VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 419: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 3 (MẬU THÌN, 1088)
Bắt đầu từ ngày Quý Mão tháng 12 nhuận năm Nguyên Hựu thứ 3 đời Vua Triết Tông đến hết ngày Đinh Mão cùng tháng.
[1] Ngày Quý Mão mùng một tháng 12 nhuận, Thượng thư tỉnh tâu: “Trước khi thi hành chế độ quan chức, mọi việc định công thưởng đều do triều đình xem xét kỹ lưỡng. Sau khi thi hành chế độ quan chức, trước hết do Lục tào dựa theo lệ mà định. Một việc có nhiều lệ, nặng nhẹ khác nhau, nên trình bày đủ các lệ để xin quyết định. Việc và lệ ngang nhau, không nên tùy tiện thêm bớt. Nếu không xem xét kỹ lý lẽ của việc, cân nhắc nặng nhẹ, chỉ theo ý giảm bớt, hoặc công trạng nhỏ mà dẫn lệ ưu đãi, cũng nên phân biệt lý lẽ nặng nhẹ và việc đã hay chưa thi hành, để định ra pháp lệnh theo thứ bậc. Nay dựa vào điều lệ cũ mà tăng thêm, sửa đổi, phàm việc nào giống lệ mà tùy tiện thêm bớt, bỏ sót thì đánh 80 trượng, nếu việc quan trọng đã thi hành thì phạt tù 2 năm. Nếu nhiều lệ nặng nhẹ khác nhau hoặc không có lệ mà so sánh với lệ khác, đều phải trình bày đủ lệ để xét định, tâu xin quyết định.” Vua theo lời tâu, lại thêm việc liên quan đến Tam tỉnh, Xu mật viện, cùng xin chỉ. Ban chiếu ban hành sắc lệnh, cách thức năm Nguyên Hựu.
[2] Dời huyện Nam Lạc thuộc phủ Đại Danh về phía đông đê Kim, thôn Tào Tiết, theo lời xin của Ty chuyển vận Hà Bắc.
(Sách mới không có. Cần xem xét việc sông[1], tạm giữ lại.)
[3] Đoan Minh điện học sĩ, Ngân Thanh Quang Lộc đại phu trí sĩ Phạm Trấn mất.
[4] Ngày Giáp Thìn, Dương An Đạo, Đô giám Kinh Tây Bắc lộ, phụ trách việc áp giải các nhạc khí do Phạm Trấn định chế, gồm: 12 luật, 12 biên chung, 1 bác chung, 1 thước, 1 hộc, 12 biên khánh làm bằng đá hưởng, 1 đặc khánh, 2 tiêu, 2 địch, 2 huân, 2 trì, 2 sào sanh, 2 hòa sanh. So với nhạc khí do Lý Chiếu định chế vào niên hiệu Cảnh Hữu, các nhạc khí này thấp hơn một luật và hơn một chút. Cùng với sách và đồ án pháp thức, đều được dâng lên. Chiếu chỉ gửi đến Thái thường tự, nếu các quy định về nhạc pháp có thể thực hiện được, thì lệnh cho Thượng thư Lễ bộ và Thái thường tự tham khảo định đoạt rồi tâu lên, đồng thời lệnh cho các quan Thượng thư, Thị lang, Học sĩ, hai tỉnh, Ngự sử đài, Quán chức, Bí thư tỉnh đến Thái thường tự xem và nghe.
Ngày hôm sau, ban chiếu rằng: “Trẫm nghĩ rằng sau thời Xuân Thu, lễ nhạc đã mất trước tiên; từ thời Tần, Hán trở đi, chỉ còn lại Thiều, Vũ. Tán nhạc công trên sông, biển, đi mà không trở lại; mời tiên sinh ở đất Tề, Lỗ, nhưng không thể đến được. Từ thời Ngụy, Tấn về sau, Tào, Cối không còn bị chê trách, không chỉ có âm nhạc Trịnh, Vệ, mà còn pha tạp cả nhạc khí của Hoa và Nhung. Thỉnh thoảng có người sáng tác, vẫn còn giữ được khuôn phép, nhưng chỉ sai một chút về thù, thử, hoặc đổi vị trí cung, thương. Chỉ có bậc lão thần bốn triều của ta, mới biết được sự sai lầm của năm bậc giáng, thẩm âm biết nhạc, dùng luật sinh ra thước. Xem sách thi, thư dâng lên, xem giá nhạc khí trong triều, quân thần cùng xem, cha già thở dài. Nay ban chiếu cho học sĩ, đại phu bàn về pháp thức, công sư, hữu ty khảo sát âm thanh. Trên là để nối chí tiên đế trong việc thay đổi phong tục, dưới là để an ủi chí hướng yêu Vua lo nước của bậc lão thần. Xem xét kỹ những gì đã làm, Trẫm vô cùng khen ngợi và không quên.” Lại ban chiếu cho Phạm Trấn được thăng một chức cho một người con có quan chức, và ban thưởng theo thứ bậc cho những người chế tạo. Chiếu ban xuống, thì Phạm Trấn đã qua đời.
(Tân lục và Cựu lục chép về nhạc mới của Phạm Trấn không rõ ràng, cần kiểm tra và biên soạn lại. Tân lục chép: “Cựu lục chép nhiều lời trong 《Nhật lục》 của Vương An Thạch về Phạm Trấn, đến khi Trấn bàn về việc thanh miêu, thì chép lời An Thạch rằng: ‘Nếu không phải bệ hạ thấy rõ trong 《Chu lễ》 có điều này, thì sao không lấy làm xấu hổ.’ Đây có thể gọi là mượn sáu nghệ để che đậy lời gian trá. Trấn muốn cáo lão, An Thạch nói: ‘Trấn không có tài năng gì, dù về hưu cũng không đáng tiếc.’ Lại nói: ‘Chỉ muốn bệ hạ biết rằng hạng người này không đáng tiếc.’ Trấn từ thời Nhân Tổ giữ chức ngôn trách, đầu tiên bàn việc lập người kế vị, phong tiết khiến trong ngoài đều kính nể. Đến khi nói rằng ông không có tài năng, lại nói hạng người này không đáng tiếc, có được không? Như trong tờ sớ cáo lão của Trấn có nói: ‘Bệ hạ có tư chất tiếp thu lời can gián, nhưng đại thần lại dùng kế chống lại lời can gián; bệ hạ có tính yêu dân, nhưng đại thần lại dùng thuật hại dân.’ Đây chính là điều An Thạch rất ghét, tự tay soạn chiếu để công kích, lại nói rằng Thần Tông ghét điều đó, đây càng là sự vu khống. Đến khi Vua mới lên ngôi, các bậc lão thần lại được trọng dụng để phò tá vương thất, Trấn nhiều lần được triệu mà không đến, đây cũng là mỗi người theo chí hướng của mình. Đến khi nói rằng Trấn có câu ‘Việc bề tôi thờ Vua, há có thể mong gặp họa’, thì Trấn chắc chắn không vì thế mà nghi ngờ các bậc lão thần. Đây đều là ý riêng của các sử quan trước, nay có văn bia mộ của Trấn, cần chỉnh sửa lại.)
[5] Ngày Bính Ngọ, Hàn lâm học sĩ kiêm Thị độc Tô Thức tâu: “Thần gần đây vì mắt mờ tay đau, kiên quyết xin được điều đến một quận, vì cũng tự biết tính tình cứng cỏi, phân biệt rõ ràng trắng đen, khó mà hòa hợp với mọi người. May được Thánh từ ban chiếu không cho phép, lại hai lần sai sứ giả đến hỏi thăm an ủi, ân trạch sâu nặng, thấm vào xương tủy. Thần cho rằng ân này phải báo đáp bằng cái chết, không nên tính toán đến sự an nguy của bản thân, nên lại đứng dậy nhận chức. Nhưng công việc nhàn hạ, chưa biết chỗ chết[2], mỗi khi nhân dịp tiến đọc, gặp việc liên quan đến hiện tại, lại hết lời tâu bày, mong bổ ích được chút nào.
Hôm qua đọc 《Bảo Huấn》 có đoạn nói rằng, năm Thuần Hóa thứ hai, Vua bảo các quan hầu cận rằng, ngựa ở các châu mục và giám phần nhiều gầy chết, vì nuôi dưỡng không đúng thời, uổng phí mà bệnh chết, gần đây sai lấy mười chuồng đặt dưới sân điện, xem xét cỏ rơm, dạy cách nuôi dưỡng chữa trị, mong cải thiện tệ này. Thần nhân đó tâu rằng, ngựa bệnh là do tướng lại không làm tròn chức trách, khiến người chăn ngựa ăn cắp giảm bớt cỏ thóc, lại không quan tâm đến đói no mệt nhọc của chúng. Ngựa không biết nói, không thể kêu oan, nên Thái Tông rất nhân từ, thương xót sâu sắc, đặt chúng dưới sân điện, tự mình giám sát.
