"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 431: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 4 (KỶ TỴ, 1089)

Từ ngày Mậu Tuất tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 4 đời Vua Triết Tông đến hết ngày Quý Sửu cùng tháng.

[1] Tháng 8, ngày Mậu Tuất (mùng 1), Thượng thư Tả thừa Hàn Trung Ngạn vì em trai là Gia Ngạn được phong làm Phò mã Đô uý, xin từ chức. Chiếu dẫn chuyện cũ của Vương Khuê đời Đường để khuyên Trung Ngạn.

(Phạm Tổ Vũ và Phó Nghiêu Dũ đã ghi chép từ ngày 11 tháng trước.)

[2] Ngày Kỷ Hợi (mùng 2), đổi Hi Hà Lan Hội lộ thành Hi Hà Lan Dân lộ; Tri châu Lan Châu kiêm nhiệm Quản câu Lan Hội lộ Duyên biên An phủ ty, đổi thành Lan Châu Duyên biên An phủ ty.

(Năm Nguyên Phong thứ 5, tháng 2, ngày Ất Sửu, thêm hai chữ “Lan Hội”; năm Nguyên Phù thứ 1, tháng 8, ngày Bính Tý, lại khôi phục tên Lan Hội.)

[3] Ngày Tân Sửu (mùng 4), giáng chức Hoàng thành sứ, Giám Trừ Châu Tửu thuế Tống Dụng Thần làm Quản câu Linh Tiên quán ở Thư Châu, cho cư trú tại địa phương đó.

(Chính mục có ghi chép này. Các ngày 14 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8, 14 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 1, 18 tháng 4, 4 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 3, 24 tháng 8 nhuận năm Nguyên Hựu thứ 6, có thể tham khảo.)

[4] Ngày Nhâm Dần (mùng 5).

(Cựu lục và Tân lục vào ngày 5 tháng 8 năm thứ 4, ngày Nhâm Dần, đều ghi chép Lại bộ trình bày về pháp khảo khóa “Tứ thiện, Tam tối”, lại vào ngày 22 tháng 4 năm thứ 7, ngày Giáp Tuất, đều ghi chép lại, nhưng có chỗ hơi khác về chi tiết. Nay căn cứ vào ngày 22 tháng 4 năm thứ 7, ngày Giáp Tuất, ghi chép đầy đủ, bỏ phần ghi chép ngày 5 tháng 8 năm thứ 4, ngày Nhâm Dần không đưa vào.)

[5] Ngày Quý Mão (mùng 6), chiếu rằng: “Từ nay, mọi việc sửa đổi điều lệ, trừ những điều luật nhỏ chưa đầy đủ cần bổ sung, còn lại những thay đổi, tăng giảm, đều phải tập hợp lại trình lên Thượng thư tỉnh, đợi chỉ thị, mới được biên soạn. Những điều lệ do Thượng thư tỉnh sửa đổi, trước phải qua Tả Hữu ty xem xét kỹ, các quan chấp chính duyệt lại, mới cho phép thay đổi.”

[6] Chiếu rằng: “Những người lập công nơi chiến trận, nếu phạm tội phải truy giáng hoặc theo lệ xử nặng, thì phẩm quan được thăng ba bậc, văn thần đổi sang vũ thần, tuyển nhân được cải quan, người chưa nhận phẩm quan được chức Phụng chức, Tri lệnh lục, tướng hiệu được thăng ba bậc, quân nhân được chức Chính, Phó chỉ huy sứ, là hạng nhất; được thăng hai bậc và tuần hai bậc, người bạch thân được chức Phán, Ty, Bạ, Úy, Tá sai trở xuống được chức Tá chức, Điện thị, Đại tướng trở xuống được chức Sai sứ, tướng hiệu được thăng hai bậc, quân nhân được chức Quân sứ, Đô đầu, là hạng nhì; được thăng một bậc, tuần một bậc, Điện thị, Đại tướng được chức Tá sai[1], Tá sai được chức Sai sứ, người bạch thân được danh mục chưa nhập quan, văn thần giảm ba năm, vũ thần giảm bốn năm khảo hạch, tướng hiệu được thăng một bậc, quân nhân được chức Phó đô đầu, Binh mã sứ, là hạng ba; người hạng nhất ba lần, hạng nhì hai lần, hạng ba một lần, nếu phạm tội thì tùy theo chỉ dụ; những người thuộc các hạng này, nếu phạm tội công là tội đồ trở xuống, tội tư là tội trượng, tội si nhẹ, không kể số lần, đều theo lệ này.”

[7] Quyền Tri Khai Phong phủ, Long đồ các Trực học sĩ Lữ Công Nhụ[2] làm Hộ bộ Thượng thư, Hình bộ Thị lang, Thiên chương các Đãi chế Cố Lâm làm Quyền Tri Khai Phong phủ, Cấp sự trung Triệu Quân Tích làm Hình bộ Thị lang.

[8] Trước đó, Tư Mã Khang dâng tấu di cảo của cha là Tư Mã Quang, trong đó có điều thứ nhất, xin hợp Trung thư, Môn hạ hai tỉnh làm một, vì Quang cùng Lữ Công Trước, Hàn Duy, Trương Tảo cùng dâng tấu, rằng:

[9] Chúng thần nghe rằng ba Vua không theo lễ cũ, năm đế không dùng nhạc xưa. Huống chi quốc gia đặt ra chức quan, phân chia nhiệm vụ, dựng nên phép tắc, trên dưới giữ gìn, sửa sang rõ ràng đầy đủ, có gì phải thẹn với Hán, Đường, cần gì phải việc việc theo dấu cũ mà mất đi sự thích hợp của hiện tại?

[10] Kính xét: Tây Hán lấy Thừa tướng thống lĩnh trăm quan, mà chín khanh phân trị việc thiên hạ. Quang Vũ trung hưng, thân chăm việc nhỏ, việc giao về đài các, Thượng thư bắt đầu trọng, mà công khanh Tây Hán đã dần mất chức vụ. Đến khi Ngụy giúp Hán, mới lập nước Ngụy, đặt chức Bí thư lệnh, coi việc tấu chương của Thượng thư. Văn Đế nhận ngôi, đổi Bí thư thành Trung thư, có lệnh, có giám, mà cũng không bỏ Thượng thư, nhưng Trung thư thân cận, mà Thượng thư xa cách. Đông Tấn về sau, thiên tử thường để Thị trung bên cạnh, nhiều khi bàn việc chính sự, không chuyên giao cho Trung thư, từ đó lại có Môn hạ, mà quyền Trung thư bắt đầu chia. Xuống đến Nam Bắc triều, đại để đều theo chế độ này. Đầu Đường, mới hợp chức Trung thư, Môn hạ, nên có chức Đồng Trung thư Môn hạ tam phẩm, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự, sau lại đặt Chính sự đường, vì Trung thư ra chiếu lệnh, Môn hạ coi việc phê phán, ngày ngày tranh luận, rối rắm không quyết, nên bắt hai tỉnh bàn định trước ở Chính sự đường, rồi mới tâu lên. Năm Khai Nguyên, Trương Thuyết tâu đổi Chính sự đường thành Trung thư Môn hạ, từ đó kế thừa, đến triều ta, không ai thay đổi được. Không phải không muốn chia, mà lý thế không thể chia lại. Cho nên Trung thư ngày xưa, chính là Trung thư Môn hạ Chính sự đường. Cuối Đường, các ty sứ đều do nội thần nắm giữ, Xu mật sứ tham dự triều chính, bắt đầu chia quyền với tể tướng. Xuống đến Ngũ đại, đổi dùng sĩ nhân, Xu mật sứ đều là bề tôi thân tín của thiên tử, cùng bàn việc quân quốc đại sự, quyền lực nặng hơn tể tướng.

