chiêm thì không mang chữ “Đồng”.)

Lại bộ thị lang kiêm Thị giảng Tôn Giác được thăng làm Ngự sử trung thừa, Long đồ các trực học sĩ, Tri Diên châu Triệu Tiết được thăng làm Xu mật trực học sĩ[4].

(Phạm Bách Lộc trong bài chí về mộ Triệu Tiết viết: “Người Hạ vào triều cống nạp, nhưng lại đem quân lớn áp sát biên giới, các tướng liên tục xin tăng thêm quân đồn trú, chuẩn bị phòng thủ. Tiết từ tốn bảo họ rằng: ‘Chỉ cần cẩn thận canh gác, chỉnh đốn vũ khí, không để địch đánh trước, quân đồn trú không cần tăng thêm.’ Rồi sai người đến hỏi địch: ‘Đang hòa hảo, sao lại đem quân đến? Nếu các ngươi dám xâm phạm, hãy tự chuẩn bị, xem quân ta sẽ từ đâu xuất kích.’ Người Hạ vốn sợ Tiết, trước sau mấy lần xâm lấn đều không thành công, bèn nói với người ở biên giới: ‘Ta không dám đụng đến Long đồ, chỉ về giữ đất của ta thôi.’ Rồi rút quân. Các tướng đều thán phục, cho rằng một lời nói mà phá được mười vạn quân địch, từ xưa chưa từng có. Tiết được thăng làm Xu mật trực học sĩ, tiếp tục giữ chức cũ.”

Xét: Ngày 24 tháng này, quân Hạ tấn công Trại Tắc Môn, Tiết bèn có chiến dịch Hồng Châu. Bài chí mộ trước tiên kể về Hồng Châu, sau đó nói địch không dám xâm phạm, rồi được thăng chức và tiếp tục giữ chức, thứ tự hơi lộn xộn, e không đáng tin, nay không theo. Bản truyện của Tiết cũng nói được thăng chức và tiếp tục giữ chức, nhưng trong thực lục ban đầu không có chỉ dụ về việc tiếp tục giữ chức, lại có chương của Lưu An Thế cũng nói là không có lý do, e rằng bản truyện sai, bản truyện chỉ dựa vào bài chí mộ mà thôi.

Tập của Tằng Triệu có chế thư về việc Tiết được thăng làm Mật trực viết: ‘Tháng năm dần trôi, nhiều lần lập công, nên được thăng chức vào Xu đình, vẫn giữ chức cũ.’ Cũng không nói là tiếp tục giữ chức.

Chính mục của Lã Đại Phòng ngày 26 tháng 6 mới ghi Triệu Tiết làm Mật trực và tiếp tục giữ chức, ngày mồng 6 thì không ghi.

Trong Ngự tập ngày mồng 6 tháng 4 về việc bổ nhiệm Tôn Cố và các người khác, có ghi Long đồ các trực học sĩ, Triều nghị đại phu, Tri Diên châu Triệu Tiết được thăng làm Đồng tri Xu mật viện sự. Xét Tiết ban đầu không có mệnh thăng vào Nhị phủ, không rõ Ngự tập vì sao lại như vậy, nghi là sai lầm, tạm ghi lại đây, cần xem xét thêm.)

Ban đầu, có ngự phê cho Tiết làm Đồng tri Xu mật viện, Công Trứ, Đại Phòng, Thuần Nhân nhân đó xin miễn đối đáp và bãi bỏ, có phê riêng rằng: ‘Diên Hòa tiến trình.’ Rồi lấy Chiêm thay Tiết, cuối cùng không rõ nguyên nhân.

(Việc Tiết được thăng làm Đồng tri, chỉ có Ngự tập ghi chép, các sách khác đều không có, ban đầu nghi là sai lầm, sau này xem được nhật ký của Lưu Chí thì mới biết mệnh thăng Tiết là bị gián đoạn giữa chừng, không phải sai lầm. Nay sửa lại như trên, và ghi đầy đủ nhật ký của Chí như sau: ‘Ngày mồng 5 tháng 4 tuyên chế, Lữ Hối Thúc làm Tư không, Bình chương quân quốc sự, Lữ Vi Trọng làm Tả quỹ, Phạm Nghiêu Phu làm Hữu quỹ, An Hậu Khanh được thăng một bậc, Tôn Hòa Phụ Cố làm Môn hạ thị lang, tôi làm Trung thư thị lang, Triệu Đại Quan Chiêm làm Thiêm thư Mật viện, Vương Chính Trọng được thăng làm Tả thừa, Hồ Tông Dũ Hoàn Phu làm Hữu thừa, Tôn Sân Lão Giác bổ khuyết làm Trung thừa. Tôi xem thực phong của Trung thư, thấy ngày đó có ngự phê cho Triệu Tiết làm Đồng tri viện. Ba vị tướng nhân đó xin miễn đối đáp và lui về, có phê riêng rằng: ‘Diên Hòa tiến trình’, lấy Chiêm thay Tiết, ba người ký tên, không rõ nguyên nhân.'”)

[63] Hữu chánh ngôn Lưu An Thế tâu: “Thần trộm thấy triều đình gần đây bổ nhiệm Tri Diên Châu Triệu Tiết làm Xu mật trực học sĩ, xét kỹ lời bàn luận chung, đều có ý kiến khác nhau, liền dựa vào công luận, xin trình lên bệ hạ. Thần xem xét từ thời tổ tông đến nay, cách đối đãi với các tướng lĩnh, hoặc vì họ lâu năm ở biên cương, khiến kẻ địch khiếp sợ, hoặc vì họ có công chinh phạt, bảo vệ đất nước, công lao rõ rệt, nên lại giao trọng trách trấn giữ biên cương, mới tiến hành lễ thăng chức. Triệu Tiết trị nhậm Phu Diên chưa đầy ba năm, xét về thành tích trị lý, không có gì vượt trội, đọc kỹ chiếu thư, cũng không phải là tái nhiệm. Khi triều đình tiến cử các chức vụ chấp chính, riêng Triệu Tiết lại vô cớ được thăng chức cùng ngày, trong ngoài đều bàn tán, cho là không hợp lẽ. Thêm nữa, thần nghe đồn rằng Triệu Tiết từng sai sứ giả đi ước hòa với Tây Hạ, nhưng lại bị người Khương bắt giết. Nếu quả như lời đồn, thì đã làm tổn hại uy linh quốc gia, khiến sĩ khí nơi biên ải suy giảm, việc trấn thủ biên cương không có gì đáng kể, còn gì tệ hơn thế? Thần nghe nói thưởng không xứng đáng thì không thể khuyến khích điều thiện, phạt không đúng tội thì không thể trừng trị điều ác, huống chi kẻ không có công lại được thưởng, người có tội lại không bị phạt, muốn dùng cách này để trị quốc, thần thật lấy làm nghi ngại. Kính mong bệ hạ đặc biệt xem xét, nếu Triệu Tiết quả có những việc như trên, không chỉ thu hồi mệnh lệnh mới, mà còn xin xử phạt theo pháp luật, để những kẻ tham công cầu lợi có chỗ răn sợ.” Không được trả lời.

