"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 435: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 4 (KỶ TỴ, 1089)

Bắt đầu từ tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 4 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 11, ngày Đinh Mão mùng một, Hộ bộ tâu: “Các vật phẩm tiến cống từ các lộ không được phép gửi kèm theo dịch trạm, mà phải do chuyển vận ty tập hợp tại các châu quận thuận tiện, tính toán thành cương để vận chuyển lên kinh đô, cử người quản áp.” Vua đồng ý.

(Sách 《Tân》 không ghi chép.)

[2] Ngày Mậu Thìn, có chiếu: “Từ nay về sau, các chức Lục sự, Đô sự ở ba tỉnh phải theo quy định tuyển chọn người hoặc lấy quan pháp, mỗi tỉnh một người. Nếu lấy người từ bên ngoài, thì phải dùng số khuyết giảm bớt để bổ sung.”

(Sách 《Chính mục》 chép: “Các chức Lục sự, Đô sự ở ba tỉnh phải theo quy định thi tuyển người và quan pháp, mỗi tỉnh một người.”)

[3] Chiếu: “Văn Ngạn Bác xin nghỉ hưu, đã từ chối lời tâu, nếu có văn bản khác dâng lên, vẫn cho phép tiếp nhận.”

[4] Ngày Kỷ Tỵ, con trai trưởng của cố Trần Châu Quan sát sứ, Trần Quốc công Trọng Cáp là Hữu Vũ vệ Đại tướng quân, Phù Châu Thứ sử Sĩ Quan được phong làm Trần Quốc công.

[5] Ngày Canh Ngọ, ba tỉnh tâu rằng: “Theo chế độ cũ, các quan triều đình từ cấp kinh triều trở lên đều phân biệt giữa tiến sĩ và người khác. Từ khi đổi sang chế độ ký lộc quan, tất cả đều được chuyển đổi ngang hàng, không có sự phân biệt. Ngoại trừ từ chức Triều nghị đại phu trở lên được chia làm hai bậc tả, hữu để chuyển đổi, còn từ chức Thừa vụ lang trở lên đến Triều tán, Triều thỉnh đại phu, xin theo như chức Triều nghị đại phu trở lên, chia làm hai bậc tả, hữu. Người xuất thân tiến sĩ thêm chữ ‘tả’, người khác thêm chữ ‘hữu’. Việc thăng chuyển và khảo xét vẫn theo quy định hiện hành. Những chữ được thêm vào, từ chức ký lộc quan Triều phụng lang và chức sự quan Giám sát ngự sử trở lên, đều được cấp hoàng điệp; các chức sự quan khác do Thượng thư tỉnh cấp tráp tử; ký lộc quan do Lại bộ cấp điệp.” Được chấp thuận.

(Cựu lục chép: “Thần Tông cho rằng tiên vương dùng người không phân biệt xuất thân, nên đổi mới chế độ quan chức, ký lộc quan từ cấp kinh triều trở lên hợp làm một thể. Đến nay lại đổi lại.”

Tân lục biện rằng: “Sách chép: ‘Phàm người dùng tài nghệ để phụng sự bề trên, khi vào làng không được ngồi cùng hàng với sĩ tử.’ Ngày nay dùng người không phân biệt xuất thân, hợp làm một thể, không phải là đạo của tiên vương, cũng không phải ý của Thần Tông. Nay xóa bỏ. Ngày Quý Mùi tháng 2 năm thứ 3, lần đầu quy định từ Triều nghị đại phu trở lên đến Kim tử quang lộc đại phu đều thêm chữ ‘tả’, ‘hữu’; ngày Canh Ngọ tháng 11 năm thứ 4, lại quy định từ Thừa vụ lang trở lên đến Triều thỉnh đại phu đều thêm chữ ‘tả’, ‘hữu’.”

Xét: Ngày Mậu Thìn tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ 2, bỏ chữ ‘tả’, ‘hữu’ đối với các chức Ngân thanh, Quang lộc, Chính nghị, Triều nghị, Trung tán đại phu, còn lại đều bãi bỏ. Ngày Bính Ngọ tháng 6 năm Đại Quan thứ 2, lại đổi chế độ này.

Gần đây có người tên Trần Uyên, viết trong 《Dương Quy Sơn ngữ lục》 một đoạn rằng: “Bàn về việc người hàn sĩ mới được làm quan, không phải là không hiểu việc, nhưng thường làm bừa. Đại để khoa cử không chọn được người tài, đôi khi có người giỏi, đó là do họ vốn là hào kiệt, nhờ khoa cử mà tiến thân.

Hỏi: ‘Lý Đức Dụ nói: Con em công khanh đại phu có thể dùng, tiến sĩ chưa chắc đã dùng được. Lời bàn này có thiên lệch không?’

Đáp: ‘Đức Dụ nói thế, đến nay người ta vẫn cho là thiên lệch. Khi ấy, người ta cho rằng Đức Dụ nhờ ấm mà làm quan, không qua khoa cử, nên mới nói thế, điều này thật vô nghĩa. Với tài năng của Đức Dụ, ứng thí khoa cử đời Đường rất dễ dàng, chỉ là ông không làm thôi.

Hơn nữa, làm quan nhờ ấm và làm quan nhờ khoa cử, cái nào hơn? Cho rằng tiến sĩ hơn, ấm tước kém, đó là quan niệm tầm thường của đời sau, khiến người ta hổ thẹn vì được hưởng phúc ấm của tổ tiên, mà cam tâm học những thứ vô ích để tranh hơn thua với kẻ hàn sĩ nơi trường thi, may mắn đỗ đạt để lấy vinh, đó là cách nhìn nào? Ứng thí cũng là vì kẻ hàn sĩ không có lộc, bất đắc dĩ mượn đường này để tiến thân. Nếu có thể không làm, cần gì phải ứng thí?

Phạm Nghiêu Phu là người rất có kiến thức, nhưng cũng phân biệt ưu liệt giữa ấm tước và tiến sĩ, đề xuất thêm chữ ‘tả’, ‘hữu’ vào chức vụ của người có xuất thân và không có xuất thân, không thể nói là không có chỗ che lấp. Ông nói: Muốn cho con em công khanh đọc sách. Ý này rất hay, nhưng nếu khen thưởng người đọc sách để ứng thí làm quan, thì họ chỉ đọc sách để ứng thí làm quan mà thôi, đâu phải là người thực sự học đạo?

Như Hàn Trì Quốc, vốn là người có tài kinh bang tế thế, dùng làm chức Chấp chính cũng rất xứng đáng, không thể vì không có xuất thân mà phế bỏ tài năng chấp chính của ông ấy.”

Lại nói: “Những người mà Nghiêu Phu phân biệt, chẳng phải là những người như vậy sao?”

Đáp: “Chức Chấp chính không phải là chức vụ có thể làm ngay từ đầu, mà phải từ chức quan nhỏ dần dần thăng lên. Như sau này Ngô Thản Cầu, trong niên hiệu Thiệu Thánh bị bác bỏ chức Bác sĩ, vì không có xuất thân. Ông ấy từ thân phận thường dân, triều đình thấy có học vấn và đức hạnh, ban cho tước vị, cho rằng ông ấy xứng đáng làm Bác sĩ; nhưng lại vì không có xuất thân mà tước bỏ, đây là lý gì! Trong những người được ấm tước và Tiến sĩ đều có người tài, chỉ cần dùng đúng người, thêm chữ “Hữu” cũng tự làm nản lòng người làm việc thiện.”

Xét: Việc phân biệt chức quan với chữ “Tả”, “Hữu”, trong thực lục không ghi rõ là ai đề xuất, Dương Thời lại cho là do Phạm Thuần Nhân, không rõ căn cứ từ đâu. Lại xét: Ngày 4 tháng 2 năm thứ 3, lệnh cho các quan Triều nghị đại phu trở lên thêm chữ “Tả”, “Hữu”, lúc đó Thuần Nhân đang giữ chức Đồng tri Xu mật viện, không tham gia việc ở Tam tỉnh; ngày 5 tháng 4 năm đó, mới được bái làm Hữu tướng; ngày 4 tháng 11 năm thứ 4, lại lệnh cho các quan Thừa vụ lang trở lên phân biệt thêm chữ “Tả”, “Hữu”, nhưng Thuần Nhân đã bãi chức Hữu tướng từ ngày 4 tháng 6. Có lẽ Thuần Nhân từng có đề xuất này, sau khi bãi chức mới thi hành lời nói của ông ấy? E rằng lời ghi trong 《Quy Sơn ngữ lục》 chưa chắc đáng tin, cần xem xét kỹ hơn.

《Lưỡng triều sử chức quan chí》 ghi chế độ thăng chuyển của quan văn từ Kinh quan đến Tam sư, nay phụ chú ở đây:

– Các chức Chủ bạ ở các tự, giám, Hiệu thư lang ở Bí thư tỉnh, Chính tự ở Bí thư tỉnh[1], người có xuất thân chuyển làm Đại Lý bình sự, người không có xuất thân chuyển làm Thái thường tự Phụng lễ lang, người kiêm chức ở quán thì như người có xuất thân, người thuộc hậu tộc hoặc gia đình hai phủ chuyển làm Thái chúc.

– Thái chúc, Phụng lễ lang ở Thái thường tự, người có xuất thân chuyển làm Thừa ở các tự, giám, người không có xuất thân chuyển làm Đại Lý bình sự, người kiêm chức ở quán thì như người có xuất thân.

– Đại Lý bình sự, người có xuất thân chuyển làm Đại Lý tự Thừa, người đỗ đầu chuyển làm Trứ tác tá lang; người không có xuất thân chuyển làm Thừa ở các tự, giám, người kiêm chức ở quán thì như người có xuất thân; người thuộc hậu tộc hoặc gia đình hai phủ, Tường nghị ở Thẩm hình viện, Tường phúc, Tường đoạn, Kiểm pháp, Pháp trực quan ở Hình bộ, chuyển làm Quang lộc tự Thừa.

– Thừa ở các tự, giám, người có xuất thân chuyển làm Trứ tác tá lang, người không có xuất thân chuyển làm Đại Lý tự Thừa, người kiêm chức ở quán thì như người có xuất thân.

– Đại Lý tự Thừa, người có xuất thân chuyển làm Điện trung Thừa, người không có xuất thân chuyển làm Thái tử Trung xá, người kiêm chức ở quán thì như người có xuất thân, hoặc chuyển làm Thái tử Trung doãn; người thuộc hậu tộc hoặc gia đình hai phủ, Tường nghị ở Thẩm hình viện, Tường phúc, Tường đoạn ở Hình bộ, quan hậu đường ở Trung thư, chuyển làm Thái tử Hữu tán thiện đại phu.

