VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 420: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 3 (MẬU THÌN, 1088)
Bắt đầu từ ngày Mậu Thìn tháng 12 nhuận năm Nguyên Hựu thứ 3 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 12 nhuận, ngày Mậu Thìn, ban chiếu lấy 66 độ điệp tăng và 23 áo tía theo lệ hàng năm nhân dịp sinh thần hoàng đế, ban cho cung Thượng Thanh Trữ Tường để chi dùng vào việc tu sửa.
(Phần mới bị gạch bỏ.)
[2] Tháng này, Hữu Chánh ngôn Lưu An Thế tâu: “Thần từ tháng 4 đến nay đã 13 lần luận tội ác của Hồ Tông Dũ, xin cách chức, nhưng đến nay vẫn chưa được thi hành. Thần nghĩ rằng từ xưa đến nay, các quan đài gián đàn hặc chấp chính, chưa thấy việc phải trái không quyết định lâu như vậy. Thần tìm hiểu cố sự, thấy rằng từng có việc giữ lại hàng ngũ bách quan để tranh luận ở triều đình, và đóng cửa chờ tội tự xin giáng chức. Thần đã nhẫn nhục chịu đựng suốt chín tháng, không dám dễ dàng từ chức, thực sự muốn mở rộng đức lớn tiếp thu lời can gián của bệ hạ, thể hiện lòng trung thành yêu Vua của kẻ hèn này. Thà rằng nói hết để báo đáp quốc gia còn hơn là vội vàng từ chức để giữ thân trong sạch. Vì vậy, thần đã phân tích đạo lý, dẫn chứng cổ kim, tất cả những gì có thể giúp ích cho sự sáng suốt của bệ hạ, thần đều dốc hết gan mật mà nói. Bệ hạ tuy chưa trách phạt thần vì sự cuồng ngôn, nhưng công luận đã kết tội thần thất chức. Xét lại bản thân thấp kém, thực sự không đủ sức gánh vác trách nhiệm của thiên hạ. Kính nghĩ từ thời tổ tông đến nay, đối đãi với đại thần, tuy việc dùng hay bãi đều dựa trên sự công bằng, nhưng việc thăng chức hay cách chức cũng có thời cơ. Nay sau khi long hưng, chính là thời cơ để tiến thoái đại thần. Thần mong bệ hạ dứt khoát quyết đoán, sớm cách chức Tông Dũ, để trong ngoài biết rằng đức thánh của bệ hạ ngày càng mới mẻ, và đạo quân tử trong triều đình ngày càng lớn mạnh. Đây không chỉ là may mắn của riêng thần, mà là may mắn của cả thiên hạ. Nếu bỏ lỡ cơ hội này, nuôi hổ để lại họa, thì thần sẽ buộc phải thực hiện kế sách hạ sách là giữ lại hàng ngũ bách quan để tranh luận ở triều đình, và đóng cửa chờ tội. Thần chỉ mong bệ hạ xem xét công luận, đưa các chương sớ của thần ra ngoài để thi hành.”
[3] Lại tâu rằng: “Thần trộm nghĩ rằng từ khi hai Thánh lâm triều đến nay, đều chăm chỉ tìm cách trị nước, tuân thủ pháp luật, chưa từng có hành động sai trái, chức vụ của bề tôi can gián, được coi là ưu tiên hàng đầu. Chỉ có việc quân tử và tiểu nhân thay đổi thế lực, thực sự liên quan đến cội nguồn trị loạn của thiên hạ quốc gia, cốt yếu là phải phân biệt thật giả, phán xét trung tà, khiến lòng trên minh bạch mà không nghi ngờ, thì bọn tiểu nhân không cần đánh cũng tự tan. Việc cấp bách hiện nay, chỉ có điều này là quan trọng nhất. Thần thấy Tông Dũ dùng tư chất gian trá, dựa vào sự hỗ trợ của tể tướng, lừa dối Vua, làm loạn pháp luật, cướp đoạt danh vị, kết bè kết đảng, không còn biết sợ hãi. Trong ngoài đều bàn tán rằng việc Tông Dũ được tiến cử, không phải là ý của Bệ hạ, mà là do đại thần sai lầm. Thần vì thế thu thập ý kiến của mọi người, xem xét sự thật, liệt kê mười hai tội của Tông Dũ, đều có bằng chứng rõ ràng như mặt trời mặt trăng. Dù Bệ hạ có ý bao dung, chưa xét nghiệm, nhưng thần nhỏ bé có trách nhiệm can gián, đâu dám ngồi yên. Kính mong Thánh từ đặc biệt xem xét, nếu lời thần có chút gì vu khống, xin trừng phạt nặng để răn dạy sự hư vọng; nếu tội ác của Tông Dũ như thần tâu, cũng xin nhanh chóng cách chức, để cảnh cáo kẻ gian tà. Thần và Tông Dũ nghĩa khó cùng tồn tại, chỉ mong sớm có quyết định sáng suốt, để phân rõ phải trái, khiến chức vụ gián quan không bị thần làm hỏng, thật là may mắn vô cùng.”
[4] Lại tâu rằng: “Thần trộm nghĩ, từ khi hai Thánh lâm triều, mở rộng đường ngôn luận, mọi việc trong thiên hạ, dù xa xôi cũng đều thông suốt. Thần vốn ngu muội, may được dự vào hàng ngũ gián quan, đây thực là cơ hội ngàn năm khó gặp, há chẳng tham luyến thánh đức, mong hiến dâng chút ít công sức? Thế nhưng trong mấy tháng qua, chỉ vì việc của Tông Dũ, thần đã dâng mười lăm tờ tấu, nhưng chưa được nghe theo, ngày đêm lo sợ, như đang ở trong chốn lầm than. Há phải thần không hết lòng thành, không thể lay động lòng trời, lời bàn không thiết thực, không thể khai sáng thánh ý, sao mà lời nói lâu nay vẫn không hiệu nghiệm? Từ xưa đến nay, các quan đài gián bàn luận về việc chấp chính, chưa từng có lý lẽ nào được cả đôi đường. Nay triều đình chưa trị tội thần vì lời nói sai trái, ấy là bệ hạ tạm coi lời thần là đáng tin. Thế mà lại do dự nhiều tháng, chưa thấy thi hành, trong hàng ngũ sĩ phu không biết tờ tấu bị lưu lại trong cung, thường chỉ trích chê cười thần, cho rằng thần chỉ lo giữ thân sợ họa, bỏ bê chức trách, khiến kẻ tiểu nhân mãi làm ô uế triều đình. Công luận như thế, sao có thể không lo sợ? Thần nghe rằng lẽ trong thiên hạ chỉ có đúng và sai, người làm Vua chỉ nên giữ tâm ngay thẳng, thành ý, để xét rõ điều đúng mà thôi. Mong bệ hạ xem xét rộng rãi lời bàn của mọi người, suy nghĩ kỹ càng, đối với mười hai việc thần nói về Tông Dũ, xin xem xét lại nhiều lần. Nếu không phải là vu cáo, xin hãy bãi miễn Tông Dũ để thuận lòng dân, tiến cử người có đức để tôn vinh triều đình. Hoặc nếu bệ hạ cho là không đúng, cũng xin đưa tờ tấu của thần ra, xét rõ tội lỗi. Để thần trên không phụ sự đề bạt của bệ hạ, dưới không mất chức trách của gián quan. Lòng trung thành khẩn thiết, xin dâng hết ở đây.”