[11] Thái Tổ nhận mệnh trời, lấy Tể tướng chuyên trách việc văn, Tham tri chính sự phụ tá; Xu mật sứ chuyên trách việc võ, Phó sứ phụ tá. Từ đó đến nay, hơn trăm năm, quan lại kế thừa nhau, trong ngoài yên ổn. Các quan đứng đầu trăm ty cùng các Giám ty các lộ, các Trưởng lại các châu[3], đều được chuyên quyền, hoặc tâu lên triều đình, hoặc chỉ tâu lên Trung thư, Xu mật viện. Việc lớn thì Trung thư, Xu mật viện trình lên xin chỉ, ban sắc tráp tuyên mệnh chỉ huy, việc nhỏ thì phê trạng trực tiếp xuống ty, lộ, châu, người liên quan. Vì vậy văn thư giản lược, việc không bị đình trệ.

[12] Thần Tông hoàng đế cho rằng từ thời Trung Diệp nhà Đường về sau, chức quan rườm rà, danh hiệu hỗn loạn, muốn cải cách để chỉnh đốn, thực là hợp lý. Tuy nhiên, chỉ nên căn cứ vào tình hình hiện tại, xem xét những sai lầm của thời trước, bỏ bớt những điều trùng lặp, loại bỏ những thứ rườm rà, chỉ khi có việc thực sự mới đặt ra chức quan, không nhất thiết phải theo đúng Lục điển nhà Đường, chia Trung thư thành ba tỉnh, bảo Trung thư nhận chỉ dụ, Môn hạ phúc tấu, Thượng thư thi hành. Phàm các văn thư từ nội cung giáng xuống và các tấu chương, thân trạng từ các nơi gửi đến Môn hạ, Trung thư tỉnh, đa phần đều được chuyển đến Thượng thư tỉnh, Thượng thư tỉnh giao xuống Lục tào, giao cho các án xét duyệt, kiểm tra văn thư, hỏi han sự việc, gần thì các tự, giám, xa thì các châu, huyện, tất cả phải đầy đủ, sau đó mới cân nhắc sự lý, quyết định xử lý, tâu lên Thượng thư tỉnh, chuyển đến Trung thư nhận chỉ dụ. Trung thư sau khi nhận được chỉ dụ, chuyển đến Môn hạ tỉnh phúc tấu và được phê duyệt, sau đó sao chép lại gửi xuống Thượng thư tỉnh, Thượng thư tỉnh lại giao xuống Lục tào, mới có thể ban hành mệnh lệnh đến các nơi. Do đó, văn thư quá rườm rà, việc xử lý vòng vo, việc gần thì mất vài tháng, việc xa thì hơn một năm, vẫn chưa thể kết thúc. Hoặc các tấu chương khẩn cấp từ bốn phương chờ phúc đáp, hoặc các vụ kiện của quan lại và dân chúng cần giải quyết, đều bị trì hoãn.

Lại nữa, việc lập ra Môn hạ tỉnh vốn là để phản biện các lục hoàng của Trung thư tỉnh và lục bạch của Xu mật viện, sợ rằng có điều chưa hợp lý. Nếu bắt họ làm đúng chức trách, thì mỗi ngày đều phải có phản biện, tranh luận nhiều, các đại thần chấp chính sẽ trở nên bất hòa, nên từ khi lập Môn hạ tỉnh đến nay, việc phản biện rất ít. Hơn nữa, Môn hạ không được trực tiếp nhận chỉ dụ để thi hành, dù có phản biện, cũng phải gửi lại Trung thư để nhận chỉ dụ, Trung thư có khi không bỏ quan điểm trước, lại sửa đổi; lại nữa, các văn thư nội phê và các tấu chương từ các nơi, phần lớn đều được giao xuống ba tỉnh cùng tiến trình, thì các quan Môn hạ đã tham gia thảo luận và quyết định, nếu lại phản biện, thì thành ra lặp lại. Gần đây, các văn thư khẩn cấp của Trung thư thường không gửi đến Môn hạ tỉnh. Như vậy, chức quan Môn hạ gần như là hư danh, chỉ làm tăng thêm số lượng quan lại, văn thư quá rườm rà, không có ích gì cho việc chính sự.

[13] Chúng thần nay cùng bàn bạc, xin được theo lệ cũ, cho Trung thư, Môn hạ cùng làm chung công việc, lấy Đô đường làm Chính sự đường. Mỗi khi có việc chính sự bổ nhiệm hay tấu chương của các quan đài gián, đã có chỉ của Thánh thượng cho ba tỉnh cùng tiến trình, ngoài ra, các việc khác đều cho các quan Trung thư, Môn hạ cùng bàn bạc, ký tên thi hành. Việc lớn thì tiến trình xin chỉ, ban sắc trát; việc nhỏ thì trực tiếp phê trạng chỉ huy, giống như lệ cũ của Trung thư, Môn hạ ngày trước. Gộp lại 12 phòng lại viên của hai tỉnh thành 6 phòng, cùng nhau kiểm tra sao trạng, xử lý văn thư. Nếu có người dư, ngoài việc chọn lọc để lại, đều được giảm ba năm xuất chức; những người chưa đủ ba năm mà phải xuất chức, được giảm thời gian khảo hạch. Nếu chính sự có sai sót, giao cho Cấp sự trung phong bác; bổ nhiệm không đúng, giao cho Trung thư xá nhân trả lại từ đầu; lại các quan gián của hai tỉnh đều được bàn luận, thì hiệu lệnh ban ra cũng không phải không thận trọng. Như vậy, chính sự sẽ thống nhất, lại viên không thừa, văn thư không rườm rà, xử lý thẳng thắn, đối với chức quan do Tiên đế lập ra đều không thay đổi, chỉ sửa đổi chút ít về công việc, muốn cho việc vụ được thuận tiện hơn. Các điều khoản chi tiết, đợi khi có chỉ cho phép, sẽ tiếp tục bàn bạc để thiết lập. Thứ hai, xin cho các trưởng quan Lục tào chuyên bàn bạc, vì Quang cùng Lữ Công Trước, Lý Thanh Thần, Lã Đại Phòng cùng dâng tấu, rằng:

[14] Thần nghe rằng bậc vương giả đặt quan phân chức, người ở trên thì quản lý nhiều việc, nên chỉ lo những điều lớn; người ở dưới thì phụ trách ít việc, nên lo những điều chi tiết. Đó là lẽ tự nhiên, cũng là nền tảng để thiết lập kỷ cương. Vì thế, trong 《Chu quan》, Tiểu tể và sáu thuộc quan của quan phủ đều lo việc trị nước, việc lớn thì theo lệnh cấp trên, việc nhỏ thì tự quyết định. Phàm là tể tướng, trên thì khuyên răn Vua, bàn luận đạo lý và kinh bang tế thế; giữa thì tuyển dụng trăm quan, thưởng công phạt tội; dưới thì làm cho dân chúng yên ổn, hưng lợi trừ hại, đó là chức trách của họ. Còn như những sai sót trong sổ sách, việc trễ nải hội họp, sự đúng sai trong kiện tụng, thăng bổ lại viên, đều là việc của các quan lang lại, không phải là việc tể tướng nên trực tiếp lo liệu. Người xưa có câu: “Người chỉ nhìn thấy lông mi thì không thể thấy xa trăm bước, người nhìn xa trăm bước cũng không thể thấy lông mi.” Ý nói rằng quá chú trọng việc nhỏ thì ắt sẽ bỏ qua việc lớn, quá cẩn thận với chi tiết thì ắt sẽ bỏ sót điều quan trọng.