Dân so với ngựa, nặng nhẹ khác nhau, nhưng nếu quan lại không xứng đáng, dân tuy biết nói, trên dưới cách trở, không thể tự kêu oan, cũng chẳng khác gì ngựa. Ngựa đói gầy mệt nhọc, thì có nguy cơ chết ngã hoặc bỏ chạy, dân cùng khốn không nơi nương tựa, thì có nguy cơ chết đói hoặc làm giặc. Nhưng dân chúng khắp bốn biển, không như ngựa có thể đặt dưới sân điện, chỉ nên rộng rãi dùng người trung hiền, làm tai mắt. Nếu trung hiền xa cách, siểm nịnh ở bên, thì nỗi khổ của dân không thể thấu đến trên. Đời Tần Nhị Thế, Trần Thắng, Ngô Quảng đã giết hại Tam Xuyên, giết Lý Do, mà Nhị Thế không biết. Đời Trần Hậu Chủ, quân Tùy đã vượt sông, mà Hậu Chủ không biết. Đó đều là hôn quân không đáng bàn. Như Đường Minh Hoàng tự tay dựng nên thái bình, có thể gọi là minh chủ, nhưng khi Trương Cửu Linh chết, Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung nắm quyền, Tiên Vu Trọng Thông đem hai mươi vạn người chết ở Vân Nam, không tâu một người, lại còn báo tin thắng trận, Minh Hoàng không hỏi, đến nỗi trên dưới lừa dối nhau, loạn An Lộc Sơn, quân đã qua sông, mà Minh Hoàng không biết.
Nay triều đình tuy không có việc đó, nhưng thần nghe năm ngoái giặc Hạ đánh Trấn Nhung, giết hại cướp bóc không kể xiết, có người nói đến hơn một vạn người, mà tướng biên giới lại tâu rằng ngoài đồng không có gì để cướp. Sau đó triều đình nghe tin, giao cho Đề hình ty điều tra, nhưng Đề hình Tôn Lộ chỉ tâu hơn mười người[3], xin triều đình trước tha tội, rồi mới điều tra số thực. Đến nay kéo dài hai năm, vẫn chưa kết thúc tâu lên. Những nhà có người chết vì việc quan, triều đình nên cứu giúp, nếu giấu không tâu, thì sống chết đều oan, sao khiến người ta phục? Đây há là việc nhỏ, mà Lộ là cơ quan tai mắt, đã không tâu lên triều đình kịp thời, lại còn xin tha tội, kéo dài coi thường, đến mức như vậy. Thần cho rằng tệ này dần không thể để lan rộng, nếu cứ thế thì tai họa gì chẳng có[4], đó là điều thần rất lo lắng. Thần không phải không biết Bệ hạ hẳn đã chán thần nhiều lời, tả hữu hẳn đã chán thần nhiều việc, nhưng thần chịu ơn sâu nặng, không dám giống như mọi người, nếu vì thế mà mắc tội, cũng không hối hận.”
(Tô Triệt viết trong 《Chí Thức mộ》 rằng: “Nhân đọc 《Bảo Huấn》, liên tiếp nói rằng nay thưởng phạt không minh, ép sông chảy về đông, giặc Hạ cướp phá Trấn Nhung, triều đình không hỏi, người nắm quyền ghét điều đó. Thức biết mình không được dung, xin ra ngoài nhận chức.” Thưởng phạt không minh, ép sông chảy về đông, là tấu ngày 5 tháng 9, việc Trấn Nhung thì không phải tấu ngày 4 tháng 12 nhuận. Ngày 17 tháng 10 tâu xin đi quận, là bàn về việc bị Đài gián coi là kẻ thù.)
[6] Ngự sử trung thừa kiêm Thị độc Lý Thường tâu: “Thần trộm thấy ngày mồng 2 tháng này, Tô Thức trong buổi giảng kinh diên đã tâu rằng: trước đây quân Tây Hạ vào cướp phá ở Trấn Nhung quân, giết hơn một vạn người, nhưng các quan chỉ tâu lên hai nghìn người. Thần nghĩ rằng, nếu việc tâu báo từ biên phòng mà dung túng, báo cáo sai sự thật[5], thì triều đình căn cứ vào đâu để thưởng phạt? Nếu thưởng phạt sai lầm, thì lấy gì để khuyến khích công lao, trừng trị tội lỗi? Thức đã tâu trực tiếp, thần giữ chức vụ giám sát, phát hiện gian trá, lại được nghe việc này, lẽ ra phải sửa chữa ngay. Thần mong bệ hạ đặc biệt ra chỉ dụ, điều tra kỹ lưỡng, để làm rõ phép nước. Thần giữ chức vụ tai mắt của triều đình, không kịp thời tìm hiểu, xét theo quy định, không dám trốn tránh trách nhiệm.”
(Theo tập sách của Lý Thường, ghi chép thêm.)
[7] Thừa nghị lang, Bí các hiệu lý, quyền Thông phán Quắc Châu là Trương Thuấn Dân được bổ làm Đề điểm hình ngục lộ Tần Phượng.
[8] Ngày Đinh Mùi, nước Tam Phật Tề sai sứ sang triều cống.
[9] Hiệu thư lang Thịnh Thứ Trọng được bổ làm Tập hiền hiệu lý.
[10] Sùng Tín quân lưu hậu, được tặng chức Khai phủ nghi đồng tam ty, tước Anh Quốc công, thụy là Hiếu Hi, là Trọng Luận mất.
[11] Ngày Mậu Thân, Diên Phúc cung sứ, giáng chức Tuyên Châu quan sát sứ, Đề cử Minh Đạo cung là Lý Hiến được bổ làm Hữu Thiên Ngưu vệ Thượng tướng quân, phân ty ở Nam Kinh, cư trú tại Trần Châu. Hiến nhiệm kỳ ở Minh Đạo cung đã hết, xin về hưu, nên có mệnh lệnh này.
[12] Thái Ninh quân lưu hậu, Tri Tương Châu là Lý Tuân vì bệnh xin về, được chấp thuận.
[13] Tam tỉnh tâu: “Theo chế độ quan chế hiện hành, ba tỉnh cùng được thiết lập, các chức Tể thần, Chấp chính quan thay đổi khá thường xuyên, xin giảm một nửa số vật phẩm ban thưởng trong vòng một năm.” Chiếu rằng dù quá một năm, cũng giảm một phần tư.
[14] Lại có chiếu rằng: “Từ Thái trung đại phu trở lên, nếu được bổ nhiệm làm tri phán châu phủ, thì được thêm tiền công sứ. Các chức Chính nhiệm Đoàn luyện sứ, Dao quận Phòng ngự sứ trở lên đến Quan sát sứ, đều chia làm đại quận và thứ quận. Khi mới nhậm chức ở thứ quận, bổng lộc bằng bạc đều giảm một phần tư, nếu chuyển đến đại quận thì được cấp đủ. Các chức Lưu hậu, Tiết độ sứ chia làm đại trấn, thứ trấn và tiểu trấn, tiền bổng lộc giảm dần năm vạn. Từ Thứ sử trở xuống, từ Sứ tướng trở lên, không giảm. Tiền công sứ của các chức từ Thứ sử đến Tiết độ sứ, căn cứ theo mức bổng lộc mà cắt giảm.”
(Ngày 21 tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ 2, ngày 25 tháng 3 năm Tĩnh Quốc nguyên niên có thể tra cứu. Sách 《Ngọc điệp》 chép: “Chiếu rằng từ Lưu hậu trở lên, trấn chia làm ba bậc; từ Dao quận trở lên, quận chia làm hai bậc; tiền công sứ và bổng lộc cắt giảm có chênh lệch.”)
[15] Chiếu cho Kinh Hồ Bắc lộ Đô kiềm hạt, Chuyển vận, Đề điểm hình ngục ty, răn dạy các quan lại ở thành trại châu Nguyên, đều phải thêm phần vỗ về, lại phải xem xét những quan lại ham công danh gây chuyện, sau khi đối chiếu chuyển đi, tâu lên để giáng chức hoặc cách chức. Những người thuộc các hạng nếu có dựng chuyện, xúi giục dân chúng, tình tiết hung ác xảo quyệt, cũng phải bắt giam xét hỏi rồi tâu lên xin chỉ dụ.
(Sách 《Tân vô》 không chép.)
[16] Kinh Hồ Bắc lộ Kiềm hạt ty tâu: “Quỳ Châu lộ Phiên di Đô tuần kiểm Cúc Nãng Thiên báo rằng Phó sứ Lễ tân châu Bá là Dương Quang Chấn đang tập hợp quân. Nay Nãng Thiên và Quang Chấn có hiềm khích, bọn La Đỗ Tứ là giặc (Khuyển sào) thuộc bộ tộc khác, e rằng quan lại biên giới không phân xử, nhân lúc dùng binh, khiến họ tự nghi ngờ, mối họa biên giới khó lường.” Chiếu rằng: “Ty An phủ vùng biên Lô Nam và Ty Đề hình Quỳ Châu lộ phải điều tra xem giặc (Khuyển sào) gây rối thuộc bộ tộc nào. Nếu là thuộc hạ của Quang Chấn, thì chuyển hỏi nguyên do, dùng lẽ phải để hiểu rõ. Nếu có điều oan ức, cho phép thụ lý, nhưng chớ xâm phạm đất của triều đình. Nếu là bộ tộc khác, tiếp giáp với Quang Chấn, cũng phải dụ bảo họ phòng ngừa, và đòi lại những người bị bắt, để họ hiểu rõ ân ý của triều đình. Lại phải xem xét Quang Chấn và Nãng Thiên, đừng để họ vì tư thù mà gây chuyện.”
(Sách 《Tân vô》 không chép.)