[5] Lại nói: “Thần từ tháng tư trở lại đây, đã mười sáu lần dâng sớ luận tội trạng của Hồ Tông Dũ, xin bãi miễn, đến nay chưa nhận được chỉ dụ. Thần bị công luận thúc ép, không dám dừng lại, nhiều lần làm phiền thiên tử, đáng bị khiển trách, nhưng bệ hạ khoan dung, chưa đày đi. Nếu thần biết khó mà dừng, không nói hết lời, thì trên có thể kết thân với kẻ cầm quyền, dưới có thể mưu cầu lợi ích cá nhân, sao lại tự khổ, dám đụng đến kẻ đại gian? Thần tuy rất ngu, nhưng cũng có lý do, xin mạo muội trình bày tấm lòng thành, mong bệ hạ lưu tâm nghe nhận.
Thần nghe nói thánh nhân trị thiên hạ, có giáo hóa lễ nghĩa liêm sỉ, có uy quyền hình phạt tru diệt. Lễ nghĩa liêm sỉ dùng để đối đãi với quân tử, hình phạt tru diệt dùng để đối đãi với tiểu nhân. Không phải thánh nhân thiên vị, mà vì lễ nghĩa liêm sỉ do người hiền tạo ra, không thể dùng cách trị tiểu nhân để đối đãi họ. Kính nghĩ bệ hạ ngồi trên điện cao, nghe chính sự từ xa, người cùng bàn việc thiên hạ chỉ có mấy vị đại thần. Nếu dùng được người hiền tài, thì triều đình tôn nghiêm, bốn phương kính phục; nếu không đúng người, thì triều đình suy yếu, bị khinh thường trong ngoài, không thể không thận trọng. Nay Tông Dũ giấu mối thân tình với tể tướng, chiếm giữ chức vụ trọng yếu, lừa dối thiên tử, phá hoại pháp độ tổ tông, lập bè kết đảng, tham ô hủ bại. Từ khi nhận chức lớn, các quan đài gián luận tội không biết bao nhiêu lần, nhưng Tông Dũ vẫn ngang nhiên, không chút hổ thẹn, lễ nghĩa liêm sỉ đã mất hết. Bệ hạ vẫn dùng cách đối đãi quân tử mà đối xử với hắn, mong hắn tự rút lui để giữ thể diện, thần cho là sai lầm. Quản Trọng nói: ‘Lễ nghĩa liêm sỉ là bốn cột trụ, bốn cột trụ không vững, nước sẽ diệt vong.’ Người xưa xem xét quốc gia, chỉ dựa vào đạo này để biết thịnh suy. Nay Tông Dũ phạm nghĩa như vậy, làm sao có thể giúp bệ hạ dựng bốn cột trụ, đưa thiên hạ đến thịnh trị?
Thần nghe nói mười người tụ họp thì không có gì không công bằng, vì sự yêu ghét, đúng sai khó bị che lấp bởi lời nói một chiều, mà lòng người phục tùng chỉ vì lẽ phải. Thần trước đây từng nói mười hai việc của Tông Dũ, đều là lời công luận của sĩ đại phu, có chứng cứ rõ ràng, mong bệ hạ lắng nghe, xem xét kỹ lời nói của mọi người[1], giao sớ tấu của thần cho cơ quan bên ngoài, đặc biệt xét hỏi. Nếu có chút nào hư cấu, thần xin chịu tội lừa dối thiên tử; nếu đều có thực, xin sớm bãi chức Tông Dũ, để thỏa lòng mong mỏi của thiên hạ, thần vô cùng lo lắng chờ mệnh.”
[6] Ngự sử trung thừa Lý Thường, Thị ngự sử Thịnh Đào, Điện trung thị ngự sử Trạch Tư, Giám sát ngự sử Triệu Đĩnh Chi, Vương Bành Niên tâu rằng: Thần gần đây nhiều lần dâng tấu, xin lập riêng một khoa kinh nghĩa, cho cùng khoa thi phú song hành và lấy đều nhau, là vì thấy trong chiếu điều khoa trường hiện hành nói rằng, khoa trường sắp tới, nếu có cử nhân chưa quen thi phú, thì cho phép theo phép cũ mà lấy, số người đỗ hợp cách được giải phát, không được quá một phần ba số giải ngạch. Xem đó thì biết triều đình không có ý dùng kinh thuật lập khoa để chọn người, chỉ vì người cũ chưa quen thi phú, nên tạm cho khoa trường sắp tới lấy một phần số người, rồi muốn dần dần bỏ đi mà thôi. Thần hết sức lo lắng, không phải chỉ vì người học kinh nghĩa cũ bỗng nhiên mất nghề, mà chính vì sự yêu ghét của bề trên không thể không thận trọng.
Xét về nghĩa lý, thì lấy kinh thuật khuyên sĩ là trên, thanh luật là dưới; xét về giáo hóa, thì người thông kinh thuật lợi nhiều, người chuyên thanh luật hại lớn. Thông kinh thuật thì kẻ sĩ trong thiên hạ biết được chỗ sâu xa của đạo đức, hiểu được điều cốt yếu của lễ nghĩa, tu thân trị tính, mới có thể giữ được lòng trung hậu, đề cao sự liêm sỉ, rèn luyện thành tài, mười phần chắc được tám chín phần là người tốt. Ngày sau chọn lấy làm công khanh, cùng nhau sửa sang chính sự hình pháp, tuyên dương giáo hóa, cái lợi há chẳng lớn sao! Chuyên thanh luật thì chỉ đọc lướt qua những lời hoa mỹ, học tập những điều nông cạn, chỗ sâu xa của đạo đức, điều cốt yếu của lễ nghĩa, không học cũng được, mà mong họ thành được phong khí trung hậu liêm sỉ thì khó lắm. Phàm khuyên răn kẻ sĩ, mà phong khí lễ nghĩa liêm sỉ không lập, thì những kẻ tài năng trung bình khá giả, xảo trá gian tà không việc gì không làm, cái hại há chẳng lớn sao? Thần xét theo ý kiến chung, xin lập riêng một khoa kinh nghĩa và một khoa thi phú, tài năng mỗi người vốn có sở trường, nói kinh nghĩa không phải chỉ học một kinh, mà còn phải chỉ cho họ biết ý mới, chi tiết xin phụ vào sau. Thần đảm nhiệm chức vụ can gián, vốn không dám vì việc nhỏ nhặt mà bày tỏ ý kiến hẹp hòi, nhiều lần làm phiền bệ hạ. Nhưng nghĩ rằng việc lập khoa chọn người, sự đúng sai được mất, thực có quan hệ đến sự thịnh suy của thời chính, nay triều đình đặt ra phép thi, hạ thấp kinh thuật, đề cao thanh luật, thiên hạ đều biết là sai, vì nó can dự đến cái thể của trị loạn không phải là nhỏ. Thần nếu cứ im lặng không nói, hoặc nói mà không được rõ ràng, ấy là thất chức, lòng thành khẩn thiết, nên mới dám nhiều lần dâng lời mà chưa thôi.