[64] Ngày Giáp Thân, Kinh lược sứ Quảng Tây tâu rằng người Man ở Dung Châu là Túc Nhân Thôi, người Man ở Cừ Dương quân là Dương Thịnh Đài kết bè kéo cánh, đi lại giữa hai lộ gây họa cho dân, đã chỉ huy quân lính đi đánh dẹp. Chiếu chỉ rằng không được tiến quân sâu, hãy chọn những kẻ cầm đầu, dùng tiền thưởng để chiêu mộ người bắt giết.

[65] Hộ bộ tâu rằng số lương thực dự trữ năm năm ở vùng biên giới Thiểm Tây, tính ra hơn năm trăm vạn quan tiền, xin ghi vào sổ sách để tiện kiểm tra. Được chấp thuận.

(Ngày 29 tháng 2, ngày 26 tháng 6 năm Nguyên Niên, ngày 3 tháng 12 năm Thiệu Thánh nguyên niên.)

[66] Trung tán đại phu, Trực Long đồ các, Đề cử Sùng Phúc cung Lưu Thầm được bổ nhiệm làm Tri Kinh Nam.

[67] Hôm đó, Tả ty gián Hàn Xuyên và Hữu ty gián Lưu An Thế vào chầu, Thái hoàng thái hậu hỏi về việc bổ nhiệm gần đây thế nào. An Thế đáp: “Triều đình dùng người đều hợp với lòng dân, chỉ có việc bổ nhiệm Hồ Tông Dũ là công luận cho là chưa thỏa đáng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Hãy từ từ xem việc làm của ông ấy.” An Thế lui ra rồi dâng sớ nói: “Kính vâng thánh dụ, vốn nên tuân theo, nhưng lui về suy nghĩ kỹ, vẫn thấy chưa yên tâm, vì thế không tránh khỏi tội nặng, lại dám làm phiền bệ hạ, mong bệ hạ lưu tâm xem xét[5].

Thần nghe rằng chức vụ chấp chính là chọn lựa tối cao trong thiên hạ, chỉ có bậc hiền tài đương thời mới có thể được bổ nhiệm không theo thứ tự. Còn những người đức hạnh không vượt trội quần thần, tài trí không đủ để phục lòng đa sĩ, thì phải cho họ thời gian, thăng tiến từng bước, không chỉ để nuôi dưỡng thanh danh, mà còn để ngăn chặn sự may rủi và tranh giành. Thần thấy Tông Dũ trước đây ở triều trước, chỉ tạm coi là tu chỉnh được; khi bệ hạ mới lên ngôi, đã sớm được trọng dụng, trong vòng hai năm, đã lên đến chức Trung ty. Tuy nhiên, tính vốn gian trá, tài trí tầm thường, từ khi giữ chức phong hiến, lại càng ra sức nịnh hót, không thấy có lời nào khuyên can, tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ gian, cũng chưa từng có kiến nghị gì để hưng lợi trừ hại, kết bè kéo cánh, lừa dối trên dưới, trong ngoài đều chê trách. Bỗng nghe chiếu chỉ, thăng lên chức thừa tướng, dư luận xôn xao, ai nấy đều kinh ngạc. Thần nghĩ rằng mệnh lệnh của bậc quân vương tuy phải thi hành, nhưng nếu xử lý đúng lý, thì giữ vững không thể thay đổi, nếu không hợp lòng dân, trái với tình người, liên quan đến sự thịnh suy của thiên hạ, nặng nhẹ của triều đình, thì nên chọn lựa cẩn thận, sao lại ngại thay đổi? Huống chi bề tôi phụ tá, cùng chung thể chế với quốc gia, sao có thể để kẻ tiểu nhân xen lẫn trong đó? Thần với Tông Dũ vốn không có tình thân, cũng không có mối thù nhỏ nào, chỉ vì công luận chưa yên, nên hôm trước được đối đáp, đã hết lòng trình bày, mà lòng trung thành không thể kìm nén, nên lại dâng sớ, để báo đáp ý bệ hạ dùng thần. Mong bệ hạ thêm lòng từ, xem xét kỹ lưỡng, nếu lời thần không sai, thì xin thu hồi mệnh lệnh mới, bổ nhiệm ra ngoài, để phân biệt chính tà, không làm mất lòng trung hiền trong thiên hạ.”

[68] Ngày Ất Dậu, ban chiếu rằng: “Các sứ thần tuần kiểm bảo trại ở Thiểm Tây, Hà Đông lộ, nếu để lọt người Tây vào biên giới từ lần thứ tư trở lên, thì bị cách chức; nếu kiêm nhiệm hai địa phận trở lên, thì tăng thêm một lần.” Do Xu mật viện tâu rằng, Hình bộ xét xử một lần phạm tội liền định cách chức, nên có mệnh lệnh này.

[69] Trước đó, có ngự phê rằng: “Lưu Chí, Vương Tồn không được từ chối chiếu thư, sai người chủ sự trở lên của Tam tỉnh, Xu mật viện đưa đến.” Trung thư tỉnh tâu: “Chấp chính quan từ chối ân mệnh, nếu đã giáng sáu lần phê đáp không chấp thuận trở lên, thì sai người chủ sự của Tam tỉnh, Xu mật viện đưa đến. Từ nay về sau, chiếu thư nên sai trung sứ mang đến ban tặng, hoặc giáng xuống Học sĩ viện.” Hôm đó, có ngự phê: “Từ nay về sau, người chủ sự trở lên của Tam tỉnh, Xu mật viện, chỉ đưa phê đáp gia ân thường lệ sau các đại lễ như giao nhân. Còn các chấp chính quan trở lên được đặc ân thăng chuyển không theo thứ tự, bất kể số lần phê đáp và chiếu thư, đều do ngự tiền sai nội thần ban xuống, để giữ thể thống. Chỉ huy ngày 9 tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ nhất, và ngày 7 tháng này đã phê xuống sai định người, không thi hành nữa.”

(Theo 《Ngự tập》 ngày 9 tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ ba, thực lục chép vào tháng 8: “Chiếu rằng phê đáp chiếu thư đặc ân thăng chuyển chấp chính quan trở lên, đều do ngự tiền sai nội thần ban xuống.” Nay dùng toàn văn 《Ngự tập》.)