[15] Hiện nay, mọi việc lớn nhỏ trong Thượng thư tỉnh đều do Bộc xạ quyết định, từ sáng đến tối, xem xét văn thư, tiếp nhận đơn từ, chưa từng tạm nghỉ. Tinh lực hao tổn vì những việc vụn vặt như gạo muối, còn những việc lớn lao như kinh bang tế thế, an dân lâu dài, thì không còn thời gian để suy nghĩ kỹ càng. Đó không phải là việc mà triều đình giao phó cho tể tướng.

[16] Thần trộm nghĩ rằng các quan trưởng của Lục bộ, tức là Lục khanh thời xưa, những việc nhỏ nhặt há không thể để họ tự quyết định sao? Chúng thần bàn bạc, xin từ nay về sau, phàm có chiếu lệnh ban xuống Thượng thư tỉnh, thì Bộc xạ, Tả Hữu Thừa ký xong, các loại văn thư như quan cáo, hoàng điệp đã ký xong thì không cần ký lại, giao cho Lục bộ sao chép và đóng dấu, rồi ban hành xuống các ty, các lộ và các châu thi hành. Còn những văn thư do thần dân dâng lên, ban xuống Thượng thư tỉnh, Bộc xạ, Tả Hữu Thừa ký xong, cũng giao cho Lục bộ, Thượng thư, Thị lang của bản bộ và các quan lang trong sảnh lần lượt ký xong, giao cho quan lang trong sảnh tra cứu công án, hỏi han sự việc, cân nhắc đạo lý, xem xét điều lệ, rồi phê rằng “Nay muốn thi hành như thế nào”, trình lên Thị lang, Thượng thư. Nếu quan lang phê xử đã hợp lý, thì Thị lang ký qua, Thượng thư phê chuẩn, việc nào cần tấu lên thì tấu lên ngay, việc nào cần ban hành thì ban hành ngay; còn nếu chưa hợp lý, thì giao cho Thị lang, Thượng thư sửa lại. Việc được hay không đều do quan trưởng bản bộ quyết định. Khi giao văn thư cho quan lang trong sảnh, giao cho quan trưởng bản bộ tùy việc lớn nhỏ mà ấn định thời hạn, nếu có chậm trễ thì lập tức xử lý; nếu có việc gì chưa giải quyết xong, thì báo lên quan trưởng xin gia hạn.

Thượng thư Lại bộ như trước đây xử lý việc Đông, Tây Thẩm quan viện, Thị lang Tả tuyển như trước đây xử lý việc Lưu nội tuyển, Thị lang Hữu tuyển như trước đây xử lý việc Tam ban viện, quan trưởng Hộ bộ như trước đây xử lý việc Tam ty sứ, Hình bộ như trước đây xử lý việc Thẩm hình viện. Trước đây, văn thư của bản ty đều tấu lên và ban hành trực tiếp, nay muốn cho các quan trưởng Lục bộ theo như thế, không cần qua Bộc xạ, Tả Hữu Thừa. Nếu sửa đổi điều lệ, hoặc tấu xin chỉ đặc biệt, như Hình bộ có nghi vấn về hình danh, hoặc tình tiết đáng thương, hoặc tình nặng mà luật nhẹ, xin đặc cách đình chỉ, biên phối; hoặc việc lớn, hoặc lý lẽ có chỗ đáng nghi, không phải việc Lục bộ có thể tự quyết, thì cho Bộc xạ, Tả Hữu Thừa bàn bạc, hoặc tâu lên đô tỉnh, giao Bộc xạ, Tả Hữu Thừa thương nghị, hoặc lên điện xin chỉ, hoặc ký tráp tử tấu lên, hoặc vào thục trạng, hoặc phê phán chỉ huy trực tiếp.

Còn các loại đơn từ của dân, chỉ cho qua quan trưởng bản bộ trình lên Thượng thư, Thị lang, quan lang trong sảnh lần lượt ký tên phán quyết, giống như văn thư do triều đình ban xuống, thi hành theo thứ tự. Nếu Lục bộ không tiếp nhận, hoặc lâu không giải quyết, hoặc phán quyết không đúng, thì cho qua Đăng văn cổ viện dâng đơn, ban xuống Thượng thư tỉnh, giao Bộc xạ, Tả Hữu Thừa phán giao cho quan không liên quan xem xét quyết định; nếu bản bộ có sai sót rõ ràng, thì lập tức xử lý. Như vậy thì trên dưới tương thừa, mỗi người có chức phận, xử lý việc đơn giản, công việc được giải quyết nhanh chóng.

(Ngày 24 tháng 7 năm Nguyên niên, đã có tờ trình về việc các quan trưởng Lục bộ tự quyết cùng với tờ trình của Thượng Quan Quân dâng lên, không rõ vì sao lại có tờ tấu này, tạm lưu lại. Hoặc tờ tấu này nên bỏ đi.)

Chiếu giao hai tờ tấu cho Tam tỉnh. Ngày Ất Tỵ dâng lên, và nói rằng nay Tam tỉnh đều cùng tấu việc[4], khác với thời của Tư Mã Quang, và những điều nói trong tờ tấu đa phần đã thi hành. Thái hoàng thái hậu tuyên dụ rằng: “Nay đã không có việc gì, không cần thay đổi nữa.”

Phạm Tổ Vũ chí trong mộ chí của Tư Mã Khang có viết: “Khang dâng lên bản thảo cũ của Tư Mã Quang, được giao xuống cho Tam tỉnh, nhưng triều đình chưa kịp thi hành.”

(Không rõ câu “nhiều việc đã được thi hành” ở đây là chỉ việc gì? Cần xem xét thêm. Vào thời kỳ Kiến Viêm, bắt đầu hợp nhất Trung thư và Môn hạ thành một, có lẽ là theo di tấu của Tư Mã Quang. Sách cũ và sách mới chép về tấu chương của Tư Mã Quang rất sơ lược, nay xin chép đầy đủ. Phạm Tổ Vũ cũng từng có kiến nghị, xin được ghi kèm theo.)

Ngày 18 tháng 9, Tam tỉnh dâng lên tấu chương của Tư Mã Khang về hai bản thảo di cảo của cha ông là Tư Mã Quang.