[7] Chúng thần kính nghe rằng hiện nay các cử nhân Thái học cùng các sĩ tử khắp nơi, đang quan sát ý chỉ của triều đình, đã không còn chuyên tâm nghiên cứu ý chỉ của kinh điển, những sách về nghĩa lý đều bị bỏ qua không bàn đến. Những điều mà các bác sĩ giảng dạy, cùng với lời dạy của cha anh, cũng không còn đề cập đến những điều cao xa. Khi tụ họp bàn luận, chỉ chú trọng đến việc bàn về thanh vận, điều chỉnh bình trắc, so sánh đối đáp, lấy sự nhẹ nhàng, khéo léo, hào nhoáng làm mục tiêu. Đây là điều khiến chúng thần lo lắng rằng đạo thuật ngày càng suy yếu, dẫn đến bị bỏ rơi, sẽ lại giống như thời kỳ cuối Đường và Ngũ Đại, khi học trò có chí hướng và kiến thức nông cạn, khiến những người có chí hướng thường phải thở dài và rơi lệ. Vào thời Hi Ninh, cải cách khoa cử, muốn dùng kinh thuật thay thế thi phú, điều này thuận theo đạo lý, lời nói hợp lý, điều không tốt là dùng ý riêng để dạy người. Nay lại muốn dùng thi phú thay thế kinh thuật, điều này không thuận theo đạo lý, không hợp lý. Mạnh Tử nói: “Ta nghe dùng Hạ để thay đổi Di, chưa từng nghe thay đổi theo Di.” Nay việc thiết lập trái ngược, nghĩa lý sai lệch, cũng có gì khác biệt so với điều này? Nay lại muốn quên đi đại nghĩa giúp giáo hóa, thành tựu nhân tài mà thay đổi, liệu có hợp lý không? Nếu cho rằng nhân tài có tài năng về văn chương, có thể sử dụng được, thì không gì bằng kết hợp cả hai là hợp lý nhất. Chúng thần xin mạo muội chịu tội, thu thập ý kiến rộng rãi, mạo muội trình bày những điều nên làm trong việc thiết lập khoa cử tuyển chọn nhân tài[2], để chờ thánh thượng xem xét và quyết định. Chúng thần nay thu thập ý kiến, muốn đặt kinh nghĩa và thi phú thành hai khoa riêng biệt:
[8] – Khoa Tiến sĩ Kinh nghĩa. Dự định thi bốn trường: Trường thứ nhất thi sáu đề kinh nghĩa, mỗi kinh hai đề (dự định trong các kinh Dịch, Thư, Thi, Xuân Thu, Lễ Ký[3], trường thứ nhất mỗi kinh ra hai đề, thí sinh được chọn ba kinh để làm, dựa vào chú sớ xưa nay và kiến giải riêng, văn lý thông suốt, đầy đủ thì đạt, không được như trước chỉ thuộc lòng nghĩa lý một nhà). Trường thứ hai thi ba đề kinh nghĩa, mỗi kinh một đề, Luận Ngữ, Mạnh Tử mỗi loại một đề, tổng cộng năm đề; trường thứ ba thi một bài luận; trường thứ tư thi ba đề sách vấn, đều hỏi về sử sách và thời vụ.
[9] – Khoa Tiến sĩ Thi phú. Bốn trường: Trường thứ nhất thi một bài thơ và một bài phú; trường thứ hai thi bốn đề kinh nghĩa, ra đề giống trường thứ nhất, thí sinh được chọn một kinh, thi ba đề kinh đã chọn, một đề Luận Ngữ và Mạnh Tử; trường thứ ba thi một bài luận; trường thứ tư thi ba đề sách vấn, đều hỏi về sử sách và thời vụ.
[10] Kính mong Thánh từ suy nghĩ sâu xa về việc giáo hóa lớn lao của quốc gia, việc đào tạo nhân tài quan trọng, hàng vạn sĩ tử khắp nơi đang ngóng chờ mệnh lệnh, xin ban chiếu đem lời ngu muội của bọn thần giao cho Hữu ty, nếu không sai lầm, xin đặc cách ban chỉ, thật là may mắn vô cùng. Lại tâu:
[11] Kính nghe ngoài luận bàn xôn xao, vì việc nghị bàn khoa cử đến nay chưa định, các cử nhân hoang mang, không biết theo hướng nào. Bọn thần cho rằng thi phú đã được dùng lại, còn khoa kinh nghĩa há có thể bỏ đi? Bởi vì sĩ nhân theo đuổi học thuật đều nhìn vào sở thích của triều đình, nay trong khoa thi phú tuy nói là giữ lại một kinh, nhưng nếu bỏ khoa kinh nghĩa, thì học giả trong thiên hạ ắt cho rằng triều đình chuộng thanh luật, ghét kinh nghĩa, không còn chú trọng học vấn căn bản về nghĩa lý. Học theo nhau hời hợt, thành thói quen, thì nhân tài từ đây sẽ hỏng. Triều đình lập pháp, vốn muốn hưng trị cứu tệ, nhưng lại đặt ra pháp phá hoại nhân tài trong khoa cử, há chẳng phải là lợi ích muôn đời của xã tắc sao?
[12] Những người hiện nay phá hủy nghĩa lý kinh điển, tôn sùng thơ phú, cho rằng từ khi triều đại này lập quốc đến nay, các danh khanh hiền tướng có sự nghiệp lừng lẫy trong thiên hạ đều đạt được nhờ khoa cử thi phú. Họ không biết rằng những học sĩ đại phu có tiếng tăm đều do từng giảng kinh thuật nghĩa lý, sau khi đỗ đạt, tiếp tục tiến học không ngừng, phát huy trí thông minh, mới có thể tự lập, chứ không phải nhờ kỹ năng từ phú mà thành. Có người lại nói rằng thơ phú có chương cú, bình trắc, nên việc khảo sát của quan lại dễ dàng, còn nghĩa lý kinh điển thì mênh mông, nên việc khảo sát khó khăn. Đây là lời bàn thiên lệch, không tôn trọng kinh thuật. Hơn nữa, nghĩa lý của lục kinh giản dị như trời đất, sáng rõ như mặt trời mặt trăng, dùng để tuyển chọn người tài, giống như cân đo đong đếm, không thể lừa dối được. Những người bàn luận không thể nghiên cứu sâu, lại cho rằng nghĩa lý lục kinh cao xa khó thông, uyên áo khó hiểu, nên muốn dùng ý riêng và học thuyết sai lệch để dần dần bãi bỏ, khiến cho sĩ tử trong thiên hạ trở nên điếc lòa, không biết đạo lý. Sĩ tử không biết đạo lý thì không thể thành thật với bản thân, tin tưởng bạn bè, hiếu thảo với cha mẹ, trung thành với Vua, không thể làm gì được. Mạnh Tử nói với Trần Tương: “Ta nghe nói từ hang sâu lên cây cao, chưa từng nghe từ cây cao xuống hang sâu.” Phép khoa cử hiện nay quý ở chỗ khuyến khích tiến bộ, bồi dưỡng nhân tài, nhưng lại hạ thấp kinh thuật, coi trọng thanh luật, khiến cho người học từ cây cao xuống hang sâu, há chẳng phải là thô lậu sao!