[17] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu: “An phủ kiềm hạt Hồ Nam là Tạ Lân phải răn dạy và cứu ứng các tướng quan binh sĩ ở trại Lâm Khẩu, châu Thiệu. Nếu giặc man chặn đường, đốt phá và vây hãm các trại bảo, chống cự quan quân, thì tùy nghi tiêu diệt. Còn lại thì đuổi đánh cho chúng tan rã, khiến chúng khiếp sợ, không nên chuyên tâm giết chóc, làm hại đến người vô tội.”
(Sách 《Tân》 không ghi chép.)
[18] Lại ban chiếu cho ty An phủ dọc biên giới phía nam Lô Châu xem xét và đánh giá thủ lĩnh giặc (Khuyển Sào), nếu như răn dạy Dương Quang Chấn và những người khác, thì bí mật dẫn quân bắt giữ đưa về quan.
[19] Ban chiếu cho Thái thường tự tu sửa nghi lễ tứ mạnh thích thái.
[20] Ngày Canh Tuất, ban chiếu: “Từ nay về sau, việc xét duyệt và thăng chức từ tiểu sứ thần lên Sùng ban mỗi năm không được vượt quá 80 người. Những trường hợp thăng chức do công lao hoặc ân điển đặc biệt thì không nằm trong giới hạn này. Lệnh cho Lại bộ lập pháp.”
[21] Tam tỉnh tâu: “Bổng lộc của quan chức sự so với trước khi thực hiện chế độ quan chức tuy có giảm, nhưng chi phí công sứ lại tăng lên nhiều. Năm Trị Bình chi ra hơn 16 vạn quan, nay chi ra hơn 75 vạn quan.” Ban chiếu cho Hộ bộ xem xét so sánh với chế độ cũ, tiến hành cắt giảm.
(Sách 《Cựu lục》 chép: “Năm Gia Hựu và Trị Bình, quan lại dựa vào công sứ để sinh sống, đều do dân nha tiền phá sản nộp cho quan, lợi tức của quan lại rất lớn. Từ năm Hi Ninh trở đi, bãi bỏ tất cả để giảm nhẹ gánh nặng cho dân, còn bổng lộc của quan lại đều do triều đình cấp, danh nghĩa là tăng nhưng thực chất là giảm. Đến nay lại cho là tăng nên tiến hành cắt giảm.” Sách 《Tân lục》 biện giải: “Cắt giảm chi phí dư thừa là việc cấp bách của triều đình. Năm Nguyên Hựu, do thực hiện chế độ quan chức, bổng lộc đã giảm, nhưng công sứ của các châu lại tăng nhiều, nên bàn việc cắt giảm để phù hợp với chế độ trung bình. Sách 《Cựu lục》 lại dẫn việc bãi bỏ sai dịch nha tiền để giảm nhẹ gánh nặng cho dân, cho rằng danh nghĩa là tăng nhưng thực chất là giảm, chỉ là lời biện giải thiên vị để phá bỏ ý kiến cắt giảm lúc bấy giờ, nay xóa bỏ.”)
[22] Hộ bộ Thượng thư Hàn Trung Ngạn, Thị lang Tô Triệt, Hàn Tông Đạo tâu rằng: “Thần trộm thấy bộ gần đây biên soạn sách《Nguyên Hựu Kế Toán Lục》, đại để một năm thiên hạ thu được tiền, lúa, vàng, bạc, lụa vải, v.v., chưa đủ để chi cho một năm. Nay kho Tả Tàng đã dùng hết tiền hiện có, năm ngoái mượn một triệu quan tiền muối phong trang của triều đình để trợ cấp hàng tháng, chỉ một việc này đủ thấy những việc khác cũng tương tự. Thần nghe xưa kia việc chi dùng của quốc gia, phải căn cứ vào thu để chi, khiến ba năm cày cấy có dư một năm, nên trong ba mươi năm có thể dự trữ được chín năm. Nay số lượng quan lại văn võ, tông thất đông gấp đôi thời Hoàng Hựu, gấp bốn lần thời Cảnh Đức, số lượng quan chức, tuyển nhân, lại dịch đều tăng nhiều. Nhưng thuế ruộng, thuế thương, thuế rượu, lợi tức từ núi rừng so với trước không tăng đáng kể. Xưa thời tổ tông, thu nhập nhiều, chi tiêu ít, nên dư dả là lẽ đương nhiên. Nay thời thế đổi thay, mà vẫn theo lệ cũ, chỉ thêm không bớt. Thiên hạ đã khốn khó, nếu thêm vài năm nữa, gặp đói kém, binh đao, thì lo lắng sẽ không kể xiết. Thần giữ chức địa quan, được nghe đại kế của triều đình, mà im lặng không nói, sau này dù bị trừng phạt cũng chẳng ích gì. Vì vậy, thần mong triều đình ra lệnh cho bộ xem xét các khoản chi tiêu hiện nay, tùy việc mà giảm bớt, sao cho nhiều không hao tài, ít không hại việc. Hai Thánh làm gương, đại thần đi đầu, khiến thiên hạ hiểu rõ việc này là đương nhiên, chứ không phải triều đình keo kiệt, thì ai chẳng phục.
Xưa thời Trị Bình, Hi Ninh, tùy thời lập chính, như người được thăng quan từ ba năm lên bốn năm; người được bổ nhiệm con từ một năm một người lên ba năm một người, từ ba năm một người lên sáu năm một người; tông thất từ Đản Miễn trở lên, dần giảm ân lễ. Thiên hạ yên ổn, không ai kêu ca, đó là phép tắc hiện nay. Thần xin xem xét lại chuyện cũ thời Bảo Nguyên, Khánh Lịch, Gia Hựu, đặt ty tại bộ, chọn cận thần cùng bàn việc, đặt thời hạn chặt chẽ, yêu cầu hiệu quả thực tế. Phép tắc đã định, vài năm sau, chi tiêu có chừng mực, kho tàng dần đầy, truyền mãi không suy, thì thực là ích lợi lớn cho Thánh đức. Thần ngu muội, không thể làm sáng tỏ chức trách để mở rộng tài chính, dám mạo muội dâng lời, tội đáng chết muôn lần.”
[23] Thiếp hoàng tâu rằng: “Xét thấy gần đây triều đình ban chỉ, lệnh cho bộ này cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết, trước sau đã cắt giảm hơn ba mươi việc, đều là những khoản chi phí nhỏ, nhưng tổng cộng đã cắt giảm được hơn hai mươi vạn quan, không phải là không có ích. Nay nếu mọi việc lớn nhỏ đều được xem xét cắt giảm, thì lợi ích chắc chắn sẽ lớn hơn. Kính xin Thánh thượng sớm ban hành.” Chiếu cho Hộ bộ thu thập các khoản chi tiêu, trừ lương thực, quần áo, tiền thưởng và các khoản chi đặc biệt cho các ban và quân đội vẫn giữ nguyên, còn lại các khoản chi phí không cần thiết đều phải cắt giảm, và báo cáo lần lượt.
Ngày 18 tháng 2 năm Nguyên niên, Hộ bộ tâu: “Theo chiếu chỉ thu thập và xem xét cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết, xét thấy các khoản chi phí này không đồng nhất, cần phải biết rõ các thay đổi trong việc thiết lập các cơ quan mới, số lượng quan lại và nhân viên công tăng giảm, cùng các quy định mới và cũ về chi tiêu tiền bạc, lương thực, mới có thể xem xét kỹ lưỡng và cắt giảm hợp lý. Các cơ quan trong và ngoài triều phải báo cáo trong thời hạn quy định, ngoài việc cử các nhân viên cũ phụ trách chi phí, còn thêm một thư ký để sao chép và trình báo các văn bản. Nếu các cơ quan báo cáo không đầy đủ, dẫn đến việc cắt giảm không hợp lý, cho phép các quan lại và nhân viên đề xuất các biện pháp cắt giảm, trong kinh thành gửi về Hộ bộ, ngoài các lộ gửi về các cơ quan địa phương, rồi trình lên Hộ bộ xem xét.”
Nay xét lại các chỉ thị trước đây, ngày 5 tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ nhất, chiếu chỉ viết: “Hộ bộ xin các việc sau, được Thánh chỉ chấp thuận. Một, các cơ quan nhận được yêu cầu thu thập thông tin, sau khi nhận được công văn của bộ này, phải báo cáo đầy đủ trong vòng năm ngày, nếu có gì chưa rõ, cho phép tạm thời triệu tập nhân viên để chỉnh lý, nếu vi phạm thời hạn hoặc báo cáo không đúng sự thật, sẽ bị bộ này gửi đến cơ quan có thẩm quyền xử lý, nếu việc nghiêm trọng thì xin chỉ thị triều đình. Hai, ngoài việc thu thập thông tin từ các cơ quan trong kinh thành, các phủ giới do Phủ giới đề điểm ty phụ trách, các lộ do Chuyển vận ty phụ trách, cử các quan viên phụ trách công việc hoặc các quan viên của ty này, theo yêu cầu của triều đình thu thập các khoản chi phí không cần thiết trong lộ, nếu có gì chưa đầy đủ hoặc không thuận tiện, phải báo cáo kịp thời, trình lên Hộ bộ xem xét. Các cơ quan nhận được yêu cầu thu thập thông tin, do Chuyển vận ty và Phủ giới đề điểm ty chịu trách nhiệm đặt thời hạn báo cáo, nếu vi phạm thời hạn hoặc báo cáo không đúng sự thật, sẽ bị xử lý theo pháp luật. Ba, việc cắt giảm lợi hại này, giao cho các Chuyển vận ty và Phủ giới đề điểm ty thông báo đến các quan lại châu huyện trong lộ, nếu có ý kiến gì về việc cắt giảm chi phí không cần thiết, phải viết thành điều khoản, gửi thẳng về Hộ bộ để xem xét. Các cơ quan trong kinh thành cũng phải làm theo, thông báo đến các cơ quan trực thuộc.”