Bản thứ nhất nói: “Xin vẫn theo lệ cũ, cho Trung thư và Môn hạ cùng làm việc chung, lấy Đô đường làm Chính sự đường. Mỗi khi có chính lệnh, bổ nhiệm hay chương tấu của các quan đài gián, ngoài những việc đã có chỉ dụ của triều đình và Tam tỉnh cùng dâng lên, còn lại đều giao cho Trung thư và Môn hạ bàn bạc, ký tên rồi thi hành. Việc lớn thì dâng lên xin chỉ dụ ban sắc trát, việc nhỏ thì trực tiếp phê duyệt chỉ huy, giống như lệ cũ của Trung thư và Môn hạ. Hợp nhất lại hai tỉnh thành 12 phòng lại thành 6 phòng, cùng nhau kiểm tra sao chép văn thư. Nếu có người dư thừa, ngoài việc chọn người ở lại, còn lại đều được giảm thời gian xuất chức ba năm; những người chưa đủ ba năm mà đáng lẽ được xuất chức thì được giảm thời gian khảo hạch. Nếu chính sự có sai sót, giao cho Cấp sự trung phong bác; bổ nhiệm không đúng, giao cho Trung thư xá nhân trả lại từ đầu; và các quan gián quan ở hai tỉnh đều có quyền bàn luận, thì hiệu lệnh ban ra sẽ không thiếu sự thận trọng. Chính sự thống nhất, lại viên không thừa, văn thư không rườm rà, việc thi hành thẳng thắn, đối với các chức quan do Tiên đế lập ra đều không thay đổi, chỉ sửa đổi chút ít về chức nghiệp, khiến công việc thuận tiện hơn.”

Bản thứ hai nói: “Từ nay về sau, mọi chiếu lệnh giao xuống Thượng thư tỉnh, sau khi Bộc xạ và Tả Hữu thừa ký tên, các loại quan cáo, hoàng điệp đã ký tên rồi thì không cần ký lại, giao xuống Lục tào sao chép, ấn ký, rồi ban hành xuống các ty, các lộ và các châu thi hành. Những văn thư do thần dân dâng lên giao xuống Thượng thư tỉnh, sau khi Bộc xạ và Tả Hữu thừa ký tên, cũng giao xuống Lục tào, Thượng thư và Thị lang của bản tào cùng các quan lang trong sảnh lần lượt ký tên, giao cho quan lang trong sảnh phê rằng ‘Nay muốn thi hành như thế nào’, rồi trình lên Thị lang và Thượng thư. Nếu lời phê của quan lang là đúng, thì Thị lang ký qua, Thượng thư phê chuẩn, việc cần tấu lên thì tấu lên ngay, việc cần ban hành thì ban hành ngay; nếu chưa đúng, thì giao cho Thị lang và Thượng thư sửa lại. Việc được hay không, nên do trưởng quan của bản tào quyết định.” Tam tỉnh tâu: “Nay Tam tỉnh đều cùng tấu sự, khác với thời Tư Mã Quang, và những việc ông nói phần lớn đã được thi hành.” Thái hoàng thái hậu tuyên dụ: “Nay đã không còn việc gì, không cần thay đổi nữa.”

(Sách cũ chép hai tấu chương của Tư Mã Quang chỉ như vậy, sách mới cũng theo đó, nay xin chép đầy đủ ở trên.)

[17] Tả Gián nghị đại phu Lương Đào tâu:

Thần kính nghĩ rằng, Tiên đế thánh minh sáng suốt, xét cổ lập chính, tạo ra chế độ quan chế mới, xuất phát từ ý chỉ của bậc thánh. Nhưng những bề tôi soạn định pháp chế không thể hiểu được ý chỉ sáng suốt ấy, chỉ lo thay đổi lung tung những quy chế cũ của tổ tông, khiến cho gốc ngọn rối loạn, không hợp ý bậc thánh. Sau hơn một tháng thi hành, trên dưới đều than phiền về sự rườm rà phức tạp. Chiếu chỉ đã dặn dò kỹ càng, giao cho các đại thần bàn bạc, soạn lại pháp chế mới, cốt sao cho hợp lý nhất, lời huấn thị vẫn còn đó, sáng rõ như mặt trời mặt trăng. Thần trộm thấy trong thánh chỉ ngày 24 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 6 có nói rằng: ‘Do pháp chế chưa đầy đủ, văn thư qua lại rườm rà, nên lệnh cho cơ quan soạn định quan chế xem xét lại toàn bộ quá trình xây dựng, soạn lại pháp chế mới, cốt sao cho hợp lý, không để cứng nhắc rườm rà, lại giao cho Tam tỉnh bàn bạc xem có thể thi hành được không, rồi tâu lên xin chỉ thị.’ Thần kính nghĩ rằng, pháp chế chưa đầy đủ tức là những điều các cơ quan tâu lên chưa phải là toàn bộ; văn thư qua lại rườm rà tức là những việc các cơ quan làm đã thấy rõ tệ nạn. Việc xem xét lại toàn bộ quá trình xây dựng là để xem xét những điều chưa hợp lý; việc soạn lại pháp chế cho hợp lý là để tránh những điều có hại cho việc lập chính; việc giao cho Tam tỉnh bàn bạc là lời dặn dò nghiêm khắc. Bởi vì lúc đó các đại thần kết bè kết đảng, bất trung, bỏ qua chiếu chỉ, che đậy lừa dối, bao che lỗi lầm để tự bảo toàn, cố chấp không chịu sửa đổi những nghị quyết đã thi hành, không nghĩ đến hậu họa về sau, chỉ lo hưởng lộc an nhàn, khiến cho mưu lược sáng suốt của bậc thánh bị che lấp không được sáng tỏ, tội bất trung ấy thật đáng chết. Thần mong bệ hạ xem xét lại các chiếu chỉ trước sau của Tiên đế, giao cho các đại thần nghiên cứu thi hành.”

Lời tâu kèm thêm: “Việc kế thừa chí hướng, làm rạng danh Tiên đế chính là việc bệ hạ cần làm hôm nay. Nếu cứ để những tệ nạn cũ tồn tại mà không bỏ, cứ giữ thói quen cũ mà không bàn bạc, há chẳng phụ lòng Tiên đế mong muốn trị nước hay sao? Thần mong bệ hạ hạ chiếu cho các đại thần bàn bạc soạn định, sao cho hợp với tình hình hiện tại, kính cẩn thi hành chiếu chỉ của Tiên đế để làm khuôn mẫu muôn đời, thần thật vô cùng trung thành. Thần nghe nói rằng, Tể tướng cũ là Tư Mã Quang cùng Lữ Công Trước đã dâng tâu xin tu chỉnh quan chế, nhưng bản thảo chưa kịp dâng lên thì Tư Mã Quang đã mất, gần đây con ông là Tư Mã Khang đã dâng lên, nhưng chưa nghe triều đình thi hành. Thần xin bệ hạ xem xét lại bản tâu của Tư Mã Quang, cân nhắc những điều hợp lý mà thi hành.

Như trước đây, Trung thư, Môn hạ cùng xử lý chính sự, giảm 12 phòng xuống còn 6 phòng, việc có thể thống nhất, quan lại không thừa, văn thư không rườm rà, xử lý thẳng thắn, không thay đổi gì về quan chế, chỉ cần sửa đổi chức trách cho đơn giản, như vậy là hợp với chiếu chỉ của Tiên đế.”

(Lời tâu của Lương Đào không rõ thời gian, do có liên quan đến hai bản tâu của Tư Mã Quang do Tư Mã Khang dâng lên, được Tam tỉnh trình lên vào ngày mồng 8 tháng 8 năm thứ 4, nên phụ lục vào ngày mồng 8 tháng 8. Thánh chỉ ngày 24 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ 1 chưa tìm thấy, có lẽ năm tháng ngày có sai sót, cần xem xét lại.)