– Trứ tác tá lang, người có xuất thân chuyển làm Bí thư Thừa, người đỗ đầu chuyển làm Thái thường Thừa, người không có xuất thân chuyển làm Thái tử Tả tán thiện đại phu, người kiêm chức ở quán thì như người có xuất thân, đặc chỉ chuyển làm Bí thư lang, Trứ tác lang, Tông chính tự Thừa.

– Thái tử Tả hữu tán thiện đại phu, Trung xá, Tẩy mã, chuyển làm Điện trung Thừa, người kiêm chức ở quán chuyển làm Thái thường Thừa. Thái tử Trung doãn, chuyển làm Thái thường Thừa, đặc chỉ chuyển làm Bí thư lang, Trứ tác lang, Tông chính Thừa.

– Thái thường, Bí thư Thừa, Trứ tác lang, Bí thư lang, chuyển làm Thái thường Bác sĩ, đặc chỉ chuyển làm Tả hữu Chánh ngôn, Giám sát Ngự sử.

– Tông chính Thừa, người không có xuất thân chuyển làm Quốc tử Bác sĩ.

– Điện trung Thừa, người có xuất thân chuyển làm Thái thường Bác sĩ, người không có xuất thân chuyển làm Quốc tử Bác sĩ, người kiêm chức ở quán thì như người có xuất thân.

– Thái thường, Quốc tử bác sĩ, chuyển làm Hậu hành viên ngoại lang, theo chỉ đặc biệt chuyển làm Tả hữu ty gián, Điện trung thị ngự sử.

– Tả, Hữu chánh ngôn, chuyển làm Tả, Hữu ty gián, nếu mang chức Đãi chế trở lên thì chuyển làm Khởi cư xá nhân. Giám sát ngự sử, chuyển làm Điện trung thị ngự sử. Hậu hành viên ngoại lang, chuyển làm Trung hành viên ngoại lang, theo chỉ đặc biệt chuyển làm Khởi cư xá nhân, Thị ngự sử.

– Tả, Hữu ty gián, chuyển làm Khởi cư lang, Khởi cư xá nhân, nếu mang chức Đãi chế trở lên thì chuyển làm Lại bộ viên ngoại lang.

– Điện trung thị ngự sử, chuyển làm Thị ngự sử. Trung hành viên ngoại lang, chuyển làm Tiền hành viên ngoại lang.

– Khởi cư lang, Khởi cư xá nhân, chuyển làm Binh bộ viên ngoại lang, nếu mang chức Đãi chế trở lên thì chuyển làm Lễ bộ lang trung. Thị ngự sử, chuyển làm Ty phong viên ngoại lang.

– Tiền hành viên ngoại lang, chuyển làm Hậu hành lang trung. Hậu hành lang trung, chuyển làm Trung hành lang trung.

– Trung hành lang trung, chuyển làm Tiền hành lang trung.

Những người thường điều chuyển làm Lang trung, Viên ngoại lang, thì chuyển sang Hữu tào, trong đó người có xuất thân từ Đồn điền, người không có xuất thân từ Ngu bộ, người phạm tội tham nhũng được phục chức từ Thủy bộ chuyển: Thủy bộ, Ty môn, Khố bộ, Ngu bộ, Tỷ bộ, Giá bộ, Đồn điền, Đô quan, Chức phương.

Những người giữ chức Phát vận, Chuyển vận sứ phó, Tam ty, Khai phong phủ phán quan, Thị độc, Thị giảng, Thiên chương các thị giảng, Sùng chính điện thuyết thư, Khai phong phủ suy quan, Phủ giới đề điểm, Tam ty tử ty phán quan[2], Đại lý tự thiếu khanh, Đề điểm hình ngục, Đề điểm chú tiền giám, các chức Dực thiện, Thị giảng, Ký thất ở các vương phủ, Trung thư đề điểm ngũ phòng công sự đường hậu quan, thì chuyển sang Tả tào. Trong đó người có xuất thân từ Từ bộ, người không có xuất thân từ Chủ khách.

– Đường hậu quan từ Thiện bộ chuyển: Thiện bộ, Thương bộ, Khảo công, Chủ khách, Kim bộ, Ty huân, Từ bộ, Độ chi, Ty phong.

Những người giữ chức Phát vận, Chuyển vận sứ phó, Tam ty, Khai phong phủ phán quan trở lên, từ Tả tào chuyển sang Hữu danh tào, trong đó người không có xuất thân chỉ chuyển sang Từ bộ[3], Độ chi, Ty phong, người có xuất thân hợp lệ chuyển sang Hữu danh tào theo quy định này[4].

Những người giữ chức Tam ty phó sứ, Tri tạp, Tu soạn, Tu khởi cư chú[5], Trực xá nhân viện, chuyển sang Hữu danh tào: Công bộ, Hình bộ, Binh bộ. Nếu mang chức Đãi chế trở lên, từ Tả hữu tào, Hữu danh tào chuyển sang Tả danh tào[6], nhưng phải cách một bậc để siêu chuyển.

– Trung hành lang trung chuyển làm Tả, Hữu ty lang trung.

– Hộ bộ chuyển làm Tả ty, Hình bộ, Độ chi, Kim bộ, Thương bộ, Đô quan, Tỷ bộ, Ty môn chuyển làm Hữu ty: Lễ bộ, Hộ bộ, Lại bộ.

– Tiền hành lang trung, người có xuất thân chuyển làm Thái thường thiếu khanh, người không có xuất thân chuyển làm Ty nông thiếu khanh, trong đó người đang giữ chức Tả tào, Vệ úy thiếu khanh, nếu mang chức Đãi chế trở lên thì chuyển làm Hữu gián nghị đại phu.

– Tả, Hữu ty lang trung, nếu mang chức Đãi chế trở lên thì chuyển làm Gián nghị đại phu, Tả ty chuyển làm Tả gián nghị đại phu, Hữu ty chuyển làm Hữu gián nghị; nếu mang chức Hàn lâm học sĩ thì chuyển làm Trung thư xá nhân.

Vệ úy, Ty nông thiếu khanh, chuyển làm Quang lộc thiếu khanh, nếu mang chức Quán chức thì chuyển làm Quang lộc khanh.

Quang lộc thiếu khanh, chuyển làm Ty nông khanh, nếu mang chức Quán chức thì chuyển làm Quang lộc khanh. Thái thường thiếu khanh, chuyển làm Quang lộc khanh, nếu giữ chức Tam ty phó sứ, Tu soạn, thì tùy chỉ.

– Tư nông khanh chuyển làm Thiếu phủ giám, nếu giữ chức ở cung quán thì chuyển làm Quang lộc khanh.

– Thiếu phủ giám chuyển làm Vệ úy khanh, nếu giữ chức ở cung quán thì chuyển làm Quang lộc khanh.

– Vệ úy khanh chuyển làm Quang lộc khanh. Quang lộc khanh chuyển làm Bí thư giám.

– Bí thư giám chuyển làm Thái tử tân khách.

– Trung thư xá nhân chuyển làm Lễ bộ thị lang.

– Gián nghị đại phu chuyển làm Cấp sự trung. Cấp sự trung chuyển làm Công bộ thị lang, nếu giữ chức Hàn lâm học sĩ trở lên thì chuyển làm Lễ bộ thị lang.

– Thái tử tân khách chuyển làm Công bộ thị lang. Công bộ thị lang chuyển làm Hình bộ thị lang, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Hộ bộ thị lang, nếu là tể tướng thì chuyển làm Binh bộ thị lang.

– Lễ bộ thị lang chuyển làm Hộ bộ thị lang, nếu là tể tướng thì chuyển làm Lại bộ thị lang.

– Hình bộ thị lang chuyển làm Binh bộ thị lang, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Lại bộ thị lang, nếu là tể tướng thì chuyển làm Lễ bộ thượng thư.

– Hộ bộ thị lang chuyển làm Lại bộ thị lang, nếu là tể tướng thì chuyển làm Lễ bộ thượng thư.

– Binh bộ thị lang chuyển làm Hữu thừa, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Tả thừa, nếu là tể tướng thì chuyển làm Lễ bộ thượng thư.

– Lại bộ thị lang chuyển làm Tả thừa, nếu là tể tướng thì chuyển làm Lễ bộ thượng thư.

– Tả, Hữu thừa chuyển làm Công bộ thượng thư, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Lễ bộ thượng thư.

– Công bộ thượng thư chuyển làm Lễ bộ thượng thư, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Hình bộ thượng thư.

– Lễ bộ thượng thư chuyển làm Hình bộ thượng thư, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Hộ bộ thượng thư.

– Hình bộ thượng thư chuyển làm Hộ bộ thượng thư, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Binh bộ thượng thư.

– Hộ bộ thượng thư chuyển làm Binh bộ thượng thư, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Lại bộ thượng thư.

– Binh bộ thượng thư chuyển làm Lại bộ thượng thư, nếu thuộc hai phủ thì chuyển làm Thái tử thiếu bảo, nếu là tể tướng thì chuyển làm Hữu bộc xạ.

– Lại bộ thượng thư chuyển làm Thái tử thiếu bảo, nếu là tể tướng thì chuyển làm Tả bộc xạ.

– Thái tử thiếu bảo chuyển làm Thái tử thiếu phó. Hữu bộc xạ chuyển làm Tả bộc xạ. Thái tử thiếu phó chuyển làm Thái tử thiếu sư.

– Tả bộc xạ chuyển làm Tư không. Thái tử thiếu sư chuyển làm Thái tử thái bảo. Tư không chuyển làm Tư đồ. Thái tử thái bảo chuyển làm Thái tử thái phó. Tư đồ chuyển làm Thái bảo[7]. Thái tử thái phó chuyển làm Thái tử thái sư. Thái bảo chuyển làm Thái phó[8].

– Thái úy chuyển làm Thái sư. Thái sư, Thái phó, Thái bảo gọi là Tam sư, Thái úy, Tư đồ, Tư không gọi là Tam công.

– Phàm khi bổ nhiệm, thì từ Tư đồ thăng làm Thái bảo, từ Thái phó thăng làm Thái úy, kiểm hiệu cũng như vậy.

Năm Trị Bình thứ 2, Hàn lâm học sĩ Giả Ám tấu: “Gần đây, hoàng tử được phong tước, đều bổ nhiệm làm Kiểm hiệu Thái phó. Thần xét quan chế: Từ thời Hậu Ngụy trở lại đây, lấy Thái sư, Thái phó, Thái bảo làm Tam sư, Thái úy, Tư đồ, Tư không làm Tam công, triều ta theo đó. 《Lục điển》 nói: Tam sư là chức quan huấn đạo, là phép tắc của thiên tử.