[13] Huống chi chính trị của bậc vương giả, cốt ở việc thuận theo lòng người. Triều đình không dùng thanh luật để tuyển chọn nhân tài đã gần hai mươi năm, ước tính trong thiên hạ, những người mang kinh sách đi ứng thí có đến bảy tám vạn người. Một sớm một chiều bắt họ bỏ cái đã học để học cái chưa học, từ bỏ cái có thể làm để ép buộc làm cái không thể làm, thì họ đều sẽ lâm vào cảnh khốn cùng, thất nghiệp, thậm chí có người suốt đời không còn hy vọng tiến thân. Việc này tuy liên quan đến lợi hại lớn của thiên hạ, cũng không nên cải cách một cách vội vàng và bạo ngược như vậy, huống chi lại có hại mà không có lợi! Kính mong bệ hạ tuân theo di huấn của tổ tông, cốt ở việc thuận theo lòng người, há lại muốn làm trái lòng sĩ tử trong thiên hạ đến mức này sao? Có người bàn rằng phép thi thơ phú đã định rồi, há lại phải lo lắng cho những kẻ sĩ không làm được? Đó là khuyên triều đình lấy việc bất nhân làm chính sách, suy ra cái tâm này, thì còn có gì mà không làm được? Kính mong bệ hạ xem xét kỹ, nhất định phải giữ lại khoa kinh nghĩa, cho cùng với khoa thơ phú song hành và lấy đều nhau, để làm lợi ích muôn đời.
[14] Lại tâu rằng:
[15] Chúng thần kính nghĩ rằng việc đặt khoa cử để tuyển chọn nhân tài, liên quan đến lợi hại của thiên hạ không nhỏ. Các bề tôi trước sau đã nhiều lần dâng tấu xin giữ lại khoa kinh nghĩa và khoa thơ phú làm hai khoa riêng biệt, và lấy người đều nhau. Gần đây, chúng thần cũng đã dâng biểu tâu riêng, nhưng lòng thành nhỏ bé chưa thể làm sáng tỏ được thánh tâm, chúng thần ngày đêm không yên lòng. Chúng thần nghe nói có người bàn rằng việc đặt khoa cử chỉ là một phương pháp tuyển chọn nhân tài, còn việc nhân tài tốt xấu, được người hay mất người không liên quan đến điều này, thì kinh nghĩa hay thơ phú còn có gì để lựa chọn? Nay triều đình bỏ khoa kinh nghĩa, giữ lại khoa thơ phú, thì chẳng phải là chỉ dùng thơ phú mới được người tài sao? Nếu không phải vậy, thì sao lại dám làm trái lòng sĩ tử trong thiên hạ mà cố sức làm như vậy? Đó là do những kẻ bàn luận chỉ muốn thực hiện ý riêng của mình, mà không biết rằng việc làm hại nhân tài thiên hạ đã bắt đầu từ hôm nay, chúng thần rất lấy làm tiếc cho bệ hạ.
[16] Triều đình đặt ra pháp luật vốn dựa trên lòng trung hậu, nhưng tệ nạn vẫn có thể dẫn đến sự bạc bẽo. Đặt ra pháp luật dựa trên sự bạc bẽo, nhưng tệ nạn lại quay về lòng trung hậu, từ xưa đến nay chưa từng có chuyện như vậy. Nay lấy kinh nghĩa làm khoa cử, là triều đình dẫn dắt người ta biết lễ nghĩa, nếu có người không biết lễ nghĩa, đó không phải là lỗi của kinh thuật, mà là lỗi của kẻ sĩ. Nay lấy thi phú làm khoa cử, là triều đình dẫn dắt người ta theo lối phù phiếm, nếu họ cùng nhau theo đuổi sự phù phiếm, đó không phải là lỗi của kẻ sĩ, mà là lỗi của thi phú. Khuyến khích thiên hạ học sĩ đại phu hướng theo thủ thuật, không theo lễ nghĩa mà theo sự phù phiếm, có thể gọi đó là pháp luật tốt được sao? Sự phù phiếm trở thành thói quen, thì kẻ sĩ không có đạo đức, kẻ sĩ không có đạo đức, thì những điều gian tà xảo trá sẽ không gì không làm. Hơn nữa, các quan chức công khanh trăm việc trong triều đều từ con đường này mà tiến thân, nay đặt ra khoa cử để nuôi dưỡng nhân tài, chọn kẻ sĩ làm công khanh trăm việc, lẽ nào lại không cẩn thận ngay từ đầu sao?
[17] Công nghiệp trị vì của Vua Nghiêu, Vua Thuấn và ba đời Hạ, Thương, Chu đều được ghi chép trong sách 《Thi》 và 《Thư》; phép lớn về thưởng phạt, khen chê đều có trong sách 《Xuân Thu》; lễ để trị cái hiển hiện, 《Dịch》 để trị cái vi tế. Lý lẽ về đạo đức, tính mệnh, sự biến đổi của nhân tình sự vật, cách lập thân hành kỷ, nhân từ yêu dân vật, không gì là không ghi chép đầy đủ. Các bậc tiên vương dùng sách ấy để dạy bảo kẻ sĩ trong thiên hạ, thế mà vẫn có người học mà không biết đạo, huống chi lại bỏ đi cho là vô dụng ư? Nay tuy những người thi phú để được cử làm quan, kiêm học một kinh, hoặc cùng đặt ra mà không đều, lấy điểm số mà lấy người, thì danh còn mà thực mất, lấy nhiều mà dụ ít. Học giả đã biết rõ rằng khoa cử tuy còn kinh nghĩa, nhưng việc lấy bỏ thăng giáng đều không ở đó, thì còn chú ý giảng tập làm gì? Khác thời không quá như ngày xưa thiếp kinh, làm một trường số, việc này với việc không bắt học kinh có gì khác? Lại lấy nhiều mà dụ ít, độ vài năm nữa, học kinh nghĩa sẽ tuyệt mất. Người xưa làm phú cũng có phép tắc và lời khuyên răn, lời văn lại nhiều kỳ lạ đẹp đẽ, Dương Hùng còn khinh là điêu trùng triện khắc, mà cho rằng văn đẹp mà ít dùng là Tư Mã Tương Như. Như Vương Bao, Trương Tử Kiều làm ca tụng từ phú, tài năng vốn đẹp, nhưng Hán Vũ Đế chỉ cho là hơn bọn xướng ưu bạc dịch. Thế thì văn chương không chủ về nghĩa lý, các đời đều không quý, huống chi như phú ngày nay, văn chương nghĩa lý đều mất cả, chỉ là một thuật phá hoại kinh nghĩa, phá hoại đạo đức mà thôi, so sánh được mất, đâu chỉ gấp nghìn vạn lần.