[18] Chiếu cho Hà Trung, Phượng Tường, Bân, Kinh từ nay đều chọn cử quan lại giữ chức, theo lời xin của Văn Ngạn Bác.

[19] Chiếu cho các quận huyện xếp hạng ưu đẳng trong khảo khóa, lệnh cho Tam tỉnh khảo sát bổ nhiệm, theo lời xin của Tả gián nghị đại phu Lương Đào. Đào tâu: “Thần nghe rằng thưởng phạt không có quy củ, thì lấy gì để khuyên răn? Muốn quan lại xứng chức, dân chúng yên nghiệp, phải theo đạo này. Quốc gia đặt ra thứ bậc ưu liệt để khảo khóa quận huyện, nhằm thăng giáng người tài, khích lệ sĩ phu, mong sao chính sự yên ổn, kiện tụng được xử lý, trong ngõ hẻm không còn tiếng than thở, đó chính là ý nguyện của bậc thánh nhân. Triều đình đã từng xử lý những kẻ xếp hạng liệt đẳng, cho thiên hạ biết, người ta đã hiểu sự răn đe. Nhưng chưa từng nghe khen thưởng những người xếp hạng ưu đẳng, vậy thì lấy gì để khích lệ sĩ phu hăng hái lập công? Các cơ quan cứ theo lệ cũ mà không tâu trình, thật không xứng với ý chỉ của bệ hạ muốn phân bổ nhân tài, thống nhất pháp chế. Mong bệ hạ đặc biệt ban chỉ dụ cho Lại bộ, xếp hạng các tri châu trở xuống rồi tâu lên, xin triều đình xem xét kỹ để ban ân, nhằm cân bằng thưởng phạt, thỏa lòng công luận.”

[20] Chiếu rằng: “Sứ giả tiến cống của nước Vu Điền là Lý Dưỡng Tinh, A Điểm Ngụy Ca đã dâng ngựa cống, đã ban thưởng trở về. Những người như Lê Tát La, Hạt Chinh cũng theo lệ này, về sau không lấy làm thường lệ.”

[21] Ngày Đinh Mùi, Hàn lâm học sĩ Tô Triệt tâu:

[22] Thần năm ngoái lĩnh chức Hữu tào thuộc Hộ bộ, vì tài chính không đủ, mà việc bàn về khai thông sông ngòi không quyết định được, chi phí ở Hà Bắc không thể tính hết, đã từng dâng ba chương sớ bàn về việc dòng sông chảy về phía tây, đã thành sông đạo, mà từ Tôn Thôn về phía đông, dòng cũ cao ngất, tình thế quyết khó mà thực hiện được. Lúc đó, ý kiến của các đại thần phần nhiều cho rằng dòng cũ có thể khai thông, dòng phía tây có thể ngăn chặn, triều đình bèn sai Phạm Bách Lộc, Triệu Quân Tích thân hành đi xem xét. Xét theo tình người, phù hợp với ý đại thần thì dễ nói, trái với ý đại thần thì khó bàn, mà Bách Lộc và những người kia sau khi trở về, đều nói rằng dòng cũ không thể khai thông và dòng phía tây không thể ngăn chặn. Tại sao vậy? Địa hình cao thấp, có thể chỉ ra mà biết; tính nước tránh cao đổ xuống thấp, có thể dùng một lời mà quyết định. Vì thế Bách Lộc và những người kia không dám làm mờ mịt triều đình, hùa theo quyền thế, làm theo lời nói có sẵn, mà đem đến bệ hạ. Bệ hạ cũng biết lời nói của họ rõ ràng, tin tưởng mà làm theo, công luận trong ngoài đều cho là phải.

[23] Nay từ lúc giao mùa hạ thu, mưa nắng liên tiếp, nước sông dâng cao tràn bờ, chảy về phía đông từ Tôn Thôn, theo lý mà nói, đó là việc thường xảy ra hàng năm trên sông. Mà viên Công sự câu đương thuộc Đô thủy giám là Lý Vĩ cùng các sứ thần coi việc đắp đê, nhân đó báo cáo ồn ào, lấy cớ chia dòng nước, muốn nhân đó phát động lại việc bàn về chuyển dòng sông, Đô thủy giám theo đó mà hùa theo, cũng mong may mắn thành công việc chuyển dòng sông. Thần trộm nghĩ rằng những kẻ này phần nhiều là tiểu nhân, không biết lo xa, nếu sông chảy yên ổn thì không có cớ để dấy lên công việc, công việc không dấy lên thì những kẻ này không thể cầu xin sai phái và lương bổng, chỉ có việc sông ngòi dấy lên thì cầu gì cũng được, huống chi các đại thần vì thấy phù hợp với ý mình, vui mừng nghe việc đó?

[24] Thần trộm thấy hiện nay dòng sông chảy về phía tây, bên trái làng Tôn, sâu khoảng hai trượng, mà nay báo cáo nước dâng tràn bờ, từ cửa mới đào chảy về phía đông vào làng Tôn, chỉ sâu sáu bảy thước. Muốn nhờ sáu bảy thước nước dâng mà chuyển dòng vào chỗ sâu hai trượng, dù là đứa trẻ ba tuổi cũng biết là khó. Thế mà triều đình lại sai Đô thủy sứ, huy động binh lính, đào sông, đắp đập, muốn ngăn dòng chảy về phía đông. Hiện nước sông đang dâng cao, nếu dòng chảy về phía tây không bị cắt đứt, mà cố ngăn chảy về phía đông, thật là trò trẻ con. Xưa Cổn ngăn lũ, làm rối loạn ngũ hành, trái với tính chất cao thấp của trời đất, chín năm không thành công, Cổn bị giết. Nay một con sông tuy nhỏ, nhưng liên quan đến sự an nguy của trăm vạn sinh linh Hà Sóc, sao không tính toán lợi hại mà lại khinh động như vậy?

[25] Thần mong bệ hạ gấp ra lệnh cho các cơ quan hữu trách, hãy từ từ xem hướng nước chảy, theo lệ cũ những năm trước, nhân nước tràn về phía đông, dẫn vào dòng cũ, để giảm bớt nỗi lo của Bắc Kinh. Những chỗ đê điều cũ bị vỡ, hãy sửa chữa qua loa, tránh bị vỡ tràn mà thôi. Còn việc đào sông, đắp đập, tất cả đều không được khởi công, cũng không cho phép tâu xin bổ nhiệm quan lại, điều động dân phu. Đợi khi tình hình sông ngòi tạm ổn định, rồi mới bàn. Chỉ hơn một tháng sau, nước dâng rút xuống, thì dòng chảy về phía tây chắc chắn không thay đổi, mà những lời nói bậy của bọn tiểu nhân sẽ tự tan vỡ. Nếu không đợi tình hình nước tạm ổn định, vội vàng ứng phó, một khi đại dịch khởi phát, bọn tiểu nhân được sai khiển, nhận lộc, nhân cơ hội sinh sự, tình thế khó ngăn cấm, thì tai họa ở Hà Bắc sẽ khó lường.