Nay hoàng tử lấy danh hiệu Sư, Phó làm quan, về nghĩa là không ổn, không gì hơn thế. Đó là do tiền triều theo lệ cũ, chưa sửa đổi. Thần nghĩ rằng từ nay hoàng tử và tông thất bậc thấp được bổ nhiệm, đều không nên mang danh hiệu Sư, Phó, tùy theo thứ tự thăng chuyển mà đổi làm Tam công.” Chiếu đợi sau này nhân dịp gia ân mà sửa đổi. Từ đó, hoàng tử và tông thất bậc thấp không còn bổ nhiệm làm Tam sư nữa.

Xét: Đoạn này ghi chế độ thăng chuyển của văn thần từ kinh quan đến Tam sư, có nhiều điểm không khớp với 《Tống sử》 chức quan chí, nay vẫn giữ nguyên[9].)

[6] Chiếu rằng: “Cung tiễn thủ ở Kinh Nguyên lộ, căn cứ vào gia nghiệp chia làm ba hạng, góp tiền xã để mua ngựa, mỗi tháng một lần. Hạng trên xuất 200 văn, hạng giữa 150 văn đủ, hạng dưới 100 văn đủ, để chuẩn bị bù đắp khi ngựa chết hoặc tổn thất.” Theo lời thỉnh cầu của Lưu Xương Tộ, suý lộ Kinh Nguyên.

[7] Triều thỉnh đại phu, Vệ úy khanh Mã Mặc được quyền giữ chức Công bộ Thị lang, Tri châu Tương là Triều thỉnh đại phu Lâm Anh làm Vệ úy khanh.

[8] Người Khê Động là Tri Bảo Tĩnh quân Bành Nho Vũ[10], Áp án phó sứ Bành Sĩ Lượng, Tri Vị châu Bành Sư Thông[11], Áp án phó sứ Bành Sĩ Thuận, mỗi người đều tiến cống vải Khê vào các dịp Hưng Long tiết, Đông chí và Chánh đán, mỗi loại 15 tấm.

[9] Ngày Nhâm Thân, Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ tâu: “Thần phụ trách Công phòng, thấy triều đình ứng phó các yêu cầu của Tu hà ty, như cấp 5 vạn thạch gạo cương từ Hà Âm, Dĩ Thủy, sai 3000 binh sĩ làm công việc bốc dỡ, 300 người cầm cuốc ở Lạc Khẩu và Hùng Vũ tảo, cấp 4 vạn tấm cót từ trường cót ở kinh đô, xây dựng doanh trại cho binh lính, hàng ngày đều có văn thư ban xuống. Thần trước đây làm Gián quan, đã hết sức bàn về việc đắp đê ngăn sông là không tiện, nhưng chưa được thi hành. Nay việc đắp đê không ngừng, chi phí ngày càng lớn, e rằng Tu hà ty sẽ yêu cầu nhiều hơn nữa. Triều đình nếu không bãi bỏ việc đắp đê, thì không thể không ứng phó, Môn hạ cũng không thể không ban hành. Thần xét cổ đạo, khảo sát hiện tại, xét lời nói của người trong ngoài, thiết nghĩ việc này tất không thành, e rằng dù có ứng phó, cũng chỉ uổng phí tài sản quốc gia và sức dân, có hại mà không có lợi.” Nhân đó trình bày hai lý do không thể đắp đê ngăn sông, và 20 việc không cần đắp đê.

Lại nói: “Phàm các bề tôi bàn luận, chỉ nói về lý lẽ, còn những người hiểu việc sông ngòi thì nói về sự việc. Nay lý lẽ đã rất không thể, mà sự việc lại như những điều đã trình bày trước đây. Tiên đế nói ‘dùng đạo trị thủy’ là nói về lý lẽ mà thôi, còn dùng sự việc trị thủy là tệ đời sau, Tiên đế không chấp nhận. Xưa Vua Nghiêu biết Cổn không thể dùng để trị thủy, nhưng Tứ Nhạc xin thử dùng Cổn, há phải cố ý trái ý Nghiêu mà hại thiên hạ sao? Bởi lúc đó người trị thủy chưa có ai thay thế Cổn, mà Cổn lại nhất định giữ ý kiến của mình, cho rằng nước có thể ngăn chặn mà trị được.

Thời Nhân Tông, Lý Trọng Xương muốn đắp đập Thương Hồ, khôi phục Hoành Lũng, Âu Dương Tu cực lực nói không nên, nhưng triều đình không nghe Tu mà nghe Trọng Xương, cuối cùng thất bại và bị tội. Với sự sáng suốt của Nhân Tông, há không biết Tu đáng tin mà công của Trọng Xương chắc chắn không thành, nhưng vẫn dùng Trọng Xương, cũng là ý của Nghiêu thử dùng Cổn.

Đầu niên hiệu Hi Ninh, Trương Củng, Tống Xương Ngôn muốn đắp đập Nhị Cổ Hà chặn dòng chảy về phía bắc, Thần Tông sai Tư Mã Quang đi xem xét, Quang cũng cực lực nói không nên, nhưng Củng vội muốn lập công, vừa đắp xong lại vỡ, nước tràn ngập năm châu quân Đại Danh, Ân, Đức[12], Thương, Vĩnh Tĩnh. Với sự sáng suốt của Thần Tông, há không biết Quang đáng tin mà công của Củng chắc chắn không thành, nhưng vẫn dùng Củng, cũng là ý của Nghiêu thử dùng Cổn.

Việc trước không xa, là bài học cho việc sau. Nay bốn phương yên ổn, tây bắc bình yên, mùa màng khá tốt, sức dân hơi nhẹ, nếu nghỉ ngơi dưỡng sức vài năm nữa, may ra có hy vọng thái bình, chỉ cần ngừng việc sông ngòi, thì trong ngoài không còn việc gì, há có thể thử dùng Lý Vĩ, đợi đến khi như Cổn, Trọng Xương, Củng rồi mới dừng sao?”

Lại tâu: “Thần tra cứu sách vở, từ xưa việc chặn ngăn sông ngòi tất dẫn đến tai họa. Cộng Công phá cao lấp thấp, dẫn đến diệt vong; Cổn ngăn lũ, Thượng Đế nổi giận, công việc không thành, bị giết ở núi Vũ; Chu Linh Vương muốn ngăn sông Cốc, Lạc, Thái Tử Tấn khuyên can rõ họa phúc, lấy Cộng Công và Cổn làm gương; Lương Vũ Đế đánh Ngụy, xây đập Phù Sơn, ngăn sông Hoài để tưới Thọ Dương, dốc hết sức trong nước để tranh một châu, tháng tư đập xong, tháng chín đập vỡ, dọc sông Hoài thành trì, thôn xóm hơn mười vạn người đều trôi ra biển, oán hận lan khắp, xưa nay đều cho là vô đạo.

Nay ngăn dòng Bắc, khác gì đập Hoài? Hơn nữa, Vũ Đế dùng nước tưới địch, nay lại tự hại dân mình, mà sông Hoàng Hà lớn hơn sông Hoài nhiều, so sánh thế, càng không nên làm. Bàn việc sông ngòi, cũng như việc biên cương, nho sĩ thì nói hòa, võ tướng thì nói đánh. Nay hỏi nho sĩ, tất nói muốn dân nghỉ ngơi; hỏi thủy quan, tất nói muốn khởi công. Muốn ngăn sông, là chủ trương dùng binh; không muốn ngăn, là chủ trương nghỉ binh. Thủy quan muốn khởi công, như tướng sĩ chỉ biết đánh mà thôi.

Triều đình há không xét lợi hại, mà khởi đại công trình, chỉ để làm bước tiến thân cho họ? Thần nay tuy không có trách nhiệm can gián, nhưng có chức vụ, nhiệm vụ thông đạt tình hình trên dưới, thấy nghe như vậy, không dám không nói.

Kính mong bệ hạ cùng đại thần bàn bạc, nếu xét thấy như lời bàn, có hại không lợi, xin sớm bãi bỏ việc sông, để may mắn cho thiên hạ, phúc cho dân. Binh phu, vật liệu của Ty Tuần Hà, có thể dùng để tu sửa các chỗ vỡ đê, giao cho Ngoại Đô Thủy Sứ dần dần sửa chữa đê phòng dòng Bắc. Như vậy, lòng dân các nơi tất yên, đó là kế chuyển họa thành phúc của Quản Trọng giúp Tề Uy Công.

Lời thần cuồng ngu, kính xin xét chọn.”

[10] Ngày Đinh Sửu, Đông chí, không ngự triều, quần thần đến cửa Đông Thượng Cáp, cửa Nội Đông bái biểu chúc mừng theo nghi thức.

[11] Long Đồ các Học sĩ, Tri Hàng Châu Tô Thức tâu:

“Thần từ thời Hi Ninh đến nay, làm việc ở các quận huyện, thực hiện việc phục dịch; đến khi Nguyên Hựu cải cách pháp luật, thần được tham gia định chế; nay lại ra làm quan, tự mình thi hành pháp lệnh. Xem xét hỏi han lại dân, thấy rõ lợi hại của chế độ thuê dịch và sai dịch, không dám không nói.

Chế độ thuê dịch, từ hạng nhì trở lên, mỗi hộ hàng năm phải nộp tiền dịch rất nhiều. Thực hiện được mấy năm, tiền càng nặng mà lúa vải càng rẻ, ruộng đất càng hạ giá, đến nỗi tan nát, biến thành hạng dưới. Xin lấy số hạng nhất và hạng nhì trước thời Hi Ninh ở các lộ, các châu so sánh với cuối thời Nguyên Phong, thì thấy nhiều ít khác nhau rõ ràng, có thể biết được. Đây là điều hại của chế độ thuê dịch đối với hạng trên, thứ nhất. Hạng tư trở xuống, xưa vốn không phải phục dịch, chỉ phải điền vào số tráng đinh, không phải bồi thường gì. Nhưng chế độ thuê dịch đều phải nộp tiền dịch, tuy lấy không nhiều, nhưng người nghèo hèn vô cớ phải nộp ba năm trăm đồng, chưa kịp chuẩn bị, lại có quan lại đến nhà, không có trăm đồng thì không thể thoát được. Tiền nộp quan chưa xong, khoản phí này đã nặng, nên đều biến thành kẻ du thủ, tụ tập thành giặc cướp. Lúc bấy giờ, người bàn luận cũng muốn miễn trừ cho hạng này, nhưng số hộ quá nhiều, tích tiểu thành đa, tiền dịch nhờ đó mà đủ, nếu đều miễn trừ, thì mất đi phần lớn, chế độ thuê dịch không thể thi hành được. Đây là điều hại của chế độ thuê dịch đối với hạng dưới, thứ hai.