[18] Chúng thần nói ra, đều không phải xuất phát từ ý riêng. Từ khi có thi phú đến nay, các danh khanh, đại nho đều ra sức bài bác, không thể kể xiết, kính mong bệ hạ đặc biệt xem xét. Nếu thi phú chưa thể bãi bỏ ngay, xin hãy giữ lại khoa kinh nghĩa, cùng thi đều lấy. Chưa đầy mười năm, sẽ thấy phong tục thay đổi, ắt sẽ có người thông kim bác cổ, tài năng xuất chúng, xuất hiện giữa đời, để bổ sung vào hàng ngũ công khanh phụ tá. Ghi vào sử sách, sẽ thành giai thoại đẹp, thi hành trong thiên hạ, sẽ thành chính sách tốt.
(Hai tấu trước của Lý Thường, căn cứ vào bản tập không rõ thời gian, tấu sau trong 《Nguyên Hựu tạp lục》 có ghi, liệt kê đủ tên họ các quan đài, nói là dâng vào tháng 12 nhuận, nay nhân đó đính kèm cả hai tấu trước. Ngày mồng 8 tháng 4 năm sau, chiếu rằng những người thi tiến sĩ không kiêm thi phú, cho phép theo phép cũ mà lấy, nên tăng thêm một kinh, tăng thêm một kỳ thi. Tấu này của Lý Thường xin giữ lại khoa kinh nghĩa, cùng thi đều lấy, phải chăng triều đình quả có ý định bãi bỏ khoa kinh nghĩa chăng? Nên xét lại. Ngày mồng 3 tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ nhất, nghị của Tô Triệt, Thượng Quan Quân có thể tham khảo.)
[19] Hữu chánh ngôn Lưu An Thế tâu: “Thần trộm thấy dân chúng huyện Côn Sơn, châu Tô là Chu Nghênh, Từ Tông, Đường Toại, Chu Dục bốn người, đã trình bày lên Hộ bộ, đều xưng có ruộng đất, vốn là thế chấp tiền quan thị dịch, sau này liên tiếp gặp thiên tai, không thể thanh toán đúng hạn, số tiền lãi và phạt đã nộp vượt quá vốn gốc, số nợ còn lại đáng lẽ phải theo chiếu chỉ ngày 28 tháng 2 nhuận năm Nguyên Hựu thứ nhất, đặc cách xóa bỏ. Nay các quan chức châu huyện, không những bỏ qua chiếu lệnh[4], không thi hành, mà lại còn dùng tên con trai của Chương Đôn, ép buộc Chu Nghênh và những người khác không muốn bán ruộng đất phải ký vào giấy tờ tự nguyện bán, rồi mua với giá rẻ để chiếm đoạt. Nếu không chịu khuất phục ngay, quan huyện sợ thế lực của Chương Đôn, thường vu cho họ tội khác, nhiều lần tra tấn, bắt họ phải làm theo ý mình mới thôi. Sau này, Chu Nghênh và những người khác lần lượt đến châu và các ty Chuyển vận, Đề hình tố cáo, nhưng đều không được xử lý công bằng.
Tuy lời của một bên chưa đủ để tin hoàn toàn, nhưng dân chúng bị oan ức, không có nơi nào để kêu cứu, phải vượt hàng ngàn dặm đến Bộ để tố cáo, lưu lạc khổ sở, e rằng không phải là không có lý do. Xét Chương Đôn có tài năng của kẻ đại gian, mang chí của kẻ đồng đảng, khi Bệ hạ mới lên ngôi, ban bố chính sách gần gũi dân chúng, Chương Đôn giữ chức đại thần, không thể phò tá đức lớn của Bệ hạ, mà lại chứa chấp mưu kế quỷ quyệt, thường đưa ra những luận điệu khác biệt, bề ngoài tỏ ra cứng rắn[5], bên trong giúp đỡ kẻ gian ác, đến mức ngạo mạn trước mặt Bệ hạ, hoàn toàn không có lễ nghĩa quân thần. Bệ hạ lấy lượng bao dung của trời đất, tha tội không giết, chỉ cách chức Tể tướng, đưa ra trấn giữ ngoài biên. Lẽ ra nên tự xét lại lỗi lầm trước đây, tự trừng phạt mình, nhưng hắn lại không chịu sửa đổi, coi thường pháp luật quốc gia, áp bức châu huyện, cưỡng đoạt tài sản dân chúng, các đại thần trước sau tác oai tác quái, chưa từng thấy ai đến mức như vậy.
Thần trộm nghĩ Chương Đôn ở nhàn cư, không tham gia chính sự, nhưng khí thế hung bạo, quan chức không dám trái ý, thà làm trái pháp luật của Bệ hạ, chứ không dám trái mệnh lệnh của Chương Đôn. Nếu Chương Đôn thực hiện được ý chí của mình, thì những tệ nạn trong thiên hạ sẽ không thể kể xiết. Kính mong xem xét việc này, quan tâm đến dân chúng ở xa, đặc biệt ban chỉ dụ xuống Hộ bộ, lấy bản tường trình của Chu Nghênh và những người khác, chọn quan Đài thần mở án điều tra. Nếu Chương Đôn quả có tội như trên, xin đặc cách trừng trị, để răn đe những kẻ bạo ngược loạn chính. Còn các quan chức châu huyện và Giám ty nịnh bợ, hại dân, cũng xin trừng phạt nặng, để răn đe những kẻ làm quan không cẩn thận. Mong rằng giữ được công đạo, để triệu mời hòa khí.”
[20] Lại nói: “Chương Đôn ôm chí kết bè đảng, lại dùng âm mưu để giúp sức, chứa đựng tài năng của kẻ đại gian ác, lại thêm sự tàn nhẫn, nhờ vào phe cánh của Vương An Thạch và Lữ Huệ Khanh mà được tiến dụng. Lại gây ra biên cương bất ổn, mong cầu giàu sang. Thời tiên đế, vì mua ruộng trái phép, từng bị cách chức chấp chính, cuối năm Nguyên Phong, lại được giao trọng trách. Bệ hạ lên ngôi, thăng lên chức Thượng thư, nhưng trong lòng ôm mưu gian, phá hoại chính sự thánh minh, công khai ngạo mạn, không có lễ thần tử, Bệ hạ khoan dung, chưa nỡ giết, đuổi về gần kinh đô, đã làm tổn hại công luận. Sau đó gặp gia biến, về quê, lại dám cậy thế hung hãn, ức hiếp kẻ yếu, khiến dân lành vô tội phải lưu lạc mất nghiệp, không ngại đường xa ngàn dặm đến Bộ Hộ để kêu oan, xem tờ khẩn cầu của họ, thật đáng thương. Thần trộm nghĩ, huyện Côn Sơn dám trái chiếu chỉ, ép Chu Nghênh và những người khác không muốn bán ruộng đất, dùng uy lực bắt họ phải viết giấy tự nguyện bán, khiến Chương Đôn dùng giá rẻ mua vào tay mình, đó là vì quan huyện sợ Chương Đôn. Chu Nghênh và những người khác đến châu và chuyển vận, đề hình ty kêu oan, nhưng các nơi không dám nhận, đó là vì châu quận và giám ty sợ Chương Đôn. Chu Nghênh và những người khác ôm nỗi oan ức, đến Bộ Hộ kêu oan, bộ này biết rõ các giám ty ở Lưỡng Chiết đều có liên quan, dù đề hình Dương Kiệt mới đến nhậm chức, nhưng người này yếu đuối, không có khí phách, đáng lẽ phải bẩm báo triều đình, chọn quan điều tra, nhưng chỉ muốn làm theo pháp luật, giao cho Dương Kiệt, đó là vì Bộ Hộ sợ Chương Đôn. Quốc gia đặt ra Ngự sử, vốn để giám sát trăm quan, nay từ Trung thừa trở xuống, chưa nghe ai nói một lời về việc Chương Đôn phá pháp, đó là vì Ngự sử đài sợ Chương Đôn.