[70] Ngày Bính Tuất, ban chiếu rằng: “Tư không, Bình chương quân quốc sự Lữ Công Trước, khi hậu điện rèm buông, cùng Tam tỉnh vào trình, ngày lục tham vẫn khởi cư tấu sự.” Từ khi hai cung cùng nghe chính sự, thường vào ngày chẵn ở Diên Hòa điện rèm buông, nên chiếu cho Công Trước hai ngày vào triều một lần, nhưng hoàng đế thì năm ngày ngự tiền điện một lần, đều là ngày lẻ. Do đó, Công Trước lại xin ngày lục tham vẫn khởi cư tấu sự, để được chiêm ngưỡng thanh quang của hoàng đế, chiếu theo lời xin.

[71] Ngày Đinh Hợi, Chuyển vận ty Hoài Nam lộ xin giảm thuế An Hà vụ, lệnh đặt vụ ở Quy Sơn trấn để định mức thuế. Theo lời xin.

[72] Ngày Mậu Tý, Triều tán đại phu, Thái phủ khanh Hàn Tông Đạo được bổ nhiệm làm Quyền Hộ bộ Thị lang. (Ngày 4 tháng 7 năm thứ 2, lần đầu đặt chức Quyền Thị lang, việc bổ nhiệm có lẽ bắt đầu từ Tông Đạo. Thực lục không ghi chữ “Quyền”, nay theo chính mục.) Triều tán đại phu, Khởi cư lang, Quyền Xu mật đô thừa chỉ công sự Lưu Phụng Thế được bổ nhiệm làm Thiên Chương các Đãi chế, Xu mật đô thừa chỉ; Khởi cư xá nhân Bành Nhữ Lệ được bổ nhiệm làm Trung thư xá nhân; Hữu ty lang trung Vương Trắc Thần được bổ nhiệm làm Khởi cư lang; Trứ tác lang kiêm Thị giảng Phạm Tổ Vũ được bổ nhiệm làm Khởi cư xá nhân.

(Ngày 8 tháng 5, từ chối.)

[73] Nghe việc Tri Xu mật viện sự An Đào từ chối việc thăng chức Hữu Quang lộc đại phu. Trước đó, Hàn lâm học sĩ Tô Thức tâu: “Thần trộm nghĩ rằng bậc quân chủ trị vì quần thần, chuyên dùng lễ nghĩa liêm sỉ. Nếu để họ nhận ân sủng vô danh, thì là xem nhẹ bề tôi. Nay triều đình há lại vì sáu người chấp chính, năm người được thăng chức, nên gia tăng bậc lộc để an ủi lòng họ? Đào đứng đầu Tây Xu, trọng trách lớn lao, há lại thấy người khác được thăng chức mà bận lòng? Đã không có danh nghĩa thụ thụ, chỉ là chính sách nhu nhược, dù có tiền lệ từ triều trước, cũng chỉ là ân điển sai lầm nhất thời. Nay Đào kiên quyết từ chối, chính là biết nghĩa. Thần muốn vâng mệnh soạn chiếu, nhưng không biết dùng lời lẽ nào, kính mong Thánh từ thuận theo lời thỉnh cầu của ông ấy. Nếu việc bổ nhiệm có nguyên do khác, xin hạ chỉ rõ ràng, nếu hợp với nghĩa lý, thần đâu dám không soạn chiếu.” Nội phê: “Có thể tạm dùng một ý, soạn chiếu không cho từ chối rồi dâng lên.” Đào lại từ chối, bèn theo lời ông.

[74] Ngày Kỷ Sửu, xuống chiếu cho Lại bộ bổ nhiệm các quan kiêm quản mua ngựa, đều phải đến Xu mật viện để dẫn nghiệm.

[75] Ngày Canh Dần, Phạm Thuần Nhân nhân việc Hàn Tông Đạo, Tôn Cố vì thân thích với Văn Ngạn Bác mà tâu lên. Lưu Chí nói, theo lệ cũ, các chấp chính ít khi tránh thân thích. Thái hoàng thái hậu nói: “Thân thích của chấp chính, không có lý do phải tránh né. Nếu dùng người hợp với công nghĩa, dù là thân thích thì có hại gì? Nếu có tư tình, dù không phải thân thích, ắt sẽ bị người đời dị nghị, chỉ cần hết lòng vì công, diệt trừ tư lợi thì tốt rồi.”

[76] Chính nghị đại phu Chương Đôn được bổ nhiệm làm Tri châu Tô Châu. Trước đó, Đôn bị bãi chức Tư chính điện học sĩ, được bổ làm Tri châu Việt Châu. Đôn tự tâu rằng: “Việt Châu cáo trạng về việc binh lính trạm dịch ăn cắp, vì cha già tuổi cao, theo lễ nên chuyên tâm phụng dưỡng, xin không nhận cáo trạng khác, chỉ xin tiếp tục giữ chức Đề cử Động Tiêu cung.” Phạm Thuần Nhân tâu: “Cha của Đôn già yếu, đang ở Tô Châu, bệ hạ đang lấy hiếu trị thiên hạ, há để bậc cựu thần mất đi sự phụng dưỡng cha già? Xin nghe theo lời thỉnh cầu của ông.” Vì thế, Vua ban lệnh cho Đôn làm Tri châu Tô Châu, nhưng Đôn lại từ chối, nên theo lời thỉnh cầu của ông, nhưng cha ông đã qua đời.

(Ngày 23 tháng 2, làm Tri châu Việt Châu; ngày 21 tháng 5, vẫn giữ chức Đề cử Động Tiêu cung, nhưng Chương Du đã qua đời vào ngày 16, nay ghi chung. Ngày 24 tháng 11 năm thứ 4, giáng một bậc quan, cho giữ chức cung quan, đợi khi mãn tang sẽ cấp cáo trạng.)

[77] Tả chánh ngôn Đinh Chất được bổ làm Viên ngoại lang Lễ bộ, Giám sát ngự sử Triệu Ngột làm Viên ngoại lang Đô quan, vì Chất có quan hệ thân thích với Hồ Tông Dũ, Ngột có quan hệ thân thích với Tôn Cố. Ngột sau đó được đổi làm Khảo công.

(Đổi làm Khảo công vào ngày 4 tháng 5.)

[78] Ngột làm Ngự sử, từng bàn rằng: “Ngày nay hai Thánh ở sâu trong cung, chính sự giao cho đại thần, pháp độ thay đổi đã sắp xếp xong, chỉ còn việc tiến cử nhân tài, việc này liên quan rất lớn đến quốc thể, Bệ hạ không thể không suy nghĩ kỹ và xem xét cẩn thận. Thần nghe rằng trước thời Trị Bình, các đại thần chấp chính không dám công khai tiến cử thân tộc, đặt vào chức vụ quan trọng, những người xin bổ nhiệm cho con em thường chỉ được làm ở các chức quản khố, thậm chí không muốn cho họ đi thi khoa cử, sợ cạnh tranh với những người cô hàn. Nếu có người thân thuộc xa, dù tài năng xuất chúng, cũng bị hạn chế không dùng, để tỏ rõ công bằng, giảm bớt ân tư.