Nay đổi sang chế độ sai dịch, thì hai điều hại đều bỏ, thiên hạ may mắn lắm. Chỉ có hạng ba, lúc thuê dịch, mỗi hộ hàng năm nộp nhiều nhất không quá ba bốn ngàn đồng, mà nay ứng một dịch, chi phí ít nhất mỗi ngày không dưới trăm đồng, hai năm một lần thay, phải tốn hơn bảy mươi ngàn đồng, mà thời gian nghỉ xa nhất không quá sáu năm, tức là trong tám năm, trước kia từ từ nộp hơn ba mươi ngàn đồng, mà nay phải nộp một lần hơn bảy mươi ngàn đồng, khổ sở hay sung sướng có thể biết được. Huống chi nông dân làm việc cho quan, lại tham lam, tư lại xảo quyệt, tha hồ bòn rút, chi phí lại không thể đếm được; đây là điều hại của chế độ sai dịch đối với hạng trung, thứ nhất.

Những người bàn luận hiện nay, có người muốn chuyển sang chế độ sai dịch, có người muốn khôi phục lại chế độ thuê mướn, đều là những lời lẽ thiên lệch và quá đáng. Thần ngu muội cho rằng triều đình đã thu tiền sáu loại, cho phép dùng tiền thuê người làm việc để thay thế cho hộ trung đẳng, nhờ đó phần nào loại bỏ được một tệ nạn, đạt được hai lợi ích, đây là phương pháp tốt nhất có thể áp dụng lâu dài. Tuy nhiên, chiếu chỉ ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ hai quy định rằng ở những nơi hộ nhàn rỗi chưa đủ ba phiên, cho phép dùng tiền sáu loại để thuê thủ phân châu, tán tòng quan và người thừa phù, phương pháp này chưa thực sự hợp lý. Tại sao? Dân chúng đóng tiền vốn là để được miễn dịch, nhưng nay lại bị hạn chế bởi số phiên, không cho phép sử dụng hết, để tiền lại trong quan phủ, danh nghĩa không chính đáng. Hơn nữa, số người được thuê quá ít, chưa đủ để giảm bớt gánh nặng cho hộ trung đẳng, pháp luật không đơn giản và rõ ràng, khiến cho bọn lại nhỏ gian ác có thể lợi dụng. Thần đến Hàng Châu, kiểm tra việc thuê mướn ở các huyện, đều không tuân theo pháp luật, các huyện Tiền Đường, Nhân Hòa, Phú Dương đều thuê người, còn hai huyện Tân Thành, Xương Hóa vốn nghèo khó nhất lại không được thuê. Đó là do Ty Chuyển vận đặc biệt đặt ra quy định ngoài pháp luật, khiến các huyện không thể so sánh tổng số hộ các loại. Ở các huyện nghèo, hộ loại nhất và loại hai thường rất ít, đến loại ba thì số hộ lại quá nhiều, vì thế mà số hộ đều đủ ba phiên. Nhưng hộ loại ba làm sao có thể đảm nhận được dịch vụ của loại nhất? Như vậy có thể thấy việc tính chung cả ba loại hộ chỉ là mánh khóe của bọn lại nhỏ, không phải là ý định ban đầu của triều đình khi lập pháp.

Thần vừa sửa đổi thi hành, liền nhận được sắc lệnh ngày 18 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 4: ‘Các châu nơi thiếu người đăng ký làm việc, những người đã hết hạn phục dịch tại địa phương và được thay thế, vẫn theo quy định cũ mà phân công phục dịch, không được chi tiền. Ngoài ra, các châu trừ lại nhân và nha tiền, theo quy định mà phân công, nếu chưa đủ ba năm, thì dùng tiền trợ dịch để chiêu mộ.’ Pháp lệnh này ban ra, quan lại và dân chúng đều không hiểu, so với ba lần trước càng không thông suốt. Sử cũ khen Tiêu Hà làm pháp, rõ ràng như vẽ một nét, ý nói đơn giản dễ hiểu, dù là tiểu lại ở núi non hay dân quê nghèo khó, đều có thể phân biệt và tuân theo, sau đó mới thành pháp lệnh không thể sửa đổi. Thần là người hầu cận, lại giữ chức trưởng dân, không thể không nói. Kính trình bày các điều khoản bất tiện và ý kiến của thần, xin trình bày rõ ràng như sau:

1. Đoạn sắc lệnh trên nói: ‘Xem xét việc chiêu mộ nha tiền từ khi ban chỉ thị, mới được một năm, các châu quân vẫn còn nơi thiếu người đăng ký. Những nha tiền đã hết hạn phục dịch, tuy vẫn được chi trả theo quy định, bắt phải tiếp tục phục dịch, nhưng không phải là nguyện vọng của dân làng, nếu sau này không có ai nguyện đăng ký, thì nha tiền ở làng sẽ không có người thay thế, tức là bắt họ phải phục dịch lâu dài, rõ ràng là không thuận lòng người.

Nay muốn cho các châu nơi thiếu người đăng ký nha tiền, những người đã hết hạn phục dịch tại địa phương được thay thế, vẫn theo quy định cũ mà phân công phục dịch, không được chi tiền, nếu nguyện đăng ký làm lâu dài, hoặc sau này chiêu mộ được người, thì tiền chi trả sẽ được chi trả đầy đủ, đồng thời bãi bỏ việc phân công.

Ngoài ra, trừ những hộ chưa hết hạn phục dịch tại địa phương, theo quy định phải đảm nhận phục dịch của hộ mình, những người đăng ký làm lâu dài sẽ được miễn 20 quan tiền phục dịch của hộ mình. Nếu số tiền nộp ít, không phải là người nộp tiền phục dịch, thì cho phép những người nộp tiền phục dịch thuộc sáu loại được miễn theo số tiền. Đồng thời yêu cầu các giám ty xem xét: nếu nha tiền đang phục dịch có chiếm chỗ hư, có thể giảm bớt số người, giảm số tiền, thêm vào phần chi trả khó khăn để thi hành.’

Thần nay xem kỹ các điều khoản sắc lệnh trước đây, thấy rất bất tiện. Phàm những người trưởng danh nha tiền không thể chiêu mộ đủ, nguyên nhân chính là do tiền chi trả quá ít. Trước thời Nguyên Phong, chưa từng nghe thiên hạ có chỗ thiếu ngạch nha tiền, há thường bắt ép người ta phải nhận chức sao? Chỉ vì lương tháng cho những việc khó nhọc đủ dùng mà thôi. Khi đó, những người phụng mệnh đi sứ như Lý Thừa Chi, Thẩm Quát, Ngô Ung, mỗi lần đi sứ đến, đều lấy việc cắt giảm làm công trạng, đến cuối thời Nguyên Phong, tiền chi trả cho nha tiền có thể nói là vừa đủ mà không còn dư.

Đến đầu thời Nguyên Hựu cải cách pháp luật, lại cắt giảm thêm, phần lớn không chi trả lương tháng, khiến việc chiêu mộ không thể thực hiện được. Nay không quay lại theo nguyên tắc cũ, lại muốn làm khốn khổ thêm việc sai phái ở làng xã, hoàn toàn không chi trả tiền, mà người ứng mộ lại được chi trả đầy đủ, lại còn miễn trừ 20 quan tiền dịch, muốn dùng cách dụ dỗ và ép buộc để khiến mọi người đều ứng mộ.

Tuy nhiên, mỗi năm miễn trừ 20 ngàn tiền dịch, cho phép tính toán với sáu loại hộ dân để miễn trừ, thì số người ứng mộ ngày càng tăng, tiền sáu loại ngày càng giảm. Nếu thiên hạ những người đầu danh nha tiền đều được miễn 20 ngàn này, thì tiền sáu loại còn lại chẳng còn bao nhiêu; nếu chỉ những người được chiêu mộ do thiếu ngạch mới được miễn trừ, thì đều là đầu danh, nhưng sự đối đãi lại khác biệt lớn, lý lẽ ở đâu?

Triều đình đã cho phép mỗi năm miễn 20 ngàn, tức là biết rõ tiền chi trả thiếu hụt, dùng cách này để bù đắp, sao bằng trực tiếp tăng lương tháng cho những việc khó nhọc, khiến việc chiêu mộ được thực hiện? Cái gọi là ‘tính toán với sáu loại hộ dân’, tức là bảo họ tự thương lượng lấy tiền, nếu gặp phải những hộ dân ngoan cố không chịu trả, hoặc đem các vật phẩm định giá cao để bù trừ, kiện tụng lên quan, trải qua nhiều năm tháng mới chịu bồi thường, thì nha tiền thu được chẳng được bao nhiêu, sao bằng quan chi trả 20 ngàn, sáng xin chiều được, há chẳng đơn giản dễ hiểu sao?

Vì thế, thần ngu muội cho rằng các điều khoản sắc lệnh trên đây chắc chắn khó lòng thực hiện lâu dài. Những người bàn luận phần lớn cho rằng nếu quan phủ thêm tiền chiêu mộ, thì dân gian sẽ chờ đợi, chưa chịu đầu danh, để đợi thêm nhiều tiền hơn. Nay tính toán với sáu loại hộ dân để miễn trừ tiền dịch, thực chất chẳng khác gì thêm tiền, dù khéo đặt tên gọi, nhưng thực chất là một. Đại để tiền chi trả đã đủ, thì tuyệt đối không có lý do chiêu mộ không thành. Từ thời Hi Ninh đến nay, chưa từng có ai thiếu ngạch, há có chuyện hôm nay đột nhiên không ai ứng mộ?

Thần nay xin đề nghị ban hành xuống các lộ giám ty, thủ lệnh: các nha tiền trưởng danh khuyết ngạch cần phải hạn định ngày chiêu mộ đủ số. Nếu không đủ, phải trình bày rõ nguyên nhân trước đây thời Nguyên Phong vì sao chiêu mộ được, nay vì sao không đủ, rồi tấu lên. Nếu cần thêm tiền để thuê mướn, thì bàn bạc với giám ty bản lộ, một mặt thi hành xong, trình bày rõ việc không có tổn hại lớn, bảo đảm rồi tấu lên. Nếu hạn kỳ đã mãn mà không có lý do chính đáng mà chiêu mộ không đủ, thì xét hỏi các quan lại liên quan để thi hành. Như vậy, không quá nửa năm, thiên hạ chắc chắn sẽ không còn nha tiền trưởng danh khuyết ngạch, mà số tiền thêm vào, chưa chắc mỗi người mỗi năm phải thêm hai mươi ngàn, lại chỉ dùng tiền phường trường, hà độ, không như pháp hiện nay tính toán miễn trừ xâm dụng lục sắc tiền.