[26] Thần là anh của Thức trước đây ở kinh diên, vì bàn việc Hoàng Hà nên bị mọi người ghen ghét, không thể yên thân, bèn xin tránh đi. Nay thần vượt quá phận mà nói, cũng giống như anh Thức, nhưng không nỡ thấy triều đình gặp họa, mà cả triều thần, vì sợ hãi chuyện trước, không có ai dám nói với bệ hạ, nên thần không thể kìm được, liều lĩnh nói ra, xin chờ chịu tội. Tờ thiếp hoàng nói: “Nghe nói nước lũ ở Tôn Thôn đã ngừng chảy, nhưng quan lại trên sông chưa chịu tâu lên.”

(Tập của Triệt tự chú rằng: “Ngày mùng một0 tháng 8 dâng lên.”)

[27] Ngày Mậu Thân, Hữu gián nghị đại phu Phạm Tổ Vũ tâu: “Thần nghe nói lúc trước khi giáng chức Thái Xác, Thái hoàng thái hậu đã tuyên dụ các đại thần Tam tỉnh và Xu mật viện, bảo ghi chép việc tiên đế lâm bệnh, Thái hoàng thái hậu miễn cưỡng nghe chính sự, hoàng đế lên ngôi. Các đại thần đã nghe lời thánh, nên ghi chép đầy đủ vào sách thời chính ký để truyền lại muôn đời. Thần nghe nói Xu mật viện ghi chép lời thánh, nhưng An Đào không ký tên, đến nay vẫn cất giữ không đưa ra. Nếu không ghi chép, thì sau này không có gì để tin, việc này rất quan trọng, liên quan đến lâu dài. Xin thánh từ đặc biệt sai người đến chỗ An Đào lấy bản ghi chép lời thánh, giao cho Xu mật viện, bảo ghi vào sách thời chính ký, và xin giao cho Thực lục viện, bảo ghi vào thực lục năm Nguyên Phong thứ 8.”

(Theo bản tấu chương của Tổ Vũ còn giữ trong nhà, ngày 11 tháng 8 tâu lên.)

[28] Ngày Kỷ Dậu, Tạ Khanh Tài, Chuyển vận sứ kiêm Đô thủy sứ lộ Hà Bắc, được điều làm Chuyển vận sứ lộ Hà Đông. Phạm Tử Kỳ, Trực Long đồ các, được làm Tu soạn điện Tập Hiền, sung chức Đô chuyển vận sứ kiêm Ngoại đô thủy sứ lộ Hà Bắc. Lúc đó lại bàn việc đắp đê ngăn sông, nên điều Tạ Khanh Tài, nhưng Tử Kỳ không lâu sau lại được giữ chức Trực Long đồ các như cũ.

(Tử Kỳ lại làm Trực Long đồ các, quyền Đô chuyển vận sứ lộ Hà Đông, vào ngày 23 tháng 10. Khanh Tài ngày 24 tháng 6 được tái nhiệm, ngày 8 tháng 7 kiêm lĩnh chức Ngoại sứ. Ngày 28, Đô thủy lại bàn việc đắp đê ngăn sông; ngày 12 tháng 8[5], điều Khanh Tài sang lộ Hà Đông. Truyện phụ của Khanh Tài chép vào ngày 14 tháng 10 năm Thiệu Thánh thứ 9[6]. Khanh Tài làm Chuyển vận sứ lộ Hà Bắc kiêm Ngoại đô thủy sứ, có người bàn muốn khôi phục dòng sông chảy về phía đông, Khanh Tài tâu rằng những năm gần đây dòng sông đã chảy vào lòng đất, không thể đắp đê ngăn được, bèn dâng lên một tập sách bàn về sông. Triều đình triệu ông đến chính sự đường họp bàn, Khanh Tài tranh luận không chịu khuất phục, vì thế trái ý các đại thần, bị điều làm Chuyển vận sứ lộ Hà Đông.)

[29] Thái thường Thiếu khanh, Hiệu lý điện Tập Hiền Hàn Xuyên tâu: “Theo lệ, khi gặp đại lễ lần đầu, được ấm bổ cho con trai. Nay thần tuy có con trai, nhưng vì thần mồ côi từ nhỏ, bổng lộc không kịp phụng dưỡng cha mẹ, chỉ có người em trai là Khôn, muốn nhờ ân này mà dâng lên một tước Triều tán lang của thần để trước bổ cho Khôn một chức.” Triều đình nghe theo, nhưng việc chuyển quan để nhường lại thì không được thi hành.

[30] Xuống chiếu cho Ty giải diêm Thiểm Tây, trong số diêm thiết thu được hàng năm ở lộ Hi Hà, trích ra 20 vạn quan giao cho Chuyển vận sứ Thiểm Tây để ứng phó cho 9 châu quân Tần, Diên, v.v., bắt đầu từ năm Nguyên Hựu thứ 5.

[31] Ngày Canh Tuất, Xu mật viện tâu: “Quan lại nhậm chức hoặc thay đổi chức vụ, đi qua nơi không có người đón đưa, gặp đường sá khó khăn, thì tùy nghi sai quân lính hộ tống. Nếu không nên sai mà sai, và người nhận sai, đều bị xử theo tội vi chế. Dù hợp lệ được sai, nhưng tự tiện mang theo quá số quy định, hoặc quan ty ra lệnh mang theo quá số, cũng xử theo điều này.” Được chấp thuận.

[32] Trung thư tỉnh tâu: “Những người tham gia lễ Thái hoàng thái hậu Khôn Thành tiết, lễ sinh thần Hoàng thái hậu như liễn quan, xa tử quan kiện, được thăng một bậc. Người có chức danh đã cao mà không có bậc để thăng, thì ban thưởng 30 quan tiền, phó chỉ huy trở lên được 50 quan. Nếu đặc biệt ban cho người quản câu văn tự, chưởng biểu tấu, người chưa có chức vụ thì bổ làm Tam ban tá chức, hoặc người đã có chức vụ thì thăng một bậc, và một người được tính bằng hai người. Lễ sinh thần Hoàng hậu, Hoàng thái phi, thợ thủ công Hàn lâm ty, liễn quan được thăng một bậc, không có bậc để thăng thì áp dụng theo quy định trên. Nếu đặc biệt ban cho người chưởng tiên tấu, thư biểu ty hoặc người câu đương trong phủ, người chưa có chức vụ thì bổ làm Đại tướng, đã là Đại tướng thì bổ làm Tam ban tá chức, và một người được tính bằng hai người.” Được chấp thuận. Trước đó, Vua phê: “Điện Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu có ân đặc biệt ban cho người quản câu văn tự, chưởng tiên biểu, thì lấy hai người thuộc các loại khác nhau để đảm nhận một chức, sao cho mức độ nặng nhẹ phù hợp.” Đến nay, Trung thư lập ra quy định này.

[33] Ngày Tân Hợi, ban chiếu Lưu Thục đặc cách bãi chức Từ bộ lang trung; Mạc Quân Trần bãi chức Lưỡng Chiết đề hình, điều đi làm Tri châu. Người tấu hặc luận tội Thục trước đây làm Tri Tô châu, cùng Quân Trần không xử lý việc Chương Đôn ép mua ruộng của dân Côn Sơn, nên có chiếu này.

(Ngày 24 tháng 11, Đôn bị giáng chức.)