Từ thời Hi Ninh về sau, do Vương An Thạch nắm quyền, phá vỡ quy tắc này, con em họ đã giữ chức vụ quan trọng, thân thích trong ngoài cũng đều được bố trí vào những vị trí cao quý, chỉ dựa vào câu nói ‘cử người trong nhà không tránh thân’, nhưng không thể tránh khỏi ý tư trong đó.

Từ đó về sau, việc này trở thành thông lệ, hễ một người được tiến cử, thì thân thích trong ngoài đều có hy vọng được thăng tiến không theo thứ tự, coi chức quản khố là không đáng kể. Có người chấp chính khen ngợi thân tộc của ai đó, nói ‘người này có thể được chọn dùng’; lại có người tiến cử thân tộc của chấp chính, nói ‘người này nên được thăng chức’, họ đùn đẩy lẫn nhau, ai mà chẳng là người hiền. Hoặc cho rằng người ăn nói lưu loát là có tài, người chậm chạp là có đức, người có thâm niên ít lại giữ chức vụ quyền hành nặng nề, người không có xuất thân lại được tham gia vào việc tuyển chọn văn tự thanh yếu, khiến thân thích quyền quý đều có lòng kiêu ngạo, còn người cô hàn xa cách thì hiếm khi được tiến cử[6].

Từ đó về sau, ân tư thắng thế mà công bằng mất đi. Như Hàn Duy, bình thường tiếng tăm không phải không tốt, nhưng khi tham gia chính sự, chỉ vì tiến cử nhiều thân tộc, nên bị dư luận chê trách. Sau đó Bệ hạ giác ngộ, bãi chức của ông ta, điều ra làm quan ở phiên quận. Thần e rằng từ đó về sau, tệ này vẫn chưa chấm dứt, việc đã qua không bàn lại nữa. Kính mong Bệ hạ suy nghĩ theo ý sâu xa của tổ tông trong việc dùng người trước thời Trị Bình, cải cách tệ lậu tiến cử thân tộc của chấp chính từ thời Hi Ninh về sau, mỗi khi tiến cử bổ nhiệm, Bệ hạ nên tự mình phát ngôn, hỏi han kỹ lưỡng. Nếu không phải thân tộc của chấp chính, cũng không phải do họ tương tác khen ngợi, thì dùng mà không nghi ngờ, nếu có dấu hiệu tương tự, thì nên chất vấn răn đe, để ngăn chặn âm mưu của họ, như vậy thì mọi người đều sẽ công bằng, biết sợ mà tránh.

Chỉ mong Bệ hạ lặng lẽ ghi nhớ, từ từ quan sát, ắt sẽ thấy được điều này.”

Thiếp hoàng nói: “Việc chấp chính tiến cử thân tộc không phải là chính sách tốt đẹp của thái bình, mà là điều công luận trong thiên hạ chưa bằng lòng, việc này cũng đã xảy ra khá lâu rồi. Nay thần bàn luận, chỉ mong Bệ hạ biết rõ, ban chiếu minh cho đại thần, chấm dứt tệ này. Tờ sớ này do thần tự viết, không dám tiết lộ.”

(Ngày 20 tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 3, Ngột dâng sớ này. Xét: Ngày 20 tháng 4 thì Ngột đã bãi chức Ngự sử, e rằng chữ “20” có sai, nay phụ lục vào lúc bãi chức. Ngày 14 tháng giêng, Ngột bàn về ngôn quan, đã ghi trong ngày tháng này, truyện của Ngột còn có thêm bàn luận, nay phụ lục vào đây. Bàn về việc chấp chính tiến cử thân thích, trong truyện rất sơ lược, nay theo biên loại chương sớ ghi đầy đủ.)

[79] Lại bàn về các quan có trách nhiệm tâu việc, có người được thăng chức nhẹ, thực chất là tước bỏ quyền tâu bày; có người được thực hiện một phần lời tâu, rồi được điều đến nơi tốt; có người được giữ cả hai chức vụ, nhưng chỉ là tạm hòa giải; có người bị bỏ qua không hỏi đến, nhưng bên ngoài lại tỏ ra bao dung, khiến những người trung trực phải nhục nhã mà rút lui. Đây là điều triều đình cần xem xét kỹ. Lại bàn rằng con gái hoàng tộc không nên kết hôn với những người làm quan trong giới công thương, các sứ thần thuộc Tam ban không nên dựa vào việc học sơ sài kinh luật mà được đổi sang làm quan văn, việc tuyển chọn nhân tài nên ưu tiên kinh nghĩa rồi mới đến thi phú, các quan lang và giám ty nên luân phiên ra vào, để tránh tình trạng trọng nội khinh ngoại. (Từ “Ngột lại bàn” trở xuống dựa theo 《Huy Tông thực lục》, truyện gốc của Ngột có lẽ dựa vào bia mộ của Hứa Tướng. Việc hôn nhân của con gái hoàng tộc được ghi vào ngày 17 tháng 3 và 27 tháng này.) Lại bàn rằng những năm gần đây, ngoài thuế thường, các nguồn thu khác đều bị bãi bỏ, quốc khố về sau chắc chắn sẽ không đủ, xin giảm bớt ban thưởng cho hoàng tộc và bổng lộc của quan lại.

(Điều này dựa theo biên loại chương sớ ngày 18 tháng 4 năm thứ 3, nay phụ chép vào lúc bãi bỏ.)

[80] Tư không, Đồng bình chương quân quốc sự Lữ Công Trước được miễn lễ sách phong[7], lệnh cho Học sĩ viện ban chiếu, được chấp thuận. Theo chế độ cũ, tướng tướng đều dùng quan giai để giữ chức Tam sư hoặc Tam công. Năm Nguyên Phong cải cách chế độ quan chức, Văn Ngạn Bác từng dùng chức Tiết độ sứ Hà Đông để giữ chức Thái sư, Vương An Thạch dùng chức Quan văn điện Đại học sĩ để giữ chức Tư không. Đầu năm Nguyên Hựu, Ngạn Bác bãi chức Tiết độ sứ, vào triều làm Bình chương quân quốc trọng sự, liền bỏ chữ “thủ”. Đến khi Công Trước làm Tư không, Học sĩ viện soạn chiếu, nhầm giữ lại chữ “thủ”. Hôm đó, Tam tỉnh nhận chỉ sửa lại bằng cách dán giấy.

[81] Ngày Quý Tỵ, ban chiếu định số lượng người được tiến cử thăng chức mỗi năm của các quan chức sự.

[82] Ngày Giáp Ngọ, triều đình dâng lễ hiến tế tại cung Cảnh Linh.

(Ngày 11 tháng giêng, lại ngày 23 tháng bảy, và ngày 15 tháng mười.)

[83] Ngày Đinh Dậu, A Lý Cốt sai người đến triều cống.