2. Đoạn sắc lệnh trước có viết: ‘Xem xét việc sai phái hộ dân trong làng dựa trên vật lực dày mỏng, đẳng cấp cao thấp, đinh khẩu tăng giảm, nên không thể định thường xuyên, e khó hạn định phiên thứ chiêu mộ. Không bằng ước định năm nhàn rỗi, để định pháp sai phái, lập thứ tự dịch nhẹ nặng, thuê mướn dịch nhân, thấy rõ sự công bằng, lại có thể dùng tiền dịch thừa để cắt giảm số tiền mà hộ không có đinh và hộ nữ phải nộp. Muốn các châu trừ lại nhân, nha tiền ra, theo điều lệ định sai. Nếu nhàn rỗi chưa đủ ba năm, thì căn cứ vào các hộ chưa đến, dùng tiền trợ dịch để chiêu mộ, đợi có hộ thì ngừng chi. (Những người đã thuê mướn, theo thời hạn bản dịch, đợi đủ ngày thì sai phái ngừng. Sau này gặp việc chiêu mộ, theo đây.) Và dùng tiền trợ dịch một lộ, trừ theo điều lệ lưu lại một phần để chuẩn bị, căn cứ số tiền thừa, lại cắt giảm trong số tiền dịch mà hộ không có đinh và hộ nữ phải nộp, trình bày số liệu tấu lên. Tất cả các chỉ huy trước đây về việc thuê mướn dịch châu và phân phiên, không thi hành nữa.’

Thần nay xem xét các việc sai dịch, đại để lấy hai năm làm một phiên. Theo chỉ huy trước đây, nếu hộ dân nhàn rỗi chưa đủ ba phiên thì phải thuê mướn, đó là ân điển của thánh thượng vốn muốn dân chúng được nhàn rỗi sáu năm. Nay vô cớ đột nhiên giảm xuống còn ba năm, quan lại và dân chúng không ai không kinh ngạc, cho rằng hộ dân trung đẳng đang khổ vì sai dịch, đang mong triều đình ban thêm ân điển, mà tiền lục sắc may còn dư, đáng lẽ nên tăng thêm số phiên, nhưng lại giảm xuống còn ba năm, nông dân đều bàn tán xôn xao rằng: ‘Trước đây sai dịch tuy rất vất vả, nhưng triều đình còn cho chúng ta nhàn rỗi sáu năm; nay chỉ cho nhàn rỗi ba năm, ắt là triều đình cần tiền này để dùng vào việc khác.’

Đang lúc hai thánh thượng thân hành nhân hậu, thiên hạ quy tâm, bỗng có lời này truyền đi xa gần, thật đáng tiếc. Tuy nói rằng ‘trừ lượng để lại một phần để chuẩn bị, căn cứ vào số dư, lại từ tiền sai dịch của hộ không có đinh và hộ nữ mà giảm bớt’, nhưng đây chỉ là lời nói suông không thực tế, chỉ là người đề xuất giả danh này để củng cố lập luận của mình.

Thần xin hỏi triều đình: thời gian sai dịch của các hộ dân, mỗi người mỗi khác; trong huyện có hộ hay không có hộ, mỗi ngày mỗi khác; thêm vào đó việc thu thuế sản, đinh khẩu tăng giảm, dù có trí tuệ thánh nhân cũng không thể biết trước, việc thuê hay sai dịch phải đến khi xảy ra mới quyết định. Làm sao có thể một năm trước biết trước số tiền cần dùng năm sau, thấy dư dả liền giảm bớt? Thần biết pháp này chắc chắn không thể thực hiện, chỉ là lời nói suông mà thôi. Nếu nay đã giảm bớt số dư, năm sau không đủ, lại phải tăng lên, tăng giảm lộn xộn, sổ sách rối ren, trăm điều tệ hại nảy sinh, không thể kể xiết.

Hiện nay hộ dân trung đẳng đang khổ vì sai dịch, mà hộ lục sắc lại vui vì xuất tiền. Người khổ lại giảm thêm ba năm, người vui lại được giảm bớt, lý lẽ ở đâu? Đại để tiền lục sắc, vốn là để miễn dịch, lý ra phải dùng hết để thuê người, trừ lượng để lại chuẩn bị, một đồng cũng không nên giữ lại, như vậy việc đơn giản mà pháp ý thông suốt, danh chính mà lòng người phục. Chỉ có một việc không thể không cân nhắc kỹ, đó là mỗi châu mỗi huyện, số tiền lục sắc nhiều ít khác nhau, nếu dùng hết để thuê người, thì khổ vui không đều, nơi nhiều tiền, hộ sai dịch quá ưu đãi, so với hộ lục sắc, lại thành không dễ dàng.

Thần nay xin khởi kiến, mong rằng từ nay về sau, tiền sáu loại nên để dành một năm để chuẩn bị (như năm Nguyên Hựu thứ tư chỉ được dùng tiền năm Nguyên Hựu thứ hai, còn tiền năm thứ ba để dành chuẩn bị sử dụng). Và ước tính các khoản chi tiêu hợp lý khác (như tiền thuê người của quan lại), phần còn lại giao cho Đề hình, Chuyển vận cùng với Thủ lệnh bàn bạc, căn cứ vào tình trạng giàu nghèo của các hộ dân ở từng châu, từng huyện, số lượng dịch vụ, sắp xếp trước, dùng tiền sáu loại của một lộ để phân phối thông dụng, khiến các châu huyện đều dùng tiền thuê người, căn cứ vào mức độ nặng nhẹ của dịch vụ tại địa phương để ưu tiên.

Như vậy, việc sẽ đơn giản và dễ thực hiện, tiền phân phối đều và không có tệ nạn, việc thuê người được mở rộng, hộ trung lưu dần được cứu giúp, thì phép sai dịch tốt có thể được duy trì lâu dài mà không thay đổi.”

Thiếp hoàng: “Nếu thực hiện phép này, từ nay về sau, những hộ dân nhàn rỗi ba năm, quan lại che giấu không sai phái, lại thuê mướn, không có cách nào kiểm tra. Dù cho phép người tố cáo, nhưng nếu không phải là người hay gây sự kiện tụng, ai sẽ chịu tố cáo? Nếu có hộ nhàn rỗi từ ba năm trở lên chưa được xử lý, chỉ căn cứ vào thời gian nhàn rỗi để quyết định, hay còn dựa vào tài sản cao thấp để định sai phái, nếu không có quy định rõ ràng, từ nay về sau kiện tụng chắc chắn sẽ nhiều.

Những điều trên xin trình bày như trước. Triều đình cải cách pháp luật nhiều năm, đến nay lòng dân vẫn còn bất ổn, thần ở ngoài, mắt thấy tai nghe, chính vì mấy việc này.

Kính mong Thánh từ cùng các đại thần chấp chính sớm quyết định phép này, dứt khoát mà dừng lại. Nếu giao lại cho các cơ quan, thì việc chi tiêu chắc chắn sẽ không có kết quả, ngày qua ngày, nông dân suy yếu, nỗi lo không nhỏ. Thần xúc phạm uy trời, kính chờ sự trừng phạt.”

(Sắc ngày 24 tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ hai, lại có sắc ngày 18 tháng 4 và tháng 8, thực lục đều không ghi chép, không biết lời thỉnh cầu của Tô Thức sau này được chấp thuận hay bác bỏ thế nào, tạm ghi lại đây, cần xem xét kỹ để sửa chữa.)

[12] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu rằng: “Các điều lệ của các phòng thuộc Xu mật viện đã lâu chưa được biên soạn; lại từ sau khi cải cách quan chế, các việc cũ thuộc về các ty khác, những điều còn lại cũng chưa được sửa chữa, rườm rà khó kiểm tra sử dụng. Sai Thừa chỉ ty thu thập biên soạn, lấy Phụng nghị lang Thái Nhân, Tuyên đức lang Hoành Quy sung làm Biên tu quan.”

[13] Trước đó, Ngự sử trung thừa Lương Đào, Tả gián nghị đại phu Lưu An Thế vào chầu ở điện Diên Hòa, Thái hoàng thái hậu sai liệt kê tên họ các bề tôi có thể dùng để tiến cử, bấy giờ Đào và An Thế cùng tấu rằng: “Thần trộm nghĩ rằng việc bổ nhiệm lớn trong triều đình, vốn nên xuất phát từ ý của bệ hạ, các đại thần bên cạnh cũng không nên can dự, vốn không phải là điều thần có thể dám bàn nhẹ.

Bệ hạ đặc biệt tỏ lòng thành, cúi xuống hỏi han, muốn tham khảo ý kiến công luận bên ngoài để giúp ích cho quyết định của bệ hạ, thần không dám cố tránh tội vượt quyền, xin dâng tên lên: Lại bộ thượng thư Phó Nghiêu Dũ vốn có đức hạnh, được mọi người kính phục, nghiêm trang giữ mình, có phong thái đại thần, từng trải qua chức vụ đài gián dưới triều Nhân Tông, Anh Tông, có tiếng là chính trực; Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Tô Tụng học vấn uyên bác, thông thạo điển chương, dưới triều Thần Tông từng giữ chức Tri chế cáo, vì không soạn chiếu bổ nhiệm kẻ gian là Lý Định làm Ngự sử mà bị cách chức về ban, từ đó nổi tiếng.

Kính mong thánh từ xét hỏi thêm.”

(Đào và An Thế tấu rằng: “Ngày mồng 8 tháng này[13] vào chầu ở điện Diên Hòa tâu thánh chỉ”, tức là ngày mồng 8 tháng 11, nay phụ vào ngày 17 trước khi Phó Nghiêu Dũ làm Trung thị.)

[14] Ngày Quý Mùi, Chính nghị đại phu, Thủ môn hạ thị lang Tôn Cố làm Quang lộc đại phu, Tri Xu mật viện sự, Trung đại phu, Thủ trung thư thị lang Lưu Chí làm Thủ môn hạ thị lang, Triều thỉnh đại phu, Thí Lại bộ thượng thư Phó Nghiêu Dũ làm Trung đại phu, Thủ trung thư thị lang.

[15] Ngày Giáp Thân, Ty An phủ vùng biên giới phía bắc Hà Bắc tâu: “Trại Hạng Cô thuộc châu Thương bắt được một chiếc thuyền của người phương bắc, tra hỏi thì biết là hộ dân Tôn Văn Tú ở châu Trác đi đánh cá gặp gió trôi dạt vào đây. Nếu theo lệnh mà bắt sung vào quân Sương thì họ không phải là giặc cướp hay gian tế, triều đình nên thể hiện ân tín để vỗ về bốn phương, xin cho các ty giám sát ở châu Hùng gửi trả họ về phương bắc.” Triều đình đồng ý.