Thần kém cỏi giữ chức gián quan, không nỡ im lặng, dựa vào sự việc, dâng sớ tâu bày, nhưng chấp chính không dám xử phạt đúng phép, chỉ biết khoan dung, không chọn người công minh chính trực, không sợ kẻ mạnh, để điều tra tận gốc, mà coi như chuyện thường, chỉ giao cho Phát vận ty xem xét, đó là vì chấp chính sợ Chương Đôn. Châu huyện và giám ty sợ Chương Đôn, bỏ qua chiếu chỉ, làm hại dân lành, thì hiến chương của quốc gia vẫn còn, có thể xử phạt; nay chấp chính đại thần và Ngự sử đài cũng sợ Chương Đôn, thì cương kỷ của triều đình còn mong gì nữa! Mong Bệ hạ rõ chiếu cho các phụ thần, cùng giữ đạo ngay thẳng, có công tất thưởng, có tội tất phạt, không để tà chính lẫn lộn, oan thẳng hỗn độn, tốt xấu không rõ, phải trái không phân, do dự sợ hãi, chỉ lo giữ mình, thì uy phúc của Bệ hạ sẽ không bị suy yếu, mà kẻ gian hùng ngang ngược cũng biết sợ. Ngưỡng mong Thánh từ xem xét lại việc thần tâu trước, đặc biệt chỉ thị thi hành.”
[21] Lại tâu: “Thần gần đây dâng tấu việc Chương Đôn cưỡng ép mua ruộng đất của Chu Nghênh với giá rẻ, xin giao cho quan đài đặt viện xét hỏi, sau nghe lệnh triều đình giao cho Phát vận ty điều tra, liền lại dâng trạng luận bàn, chưa được thi hành. Thần nghe nói triều đình không muốn dễ dàng tin lời một phía, vội mở ngục chiếu, nhưng dân không có nơi kêu cứu, từ xa ngàn dặm đến Bộ xin xét, xét tình hình thì không thể hoàn toàn là hư vọng. Vì các quan giám ty bản lộ thấy trạng tố của Chu Nghênh mà không chịu thụ lý, tức là đều có điều ngại, mà Chuyển vận ty và Phát vận ty vốn có việc liên quan, nay nếu giao cho họ điều tra, e rằng vì nể tình mà làm qua loa. Kính mong Thánh từ xét kỹ, đặc biệt ban chỉ, lệnh triều đình chọn người công bằng chính trực, không sợ kẻ mạnh, đến điều tra, để dân xa được oan ức được giải oan.”
[22] Thiếp hoàng: “Theo trạng tố của Chu Nghênh, đã từng tố cáo ở Tô Châu và Chuyển vận ty, Đề hình ty, nhưng không được xử lý công bằng. Nay nếu chỉ giao cho bản châu và Giám ty điều tra[6], e rằng sẽ che giấu lỗi lầm, kéo dài việc hình ngục, làm phiền việc xử lý, xin triều đình xét kỹ, chọn quan lại đặt ty xét hỏi, để dễ thấy tình hình, không bỏ sót kẻ có tội.”
[23] Lại tâu rằng: “Thần nghe nói quan thể lượng do Phát vận ty cử đến chỉ lấy công án ở huyện Côn Sơn xem xét, rồi tâu lên, nói rằng việc mua ruộng tuy có thực trạng nhưng không vi phạm pháp luật. Thần cho rằng bọn gian lại nương theo quyền thế, bạo ngược với dân lành, ắt không dám để lại dấu vết bức hiếp trong hồ sơ, thường giả danh công đạo, vin vào lý do khác, khiến dân vô tội không chịu nổi hình ngục, rồi sai bọn lại gian xảo ép lấy lời khai tự nguyện bán ruộng[7], như vậy bề ngoài không vi phạm pháp luật nhưng thực chất là cướp ruộng của dân. Nay nếu chỉ tin vào văn bản mà không xét đến bản chất, thì dân xa xôi oan ức không được giải oan, cần phải làm rõ để phá tan sự giả dối đó.
Tra theo điều luật, quan thị tòng từ đãi chế trở lên không được mua nhiều ruộng đất để tranh lợi với dân. Lời tâu trước chỉ nói đến bốn hộ của Chu Nghênh, nhưng nghe nói Phát vận ty điều tra thấy có đến hai mươi mốt hộ, như vậy là toàn bộ ruộng đất bán ở Tô Châu đều thuộc về Đôn. Xưa nay các châu huyện định giá tài sản thế chấp chỉ tính một nửa giá trị, vì quan phủ sợ sau này bị thiệt hại nên không dám định giá thực. Nay Đôn tham giá rẻ, công khai vi phạm pháp luật, ép buộc châu huyện, hại dân lành, tội tranh lợi không gì lớn hơn.
Thần lại tra luật, con cháu mà chia tài sản riêng khi ông bà còn sống thì bị tội đồ ba năm, nếu ông bà, cha mẹ bắt chia tài sản thì bị tội đồ hai năm, con cháu không bị tội. Thần cho rằng Đôn dùng tên con là Viện, chức Thừa sự lang, làm đơn mua ruộng, nếu Đôn không biết thì Viện phải chịu tội, còn nếu Đôn tự làm thì tội thuộc về ai? Huống chi trong đơn của Chu Nghênh có nhiều điều tố cáo sự giả dối, bốn người này còn có chút lương thực nên không ngại xa xôi đến kinh đô kêu oan, còn những người nghèo khổ không đủ ăn, buông tay bỏ ruộng, đến nỗi phải lưu vong, bệ hạ há không thương xót sao! Thần nghe thời Tây Hán có một nho sinh ngồi hầu sứ giả, có khách khen Quách Giải, nho sinh nói: ‘Giải chuyên làm việc gian trái pháp luật, sao gọi là hiền?’ Khách của Giải giết nho sinh này, quan lại bắt Giải, Giải thực không biết ai giết, cũng không biết là ai. Quan lại tâu Giải vô tội, Ngự sử đại phu Công Tôn Hoành bàn rằng: ‘Giải là thường dân mà làm hiệp khách, dùng quyền lực giết người, Giải không biết, tội này còn nặng hơn Giải biết mà giết. Nên xử tội đại nghịch vô đạo.’ Rồi giết cả họ Giải. Thần cho rằng Đôn dùng uy thế ép dân, không kể pháp luật, mua ruộng giá rẻ, còn tệ hơn cả Quách Giải không biết. Nay nếu để bọn gian lại lợi dụng pháp luật, chỉ cần đáp ứng hình thức mà bỏ qua thực chất hại dân, e rằng không hợp với ý nghĩa trừng trị ý đồ chứ không phải hành vi trong 《Xuân Thu》. Kính mong bệ hạ xem xét kỹ bốn đơn của Chu Nghênh, đặc cách ra lệnh xét tội quan lại huyện đó thiên vị không công bằng, xử tội Đôn giả dối loạn chính, xử đúng pháp luật để răn đe thiên hạ. Còn Tô Châu và các giám ty trong lộ không nhận đơn kiện của Chu Nghênh, xin đều cách chức, để bọn quyền hào biết sợ, dân xa xôi được yên ổn.”