Ngày 15 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, chiếu chỉ viết: “Các cơ quan trong kinh thành báo cáo văn bản, tuy có thời hạn quy định, nhưng lo ngại có những nơi công việc quá nhiều, không thể báo cáo kịp thời, hoặc sợ thời hạn quá gấp, báo cáo không đầy đủ, xin Hộ bộ xem xét tình hình công việc, gia hạn thêm, nhưng không quá ba lần. Một, xét thấy trước đây việc cắt giảm chi phí không cần thiết, theo chỉ thị triều đình giao cho Thượng thư và Thị lang của bộ này phụ trách, không liên quan đến các quan lang, nay chưa dám làm theo chỉ thị trước, xin triều đình chỉ đạo. Hai, trong việc cắt giảm này, có những nơi cần thiết lập cơ quan, lấy các điều khoản đã soạn thảo để tham khảo, xin cho bộ này tạm mượn[6], nếu có giấu giếm, xin Hộ bộ xử lý. Việc Hộ bộ tâu về việc thiết lập cơ quan để xử lý, cũng thuộc phạm vi quản lý của bộ này, nếu không thuộc phạm vi quản lý, phải xin chỉ thị triều đình. Thượng thư tỉnh xét thấy, khoản thứ nhất và thứ ba theo đề nghị và báo cáo đầy đủ sự việc để thi hành, khoản thứ hai theo chỉ thị trước. Đều chấp thuận.” Biên lục sách ngày 22 tháng 12 nhuận nhận được thánh chỉ[7], nay ghi chú thêm vào đây.)
[24] Ngự sử trung thừa Lý Thường tâu: “Tiên đế thấy quan lại không có bổng lộc, cho rằng không đủ để bắt họ phải liêm khiết, bèn tăng hình phạt nặng và cấp lương cho họ. Hiện nay, quan lại ở các đài, tỉnh, tự, giám không dưới hai nghìn bốn trăm người, các cơ quan khác và kho tàng lại có thêm hai nghìn ba bốn trăm người, mỗi năm tiêu tốn tiền và thóc lên đến mấy chục vạn. Những nguồn lợi trước đây dùng để cấp lương cho quan lại, nay thực tế không còn, đến mức phải xâm phạm vào ngân sách thường xuyên của triều đình để bù đắp. Trước đây đã sai quan khảo sát thực tế và loại bỏ những người thừa, nhưng đã lâu mà chưa có kết quả, xin hạ lệnh đốc thúc để hoàn thành việc này.” Chiếu cho Môn hạ, Trung thư hậu tỉnh nhanh chóng lập pháp.
[25] Xu mật viện tâu: “Chuyển vận phán quan Kinh Hồ Bắc lộ là Mao Tiệm tâu rằng, châu Nguyên và huyện Kiềm Dương bị giặc man ở các nơi như núi Phong sát hại dân chúng tổng cộng hai mươi tám lần, nhưng Đường Nghĩa Vấn ban đầu không báo lên.” Chiếu cho Nghĩa Vấn xem xét cách xử lý và truy tìm những người còn sống, không để cho cấp trên và cấp dưới thói quen thủ cựu, che giấu lâu ngày, nuôi dưỡng mối họa biên giới.
[26] Ngày Tân Hợi, Triều phụng lang Tôn Thăng được bổ làm Kim bộ viên ngoại lang.
[27] Hộ bộ tâu: “Người Hạ vào cống, mang hàng hóa đến các châu quân dọc đường định giá bán, trước hết lấy tiền phong trang cho vay, rồi bắt những người định giá trước đây cùng bán hết trong một quý[8].” Theo đó.
[28] Ngày Quý Sửu, Tam tỉnh tâu: “Theo điều lệ cũ thời Nguyên Phong, các cơ quan nếu chậm trễ trong việc xử lý văn thư, thì cả cấp trên và cấp dưới đều bị ghi vào sổ. Quan viên bị ghi vào sổ, tức là các trưởng quan Lục tào đều phải chịu trách nhiệm. Nay theo luật mới, cấp dưới bị xử phạt hai lần, quan viên mới bị ghi vào sổ, còn các trưởng quan Lục tào không bị liên đới, e rằng không phù hợp với ý định lập pháp.” Chiếu rằng những việc quan trọng thì xin chỉ dụ.
[29] Năm 2028, ngày Giáp Dần, Thái hoàng thái hậu ban dụ cho các phụ thần rằng: “Gần đây đã ban chỉ dụ giảm bớt số lượng người được bổ nhiệm, ân trạch mà bản gia nhận được cũng nên giảm đi một phần tư.” Lữ Công Trước và các quan tâu rằng: “Bệ hạ lâm triều nghe chính sự, ân trạch của bản điện vốn không nên hạn chế số lượng, trước đây chỉ dùng theo lệ của hoàng thái hậu, sao có thể lại giảm bớt nữa?” Thái hoàng thái hậu lại ban dụ: “Hiện nay quan lại quá nhiều, từ tể chấp trở xuống, ân trạch đều đã giảm bớt, bản gia cũng cần phải điều chỉnh, phải bắt đầu từ trên xuống thì mới công bằng.” Lữ Công Trước tâu: “Đây là việc đức lớn, nên tính toán kỹ càng rồi tâu lên.” Sau đó, chiếu chỉ ban ra: “Nạn quan lại quá nhiều đã có từ lâu, tệ hại đến cực điểm thực sự tập trung vào lúc này. Tính số người so với chức vụ, đã gấp nhiều lần. Trên có quan lại lâu ngày thất nghiệp, dưới có dân chúng bị hại mà không kêu được. Vì vậy, sai đại thần tìm hiểu căn nguyên, nếu không giảm bớt số lượng người được bổ nhiệm, thì không thể làm trong sạch nguồn tuyển chọn nhân tài. Nay ta tự thân làm gương cho thiên hạ. Nhớ lại lúc mới lên ngôi, đã từng ra lệnh cho các cơ quan, việc ấm bổ cho thân thuộc vốn không có hạn định, tự nghĩ đức mỏng, sao dám sánh với người xưa? Đã ra chiếu giảm ân trạch trong gia đình, chỉ theo tỷ lệ của mẫu hậu, nay lại giảm thêm để tỏ rõ quyết tâm. Với sự ủy thác sâu sắc của tiên đế và trách nhiệm nặng nề với thiên hạ, nếu có lợi cho xã tắc, ta không tiếc gì. Huống chi ân tư này chỉ như hạt bụi, người trung nghĩa nên hiểu lòng thành này, hãy quên đi nỗi lo riêng, cùng nhau thực hiện chế độ tiết kiệm. Từ nay về sau, mỗi khi gặp thánh tiết, đại lễ, sinh thần, ân trạch dành cho thân thuộc đều giảm một phần tư, hoàng thái hậu, hoàng thái phi cũng theo đó.”
(Lời của Thượng Quân Quân, xem thêm ở cuối tháng 3 năm thứ 2).
[30] Hàn Trung Ngạn[9], Tô Triệt, Hàn Tông Đạo tâu rằng: “Thần gần đây vâng chiếu chỉ cắt giảm chi phí dư thừa, từ tông thất quý tộc gần gũi trên cao, đến các quan lại dưới thấp, cùng các vật dụng trong cung điện, phàm những thứ vô ích hoặc quá mức cần thiết, đều có thể cân nhắc cắt giảm. Duy chỉ có các khoản chi phí dư thừa trong cung cấm, danh mục không ít, nhưng các cơ quan không thể thấy hết, nên chưa dám tùy tiện bàn luận. Thần thấy gần đây có chiếu chỉ giảm bớt việc tuyển chọn quan lại để làm trong sạch con đường tuyển chọn nhân tài, lệnh rằng từ nay về sau, mỗi khi gặp ngày lễ Thánh tiết, Đại lễ, sinh thần, các ân trạch mà Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng thái phi nhận được, đều giảm bớt một phần tư, muốn lấy bản thân làm gương cho thiên hạ. Chiếu chỉ vừa ban ra, các quan trong ngoài đều biết rõ Thánh ý lấy việc công làm trọng, đến nỗi có người cảm động rơi nước mắt. Thần suy đoán Thánh ý, khắc kỷ vì người, không gì là không làm đến nơi đến chốn, việc muốn cắt giảm chi phí dư thừa trong cung cấm, có khác gì việc cắt giảm ân trạch riêng tư, nhưng đến nay vẫn chưa thấy thi hành, ấy là do các cơ quan không đề xuất rõ ràng, đó là lỗi của thần.