[16] Xu mật viện tâu rằng châu Lan nằm bên bờ sông lớn, lo rằng mùa đông sâu sông sẽ đóng băng. Vua xuống chiếu cho Phạm Dục xem xét tình hình sông đóng băng những năm trước, điều động binh tướng đến châu Lan, thành Định Tây và các nơi khác để phòng thủ.

[17] Tri châu Long Tứ ở Khê Động là Bành Doãn Tông, Phó sứ Áp án Bành Doãn Kim, Tri châu Giám là Bành Sĩ Minh[14], Phó sứ Áp án Bành Nho Dũng, Tri châu Cát là Bành Nho Sùng, đều dâng vải Khê nhân dịp tiết Hưng Long, Đông chí và Chánh đán.

[18] Tả Trung tán đại phu, Tri châu Kinh là Vương Thuyết được thăng làm Lang trung bộ Từ. Tri châu Quế, Bảo văn các Đãi chế Miêu Thời Trung được bổ làm Phó sứ Phát vận các lộ Giang, Hoài, Kinh, Chiết, Trực Long đồ các Tôn Lãm được quyền Tri châu Quế.

[19] Ngày Mậu Tý, Tam tỉnh tâu: “Các văn thư hành khiển của Lục tào, Tự, Giám thường bị chậm trễ, trước đây đã có biện pháp nhưng vẫn chưa dứt hẳn. Nay số lại viên đã giảm, nếu không cắt giảm thêm thì vẫn tốn nhân lực, dẫn đến tích tụ. Nếu bản án nào rõ ràng bị chậm trễ, hạn trong một tháng phải tâu trình.” Triều đình đồng ý.

[20] Ngự sử Trung thừa Lương Đào tâu: “Thần nghe rằng giảm lại không bằng giảm quan, giảm quan không bằng giảm việc. Triều đình nhiều lần ban lệnh giảm lại, thực là biết điều cấp bách, nhưng chưa đạt đến chỗ cốt yếu. Tệ nạn ngày nay, chính là do các cơ quan không thống nhất trong việc thi hành, văn thư qua lại rườm rà.

Nay dù đã giảm bớt bổng lộc của lại viên, lại cắt giảm số lượng lại viên, nhưng việc thì vẫn không giảm. Việc ngày càng nhiều, mà nguồn gốc không dứt; người ngày càng ít, mà cắt giảm không ngừng. Lộc có nỗi lo không đủ, chức có nỗi lo bị cắt giảm, muốn họ tránh khỏi tệ cẩu thả, qua loa, làm sao được? Phải khiến mọi người có tâm an ổn, tự cố gắng, thì mới có thể trách họ đạt hiệu quả.

Thực sự có thể hợp nhất các chức quan và thống nhất việc thi hành, giản lược việc và đơn giản văn thư, quan ngày càng tu chỉnh, việc ngày càng có trật tự, sau đó mới có thể giảm bớt bổng lộc của lại viên. Khiến lộc của họ không còn nỗi lo không đủ, chức không còn tệ cẩu thả, lấy điều này để thị uy, lòng người tất phục, thì lo buồn oán hận từ đâu mà sinh? Đây thực là một phương diện giúp ích cho thánh chính.”

Thiếp hoàng: “Ngự sử đài điểm kiểm thấy các nơi văn thư vẫn như cũ chậm trễ, mỗi lần thúc giục, phần nhiều xin gia hạn nhiều lần mới có thể hồi báo. Nguyên do là vì các cơ quan trên dưới xử lý vòng vo, nếu lại cắt giảm lại viên, thì càng chậm trễ, dù có ứng phó được, tất nhiên cũng không đến mức tinh tường. Việc về sau càng không tiến hành, các cơ quan tất lại xin thêm người, lẽ phải ứng phó. Như vậy, thì rối rắm khó thành phép tắc, điều này không thể không thận trọng.

Nghe nói các nơi đã cắt giảm nhiều lại viên, nhưng việc văn thư qua lại vẫn rườm rà như cũ. Như vậy, thì sức người tự nhiên không đủ, làm sao việc không chậm trễ?

Kính xin Thánh từ xem xét kỹ, sớm ban chỉ thị. Trước đây lệnh cắt giảm một phần tư chưa xong, lại có lệnh cắt giảm tiếp, nên lại viên các bộ thường nghi ngờ cẩu thả[15], không còn cố gắng. Nay không lo làm trong sạch nguồn gốc của việc, chỉ muốn giảm lại, đây là người đề xuất không suy nghĩ kỹ.” (Lời tâu của Đào không đúng thời, phụ sau việc lại viên ba tỉnh trình bày sự chậm trễ.)

[21] Ngày Kỷ Sửu, Thái hoàng thái hậu ban chiếu rằng: “Ba triều thịnh hội, lễ tiếp kiến quần thần, vương công đến triều, dâng chén chúc thọ, hoàng đế lên ngôi năm năm, kính cẩn đoan trang, mừng vui mới mẻ, nhận lễ triều hưởng. Ta nắm giữ việc cơ mật, giúp đỡ chính sự, tuy được hưởng thái bình, nhưng luôn lo sợ. Nay các quan muốn theo lệ cũ năm Thiên Thánh, làm lễ mừng hội chúc tụng, nghĩ mình kém cỏi, đâu dám sánh với các tiên đế? Theo điển chế, cũng nên tuân theo quy định thường lệ.

Hôm nay, hoàng đế chúc mừng trong cung, quần thần dâng biểu ở phía đông, đủ để tỏ rõ niềm vui của quốc gia, thực hiện phong tục hiếu kính, cần gì phải ra ngoài triều mới làm lễ đầy đủ? Ngày mùng một tháng giêng năm sau, không cần ra điện nhận chúc thọ, đợi hoàng đế làm lễ xong, trăm quan cùng đến cửa Đông dâng biểu.”

Trước đó, Lễ bộ Thượng thư xin theo lệ năm Thiên Thánh, Chương Hiến Minh Túc hoàng thái hậu ngày Nguyên đán ra điện Hội Khánh nhận lễ chúc thọ của hoàng đế, cùng tể thần, bá quan, sứ Khiết Đan chúc mừng, nên có chiếu này.

[22] Do Điện tiền phó đô chỉ huy sứ, Vũ Khang quân Tiết độ sứ Lưu Xương Tộ tâu xin khảo sát đất Lũng Sơn, tổng cộng 10.990 khoảnh, chiêu mộ 5.261 người và ngựa làm cung tiễn thủ, được ban sắc khen ngợi.

[23] Ngày Canh Dần, Xu mật đô thừa chỉ Vương Nham Tẩu được bổ làm Trung thư xá nhân. Nham Tẩu tự nói vợ đã mất là con gái của Tôn Cố, xin tránh việc thân thích.

[24] Long Đồ các trực học sĩ, Chính nghị đại phu Lý Túc Chi qua đời.

[25] Chiếu giáng Chương Đôn một cấp vì tội mua ruộng trái phép, cho làm quan cung quán, đợi mãn tang sẽ cấp cáo.

(Sách 《Chính mục》 chép việc ngày 24, 《Thực lục》 không chép. Ngày 22 tháng 8 năm này, chỉ cho làm quan cung quán; ngày 16 tháng 8 năm thứ 6, phục chức.)

[26] Ngày Tân Mão, nước Đại Thực Ma La Bạt dâng cẩm bố, ngà voi, lưu ly và các vật khác, cùng hai bản biểu chữ Phạn và chữ Hán.

[27] Ngự sử đài tâu: “Văn Ngạn Bác dự yến và được ban ngự diên, lúc đó có ty xin chỉ dụ. Nay gặp tiết Hưng Long, Thượng thư tỉnh ban ngự diên, xin chỉ huy.” Chiếu đều miễn đến dự.

[28] Chiếu: “Từ nay, các tướng, phó, áp đội được sai đến các lộ khác tạm trú, gia thuộc không được đi cùng với binh tướng, phải đợi sau khi tướng, phó, áp đội dẫn quân rời khỏi nơi đó nửa tháng, mới được dời nhà đi. Ngày trở về cũng theo quy định này.”

[29] Ngày Nhâm Thìn, chiếu cho Triệu Tiết đưa 155 người bị bắt ở thành Vĩnh Lạc do Hạ quốc trả về, mỗi người được cấp tiền đi đường và quần áo, chia làm ba đợt, sai sứ thần quản lý đưa về kinh, dọc đường được phép nghỉ tại các dịch xá.

(Bản mới bỏ đi. Ngày 8 tháng 7 năm đầu, ngày 9 tháng 6 năm nay, ngày 4 tháng 2 năm sau cần xem xét.)

[30] Chiếu cho Tào Thi được phục chức Vinh châu Phòng ngự sứ, Phò mã Đô uý Vương Thân đợi thêm kỳ hạn để xin chỉ dụ, do Hình bộ kiểm tra.

[31] Hình bộ tâu: “Các quân dẫn quân đối với quan viên bản hạt không chào, quân thượng bị xử trảm, quân hạ và sương quân bị đi đày ba năm, phối đi Quảng Nam; đối với tướng hiệu, tiết cấp bản hạt, theo phạm cấp bậc và luật cáo thưởng.” Theo đó.

[32] Triều phụng lang, thí Thái thường thiếu khanh Hàn Xuyên được thăng Tả triều tán lang, Trực Long đồ các, Xu mật đô thừa chỉ. (Chính mục không có.) Tả triều thỉnh lang, Bí thư thiếu giám Lâm Đán được thăng Trực bí các, Thái bộc khanh, Tri Minh châu, Tả trung tán đại phu, Trực Long đồ các Vương Phần được thăng Bí thư thiếu giám. Quyền Kinh Tây lộ Chuyển vận sứ, Triều thỉnh lang Vương Tử Uyên được bổ nhiệm Tri Minh châu. Quyền Phát khiển Hoài Nam lộ Chuyển vận sứ, Triều thỉnh lang Bành Thứ Vân được điều đến Kinh Tây lộ. Quyền Tử Châu lộ Chuyển vận phó sứ, Triều phụng đại phu Lã Đào được điều đến Hoài Nam lộ. Sau đó đổi làm Thành Đô phủ lộ.

(Đổi Thành Đô, vào ngày 28 tháng giêng năm thứ 5.)

[33] Triều tán lang Thời Hiếu Tôn làm Chuyển vận phán quan lộ Tử Châu. Tả gián nghị đại phu Lưu An Thế tâu: “Hiếu Tôn tính tình gian tà, khéo léo trong việc tiến thân. Trước đây, khi Vương An Thạch, Tăng Bố, Đặng Oản thay đổi pháp chế, ông ta đã cố ý xu phụ, được tiến cử làm thuộc quan ty Nông tự, thi hành tân pháp ở Hà Bắc, khiến quan dân khổ sở, coi ông ta như chó săn.