[84] Chiếu rằng: “Các lộ Giang Nam Đông Tây, Kinh Hồ Nam Bắc, Phúc Kiến, phủ Thành Đô, các châu Tử, Lợi, Quỳ, từ năm Nguyên Hựu thứ hai trở về trước, các khoản tiền và vật phẩm như lụa, vải, bông mà triều đình đã phong trữ, cùng các khoản lụa, vải, bông trước đây ở kinh đô chiêu mộ người vào nộp và chuẩn bị, đều bãi bỏ, cho phép các lộ Ty Đề Hình đổi lấy tiện lợi; hoặc chuyển đến các châu quân quan trọng và ven sông, vẫn tiếp tục phong trữ như cũ.”

[85] Giám sát Ngự sử Triệu Ngột tâu: “Theo chiếu chỉ năm Nguyên Phong, những kẻ cướp bóc ở các khu vực áp dụng luật nặng, vợ con bị biên quản; chiếu chỉ mới năm Nguyên Hựu đã bãi bỏ tất cả. Như vậy, số người bị biên quản trước đây chắc không ít, xin cho họ được tự do.” Triều đình đồng ý. Những người chứa chấp và vợ con bị liên đới cũng áp dụng theo quy định này.

(Cựu lục chép: “Ban đầu, ở các lộ Kinh Đông có những nơi người dân quen làm trộm cướp, dù là hộ thuế bậc trên, vào năm được mùa, vẫn cướp bóc không sợ hãi, và đồng bọn cùng nhau chứa chấp[8], nên hình phạt ở đây nặng hơn các lộ khác để răn đe. Khi bãi bỏ luật liên đới, nên Ngột mới có đề nghị này. Tân lục đã bỏ đi, nay theo Tân lục.”)

[86] Binh bộ tâu:

[87] Xét lại các khoản tiền thuế chăn nuôi, tiền bán ngựa không đạt tiêu chuẩn, thịt và nội tạng ngựa chết, tiền từ các hộ tuyệt tự, tiền lãng phí từ việc nuôi ngựa theo hợp đồng, vốn do Ty Chăn nuôi quản lý; cùng với các khoản tiền chuộc tội của các hộ nuôi ngựa bảo hiểm và tiền tiết kiệm từ việc bãi bỏ các trại chăn nuôi, Bộ này căn cứ theo chỉ dụ ngày 20 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ 7, đã trình lên Thượng thư tỉnh. Và xét lại chỉ dụ ngày 14 tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ nhất: “Các việc liên quan đến ngựa trong và ngoài triều, trước đây do Quần Mục Ty quản lý, nay chuyển giao cho Thái Bộc Tự, trực tiếp báo cáo lên Xu Mật Viện, không cần trình lên Thượng thư tỉnh và Giá Bộ nữa.” Bộ này chưa rõ các khoản tiền phong trang nói trên có thuộc quản lý của Thái Bộc Tự hay vẫn do Bộ này trình lên Thượng thư tỉnh? Ngày 24 tháng giêng, có chỉ dụ: Lệnh cho Binh Bộ tiếp tục xem xét và trình lên Thượng thư tỉnh.

[88] Xu Mật Viện: “Nay xét lại tờ trình của Binh Bộ, xác nhận rằng các khoản tiền tiết kiệm từ việc bãi bỏ trại chăn nuôi do Bộ này thu hồi, tuy gần đây có chỉ dụ lệnh cho Chuyển Vận Ty ứng phó chi phí cỏ khô và thức ăn cho ngựa, nếu còn dư thì vẫn phong trang như cũ. Xem xét các khoản tiền này, cho phép ứng phó chi phí cỏ khô và thức ăn cho ngựa, nếu còn dư sau khi thu hồi, cũng xin chuyển giao cho Thái Bộc Tự thi hành. Theo chỉ dụ, ngoại trừ tiền chuộc tội của các hộ nuôi ngựa bảo hiểm không thuộc quản lý của Xu Mật Viện, các khoản tiền tiết kiệm từ việc bãi bỏ trại chăn nuôi đã có chỉ dụ chuyển giao cho Thái Bộc Tự, khó có thể lại để Binh Bộ trình lên Thượng thư tỉnh.” Ngày 15 tháng hai, có chỉ dụ: “Tất cả các khoản tiền phong trang trước đây do Quần Mục Ty quản lý, đều giao cho Thái Bộc Tự quản lý và thu hồi, theo quy định lập sổ sách, trình lên Xu Mật Viện, lệnh cho Thừa Chỉ Ty lập sổ quản lý. Chỉ dụ ngày 24 tháng giêng năm nay không cần thi hành nữa.”

[89] Thượng thư tỉnh tâu: “Xét theo chỉ dụ ban ra trước đây, chỉ liên quan đến các việc về ngựa, như việc lập lại các giám ngựa, chiêu mộ binh sĩ, chăn thả sinh sản, thu chi phân bổ, đều lệ thuộc vào đây. Hơn nữa, tiền lương thực không phải là việc do Xu mật viện quản lý, cùng với chỉ dụ trước đây, ngoài việc tuân theo chế độ quan lại, tiền chi cho cung tên hàng năm, từ khi thi hành chế độ quan lại, được chuyển về Giá bộ, sau này cũng thường được cấp phát; cùng với các giám mới được lập lại, phàm có chi phí, đã được triều đình cho phép sử dụng tiền vật phong trang của triều đình để ứng phó, tự nhiên không có lý do không cấp phát. Hơn nữa, tiền thuế ruộng chăn thả và các vật phẩm khác, hiện quản lý hơn 570 vạn, dùng để ứng phó cho việc sử dụng khẩn cấp của triều đình, không chỉ dùng cho việc ngựa. Nếu Xu mật viện có việc liên quan đến ngựa và các giám mới được lập lại cần tiền vật, được chỉ dụ cho phép cấp phát, thì Thượng thư tỉnh đều phải ứng phó. Nay Giá bộ tâu lên sổ sách phong trang, nên theo chỉ dụ đã được ban ra, Binh bộ vẫn nộp lên Đô tỉnh.” Ngày 20 tháng 4, tam tỉnh cùng phụng chỉ dụ: “Theo chỉ dụ đã được ban ra ngày 24 tháng giêng năm nay mà thi hành.”

[90] Khám hội được các việc sau, tam tỉnh và Xu mật viện cùng phụng chỉ dụ: “Tiền thuế ruộng chăn thả và các vật phẩm khác đều chuyển về Xu mật viện, lệnh Thái bộc tự thu gom, theo điều lệ phong trang, nộp vào Nội tàng khố để ghi sổ, và dùng cho các việc liên quan đến ngựa. Tiền vật phong trang trước tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ nhất, ngoài những khoản đã được chỉ dụ cho phép chi dùng, từ nay về sau nếu có chi phí bất thường, đều do tam tỉnh và Xu mật viện xin chỉ dụ thi hành. Khoản hộ tuyệt ở Hà Bắc, từ tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ ba về sau, chuyển về Thượng thư Hộ bộ, nay tráp phó cho Thượng thư Binh bộ, vẫn quan hệ với Hộ bộ, Thái bộc tự và các nơi liên quan.” Chuẩn theo đó.