Thần xét rằng vào năm Bảo Nguyên thứ hai từng sai các quan gần gũi xem xét và quyết định cắt giảm chi phí dư thừa, lúc ấy quan Gián nghị là Kỳ kiến nghị[10], xin lệnh cho Tam ty lấy các danh mục chi tiêu ban thưởng từ thời tiên triều đến nay của Nội thị tỉnh, Ngự dược viện, Nội đông môn ty, so sánh và cân nhắc giảm bớt, những khoản vô danh đều bãi bỏ hết. Lúc ấy có chiếu chỉ, chi phí trong cung cấm chỉ lệnh cho Nội thị tỉnh, Ngự dược viện, Nội đông môn ty xem xét giảm bớt, báo lên sở tường định, còn các khoản ban thưởng cho quan lại thì cho phép hỏi ý kiến Nội thị tỉnh để thi hành. Đến năm Khánh Lịch thứ nhất, lại có chiếu chỉ cho Nội thị tỉnh lấy sổ sách thời tiên đế, so sánh với số chi tiêu trong cung những năm gần đây để tâu lên. Lúc ấy, số chi phí dư thừa cắt giảm được rất nhiều, lợi ích không nhỏ. Thần mong Bệ hạ mở rộng tấm lòng đã thi hành việc giảm bớt ân trạch trước đây, noi theo hiệu quả đã được thử nghiệm của tổ tông thời Bảo Nguyên, Khánh Lịch, khiến thiên hạ rõ ràng biết rằng Bệ hạ tiết kiệm chi tiêu để làm giàu cho dân, bắt đầu từ cung cấm, thì phàm có cắt giảm gì, ai chẳng tâm phục. Thần không kể gì đến thân mình, xin mạo muội can gián.”
[31] Chiếu cho các đại thần giám ty, vũ thần lộ phân đô giám trở lên, không được tấu cử người vào mười khoa.
[32] Ghi chép con trai của cố Hoàng thành sứ, Vinh châu thứ sử, quyền Thái nguyên phủ lộ kiềm hạt Trương Thế Củ là Trương Thiên Tích làm Tam ban tá chức. Chiếu rằng Thế Củ tuy theo điều lệ không thuộc diện được di biểu, nhưng do Thế Củ nhiều lần lập chiến công, vốn là tướng quan có năng lực, nên Thiên Tích được đặc cách theo điều lệ di biểu, giáng một bậc và cho làm tá chức.
(Cuối tháng giêng, vì tội để lọt giặc Hạ, bị cách chức Vinh châu thứ sử, miễn tội, cho lưu tại chức. Thực lục chép nhầm là Tri trấn nhung quân, Hoàng thành sứ, Vinh châu thứ sử, cần sửa lại.)
[33] Ngày Bính Thìn, Xu mật viện tâu: “Các quân tại kinh đô thiếu nhiều binh lính, trong khi cấm quân ở các lộ Kinh Đông, Kinh Tây lại thường vượt quá số lượng.” Chiếu sai Nội điện thừa chế Lưu Tử Phương, Tả tàng khố phó sứ Vương Tu Kỷ đến các lộ, cùng với các quan trưởng lại và đương chức tuyển chọn binh lính, phái lên kinh đô để bổ sung số quân thiếu.
[34] Chiếu rằng: “Quân binh người dân tộc ở Thiểm Tây, Hà Đông, dân binh ở ba lộ Quảng Tây, Xuyên Hạp, Kinh Hồ cùng các loại dũng sĩ, hiệu dụng[11], đều thuộc quyền quản lý của Xu mật viện, Binh bộ vẫn như cũ chủ trì. Các lộ dân binh khác, lệnh cho Binh bộ vẫn như trước trình lên Thượng thư tỉnh.
Các tiểu sứ thần mới bổ nhiệm hoặc thay đổi chức vụ, đều thuộc Binh bộ, soạn thảo văn bản tâu lên xong, gửi đến Xu mật viện để ban hành chỉ dụ.
Các chức vụ như quân sứ Bắc Bình quân ở Định châu, tri thành Túc Ninh ở Doanh châu, tuần kiểm và đô giám dọc sông giới và cửa biển ở Hùng châu, Bá châu, tri thành Thanh Giản, Tuy Đức, Đại Thuận, Thủy Lạc, Cam Cốc, Định Tây, đều do Xu mật viện cử người.
Tuần kiểm cùng dọc sông giới ở Hùng châu, Bá châu, tri huyện và huyện úy ở Quy Tín, Dung Thành, sáu tuần kiểm ở Hà Đông, Hà Ngoại, đô tuần kiểm sứ ở Hãn châu, Đại châu, đô tuần kiểm sứ Thiên Trì ở Ninh Hóa quân, đô tuần kiểm sứ Thảo Thành Xuyên ở Khả Lam quân, đô tuần kiểm Tả, Hữu Giang ở Quảng Tây, bốn đô tuần kiểm cùng ở Tả, Hữu Giang[12], đô tuần kiểm Khê Động ở Nghi châu, Dung châu, quân sứ Chu Nhai, Lại bộ căn cứ quy chế soạn thảo bổ nhiệm, trình lên Xu mật viện xem xét rồi ban hành chỉ dụ xử lý, người tại kinh thì dẫn đến xét nghiệm.
Các tiểu sứ thần, đại sứ thần ở các nơi tuần kiểm, thành trại vùng biên giới cực xa và tiếp giáp với Khê Động ở Hà Đông, Thiểm Tây, Xuyên Hạp, Kinh Hồ, Quảng Tây, Lại bộ trước tiên soạn thảo danh sách bổ nhiệm, trình lên Xu mật viện xem xét, chỉ định những nơi trọng yếu, riêng soạn thảo tâu lên xin chỉ thị xét duyệt.”
(Cựu lục chép: “Ban đầu, chế độ quan chức tuân theo điển chế cũ thời Đường, lấy danh thực để sửa đổi, do đó các việc trước đây do Tam tỉnh, Xu mật viện quản lý, đều tùy theo danh phận mà phân chia. Đến nay nhân Xu mật viện xin sửa đổi.”
Tân lục biện luận rằng: “Chế độ cũ của tổ tông, các đại sứ thần đều do Xu mật viện tuyển chọn bổ nhiệm, tiểu sứ thần thì thuộc Tam ban viện. Thời Hi Ninh, Vương An Thạch làm tể tướng, cựu tướng Văn Ngạn Bác làm việc ở Xu mật viện phủ, An Thạch kiến nghị lập Thẩm quan tây viện để bổ nhiệm các chức vụ đại sứ thần, nhằm phân chia quyền lực của hữu phủ.
Đến thời Nguyên Phong, chế độ quan chức lấy Tam ban viện làm Thị lang hữu tuyển, Thẩm quan tây viện làm Thượng thư hữu tuyển, lệnh cho các quan võ ở những nơi trọng yếu, trừ những người do Xu mật viện tự tuyển chọn, còn lại đều do Thuyên bộ căn cứ quy chế soạn thảo bổ nhiệm, trình lên Xu mật viện xem xét rồi ban hành chỉ dụ. Việc này cùng với việc lập Thẩm quan tây viện thời Hi Ninh, ý định định ra bốn tuyển thời Nguyên Phong, không hề mâu thuẫn.
Nay nhất định cho rằng làm rối loạn chế độ quan chức, ban đầu không biết rằng Xu mật viện thời Đường chỉ là nơi truyền đạt mệnh lệnh của trung nhân, Tam tỉnh, Mật viện phân chia quản lý các việc, há có thể nói là tuân theo điển chế cũ thời Đường sao?
Cựu lục nói sai sự thật, lại không có căn cứ như vậy, nay xóa bỏ.”
Ngày 16 tháng 12 nhuận năm Nguyên Hựu thứ 3[13], tráp tử của Xu mật viện: “Xét rằng dân binh và quan lại, binh lính người dân tộc ở các lộ, trước đây thuộc quyền quản lý của Xu mật viện, từ khi thi hành chế độ quan chức, phân chia thuộc Thượng thư Binh bộ chủ trì, những việc cần xin chỉ thị, chỉ trình lên Đô tỉnh. Vì quan lại và dân binh người Hán như cung tiễn thủ, vốn để phòng thủ chiến đấu, cùng với chính binh có tính chất như nhau, cung tiễn thủ hiện thuộc các tướng, động đinh hiện đóng giữ thành trại. Từ khi phân chia quản lý, việc điều động, tập hợp khi có việc biên giới khẩn cấp, cùng các biện pháp thường ngày, không còn thông qua Xu mật viện, các cơ quan chỉ tuân theo quy chế, cũng không có sáng kiến gì. Lo ngại sâu sắc rằng việc phòng thủ biên giới sẽ trở nên lỏng lẻo, không còn hoàn chỉnh.”
Tam tỉnh, Xu mật viện cùng phụng thánh chỉ: “Quan lại, binh lính người dân tộc ở Thiểm Tây, Hà Đông, dân binh ở ba lộ Quảng Tây, Xuyên Thiểm, Kinh Hồ cùng các loại dũng sĩ, hiệu dụng, từ nay về sau không thuộc Thượng thư tỉnh nữa, đều chuyển về thuộc Xu mật viện, Binh bộ vẫn như cũ chủ trì, những việc cần xin chỉ thị và trình báo, đều căn cứ quy chế xem xét rồi trình lên Xu mật viện, những việc cần tấu chương thì chỉ soạn thảo văn bản trình lên. Các lộ dân binh khác, lệnh cho Binh bộ vẫn như trước trình lên Thượng thư tỉnh.” Đây là nội dung ghi trong sách biên loại lục, nay phụ chú ở đây.)