Sau đó, Thái Xác nắm quyền, ông ta hết lòng kết giao, lại được làm chủ bạ Ngự sử đài. Khi Hà Chính Thần xét án Lô Nam, đã đưa ông ta đi theo, khiến Chính Thần lừa dối triều đình trước, hành động tàn bạo, Hiếu Tôn đã giúp sức rất nhiều. Khi án xử xong, trở về triều, được thăng làm quan một đạo.

Đầu niên hiệu Nguyên Hựu, bãi bỏ các chức đề cử quan ở các lộ, theo lệ được làm quan quận, các quan đã bất bình. Nay Chính Thần đã bị cách chức, mà Hiếu Tôn vẫn còn làm giám ty, thăng giáng khác nhau, công luận chưa thoả. Xin bệ hạ xét lại hành trạng của ông ta, thấy rõ tội trạng, thu hồi mệnh lệnh mới, để ngăn chặn kẻ gian tà.” Ngự sử cũng tâu như vậy. Chiếu cho Hiếu Tôn đổi làm quyền tri châu Ngạc Châu.

(Việc đổi mệnh làm Ngạc Châu vào ngày 16 tháng 12, nay ghi chung lại.)

[34] Thượng thư tỉnh tâu, sửa đổi luật phạt tù hai năm đối với những người thuộc phát vận, chuyển vận, đề hình tham gia yến hội có ca kỹ. Được chấp thuận.

[35] Ngày Quý Tỵ, Xu mật viện tâu: “Nay định lập pháp, các châu, huyện, trấn, thành, bảo, trại ở vùng biên giới khi xây dựng công trình, thiếu quân sương, nếu là nơi quan trọng, mới được thuê quân cấm, và phải tâu xin chỉ dụ triều đình; nếu việc gấp, không kịp chờ báo, thì thuê xong mới tâu.” Được chấp thuận.

(Không có trong bản mới.)

[36] Trung thư thị lang Phó Nghiêu Dũ tâu: “Thần vào ngày 22 tháng này được mặt mũi vâng theo thánh chỉ, lệnh cho thần cùng các tể thần bàn bạc thêm việc sông, kín đáo tâu lên. Thần cùng Văn Ngạn Bác, Lã Đại Phòng và các vị khác bàn bạc, thần vì tài mỏng chức nhẹ, không thể thay đổi được, lại thêm việc bàn luận ở đô đường, thể thức phải nhún nhường thuận theo, thứ tự nhất định không thể thay đổi.

Nay đang giữa mùa đông, đã huy động hơn năm vạn dân phu, binh lính và công nhân chưa kể, tương lai các nơi điều động hàng chục vạn dân phu, hao tổn tài sản quốc gia, kiệt quệ sức dân, để làm việc không gấp mà chưa chắc thành công; lại lo mùa xuân gặp mưa tuyết giá lạnh, không chỉ oán than tan rã, uổng phí vật liệu tiền lương, còn e rằng tổn hại nhân mạng, số lượng không ít. Điều này bệ hạ đã biết rõ, thần không cần bàn thêm. Nay người chủ trương nói muốn đổi dòng sông để giảm nhẹ nạn nước chảy về bắc, nhưng chưa từng lo phòng bị đê điều ở phía bắc, nếu tương lai dòng sông không chịu chảy về đông, không may lại gặp lũ lớn, thì nạn nước chảy về bắc, làm sao ngăn chặn được?

Kính mong bệ hạ nhân lúc giá rét tuyết rơi, hoặc nhân việc khác, ban chỉ huỷ bỏ ty đổi dòng sông, giữ lại cửa Tôn Thôn để phòng giảm nước lũ, liền sai kiểm tra tính toán đê điều khẩn cấp phía bắc, sửa chữa nhanh chóng, không để sơ suất. Đợi ba năm năm nữa, xem lại tình hình sông, rồi mới bàn bạc riêng, thì cả hai bên đều không mất mát, trên dưới yên vui, có thể cứu sống dân chúng Hà Bắc, biến họa thành phúc, lợi ích vô cùng, chỉ cần bệ hạ quyết đoán một lời mà thôi.”

(Nghiêu Dũ tự chú: “Ngày 27 tháng 11 tâu việc này.” Ngày 28 tháng 9, Phó Nghiêu Dũ lần đầu tâu.)

[37] Ngày Giáp Ngọ, Thượng thư tỉnh tâu: “Các châu quân tâu án quá hạn chưa báo, xin lệnh cho nơi đó mỗi tháng trình lên Hình bộ và Đô tỉnh. Nhiều lần căn cứ vào tờ trình của các châu, thúc giục Hình, Pháp tự xử lý các vụ án chưa quyết, số lượng vụ án còn tồn đọng rất nhiều, e rằng sẽ làm chậm trễ việc xử án. Vì trước đây bản tỉnh đã từng thiết lập riêng một phòng để đốc thúc, sau này sáp nhập vào Thôi khu phòng, cùng với văn thư của Lục tào hỗn hợp đốc thúc, không được chuyên nhất. Nay Ngự sử hình phòng chuyên trách việc này, thực sự là phù hợp giữa phức tạp và đơn giản, không cần thêm biên chế và lương bổng. Các quy định về thời hạn và hạn chế đốc thúc, vẫn theo quy chế cũ của Thôi án phòng, lấy tên là ‘Ngự sử thôi án hình phòng’, sổ sách đốc thúc theo pháp của Ngự sử hình phòng.” Được chấp thuận.

[38] Ngự sử Trung thừa Lương Đào tâu: “Thần từng luận tấu xin dùng lại phép cũ của Tam ty và Giác hóa vụ thời tổ tông, thông hành buôn bán để mở rộng nguồn tài chính quốc gia, may được bệ hạ sáng suốt chấp nhận, chọn quan kiểm thảo. Đã sắp nửa năm mà chưa thấy có kết quả, chỉ nghe nói lấy cớ tìm kiếm tài liệu để kéo dài thời gian, các quan lại mệt mỏi vì phải xem xét văn thư, đều báo cáo là đã thất lạc, chỉ toàn lời nói suông, khó mong đạt hiệu quả thực tế. Đó là muốn dùng kế hoãn binh để trì hoãn, chứ không có tâm cứu tệ lập sự.

Thần nghĩ rằng hiện nay tài chính thiếu thốn, nếu không thông thương buôn bán để mở nguồn lợi thì ắt phải bắt dân đóng góp. Nay sức dân đã kiệt quệ lâu ngày, dù có tăng thuế má cũng đã hết cách, nếu không thì trăm phương nghìn kế bòn rút, hà khắc khắc nghiệt, trên làm tổn hại quốc thể, dưới làm mất lòng dân, tổn hại ân huệ, hại chính sự, không nên làm vậy.

Thần nghĩ bệ hạ may mắn có phép tắc sẵn của tổ tông, nhiều điều thích hợp với thời nay, nếu được quan lại trung thực nhân minh bàn bạc rồi thi hành thì của cải sẽ dồi dào, dùng không hết. Kính mong bệ hạ đặc biệt ra chỉ thị, tăng cường đốc thúc, may ra không để việc bị bỏ dở, bổ sung cho nhu cầu cấp bách hiện nay.”

Thiếp hoàng: “Điều thần xin là lấy sách thành văn dâng lên triều đình, rồi mới bàn bạc chọn lọc, sau khi đã định ra phép tắc mới thi hành. Nay chỉ kiểm thảo văn thư đã gần nửa năm, thì thời gian thi hành còn lâu mới biết được. Không tìm hiểu tận gốc, ắt sẽ thấy bị bỏ bê. Kính xin bệ hạ ra chỉ thị, bắt phải hoàn thành trong thời hạn gần. Việc này phải nhờ triều đình chủ trì mới làm được, nếu chỉ giao cho quan được sai phái, lấy cớ là đang xử lý thì không biết bao giờ mới xong.

Kính mong bệ hạ trực tiếp răn bảo các quan chấp chính, coi việc lớn quốc gia là trọng, để tâm vào việc chung để cứu vãn tệ nạn thời cuộc.”

(Lời tâu của Đào không ghi rõ thời gian. Lời tâu trước vào ngày 7 tháng 6, nay nhân Đào nói “sắp nửa năm” nên phụ lục vào cuối tháng 11. Được chỉ thăng quan vào ngày 16 tháng 6.)

[39] Có nhà sư ở Hàng Châu tên là Tịnh Nguyên, trước đây sống ở ven biển, thường giao thiệp với khách buôn nước ngoài để kiếm lợi. Khách buôn đến Cao Ly, đều khen ngợi ông ta. Cuối năm Nguyên Phong, vương tử Cao Ly là Nghĩa Thiên sang triều cống, nhân đó đến bái kiến Tịnh Nguyên. Đến lúc này, Tịnh Nguyên chết, đồ đệ của ông ta lén lấy bức chân dung, nhờ khách buôn đưa sang báo tin. Nghĩa Thiên cũng sai đồ đệ là Thọ Giới cùng người khác đi thuyền buôn sang làm lễ tế. Sau khi tế xong, họ nói rằng quốc mẫu sai mang hai tòa tháp vàng để chúc thọ hoàng đế và thái hoàng thái hậu.

Tri Hàng Châu là Tô Thức không nhận, tâu rằng: “Từ năm Hi Ninh đến nay, Cao Ly nhiều lần vào cống, đến cuối năm Nguyên Phong, trong khoảng 16, 17 năm, chi phí tiếp đãi và ban thưởng không thể kể xiết. Ba lộ Lưỡng Chiết, Hoài Nam, Kinh Đông xây thành, đóng thuyền, dựng đình quán, điều động nông dân và thợ thuyền, xâm phạm lợi ích của thương nhân, gây náo động khắp nơi, cả công lẫn tư đều kêu ca. Triều đình chẳng được lợi gì, mà nước ngoài xa xôi lại thu lợi lớn. Sứ giả đi đến đâu, vẽ hình sông núi, mua sách vở. Người bàn luận cho rằng những thứ được ban thưởng, phần lớn đều rơi vào tay Khiết Đan.

Tuy không thể xác minh được thực hư, nhưng sức mạnh của Khiết Đan đủ để quyết định họa phúc của Cao Ly. Nếu không có âm mưu ngầm, thì Cao Ly sao dám công khai vào triều? Những người có học thức trong nước đều lo lắng sâu sắc. Từ khi hai vị thánh kế vị, Cao Ly nhiều năm không đến, quan lại và dân chúng ở Hoài, Chiết, Kinh Đông đều vui mừng được nghỉ ngơi, chỉ có Phúc Kiến là nơi nhiều người làm nghề buôn bán trên biển, trong đó có những kẻ xấu vẫn dám giao thiệp, dẫn dụ để mong kiếm lợi lớn.