[91] Một, Thái bộc tự liệt kê ngoài tiền tiết kiệm do bãi bỏ các giám, còn lại đều thuộc quản lý của Quần mục ty cũ, như các khoản tiền vật sau: Thuế ruộng chăn thả, tiền thịt nội tạng ngựa chết, tiền ngựa không dùng được, phí tổn ngựa khoán, hộ tuyệt Hà Bắc, tiền tiết kiệm do bãi bỏ các giám.

[92] Một, xét hồ sơ của Binh bộ trong tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ nhất, tờ trình của Thái bộc thiếu khanh Lý Chu và các viên khác, được cử đi các lộ Hà Bắc, Thiểm Tây, Hà Đông, Kinh Đông, Kinh Tây để khảo sát việc thiết lập các trại nuôi ngựa, cùng các sự việc liên quan đến việc lập trại.

[93] Về việc sắp xếp và kiểm tra các khoản tiền và vật dụng thuộc Binh bộ ở các lộ, lệnh để lại tại chỗ để chuẩn bị chi dùng cho việc thiết lập các giám. Xin chỉ thị kiểm tra các khoản tiền và vật dụng do Binh bộ quản lý, theo quy định cho phép gọi người đến đổi chác, chuyển lên kinh đô nộp. Nay căn cứ vào các khoản tiền và vật dụng thuộc Binh bộ ở các lộ như Hà Bắc, đều được niêm phong tại chỗ, chuẩn bị chi dùng cho việc thiết lập các giám, từ nay tạm dừng việc đổi chác và chuyển đi. Phụng thánh chỉ: “Theo như Binh bộ tâu.”

Xét rằng vào ngày 4 tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ nhất, Binh bộ tâu rằng về việc cỏ và thức ăn cho ngựa ở thượng tào, sẽ niêm phong các khoản tiền tiết kiệm được ở các lộ, lệnh cho các ty chuyển vận chuẩn bị, v.v. Phụng thánh chỉ: “Lệnh cho các ty chuyển vận ở các lộ dùng các khoản tiền tiết kiệm được để chi dùng cho cỏ và thức ăn của các giám mới khôi phục, nếu còn dư thì vẫn niêm phong như cũ.”

(Đoạn này được thêm vào dựa theo 《Biên lục pháp sách》, là thánh chỉ ngày 21 tháng 4 năm thứ ba, nghi ngờ rằng “năm thứ ba” nên là “năm thứ hai”, tạm theo 《Pháp sách》. Thánh chỉ ngày 14 tháng 12 năm thứ nhất, Mậu Tuất, đã ghi vào ngày tháng năm đó. Lại có thánh chỉ cuối tháng 5 năm thứ nhất và ngày 4 tháng 11, v.v., cần tham khảo thêm. Thánh chỉ ngày 24 tháng 1 năm thứ hai, Đinh Sửu[9], và thánh chỉ ngày 15 tháng 2, Mậu Tuất, không ghi rõ ngày tháng năm, nếu là ngày 24 tháng 1 năm nay, Nhâm Thân, và ngày 15 tháng 2, Tân Mão, thì ghi chung vào đây, không cần tách riêng.)

[94] Ngày Mậu Tuất, Triều thỉnh đại phu, Tập hiền hiệu lý, Chư vương phủ Dực thiện Vương Phần được thăng làm Tả Trung tán đại phu, Trực Bí các.

[95] Ngày Canh Tý, Long Đồ các đãi chế Phó Nghiêu Dũ được bổ làm Lại bộ Thị lang, Thừa nghị lang, Thị ngự sử Vương Địch làm Hữu gián nghị đại phu, Triều phụng đại phu, Hữu ty lang trung Thịnh Đào làm Thị ngự sử. (Cựu lục năm Nguyên Phù thứ hai, ngày 7 tháng 9, truyện Thịnh Đào chép: “Đào bề ngoài khoan dung giản dị, nhưng trong lòng không có chủ kiến, lúc đầu làm Ngự sử, vì không xứng chức nên bị cách. Bọn gian thần nắm quyền, lại dẫn vào chức vụ giám sát, những lời bàn luận phần nhiều hai mặt để cầu dung hòa, không thể dẫn dắt nghĩa khí ngay thẳng, cuối cùng trở thành đồng đảng với bọn gian tà.” Tân lục biện giải: “Đây là lời vu khống của sử quan do hận thù, nay xóa bỏ.”) Triều nghị đại phu, Bí các hiệu lý, Chư vương phủ ký thất tham quân Trịnh Ung làm Khởi cư lang, Lại bộ viên ngoại lang Vương Cổ làm Hữu ty viên ngoại lang, Lễ bộ viên ngoại lang Thượng Quan Quân làm Lại bộ viên ngoại lang, Triều thỉnh lang, quyền Thiểm Tây lộ kiềm hạt, Chuyển vận phó sứ Lữ Đại Trung làm Tri Thiểm phủ, Triều phụng lang, Bí thư thừa, Trực tập hiền hiệu lý Khổng Bình Trọng làm Giang Nam Đông lộ Chuyển vận phán quan, Thừa nghị lang, Đô quan viên ngoại lang Ngô An Hiến làm Đề điểm Hà Bắc lộ hình ngục.

[96] Chiếu cho Lữ Công Trước được hưởng bổng lộc theo lệ Tể tướng.

[97] Lại chiếu cho các quận thành trong thiên hạ, căn cứ vào địa lý mà đặt ra số lượng binh lính tráng thành, cấm không được sử dụng vào việc khác.

[98] Ngày hôm đó, giặc Tây tấn công trại Tắc Môn. Hoàng thành sứ, Thứ sử châu Hùng, kiêm Đái ngự khí giới, Tướng thứ năm lộ Phu Diên là Mễ Uân, cùng Tây đầu cung phụng quan Hác Phổ và Hữu ban điện trực Lữ Duy Chính giao chiến với giặc và tử trận. Kinh lược sứ lộ Phu Diên là Triệu Tiết biết giặc sắp xâm lược, bèn ra hịch cho các tướng Tây lộ là Lưu An và Lý Nghi rằng: “Giặc sắp đánh Tắc Môn, các ngươi hãy dùng quân nhẹ đánh thẳng vào chỗ hiểm yếu của chúng.” Do đó, Lưu An và các tướng đánh úp châu Hồng, chém và bắt sống hơn 500 tên, đốt phá hơn 12.000 trướng bộ lạc, thu được hơn 13.000 gia súc và khí giới.