[35] Hữu chánh ngôn Lưu An Thế tâu: “Xem xét việc mua bán các trường vụ, tệ hại lớn nhất là phương pháp thực phong đầu trạng, vì dân không hiểu biết chỉ tham lợi trước mắt, tranh nhau đưa giá cao, cốt để hạ đối thủ, chỉ thỏa mãn dục vọng trước mắt, không nghĩ đến hậu quả sau này.
Trong một kỳ hạn, mưa thuận gió hòa hay thiên tai đều không thể lường trước, nếu gặp hạn hán lũ lụt, sẽ xảy ra tình trạng thua lỗ, thường dẫn đến phá sản, không đủ trả nợ, thân bị giam cầm, gia đình ly tán. Đến cả tài sản thế chấp cũng thường mượn từ người thân, rồi liên lụy đến người bảo lãnh, cùng nhau mất nghiệp. Những việc như thế không thể kể xiết. Triều đình trước đây nghe theo lời tâu của các quan, bãi bỏ phép thực phong, cân nhắc theo đạo trung dung, đặt ra mức định ngạch, không để dân ngu tham lợi quên họa.
Lại quy định nếu có hai người trở lên nộp đơn, chỉ cấp cho người có tài sản thế chấp nhiều nhất, vì họ có lòng tự trọng, ắt sẽ sinh ra ý phòng ngừa tai họa, giao việc trường vụ cho họ thì không lo chuyện khác. Thương dân giảm hình, ân đức sâu dày, lợi ích công tư, không gì lớn hơn thế. Thực hiện được hai năm, may đã ổn định, nhưng ngày 29 tháng 9 năm nay theo lời thỉnh cầu của Hộ bộ, đột nhiên thay đổi phép tắc, cho phép người ta nộp đơn công khai tăng tiền để mua. Thần xem kỹ tờ tâu của Hộ bộ nói rằng nếu chỉ theo mức định ngạch vừa phải, thì những nơi buôn bán phồn thịnh sẽ thu lợi quá nhiều, đó là luận điệu bóc lột tích trữ, hại dân hại nước, không phải là việc thánh triều nên làm.
Hơn nữa, phép thực phong đầu trạng tuy không phải là phép hay, nhưng số tiền tăng thêm người ta không biết nhau, chỉ đến khi hết hạn mở niêm phong mới thấy ai là người được cấp. Nay thì ghi rõ số tiền, mọi người đều biết, lại chọn người trả giá cao để cấp ngay, dân vốn tham lợi, không nghĩ xa, đua nhau tranh trước, đẩy giá lên cao, chỉ sợ mất cơ hội, đâu nghĩ đến hậu họa.
Thần trộm nghĩ các phường trường, bến đò, vốn đã cho dân mua, ngoài việc nộp thuế cho quan, ắt phải có lãi mới sống được. Nay nếu lại mở ra tranh giành, công khai nâng giá, người ta biết là vô ích, ai chịu khó nhọc. Chỉ có những kẻ tham lam cầu may, gặp năm mất mùa, ít ai không phá sản, thuế nộp không đủ, liên lụy đến người bảo lãnh, thì tác hại của việc công khai nâng giá còn lớn hơn phép thực phong.
Thần trước đây khi nhận chức, đã từng bàn về tệ hại của việc thay đổi mệnh lệnh nhiều lần, nay chiếu chỉ vừa ban ra, thiên hạ đều được hưởng ơn, lại nghe theo lời tà thuyết, dễ dàng bỏ phép cũ, khiến lòng nhân cứu tệ của triều đình chưa kịp thấm nhuần, mà tai họa thất nghiệp của dân nghèo đã lại xảy ra, thần dù ngu muội cũng lấy làm tiếc cho bệ hạ. Huống chi việc thuế má phu dịch của quốc gia đều do địa quan quản lý, đang lúc hai thánh đề cao khoan dung, thương dân yêu vật, nên chọn người thông hiểu việc trị nước để đảm đương việc lớn, thế mà quan lại Hữu ty không biết mở rộng ý trên, chỉ muốn vét sạch lợi của dân, châu huyện giám ty sợ thế lực của tỉnh bộ, không ai dám chỉ trích điều sai trái, lâu ngày đã thành thói quen, trên dưới che đậy nhau, tùy tiện thay đổi phép tắc, dân chịu tai họa, thật không xứng với ý nhân ái yêu dân của bệ hạ.
Kính mong thánh từ đặc biệt ban chỉ, các trường vụ trong thiên hạ cho dân mua, đều theo phép ngày 7 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, còn chỉ thị ngày 29 tháng 9 năm nay, xin đừng thi hành nữa. Như thế dân được hưởng chính sách nhân từ, không đến nỗi thất nghiệp.”
Vua nghe theo.
(Hộ bộ Hữu tào do Tô Triệt phụ trách, cần xem xét.
Biên lục sách ngày 15 tháng 12 nhuận năm thứ ba ghi: “Thần liêu tâu rằng: ‘Kính mong Thánh từ ban chỉ dụ, tất cả các việc mua bán trường vụ trong thiên hạ đều áp dụng theo pháp lệnh ngày 7 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, còn chỉ dụ ngày 29 tháng 9 năm nay, xin không thi hành nữa.’ Ngày 14 tháng 12 nhuận, Tam tỉnh cùng phụng chỉ dụ theo tấu, và thi hành trước.
– Kiểm tra theo đoạn văn trong sắc lệnh ngày 7 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất, thần liêu tâu xin bãi bỏ pháp thực phong đầu trạng, phụng chỉ dụ lệnh cho Hàn Duy và các quan xem xét tâu lên. Nay xem xét bãi bỏ thực phong đầu trạng, giao số tiền mua bán trước đây cho bản châu xem xét[14], nếu liên tục tăng không giảm, thì lấy mức cao thứ hai trong các kỳ làm định mức[15]; nếu tăng giảm không đều, thì lấy mức trung bình làm định mức.
Nếu trước sau nợ nhiều, và liên tục không có người trình báo[16], dù có người mua, nhưng so với giá cao nhất giảm hơn 5 phần[17], huyện xem xét giảm định, bảo đảm tâu lên châu, châu giao quan xem xét, bảo đảm tâu lên Chuyển vận ty, Chuyển vận ty xem xét thực tế, theo mức giảm định thi hành xong, bảo đảm tâu lên tỉnh.
Nếu trước khi hết kỳ một năm, người mua hiện tại không nợ, thì trước hạn một tháng hỏi xem có muốn tiếp tục mua hay không, nếu không muốn thì ra bảng, hạn trong một quý cho người trình báo, và căn cứ vào tài sản thế chấp để mua. Nếu có hai người trở lên, thì giao cho người có tài sản thế chấp nhiều nhất, tài sản thế chấp không được vượt quá châu lân. Hết hạn không có người trình báo, lại hạn hai tháng, theo pháp trên, còn lại đều theo điều cũ. Tam tỉnh cùng phụng chỉ dụ theo.
– Kiểm tra theo đoạn văn trong sắc lệnh ngày 29 tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ ba, Hộ bộ tâu: Xem xét việc mua bán trường vụ, có nhiều tệ nạn, nếu chỉ lấy mức trung bình làm định mức, thì nơi buôn bán phát đạt, lợi nhuận lớn, nhưng không tăng giá, nếu gặp lúc hết kỳ chưa có người mua, lại giảm giá quan, e rằng lâu ngày sẽ giảm thu nhập lớn. Nếu cho phép người trình báo thêm tiền, người mua tự nhiên sẽ cân nhắc giá hợp lý để trình báo, nếu nhiều người trình báo giá bằng nhau, thì chọn người có tài sản thế chấp nhiều nhất giao cho, thì tệ nạn tự khắc bị loại bỏ. Bộ này nay sửa đổi điều lệ[18], và thi hành trước. Phụng chỉ dụ theo.
– Việc mua bán trường vụ, ba năm một kỳ, trước khi hết kỳ một năm, bản châu ghi lại điều lệ áp dụng và số tiền định mức một kỳ[19], ra bảng ở nơi quan trọng, hạn 60 ngày cho người thêm tiền trên mức định mức để mua, và ghi rõ số tài sản thế chấp, địa điểm hiện tại, gọi một chủ hộ bảo đảm[20], không phải giả danh, cùng đến châu trình báo, hết hạn lấy giá cao nhất.
Lại ra bảng hạn 30 ngày, cho người thêm giá[21]. Sau khi hết hạn 30 ngày, trước hỏi người mua hiện tại[22], nếu không nợ tiền quan, thì cho phép theo giá thêm tiếp tục lập kỳ mới, nếu không muốn hoặc có nợ, thì xem xét người có giá cao nhất và tài sản thế chấp[23], kiểm tra thực tế, cấp giấy giao cho. Nếu hai người trở lên giá bằng nhau, thì chọn người có tài sản thế chấp nhiều nhất, theo giá đã định giao mua, ngoài hạn không được tăng giá tranh mua. Không có người trình báo, lại hạn 60 ngày, theo pháp trên. Mỗi lần hết hạn, lại không có người trình báo[24], theo đây.”)