[34] Ngày Quý Sửu, ba tỉnh và Xu mật viện tâu rằng mấy ngày nay mưa dầm, việc đắp đê sông Hà e rằng làm phiền đến Thánh tâm. Thái hoàng thái hậu tuyên dụ rằng: “Theo dư luận bên ngoài, nước sông Hà đã chảy về phía đông, trở lại dòng cũ.” Lại trình tấu chương của Diên Châu, nói rằng châu Hựu của nước Hạ đã dọn đường, sửa nhà khách để đợi lễ vật tuế cống của triều đình. Tể thần Lã Đại Phòng nhân đó tâu rằng: “Việc phía Tây nổi lên đã hơn mười năm, từ đây sẽ tạm yên.” Thái hoàng thái hậu nói: “Đó là nhờ sức lực lâu ngày không dùng đến. Hai việc này thật là việc lớn của quốc gia.”

[35] Ngự sử trung thừa Phó Nghiêu Dũ tâu rằng: “Thần mỗi khi đọc thơ đến câu ‘Thi cưu ở trên cây dâu, nêu lên người hiền đều như một’, ‘Đá núi Nam chê trách Sư Doãn không công bằng’, chưa từng không cảm khái bỏ sách xuống, than thở. Kẻ có nước có nhà, muốn trên dưới không oán hận, ngoài việc công bằng ra còn có cách nào khác? Thần trộm thấy triều đình đặt ty sở để cắt giảm lại viên, rồi giảm bớt bổng lộc của họ, chỉ thi hành ở Lục tào, Tự, Giám, còn ba tỉnh và Xu mật viện thì không, há phải là để tỏ ra cực kỳ công bằng với thiên hạ sao? Đạo nhà Chu bằng phẳng, chắc không như thế. Gần đây nghe nói Điện trung thị ngự sử Tôn Thăng từng dâng sớ bàn việc này, điều khoản rất chi tiết. Thần không dám làm phiền Thánh thính nhiều, xin hạ lệnh tra xét lại tờ tâu của Tôn Thăng, cùng với tờ sớ của thần giao cho Hữu ty, để thi hành đồng loạt, may ra có thể làm thỏa lòng mọi người, đón điềm lành.”

(Nghiêu Dũ tự chú rằng: “Ngày 16 tháng 8.” Nay phụ theo ngày tháng đó. Tờ tâu của Tôn Thăng vào cuối tháng 7.)

[36] Hình bộ Thị lang Triệu Quân Tích, Hàn lâm học sĩ Tô Triệt làm sứ sang chúc mừng sinh thần nước Liêu, các Cáp môn thông sự xá nhân Cao Tuân Cố, Chu Bá Tài làm phó; Thiếu phủ Giám Hàn Chính Ngạn, Quang lộc khanh Phạm Thuần Lễ làm sứ sang chúc mừng năm mới, các Cáp môn chi hậu Cổ Dụ, Tào (Nhật Hoán) làm phó. Thuần Lễ từ chối vì bệnh, đổi mệnh Thái phủ Thiếu khanh Trần Hoành.

(Việc đổi mệnh Trần Hoành vào ngày 22 tháng 9, nay ghi chung vào đây.)

[37] Chiếu cho Thị giảng phủ Từ vương là Hoàng Cảnh làm Hiệu lý Bí các, vì Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ là Tô Tụng và Trung thư xá nhân là Trịnh Ung tiến cử ông ta có hạnh nghĩa.

[38] Tư huân viên ngoại lang Hà Tuân Trực được bổ làm Bí các hiệu lý, Bí thư lang. Tả gián nghị đại phu Lương Đào tâu: “Thần nghe việc bổ nhiệm lang quan Hà Tuân Trực làm Bí thư lang, Bí các hiệu lý, sĩ luận xôn xao, cho là không thích đáng. Vì rằng Tuân Trực trước đây làm Thượng thư lang, đã từng được thăng chức rồi bãi chức, nay vào Bí thư tỉnh, lại được khôi phục chức cũ, thay đổi chức vụ để thăng tiến, tuy là hợp pháp; nhưng kiêm nhiệm chức vụ để khôi phục chức cũ, hầu như là hư danh, nhờ cậy quan hệ mà được, làm rối loạn chế độ quan chức. Thần nghĩ rằng chức Hiệu lý là chức vụ tốt đẹp của triều đình, Bí thư lang là chức quan thanh cao hiện nay, cần phải chọn lựa kỹ càng người hiền tài văn học, mới có thể kiêm nhiệm, người như Tuân Trực, sao có thể chiếm giữ? Huống chi Bí thư lang là chức vụ được tuyển chọn cao về văn chương, là nơi triều đình nuôi dưỡng các bậc từ thần ở hai bên, từ thời Nguyên Phong đến nay, chưa từng bổ nhiệm ai. Nên chọn lựa tinh tế, để khuyến khích người tài, nếu tùy tiện bổ nhiệm không cẩn thận, sẽ làm nhẹ danh khí, rất không phù hợp với ý nghĩa cơ bản của việc nuôi dưỡng và chọn lựa nhân tài của quốc gia. Kính mong được chỉ đạo đặc biệt, thu hồi ân mệnh. Nếu Tuân Trực ở chức lang không có sai sót, hãy để ông ta giữ nguyên chức cũ, để đảm bảo công bằng, làm yên lòng dư luận.”

Tờ phụ: “Viên ngoại lang nếu không phải là Đại phu trở lên thì không được bổ nhiệm con cái, chức quán đến Triều phụng lang thì được bổ nhiệm con cái, và không bị giới hạn một năm không có việc. Nay chỉ còn hơn hai mươi ngày nữa là đến đại lễ Minh đường, liền có thể tiến cử ân trạch, đặc biệt là sự may mắn. Triều đình nuôi dưỡng sĩ tử, cần phải có sự liêm chính, không nên dung túng kẻ tham tà, việc bổ nhiệm này có hại cho công đạo, kính mong Thánh từ xem xét kỹ, nhất định phải thu hồi. Thần nghe Hàn Tông Cổ từ chức quán được làm Tỉnh lang, thăng chức rồi bãi chức, trước đây từ Tào Châu chuyển đến Lộ Châu, Tể tướng dùng ân tư để khôi phục chức danh cho Tông Cổ, ngôn quan bàn luận, cho là phá hoại pháp luật, Tông Cổ giữ nghĩa cẩn thận, cũng có thể từ chối. Tể tướng muốn thỏa mãn tư lợi, mượn chỉ đạo của triều đình, cho kéo dài năm khảo hạch, Môn hạ tỉnh phản đối, cuối cùng bãi chức. Có ví dụ gần đây, xử lý rõ ràng, kính mong Thánh từ sớm chỉ đạo, để thỏa lòng công luận.”