[24] Phạm Bách Lộc và Triệu Quân Tích sau khi nhận chiếu, cùng đi xem xét hai con sông Đông và Tây, đo đạc địa hình, nghiên cứu lợi hại, thấy dòng chảy phía đông cao dốc, dòng chảy phía bắc thuận thấp, biết rằng việc đắp đê ngăn sông không thể thực hiện được. Lập tức trình bày kế hoạch lên triều đình.
[25] Một là, Vương Hiếu Tiên, Đường Nghĩa Vấn, Trần Hữu Chi, Trương Cảnh Tiên cùng bàn bạc, nói rằng theo chỉ dụ của triều đình, Vương Lệnh Đồ và Trương Vấn đã xem xét và thấy rằng tại khu vực gần sông ở phố thứ tư Bắc Kinh, nên đào sông Thiêm Hà để dẫn nước vào cửa Tôn Thôn, khôi phục lại dòng sông cũ. Họ đã đích thân dẫn các quan thuộc đi xem xét, đo đạc độ cao thấp, v.v. Xem xét kỹ lưỡng, tại khu vực tảo Đại Danh phố thứ tư muốn đào sông dẫn nước vào cửa Tôn Thôn để khôi phục dòng sông cũ, độ sâu của sông là 2 trượng 1 thước 6 tấc đến 2 trượng 3 thước, hơi giống cảng[8], không có dòng chảy mạnh. Theo kết quả đo đạc, khi đào giếng so sánh độ sâu, chỉ có thể dẫn được nước từ 1 thước 8 tấc 5 phân đến 2 thước 4 tấc 5 phân, còn lại từ 2 trượng 1 thước 1 tấc 5 phân đến 2 trượng 5 tấc 5 phân không thể dẫn được, thực sự hiện tại khó có thể khôi phục dòng sông cũ.
Ngoài ra, không có nơi nào khác có thể tiến hành tu sửa, đã ghi chép và tâu lên. Chúng thần xem xét thấy Cố Lâm và những người khác ban đầu cùng Vương Hiếu Tiên bàn bạc về việc khó khôi phục dòng sông cũ tại cửa Tôn Thôn, đều do các quan đích thân xem xét, thấy rằng Tây Kinh Tả Tàng Khố Phó Sứ Tôn Kình và những người khác đã đào được 17 giếng, độ sâu từ 3 thước 7 tấc đến 7 thước 4 tấc và 9 thước, mọi người xác định còn từ 2 trượng 1 thước 1 tấc 5 phân đến 2 trượng 5 tấc 5 phân không thể dẫn được, nên đã tâu lên, nói rằng khó có thể khôi phục dòng sông cũ. Nay theo lệnh, lại là Vương Hiếu Tiên tâu xin tại khu vực này dẫn nước vào dòng sông cũ. Chúng thần đã gửi văn thư đến Ty Tu Hà, hỏi về việc lập kế hoạch cho việc này, đo đạc độ sâu của sông lớn, số lượng giếng đào được, độ cao thấp của địa hình hai bên và dòng chảy của cảng.
Sau đó nhận được văn thư của Ty này nói rằng, tháng 10 năm ngoái khi bàn bạc về việc sông, đã đo đạc và cùng tâu lên, sau đó Vương Hiếu Tiên đưa ra ý kiến riêng và tâu lên, nên đã gửi văn thư riêng cho Vương Hiếu Tiên, hỏi xem có đo đạc lại hay không. Theo công văn của quan này, từ tháng 10 năm ngoái đến ngày tâu lên, không hề đo đạc lại. Chúng thần xem xét thấy việc bàn bạc muốn khôi phục dòng sông cũ tại cửa Tôn Thôn, đã đào giếng và đo được độ sâu của sông lớn còn 2 trượng 5 phân không thể dẫn được, nên đã tâu lên rằng khó có thể khôi phục dòng sông cũ.
Nay chúng thần đích thân xem xét, đo đạc được Ty Tu Hà đào giếng thứ nhất bên ngoài đê, tổng độ sâu là 7 thước, trong đó trừ độ sâu 1 thước 5 tấc, còn lại 5 thước 5 tấc 11 cọc, đo được độ sâu nhất của sông lớn là 1 trượng 5 thước 5 tấc, bờ sông cao 8 thước 4 tấc, tổng độ cao sâu là 2 trượng 3 thước 9 tấc, đo đạc so sánh thấy mặt đất bên ngoài đê cao như đáy sông 1 trượng 9 thước 9 tấc 1 phân, còn lại hơn 1 trượng 4 thước không thể dẫn được, tức là giống với kết quả kiểm tra trước đây. Nhưng Hiếu Tiên đưa ra ý kiến riêng, không đào thêm giếng, so sánh độ cao thấp của địa hình có thể hay không thể khôi phục dòng sông cũ, cố chấp cho là thuận tiện. Rõ ràng là cẩu thả, chỉ tin vào ý kiến thiên lệch, làm hại việc lớn của quốc gia.
[26] Thứ hai, thần xem xét công văn của Ty Chuyển vận Hà Bắc, đã tâu xin tính toán ở các lộ. Ty Tu hà ước tính dùng vật liệu đóng cửa, cùng các đê cũ và bến ngựa trên dưới, tổng cộng khoảng 1.479.967,5 công nhân, vật liệu ước tính 58.848.082 bó, khối. Hiện đang thu mua vật liệu năm, ba tháng mới mua được hơn 49.000 bó cỏ sao[9]. Nay Đề cử Tu hà ty Vương Hiếu Tiên và Du Cẩn tâu xưng, nên nhân năm tới tháo nước vào cửa Tôn Thôn để trở về dòng đông, thực sự có thể khôi phục dòng cũ. Thần xét kỹ, lúc đầu Hiếu Tiên tâu xin đào sông giảm lũ, nói rằng đợi dòng chảy thông suốt, dòng sông mới chậm lại, nhân công vật liệu đầy đủ, rồi mới từ từ bàn việc đóng cửa. Đến khi triệu về Đô đường, lại trình bày rằng năm Nguyên Hựu thứ 5 mới bàn việc đóng dòng bắc. Nay triều đình lại hỏi quyết định, lại nói năm tới sau khi tháo nước, nếu dòng sông thuận lợi, nhân công vật lực đủ, liền cho đóng dòng bắc ngay. Như vậy là không đợi dòng sông mới chậm lại, nhân công vật liệu đầy đủ, rồi mới từ từ bàn việc đóng cửa. Có sự khác biệt trước sau như vậy, vì việc đổi dòng lớn lao, không thể xử lý một cách bất nhất như thế.