[36] Hộ bộ tâu: “Xin cho các hộ dân ở các lộ được sai đi làm việc công, nếu có người phạm tội bị cách chức, thì cho người khác thay thế, nếu người thay thế không đủ năng lực, thì cho phép thuê người khác để hoàn thành thời hạn.” Được chấp thuận.
(Theo sách biên lục dâng lên.)
[37] Ngày Mậu Ngọ, Triều phụng lang, Tả ty gián Hàn Xuyên được bổ nhiệm làm Thái thường thiếu khanh, Hàn Xuyên cố từ chối, được chấp thuận.
(Việc nghe Hàn Xuyên từ chối diễn ra vào ngày 26. Lưu An Thế trong tờ sớ cuối cùng hặc tấu Hồ Tông Dũ có nói: “Hàn Xuyên vì lời nói không được dùng, từ tháng 11 trở đi kiên quyết xin bổ nhiệm ngoài, đến ngày 13 tháng giêng năm sau thì được bổ nhiệm làm Tri châu Dĩnh.”)
[38] Chiếu phạt Kinh Nguyên lộ Kinh lược sứ Lưu Xương Tộ 30 cân đồng, Tri Trấn Nhung quân Trương Chi Gián đặc cách gia hạn 5 năm khảo khóa, vì giặc Hạ xâm phạm biên giới, giết hại và bắt dân binh, nhưng tâu báo không đúng sự thật.
(Trương Thuấn Dân chép trong mộ chí của Lưu Xương Tộ rằng: “Tháng 9 năm thứ hai, người Hạ xâm phạm hai trại ở Trấn Nhung, tiến đến dưới thành, quân số lên đến 50 vạn, đồn rằng quốc vương tự mình thân chinh. Xương Tộ đang ốm nặng, không thể dậy được, muốn được khiêng đi, nhưng triều đình không đồng ý, có chỉ lệnh cho Tri Trấn Nhung quân Trương Chi Gián tạm quyền thống chế quân mã. Xương Tộ vốn biết Chi Gián không có năng lực, nên ngày đêm vội vã truyền đạt phương lược, dốc hết binh lực giao cho 11 tướng, tổng cộng hơn 10 vạn người. Chi Gián nhận lệnh, nhưng nhút nhát không dám giao chiến, khi giặc đến liền thu quân vào trong thành Dương Mã, đến nỗi người trong thành không thể cựa quậy. Quân lính trong thành nhìn thấy giặc đốt nhà cửa, đào mồ mả, khóc lóc, muốn xông ra đánh. Chi Gián dùng kiếm uy hiếp, không cho ra ngoài. Giặc ở lại hai ngày, tấn công Tam Xuyên, không hạ được nên rút lui. Mỗi khi nghe tin từ tiền tuyến, Xương Tộ liền vỗ giường mắng nhiếc. Chi Gián lại hối lộ nặng cho Tẩu mã Vương Thân, sai viết văn thư tán dương khắp kinh thành, sau đó quả nhiên Chi Gián được coi là có công, thăng chức Tây Thượng Các Môn sứ. Dư luận xôn xao, triều đình lại cử Giám ty đi điều tra, gia hạn khảo khóa của Chi Gián. Xương Tộ khỏi bệnh, muốn minh oan, nhưng gặp lúc Chi Gián chết, chỉ phạt tội tham nhũng và giáng chức Vương Thân mà thôi.” Việc này cần xem xét thêm, xảy ra vào ngày 10 tháng 9 và ngày 24 tháng 11 năm thứ hai.)
[39] Chiếu cho miếu thờ Tào Cận ở Phong Châu và Triệu Sư Đán ở Khang Châu được ghi vào tự điển. Do Quảng Nam Đông lộ Kinh lược ty tâu rằng, trước đây giặc Nùng Trí Cao từ Ung Châu xâm phạm hai Quảng, Cận và Sư Đán làm thủ lĩnh Phong, Khang, đã dẫn quân châu chiến đấu đến chết, khiến giặc bị trì hoãn vài ngày, thành Quảng có thời gian chuẩn bị phòng thủ, cuối cùng không bị phá vỡ, nên xin ban thưởng để tuyên dương lòng trung thành của họ.
[40] Ngày Kỷ Mùi, Vương Phần, chức Tả Trung tán đại phu, Thái thường thiếu khanh, Trực bí các, được bổ làm Hữu Gián nghị đại phu. Sau đó, Ngự sử trung thừa Lý Thường và các quan khác tâu rằng Phần nói lắp, tính khôi hài, không đủ năng lực giữ chức gián quan, và Phần cũng tự xin từ chối. Triều đình đồng ý.
(Việc cho Phần từ chối diễn ra vào ngày 26, nay ghi chung lại. Lưu An Thế đàn hặc Lý Thường, Thịnh Đào, có thể tham khảo thêm. Lý do Phần bị bãi chức được ghi vào cuối tháng 3 năm sau. Ngày 5 tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ nhất, Chu Trật có nói, có thể tham khảo.)
[41] Ngày Canh Thân, đặt chức Lục tào Thượng thư quyền quan, bổng lộc và ban thưởng theo quy định của Lục tào Thị lang, xếp hàng dưới Thí Thượng thư, vị trí xếp dưới Tả Hữu Thường thị. Sau hai năm sẽ xin chỉ dụ.
[42] Ngày Quý Hợi, người Mạc Phiền ở Tây Nam sai sứ đến triều cống.
[43] Ngày Giáp Tý, xuống chiếu cho các lộ Giám ty không được tiến cử quan Thị tòng trở lên và các quan Sứ thần, theo lời xin của Tả Ty gián Hàn Xuyên.
[44] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu cho Tạ Lân, chức Hồ Nam An phủ Kiềm hạt, đa phương kinh hoạch việc đối phó với giặc Man ở trại Lâm Khẩu, phàm những kế sách có thể tạo thế bao vây, phối hợp, tùy việc mà xử lý linh hoạt, không để các tướng chần chừ do dự, đồng thời cân nhắc để lại quân ở nơi hành ty để ứng cứu khi cần.
[45] Ngày Bính Dần, xuống chiếu cho Môn hạ tỉnh Ban bạ phòng ghi chép lại các quan mới nhập lưu.
(Ngày 23 tháng 11[25], cuối tháng 12 cần tham khảo thêm.)
[46] Xuống chiếu cho Lại bộ xem xét và tâu lại những lợi hại của việc trùng lặp, chậm trễ trong Lục tào, Tự, Giám, theo lời xin của Giám sát ngự sử Vương Bành Niên.
[47] Ghi công cho con trai của Hác Phổ, chức Tây đầu Cung phụng quan đã mất, là Hác Trung làm Tam ban Phụng chức, Hác Nghĩa làm Tam ban Tá chức, do Kinh lược ty Phu Diên tâu rằng Phổ đã tử trận khi đánh giặc Tây ở trại Tắc Môn.
[48] Ngày Đinh Mão, nước Liêu sai sứ là Tiêu Kinh, chức Hưng Phục quân Tiết độ sứ, Gia Luật Mục, chức Vĩnh châu Quản nội Quan sát sứ, phó sứ là Lưu Vịnh, chức Trung đại phu, Thủ Vệ úy khanh, Lưu Ngạn Thăng, chức Đông thượng Cáp môn sứ, Hải châu Phòng ngự sứ, đến chúc mừng ngày Chính đán.
[49] Bảo Văn các Trực học sĩ, Tri Dương Châu Tạ Cảnh Ôn được bổ nhiệm làm Quyền Hình bộ Thượng thư[26], Long Đồ các Đãi chế, Tri Giang Ninh phủ Thái Biện được bổ nhiệm làm Tri Dương Châu.
[50] Hữu Chánh ngôn Lưu An Thế tâu rằng:
[51] Thần trộm nghe việc bổ nhiệm Tạ Cảnh Ôn làm quyền Hình bộ thượng thư, thần thấy Lại bộ gửi đến văn bản sắc lệnh ngày 18 tháng này, trong đó quy định sáu bộ Thượng thư đều đặt chức quyền, lương bổng theo quy định của Thị lang, chế độ mới vừa ban hành, mọi người đều cho là chưa ổn. Thần trộm nghĩ, phép dùng người vốn có thứ bậc, vì vậy trong hai tỉnh và các khanh giám, chọn người lâu năm để bổ nhiệm chức chấp chính[27], qua thử thách công việc, đủ thấy được tài năng. Người bàn luận lo ngại rằng hai tỉnh và các khanh giám khó tìm được người có thâm niên cao, nên trước đây đặt ra chế độ quyền Thị lang, quy định dùng người có thứ bậc như Phó sứ Tam ty ngày trước, sau hai năm mới xin chỉ dụ chính thức bổ nhiệm, nhằm coi trọng việc tuyển chọn cận thần, làm khó đường tiến thân.
Chức Thượng thư thì khác, vị trí vốn cao trọng, thực sự chỉ kém chấp chính. Nếu tài đức đều xuất sắc, thâm niên và danh vọng đều cao, đặt vào hàng bát tọa, mới là thích hợp. Huống chi theo thứ bậc chức vụ cao thấp, đã có quy định rõ về hành, thủ, thí, nếu chưa tìm được người xứng đáng, thì chức vụ không cần phải đủ. Hơn nữa, từ trước đến nay các bộ không có trưởng quan, chỉ cử Thị lang đảm nhiệm, chưa từng nghe có sự thiếu sót. Lại nữa, từ khi triều đình trước đặt ra chế độ quan chức, ngoài Lại bộ ra[28], các bộ Thượng thư khác phần lớn không đặt cùng lúc. Nay triều đình sáng tạo ý mới, đặc biệt đặt chức quyền, trong giới sĩ phu, có nhiều ý kiến khác nhau, đều cho rằng sẽ dùng người thâm niên ít, danh vọng thấp, không hợp với dư luận, mượn cớ này để che đậy lời chỉ trích.