[39] Tả ty gián Lưu An Thế, Hữu ty gián Ngô An Thi cũng tâu rằng: “Thần trộm nghĩ, khi quan chế mới ban hành, những người trước đây mang chức danh đều trở thành hư chức, triều đình cho phép nộp lại chức vụ để đổi lấy một chức quan. Lúc đó, như Hà Tuân Trực nhờ nộp chức mà được đặc cách thăng chuyển, vốn không phải là một người, mà những người được gọi là chức sự quan của Bí thư tỉnh, lại càng được lựa chọn kỹ càng. Từ khi bệ hạ mới khôi phục chức vụ trong quán, đều dùng đại thần tiến cử, hoặc những người có công lao rõ rệt, mới được phép mang chức này, chưa từng có ai đã nộp chức để đổi quan, mà vô cớ lại được khôi phục chức danh. Hơn nữa, từ khi thi hành quan chế đến nay, chức Bí thư lang chưa từng được trao nhẹ nhàng cho những người không có văn hạnh nổi bật. Nay bổ nhiệm Tuân Trực làm Hiệu lý và Bí thư lang, đối với Tuân Trực là điều không nên được. Dù từng đỗ cao khoa, nhưng hành nghĩa không được các hiền sĩ đại phu công nhận, theo công luận cũng không nên được. Có hai điều không nên được, mà triều đình lại đem sự lựa chọn kỹ càng của thiên hạ dồn vào người này, liệu có yên ổn được không? Thần được bệ hạ bổ nhiệm vào chức vụ gián quan, vốn biết rằng điều đáng lo ngại hiện nay là thiếu nhân tài, nên thường mong bệ hạ mở rộng tầm nhìn, tìm kiếm người hiền tài. Thần cũng chưa từng dám dễ dàng bàn luận về nhân vật, nhưng việc bổ nhiệm Tuân Trực hôm nay, trái với pháp luật, không hợp với công luận, kính mong thánh thượng đặc biệt thu hồi ân điển, cho Tuân Trực tạm thời giữ chức lang quan như cũ, để thiên hạ hiểu rõ rằng danh khí không thể tùy tiện trao cho người khác, đó thật là điều may mắn lớn!”

Tờ thiếp vàng viết: “Thần trộm thấy Hàn Tông Cổ trước đây được bổ làm Tri châu Lộ Châu, lại được khôi phục chức cũ, lúc đó, thần An Thế đã từng hết sức tâu rằng việc này trái pháp luật, mệnh lệnh của triều đình liền bị thu hồi. Nay việc của Tuân Trực và Hàn Tông Cổ tương tự nhau, kính xin chiếu cố.” An Thế lại tâu: “Triều đình trong một ngày bổ nhiệm hai người vào chức vụ trong quán, thần bỏ qua Hoàng Cảnh mà bàn về Tuân Trực, không phải vì có tư tình yêu ghét. Chỉ vì tiên đế mới cải cách quan chế, Tuân Trực đã theo lệnh mới được thăng chuyển một chức quan, giải chức Hiệu lý, nay không vì thành tích xuất sắc, lại được khôi phục chức danh, khác với Hoàng Cảnh mới vào quán, sự việc không giống nhau; lại thêm gần đến lễ Minh đường, liền được bổ nhiệm con trai, chồng chất may mắn, gây nhiều dị nghị. Huống chi Hàn Tông Cổ cũng là người đã thăng quan rồi bị bãi chức, trước đây điều đến Lộ Châu, từng được lệnh khôi phục chức vụ, vì thần tâu trình, liền bị bãi bỏ. Nay bổ nhiệm Tuân Trực, không khác gì Tông Cổ, nếu không sợ công luận, tự mình giữ hai lập trường, không chỉ hổ thẹn trong lòng, mà thực sự lo sợ sẽ làm rối loạn pháp luật. Kính mong bệ hạ trân trọng danh khí, thu hồi ân điển sai lầm, để triều đình thanh liêm không có người may mắn chiếm chức.”

Chiếu lệnh Hà Tuân Trực bãi chức Bí thư lang, Bí các Hiệu lý, vẫn giữ chức lang quan và sai khiển. Sau đó, ông được bổ làm Khảo công viên ngoại lang, ra làm Tri châu Sở Châu.

(Tuân Trực bãi chức quán vào ngày 22 tháng 8; ra làm Tri châu Sở Châu vào ngày 14 tháng 10, nay ghi chung lại.)

[40] Chiếu cho Tả tàng khố phó sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân Tống Cầu, từng hai lần đi sứ Cao Ly, đặc cách thăng làm Tây thượng Cáp môn phó sứ, không được viện dẫn làm lệ. Ban đầu, Cầu xin chuyển chức, ba tỉnh tâu: “Nếu chuyển làm Cáp môn phó sứ, thì tuổi của Cầu chưa đủ, hơn nữa chức của Cầu chưa đến Hoàng thành, Cung uyển phó sứ, cũng không có lệ chuyển chức.” Vì thế có chiếu này. Tả gián nghị đại phu Lương Đào tâu: “Cáp môn phó sứ, hiệu là hoành hành, danh phẩm quan trọng, nhiệm vụ dần nghiêm ngặt, bề tôi được chức này, là vinh sủng lớn nhất. Vốn có định ngạch, hạn tuổi thứ tự bổ nhiệm, nếu không có công lao nổi bật nơi biên cương, không thể vượt cấp. Nay Cầu không có công mà tiến chức, công luận cho là không hợp lý, xin bệ hạ chỉ đạo xét xem từ khi Cầu nhậm chức Thông sự xá nhân đến nay, đã đủ hay chưa đủ thời hạn để chuyển làm hoành hành. Hoặc nói triều đình vì hai lần đi sứ Cao Ly, thương xót sự vất vả xa xôi, lại từ khi đi sứ đến nay, thời gian đã lâu, sao bỗng nhiên lại truy tặng? Cũng xin xét xem hai lần đi sứ trước đã từng được ban ơn hay chưa. Nếu tuổi chưa đủ, lại từng được ơn, thì việc ban chức hôm nay thật là vô cớ, mở lệ này ra, lấy gì ngăn chặn sự may rủi? Uy tín của pháp lệnh, không thể không giữ, kính mong thu hồi mệnh lệnh, để hợp với lẽ công bằng.”


  1. Đại tướng được chức Tá sai, chữ 'sai' nguyên là 'chức'. Theo nghiên cứu của Dũ Tông Hiến trong 《Tống đại chức quan phẩm giai chế độ nghiên cứu》 biểu 13, Tam ban Tá chức ở trên Tam ban Sai sứ, Tam ban Tá sai ở dưới Tam ban Sai sứ, chữ 'Tá chức' ở đây rõ là sai, nên sửa.
  2. Lữ Công Nhụ, chữ 'Nhụ' nguyên là 'Nho', theo sách này quyển 434, năm Nguyên Hựu thứ 4 tháng 10 ngày Giáp Dần, và 《Tống sử》 quyển 311 truyện Lữ Công Nhụ sửa.
  3. Các Trưởng lại các châu, chữ 'Lại' nguyên bản là 'Sử'. Theo chế độ nhà Tống, Trưởng sử là tản quan và gia quan, các quan đứng đầu châu gọi là Trưởng lại, nên sửa lại.
  4. Chiếu giao hai tờ tấu cho Tam tỉnh, ngày Ất Tỵ dâng lên, và nói rằng nay Tam tỉnh đều cùng tấu việc, 'Tam tỉnh đều' ba chữ nguyên bản sai ở dưới chữ 'Chiếu', theo bản các đính chính lại.
  5. Ngày 12 tháng 8, chữ 'Bát' nguyên là 'Thập'. Theo chính văn, Tạ Khanh Tài ngày Kỷ Dậu tháng 8 làm Chuyển vận sứ lộ Hà Đông, chữ 'Thập' ở đây rõ là sai, nên sửa thành 'Bát'.
  6. Năm Thiệu Thánh thứ 9: Xét ra niên hiệu Thiệu Thánh chỉ có 4 năm, nghi chữ 'Cửu' là sai, nên sửa thành 'Nguyên'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.