Lại xét, Hiếu Tiên, Cẩn chuyên trách việc tu sông, há không biết cần hơn 50 triệu vật liệu, chưa có chỉ thị mua, kế hoạch năm đã qua một quý, chưa được một chút, thiếu hụt không ít, hoàn toàn không có giới hạn, lại nói năm tới tháo nước vào cửa Tôn Thôn, thực sự có thể khôi phục dòng cũ. Há chẳng phải họ biết việc này rốt cuộc không thể làm, nên nói khoa trương, gấp gáp, cho rằng triều đình khó đáp ứng, thì phải bãi bỏ. Nếu không, làm sao có hơn 50 triệu vật liệu, trong vài tháng năm tới, đột nhiên có thể hoàn thành đúng hạn? Hiếu Tiên lại nói, nếu bỏ lỡ lúc này, lỡ dòng sông thay đổi, lệch khỏi cửa, không chỉ không thể giảm lũ, mà còn không thể đổi dòng. Thần cho rằng dòng sông thay đổi là chuyện thường, tính nước chảy xuống, vốn không cố định. Nếu cho ba năm hoặc sáu bảy năm, để các lộ dưỡng sức dân, dọc sông tích trữ vật liệu, dần dần đào vét dòng cũ, tu sửa đê cũ, nghiêm lệnh các ty, thường xuyên thăm hỏi, một khi dòng chảy thay đổi, tìm được cửa ổn định. Lúc đó, xét kỹ sự tình, chia làm hai ngòi, phân dòng chảy, giảm bớt nước lũ, thì hao phí không lớn, công việc dễ làm, có thể lâu dài ổn định. Há có thể nói bỏ lỡ lúc này, vĩnh viễn không thể đổi dòng? Chỉ xem tình hình thuận lợi hay không, lợi hại thế nào. Xét kỹ lời tâu của Hiếu Tiên, rõ ràng chưa suy nghĩ kỹ.
[27] Thứ ba là: Hiếu Tiên và những người khác tâu rằng, sau khi xem xét, từ Vệ Châu trở xuống và từ Tân Khai Khẩu trở lên, các đê tảo vốn thuộc quản lý của Đô Thủy Giám, và từ trước đến nay việc tu sửa sông không bao giờ quản lý toàn bộ các đoạn đê phía trên. Hiện nay, tất cả đều thuộc địa phận của các ty thừa ngoại Nam Bắc, nên tự nhiên phải chịu trách nhiệm tu bổ và bảo vệ. Thần và các quan nhận được công văn từ ty thừa Đô Thủy ngoại Bắc, nói rằng sau khi xem xét, hiện đang cân nhắc việc khai sông tại Tôn Thôn Khẩu. Nếu muốn toàn bộ dòng sông lớn quay về phía đông vào dòng cũ, trước khi chặn dòng Bắc, trong địa phận của ty này, ba đê tảo Nội Hoàng, một đê tảo Lâm Hà, và các đê tảo đối diện như Lâm Bình, cần phải được tu bổ và củng cố trước. Vì đê tảo Nội Hoàng yếu và mỏng, dù ty tu sông đã chặn cửa Tam Hà, nhưng lo ngại rằng sau khi chặn cửa sông lớn, nước lũ từ phía trên và vùng Tam Môn Hà sẽ tràn lên, chảy xiết vào các đê tảo Nội Hoàng, đe dọa nghiêm trọng đến đê. Các đê tảo đối diện như Lâm Bình cũng có nguy cơ bị xói mòn và phân tán dòng nước, gây ra nhiều nguy hiểm. Hiện nay, ty tu sông đang tiến hành công việc sông ngòi, chặn dòng Bắc, nhưng lại nói rằng không quản lý các đoạn đê phía trên, và cũng nói rằng thuộc quản lý của Đô Thủy Giám, trong khi các ty thừa ngoại tự nhiên phải chịu trách nhiệm tu bổ và bảo vệ. Nếu sau này có chỉ dụ triều đình chấp thuận đề nghị của họ, thì các đê tảo này cần được chuẩn bị gấp đôi, và xin được chuyển công văn đến Thiền Châu để chuẩn bị nhân công và vật liệu.
(Bách Lộc và các quan tâu không rõ thời gian, căn cứ vào tấu chương trước ngày 28 tháng giêng năm sau nói rằng “xin bãi bỏ ty tu sông gần một tháng”, nên tạm thời ghi vào cuối tháng 12 nhuận năm nay. Xét thấy Bách Lộc và các quan trình bày việc sông không thể quay về, chắc chắn không chỉ ba điều này, cần tìm thêm để bổ sung. Sau điều thứ ba chắc chắn còn có các điều khác. Và cần kết luận rằng “Những điều trên xin bãi bỏ ty tu sông” mới đầy đủ. Nay tạm theo bản truyền ghi vào đây. Hơn nữa, các điều khoản của Bách Lộc và các quan liên quan nhiều đến văn bản quan lại, cũng cần chỉnh sửa một chút mới được.)
[28] Năm đó, 55 người con trong hoàng tộc được ban tên và phong chức.
[29] Thiên hạ trình lên Hộ bộ: chủ hộ 2.134.723, đinh 28.533.934; khách hộ 6.154.652, đinh 3.629.083.
[30] Xử án đại hình 2.915 người.
- 'xem xét kỹ' nguyên văn là 'dịch', căn cứ vào các bản và 《Tận ngôn tập》 quyển 4, 'Luận Hồ Tông Dũ trừ Hữu thừa bất đáng' sửa lại. ↵
- mạo muội trình bày những điều nên làm trong việc thiết lập khoa cử tuyển chọn nhân tài 'Cụ' nguyên là 'kì', theo các bản sửa. ↵
- trong các bản khác, dưới chữ 'Lễ Ký' có thêm hai chữ 'Chu Lễ' ↵
- Bỏ qua chiếu lệnh, 'chiếu' nguyên là 'sự', căn cứ vào 《Tận ngôn tập》 quyển 5, bài 'Luận Chương Đôn cưỡng mua ruộng đất của Chu Nghênh' sửa lại. ↵
- Bề ngoài tỏ ra cứng rắn, 'tỏ' nguyên là 'nói', căn cứ vào các bản khác và cùng sách trên sửa lại. ↵
- Nay nếu chỉ giao cho bản châu và Giám ty điều tra, 'chỉ' nguyên là 'Kinh', theo các bản và sách trên sửa. ↵
- rồi sai bọn lại gian xảo ép lấy lời khai tự nguyện bán ruộng 'tự nguyện' nguyên là 'không', 'bán' nguyên là 'mua', theo sách trên sửa lại. ↵
- chữ 'tự' nguyên bản là 'dĩ', theo bản khác sửa ↵
- ba tháng mới mua được hơn 49.000 bó cỏ sao, chữ 'sao' nguyên là 'sảo', theo bản trong các kho sửa lại ↵