Thần vừa muốn trình bày ý kiến của sĩ phu lên bệ hạ, xin bãi bỏ chế độ mới, để ngăn chặn sự may rủi, thì bỗng nghe tin Tạ Cảnh Ôn được bổ nhiệm, quả nhiên đúng như mọi người dự đoán. Xét Tạ Cảnh Ôn thời tiên đế làm An phủ sứ Hồ Nam, a dua với Chương Đôn, trước tiên xây dựng thành trại ở các châu Huy, Thành, gây ra mầm mống biên giới. Trong mười năm, chi phí không ít, vùng Hồ Bắc và Quảng Tây giáp biên giới thường bị giết chóc cướp bóc, không có năm nào yên ổn, hại nước hại dân, không gì hơn thế. Gần đây triều đình biết việc này có hại vô ích, đã ra lệnh bãi bỏ quân Cừ Dương, nhưng Tạ Cảnh Ôn là người khởi xướng, chưa nghe bàn tội, nay lại triệu về dùng, lấy gì để răn đe? Huống chi Tạ Cảnh Ôn trước đây trị nhậm Khai Phong, chẳng có thành tích gì tốt, đúng lúc hai thánh thượng trị vì, lại dùng lời bẩn thỉu làm ô uế công luận, làm phiền thánh thượng, chỉ bị phạt tiền, đã được miễn trục xuất.
Lại từ Cao Dương Quan đem theo nữ vu về kinh[29], Tạ Cảnh Ôn may mắn được trọng dụng, ngày ngày sai con em đến nhà hỏi han, đến mức tôn sùng kẻ yêu thuật này, coi như thánh mẫu, dưới chốn kinh thành, làm rối loạn dư luận. Lại dùng con của tỳ thiếp làm lại thuộc bên cạnh, lại thuộc cậy thế say rượu đánh người, Tạ Cảnh Ôn chẳng chút sợ hãi, tha bổng không hỏi, khiến người ta đàn hặc, bị điều đi ngoại trấn. Nhưng lúc đó thân đảng của Tạ Cảnh Ôn đang nắm quyền, nên chưa đầy một năm làm Tri châu Thái Châu liền được điều sang Dĩnh Xương, lại được quyền giữ Thành Đô, nhưng kiêu ngạo không đi, không có chút lễ độ của bề tôi. Bệ hạ quá bao dung, không trách phạt, chiều theo yêu cầu, cho đổi giữ Dương Châu. Vì thế sau này Vương An Lễ được lệnh giữ Thục, không thể không từ chối, viện dẫn Tạ Cảnh Ôn làm ví dụ, cho rằng triều đình đã nghe lời từ chối của Tạ Cảnh Ôn, thì khó lòng trị tội mình, nhưng vẫn vì lời người ta nói, nên có lệnh đi coi cung quán. Vương An Lễ từ chối với tư cách là cựu chấp chính, còn được coi cung quán, Tạ Cảnh Ôn từ chối với tư cách là lưỡng chế, thì không mất chức ở trấn lớn. Dư luận xôn xao, cho là bất công. Ở Dương Châu chưa được bao lâu, lại không phải vì các bộ thiếu quan, bỗng nhiên có sự thăng chức vượt cấp như ngày nay. Bệ hạ xem xét mấy điểm này, thì việc bổ nhiệm Tạ Cảnh Ôn có hợp với công luận không? Kính mong thánh thượng đặc biệt xem xét, nhanh chóng ban chỉ dụ, thu hồi mệnh lệnh bổ nhiệm Tạ Cảnh Ôn, cho đi nhậm chức ngoại trấn, đồng thời ra chiếu cho Tam tỉnh bãi bỏ chế độ quyền lĩnh Thượng thư, để ngăn chặn cửa tiến cử bừa bãi.
- 'Hà' nguyên là 'Hà', theo bản khác sửa. ↵
- Chưa biết chỗ chết 'chưa' nguyên bản là 'mạt', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại. ↵
- Đề hình Tôn Lộ chỉ tâu hơn mười người 'chỉ' nguyên bản là 'thượng', theo bản trong các kho lưu trữ và 《Tô Đông Pha tập tấu nghị tập》 quyển 5 《Luận biên tướng ẩn nặc bại vong hiến ty thể lượng bất thực tráp tử》 sửa lại. ↵
- Nếu cứ thế thì tai họa gì chẳng có 'thế' nguyên bản là 'có', theo sách trên sửa lại. ↵
- 'Biên phòng' nguyên là 'Biên phụ', theo bản trong các các mà sửa. ↵
- Xin cho bộ này tạm mượn 'cho' nguyên là 'xem', theo các bản sửa. ↵
- Ngày 22 tháng 12 nhuận nhận được thánh chỉ '22' các bản là '23'. ↵
- 'Bán' nguyên là 'Mua', theo bản khác sửa lại. ↵
- 'Trung' nguyên là 'Tông', căn cứ theo bản trong các bản và đoạn trên trong sách này, sửa lại theo điều Canh Tuất. ↵
- 'Ngôn' nguyên là 'Lệnh', căn cứ theo bản trong các bản và 《Loan Thành Tập》 quyển 41, sửa lại theo tờ tấu 'Tái luận tài giảm phù phí'. Lại nữa, trong 《Loan Thành Tập》, 'Kỳ' viết là 'Hàn Kỳ'. ↵
- Chữ 'dụng' nguyên là 'lực', căn cứ theo bản trong các kho và chú thích trong điều này, cùng 《Tống hội yếu》 chức quan 56-18 sửa lại. ↵
- Chữ 'đồng' nguyên bản thiếu, căn cứ 《Tống hội yếu》 chức quan 56-18 bổ sung. ↵
- Chữ 'lục' trong các bản là 'thất'. ↵
- giao số tiền mua bán trước đây cho bản châu xem xét, chữ 'phác' nguyên bản thiếu, theo sách 《Tục tư trị thông giám trường biên》 quyển 379 ngày Quý Tỵ tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ nhất và sách trên bổ sung. ↵
- lấy mức cao thứ hai trong các kỳ làm định mức, chữ 'trung' nguyên bản là 'thân', theo sách trên sửa. ↵
- và liên tục không có người trình báo, chữ 'luỹ' nguyên bản là 'giới', theo bản các, bản hoạt tự và sách trên sửa. ↵
- so với giá cao nhất giảm hơn 5 phần, chữ 'tối cao giá khuy cập' nguyên bản là 'tối giá cao cập', theo sách 《Tục tư trị thông giám trường biên》 quyển 379 và sách trên sửa. ↵
- bộ này nay sửa đổi điều lệ, chữ 'đáo' nguyên bản là 'tiểu', theo bản các và sách trên sửa. ↵
- bản châu ghi lại điều lệ áp dụng và số tiền định mức một kỳ, chữ 'hợp' nguyên bản là 'lệnh', theo sách trên sửa. ↵
- gọi một chủ hộ bảo đảm, chữ 'chủ' nguyên bản là 'sinh', theo sách trên sửa. ↵
- cho người thêm giá, chữ 'nhân' nguyên bản là 'bất', theo sách trên sửa. ↵
- trước hỏi người mua hiện tại, chữ 'thủ' nguyên bản là 'thứ', theo sách trên sửa. ↵
- xem xét người có giá cao nhất và tài sản thế chấp, chữ 'trữ' nguyên bản là 'khán', theo bản các sửa. ↵
- lại không có người trình báo, nguyên bản là 'lại không có người trình báo', theo bản các và 《Tận ngôn tập》 quyển 2 sửa. ↵
- Ngày 23 tháng 11, chữ 'tam' nguyên bản là 'nhị', căn cứ theo các bản và quyển 417, ngày Ất Sửu tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 3 sửa lại. ↵
- Tạ Cảnh Ôn làm Quyền Hình bộ Thượng thư, chữ 'Hình' nguyên bản là 'Binh', căn cứ theo các bản khác và 《Tận Ngôn Tập》 quyển 7, bài 'Luận Tạ Cảnh Ôn Quyền Hình bộ Thượng thư Bất đáng' cùng 《Tống sử》 quyển 295, truyện Tạ Cảnh Ôn mà sửa lại. ↵
- Chọn người lâu năm để bổ nhiệm chức chấp chính, sách trên chép câu này là 'Chọn người lâu năm làm Thị lang, Thị lang lâu năm làm Thượng thư, Thượng thư lâu năm thì bổ nhiệm chấp chính', nghi ngờ chỗ này có chữ bị thiếu. ↵
- Ngoài Lại bộ ra, sách trên chép 'bộ' là 'Hộ'. ↵
- Lại từ Cao Dương Quan đem theo nữ vu về kinh, chữ 'đô' nguyên bản là 'quận', theo sách trên và 《Tống sử》 quyển 295, truyện Tạ Cảnh Ôn sửa lại. ↵