Sau khi Mễ Uân và các tướng tử trận, tinh thần quân sĩ ở Tắc Môn suy sụp. Trại cách phủ hơn 100 dặm, địa hình bằng phẳng, địch có thể dùng trăm kỵ binh xông thẳng vào. Trong thành náo loạn, các tướng già đều lo lắng, có người xin lấp cổng thành, chặt cây hào để phòng giặc, nhưng Triệu Tiết chỉ cười không đáp. Không lâu sau, giặc rút lui.

(Phạm Bách Lộc trong 《Chí Tiết mộ》 chép: “Người Hạ từ sau năm Nguyên Phong thứ 6 nhiều lần xin giảng hòa, lại nể uy tín lâu nay của Triệu Tiết, nên ra lệnh cho thuộc hạ không được xâm phạm biên giới. Duy chỉ có thủ lĩnh Lương Ất Mai ngang ngược tàn bạo, nhiều lần quấy nhiễu biên cương, khiến người trong nước khổ sở. Triệu Tiết biết Ất Mai sẽ không đổi tính, bèn sai người nhắn với Ất Mai rằng: ‘Sao phải khổ sở thù địch với nhà Hán? Nếu muốn xâm lược, cứ việc đến, nhưng sợ rằng những gì ngươi cướp được không bù nổi những gì ngươi mất, như chuyện châu Hồng vậy. Nếu ngươi đổi tính, ta sẽ đối đãi tử tế.’ Rồi tặng Ất Mai áo chiến và gấm vóc. Từ đó, Ất Mai không dám xâm phạm biên giới nữa. Triệu Tiết lại sai người bí mật tiết lộ việc này. Người trong nước vốn đã nghi ngờ Ất Mai không dám đánh nhà Hán, lại nghe tin Ất Mai nhận quà của ta, bèn giết chết Ất Mai.”

Việc này cần xem xét thêm, không rõ Ất Mai và Ất Bô có liên quan gì. Việc Ất Bô xem ở ngày Quý Tỵ tháng 8 năm thứ 2.

《Tằng Triệu chế tập》 chép: “Hoàng thành sứ, Thứ sử châu Hùng, kiêm Đái ngự khí giới, Tướng thứ năm lộ Phu Diên là Mễ Uân được đặc tặng Tứ phương quán sứ, Dao quận phòng ngự sứ; Tây đầu cung phụng quan Hác Phổ được đặc tặng Tây kinh Tả tàng khố phó sứ; Hữu ban điện trực Lữ Duy Chính được đặc tặng Đông đầu cung phụng quan. Xu mật viện gửi văn thư cho kinh lược ty lộ Phu Diên tâu rằng, ngày 24 tháng 4, tại trại Tắc Môn, các tướng giao chiến với giặc Tây, thân tử chiến trường, theo thánh chỉ được truy tặng quan tước. Giặc Khương phản bội ân nghĩa, thừa cơ xâm lấn, ép buộc các bộ lạc, quấy nhiễu biên cương. Các ngươi dẫn quân xông pha, khí thế hăng hái, vì lòng trung nghĩa mà không tiếc thân mình, hy sinh nơi chiến trận, Trẫm vô cùng thương xót. Hoặc được thăng chức, hoặc được tiến quan, không chỉ để an ủi linh hồn trung nghĩa của các ngươi, mà còn để bày tỏ nỗi đau thương của Trẫm.

Ngày 24 tháng 4, giặc Tây tấn công trại Tắc Môn, các tướng Lưu An và các tướng khác đã xuất quân ngay hôm đó, tiến vào địa giới để kiềm chế, khiến giặc Tây nghe tin mà giải vây, lại chém giết nhiều, theo thánh chỉ, mỗi người được thăng một cấp, riêng Lưu An được giảm hai năm khảo khóa. Chủ tướng, Như kinh sứ, Phó tướng thứ ba lộ Phu Diên là Lưu An; Tây kinh Tả tàng khố sứ, Chuẩn bị tướng lãnh lộ Phu Diên là Giải Nguyên Trung, đều thu được hơn bốn phần mười chiến lợi phẩm; Nội điện sùng ban, Chuẩn bị sai sứ kinh lược ty là Hác Tốn, cùng bộ tướng chỉ huy quân sĩ, sử dụng phiên quan Nội điện sùng ban, Chuẩn bị sai sứ kinh lược ty là Quy Nhân, đều thu được hơn ba phần mười chiến lợi phẩm. Giặc Khương ngang ngược, xâm phạm biên thành, Lưu An và Giải Nguyên Trung ngay ngày hôm đó xuất quân, đánh úp bất ngờ, khí thế hùng dũng, chém giết nhiều, khiến giặc lo sợ bên trong, rút lui ngay. Quy Nhân và Hác Tốn đều có công, được thăng quan để khuyến khích.

Ngày 24 tháng 4, giặc Tây kéo quân đến vây hãm trại Tắc Môn, tình thế nguy cấp, chủ tướng dẫn quân tiến vào địa giới Tây để kiềm chế, đến trại Thạch Bảo gặp giặc giao chiến, phá hủy và đốt cháy trại Thạch Bảo cùng các trướng bộ lạc ở Lặc Kê Bình, lại chia quân đối diện với Hoa Chiên và Hội Du Bình, bày nhiều nghi binh, đốt lửa hiệu, đuổi giặc Tây đến ngày 26 thì rút lui. Chính tướng, Tây kinh Tả tàng khố sứ là Lý Nghi chém được bốn thủ cấp, tuy theo lệ chỉ được thưởng lụa, nhưng vì đã phá hủy trướng giặc, khiến giặc Tây nghe tin mà giải vây, theo thánh chỉ được đặc cách thăng một cấp. Giặc Khương ngang ngược, biên cương nguy cấp, ngươi đã thừa cơ bất ngờ, tiến sâu vào đất địch, đốt phá bộ lạc, tiến quân hùng dũng, khói lửa ngút trời, quân thanh vang dội, giặc Khương rút lui, công lao của ngươi rất lớn. Ghi nhận tài mưu lược dũng cảm của ngươi, đâu chỉ dựa vào số thủ cấp? Thăng một cấp, đó là ân điển đặc biệt.”)

[99] Ngày Nhâm Dần, Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Cao Tuân Cố kiêm chức Cáp môn thông sự xá nhân, vì có công lao qua nhiều năm làm việc.

[100] Tây thượng Cáp môn sứ, Khang Châu thứ sử, Tri Dân Châu kiêm Quản câu Đạo Đông duyên biên An phủ ty công sự Chủng Nghị được điều làm Tần Phượng lộ Kiềm hạt kiêm Đệ nhất tướng, vì Chủng Nghị và Lưu Thuấn Khanh có hiềm khích với nhau. Hoàng thành sứ, Chiêu Châu thứ sử Quách Thiệu Trung được bổ làm Hi Hà Lan Hội lộ Kiềm hạt, Tri Dân Châu, Quản câu Đạo Đông duyên biên An phủ sứ ty công sự kiêm Đệ tứ tướng.

[101] Long đồ các Trực học sĩ, Đề cử Vạn thọ quan Trần An Thạch được bổ làm Tri Trần Châu.

[102] Long Đồ các Trực học sĩ, Đề cử Vạn Thọ Hồng Khánh cung Lô Bỉnh bị cách chức Long Đồ các Trực học sĩ, giáng làm Bảo Văn các Đãi chế. Trước đây, Bỉnh vì cha mất nên rời khỏi chức ở Vị Châu, sau khi mãn tang, được bổ nhiệm làm Tri Kinh Nam, nhưng Bỉnh từ chối vì bệnh và xin phụng tự. Khi ấy, có người dâng tấu luận tội Bỉnh, cho rằng trong thời Hi Ninh, Bỉnh thi hành pháp luật về muối ở hai vùng Chiết, khiến hơn một vạn người bị lưu đày, nên bị trách phạt. Hữu Chánh ngôn Lưu An Thế tâu: “Thần nghe nhiều lần có các quan lại luận tội Lô Bỉnh trước đây thi hành pháp luật về muối ở hai vùng Chiết, làm việc tàn khắc, gây hại cho cả một vùng. Khi triều đình xuống lệnh điều tra, đều có chứng cứ rõ ràng. Việc hại dân nghiêm trọng nhất là từ khi thi hành pháp luật, đã có hơn mười hai nghìn người bị lưu đày. Nay nghe nói được khoan hồng, chỉ bị cách chức học sĩ, nhưng vẫn giữ chức Đãi chế và Đề cử cung quan, khiến trong ngoài đều cho là chưa thỏa đáng. Thánh triều ta yêu thương dân chúng, không muốn một ai bị thiệt thòi, nhưng Bỉnh khi ra làm quan, cai quản cả một vùng, chưa từng nghe nói đến việc ban bố ân huệ, làm lợi trừ hại, mà chỉ lo mưu cầu lợi ích cá nhân, bất chấp đạo lý, lừa dối trên bằng hư danh, hà khắc với dân bằng pháp luật tàn bạo, khiến tiếng oán than vang khắp nơi. Các nghị sĩ đều cho rằng sự bóc lột và tàn ác của Bỉnh không khác gì Ngô Cư Hậu, thậm chí còn tàn bạo hơn. Dù đã bị giáng một chức, nhưng vẫn còn giữ chức thị tòng, e rằng không đủ để răn đe kẻ gian ác, an ủi lòng dân. Kính mong Thánh thượng xem xét kỹ lưỡng, so sánh với trường hợp Ngô Cư Hậu, trách phạt nặng hơn để đáp ứng công luận.”

(Cựu lục chép: “Có người luận tội Bỉnh trong thời Hi Ninh thi hành pháp luật về muối ở hai vùng Chiết, khiến nhiều người phạm tội. Sau nhờ đại xá, phần lớn được tha, nhưng vẫn bị luận tội, nên bị trách phạt.” Tân lục chỉ bỏ đi câu “Sau nhờ đại xá, phần lớn được tha” và chữ “thượng”, nên tội trạng của Bỉnh không được nêu rõ. Nay dựa theo bản truyện của Bỉnh và chương tấu của Lưu An Thế để sửa lại, không rõ ai là người đầu tiên luận tội Bỉnh, cần tra cứu thêm vào ngày 6 tháng 5, Triệu Quân Tích có nói gì đó.)

[103] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Ở biên giới phía bắc, hơn bảy trăm quân bộ và kỵ xuất hiện rồi biến mất tại khu vực Giải Bản Câu; cùng với đó, tại bờ sông ở Phủ Châu và đồn Xích Hậu, có hơn một trăm kỵ binh giặc Tây tấn công bắt được một kỵ binh, xét nghiệm thì là người phương bắc.” Triều đình ra chiếu cho Tăng Bố tra hỏi lai lịch người phương bắc bị bắt, rồi gửi văn thư trả về biên giới phía bắc.

[104] Ngày Quý Mão, triều đình ra chiếu về việc hôn nhân của tông thất, theo chế độ cũ do Đại Tông Chính Ty xét nghiệm.

(Chiếu ngày 17 tháng 3 có nội dung tương tự.)

[105] Dân huyện Bác Dã, quân Vĩnh Ninh là Trương Vĩnh Xương, năm đời cùng chung sống, được triều đình ban chiếu khen ngợi và biểu dương.


  1. Bản Thực lục các có chữ 'đãn thư' dưới chữ 'Thực lục'.
  2. Chữ 'Giới' nguyên bản viết là 'Thành', căn cứ vào các bản và 《Tống hội yếu》 binh 8-30, 《Thập triều cương yếu》 quyển 12 sửa lại.
  3. Đích thân vâng mệnh chỉ, chữ 'phụng' nguyên bản là 'tấu', căn cứ theo các bản khác và tập tấu nghị quyển 4 trong 《Tô Đông Pha tập》 sửa lại.
  4. Chữ 'Viện' dưới 'Xu mật' trong bản gốc là thừa, theo bản khác mà bỏ.
  5. mong bệ hạ lưu tâm xem xét, chữ 'tỉnh' nguyên bản thiếu, theo bản trong các bản khác bổ sung
  6. mà người cô hàn xa cách hiếm khi được tiến cử, chữ 'mà' nguyên bản là 'như', theo bản khác sửa lại
  7. Tư không, Đồng bình chương quân quốc sự Lữ Công Trước được miễn lễ sách phong: Theo 《Tống hội yếu》 Lễ 59-5, ghi việc Đông Bình quận vương Triệu Hạo nhận chức Tiết độ sứ hai trấn, tiến phong Xương vương, sau đó tâu xin miễn lễ sách phong trước triều đình, và nói rằng 'theo lệ cũ, thân vương và đại thần đều xin miễn lễ sách phong'. Ở đây chữ 'miễn' rõ ràng thiếu chữ 'khất', theo văn lệ của sách này, nghi ngờ thiếu chữ 'khất'.
  8. chữ 'sài' nguyên là 'tề', theo bản khác sửa lại.
  9. Nguyên văn ghi 'ngày 14' là sai, vì tháng 1 năm Nguyên Hựu thứ hai bắt đầu từ ngày Giáp Dần, nên Đinh Sửu là ngày 24. Đoạn chính văn ba lần nhắc đến thánh chỉ ngày 24 tháng 1 năm thứ hai, chưa từng nhắc đến 'ngày 14'; đoạn chú thích phía dưới cũng có câu 'nếu là ngày 24 tháng 1 năm nay', rõ ràng 'ngày 14' là sai, nên sửa thành 'ngày 24'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.