Thần vừa nghe việc này, đang định điều tra xử lý, thì Thọ Giới và những người khác đã theo thuyền buôn của thương nhân Từ Tiễn ở Tuyền Châu đến đây. Hơn nữa, Cao Ly lâu không vào cống, mất đi lợi lớn từ ban thưởng, đã muốn vào triều từ lâu, nhưng chưa biết triều đình đối đãi hậu hĩ hay sơ sài, nên nhân dịp tế vong tăng mà làm lễ chúc thọ, lễ nghi đơn sơ, cũng có thể thấy được. Nếu nhận mà không đáp lại, thì nước ngoài xa xôi có thể oán giận; nếu ban thưởng hậu hĩ, thì đúng là rơi vào kế của họ.

Thần cho rằng triều đình nên không biết đến việc này, mà để châu quận từ chối. Tuy nhiên, những nhà sư tầm thường và thương nhân xảo quyệt tự tiện dụ dỗ nước ngoài, đòi hỏi lợi lớn, gây việc cho quốc gia, không thể để tình trạng này kéo dài, nên nghiêm khắc trừng trị.”

Chiếu đều theo lời tâu. Không lâu sau, sứ giả Cao Ly quả nhiên đến, Tô Thức căn cứ theo lệ cũ, ước tính chi phí thực tế ở bảy châu Ngô Việt là hơn 24.000 quan tiền, chưa kể chi phí của dân gian, bèn lệnh cho các quận căn cứ tình hình mà cắt giảm. Khi sứ giả đến, dân chúng được lợi từ việc buôn bán, mà không bị quấy nhiễu.

(Theo bia mộ của Tô Thức, và thêm một ít từ tấu chương của ông.)

[40] Tô Thức lại tâu:

(Tờ tấu này là ngày mùng 4 tháng 11 dâng lên, nay phụ vào cuối tháng.)

“Vùng Chiết Tây gồm bảy châu quân, mùa đông xuân nước ngập, không trồng được lúa sớm, đến tháng năm, tháng sáu nước rút mới cấy lúa muộn, lại gặp hạn hán, cả lúa sớm và muộn đều bị thiệt hại, vùng cao thấp đều bị ảnh hưởng, dân chúng thiếu lương thực, không năm nào khốn khó như năm nay. Hiện nay giá gạo mỗi đấu chín mươi đồng, dân nghèo từ mùa đông đã có người đói.

Vùng Lưỡng Chiết là xứ nước, trồng lúa mạch rất ít, vụ mùa năm sau phải đợi đến mùa thu, nhưng được mất chưa biết thế nào, rất lo sợ rằng vào khoảng giao mùa xuân hạ năm sau, tất sẽ xảy ra nạn đói và trộm cướp. Ty Kiềm hạt đã bàn bạc với các ty Đề, Chuyển, chuẩn bị nhiều phương án, ngoài ra còn có những việc cần tâu lên, xin trình bày cụ thể như sau:

Thứ nhất, năm sau Ty Chuyển vận phải nộp số lượng lương thực cung ứng và bù đắp nợ cũ, tổng cộng hơn một triệu sáu mươi vạn thạch. Tiền bạc trong lộ hầu như cạn kiệt, việc thu gom và chuyển đổi không thực hiện được, quan lại vội vàng hoàn thành nhiệm vụ, chỉ cốt tránh bị trách phạt, thúc ép thuế má, đòi nợ cũ, kiểm soát việc nấu rượu lậu, trốn thuế, chắc chắn sẽ gấp nhiều lần so với ngày thường. Dân đói nghèo không có đường thoát chết, ắt sẽ tụ tập thành bọn trộm cướp.

Lại vì số lượng lương thực cung ứng quá lớn, chưa chuẩn bị được gì, hiện nay các châu đang tích cực thu mua, mệnh lệnh nghiêm ngặt, quan lại không tránh khỏi việc ngăn chặn lúa gạo, tăng giá mua đắt, khiến giá gạo tăng vọt, dân nghèo thiếu ăn. Kính mong bệ hạ thương xót vùng này từng chịu nạn đói dịch vào năm Hi Ninh, người chết quá nửa, đến nay thành thị vẫn tiêu điều, mười người thì chín người còn nợ nần quan tư. Nếu không tích cực cứu tế, thì dân còn lại trong vùng ắt sẽ chết nơi gò hoang. Nay cũng không dám mong triều đình ban thêm tiền gạo, chỉ mong giảm bớt số lượng lương thực cung ứng của Ty Chuyển vận, thì quan lại tự nhiên không thi hành chính sách thúc ép, mà dân sẽ được hưởng ơn.

Xin bệ hạ quyết định, năm sau số lượng tiền lương thực cung ứng của bản lộ tạm thu một nửa hoặc hai phần ba, phần còn lại đợi mùa màng tốt, chia làm hai năm, theo số lượng cung ứng hàng năm mà nộp, để công tư đều được thông suốt. Lại sợ quan lại thấy năm sau được giảm bớt, may mắn được thuyên chuyển, không cố gắng thu xếp chuẩn bị để bù đắp số lượng hàng năm.

Xin đặc biệt ra lệnh, phải thu đủ số lượng theo năm, nếu gặp thuyên chuyển, phải giao nộp số lượng đã thu được cho người kế nhiệm, không được vượt quá thời hạn.

Thứ hai, hiện nay các châu đều mua gạo thường bình và lương thực quân đội ở kho tỉnh, lại mua gạo cung cấp trên bằng tiền phong trang, danh mục không thống nhất. Quan lại đều cố gắng hoàn thành, tranh giành lẫn nhau, vì thế giá gạo càng đắt. Kính mong bệ hạ nhanh chóng xem xét, nếu các kho ở kinh thành không cần dùng số gạo này, thì lệnh cho các quan đề hình, chuyển vận nhanh chóng kiểm tra các châu, nếu kho tỉnh không thiếu nhu yếu quân đội, ngoài số gạo thường bình đã mua đủ, thì không được mua thêm, để giá gạo hạ bớt, dân chúng không đến nỗi khốn đốn.

Thứ ba, vùng Chiết Trung vốn nổi tiếng là thiếu tiền, nay lại càng nghiêm trọng hơn. Dân chúng mang bạc, lụa, tơ, bông ra chợ, không ai thèm ngó tới, các nhà cầm đồ thường đóng cửa ban ngày[16]. Nếu có được hai ba mươi vạn quan tiền, phân phát trong dân gian, thì như nước cứu lửa. Xin chỉ thị cho các quan đề hình, chuyển vận, lệnh đem số tiền phải cung cấp trên phân phát cho các hộ nộp thuế ở các châu, bảo họ mua vàng, bạc, lụa, lĩnh để nộp đủ số lượng hàng năm.

Thứ tư, từ trước đến nay ở Chiết Trung, bọn gian dân kết thành bè đảng, buôn bán muối lậu, khi gấp thì thành giặc cướp. Gần đây triều đình giảm mạnh giá muối, là chính sách nhân đức nhất, nhưng việc kết bè buôn bán vẫn chưa giảm nhiều, lo sợ dân đói khổ sẽ tản ra vùng biển, bè đảng càng đông, có thể trở thành mối họa lớn.

Xin triều đình ra lệnh, tất cả bọn trộm cướp tình tiết nặng và bè đảng buôn muối lậu, đều cho phép báo lên cơ quan Kiềm hạt, tạm thời xử lý ngoài pháp luật, đợi đến mùa màng thuận lợi thì trở lại như cũ, nhằm trấn áp bọn gian ngu, khiến chúng biết sợ. Có chiếu cho phép giữ lại một phần ba số gạo cung cấp cho triều đình.”

(Chiếu cho phép giữ lại một phần ba số gạo cung cấp cho triều đình, việc này căn cứ theo 《Thức mộ chí》. Tấu chương của Thức nên chọn lọc, không cần ghi đầy đủ, nhưng cũng có thể thấy tình hình lúc đó, nên giữ lại. Thức vào ngày 14 tháng 2 năm thứ 5 tấu rằng: “Nhờ triều đình ban cho 20 vạn thạch gạo cung cấp, để bán ra ở địa phương.”)

Nhờ đó giá gạo không tăng cao, lại được ban 100 đạo độ điệp, đổi lấy gạo để cứu đói. Năm sau vào mùa xuân, liền giảm nửa giá bán gạo thường bình, dân chúng đều được cứu giúp. Thức lại nấu cháo và thuốc men, sai quan lại cùng thầy thuốc đi chữa bệnh, cứu sống được rất nhiều người. Thức nói: “Hàng Châu là nơi giao thông đường thủy bộ, vì dịch bệnh mà chết nhiều hơn các nơi khác.” Thức bèn thu gom tiền thừa, được 2000 quan, lại bỏ tiền riêng ra 50 lạng vàng, để lập bệnh xá, tích trữ tiền lương phòng khi cần, đặt tên là “An Lạc”. Đầu niên hiệu Sùng Ninh, đổi tên thành “An Tế”.

(Ngày 26 tháng 5 năm Sùng Ninh thứ 2, đổi tên An Lạc phường ở Hàng Châu thành “An Tế”.)

[41] Tháng này, châu Hựu gửi công văn: đã chỉ huy các quan được ủy nhiệm, khi cần có thể lấy thẳng ở nơi gần, cho phép liên kết với nhau để lấy thẳng và phân chia.

(《Chính mục》 có ghi việc này, cần xem xét kỹ.)


  1. Chữ 'tỉnh' trong 'Bí thư tỉnh chính tự' nguyên là 'lang', theo 《Tống sử》 quyển 169, chức quan chí, chế độ thăng chuyển sửa lại. Dưới 'chính tự' nguyên có thêm bốn chữ 'Thái tử chính thân', theo sách trên đã bỏ.
  2. Chữ 'ty' dưới 'Tam ty tử ty phán quan' nguyên văn là 'đồng', chữ 'tử' nguyên văn thiếu. Xét: Sách trên câu này viết là 'Tam ty tử ty chủ phán quan', theo đó bổ sung và sửa lại.
  3. 'Không có xuất thân chỉ chuyển sang Từ bộ', chữ 'không' nguyên văn là 'có', theo sách trên sửa lại.
  4. 'Người có xuất thân hợp lệ chuyển sang Hữu danh tào theo quy định này', chữ 'có' nguyên văn là 'không', theo sách trên sửa lại.
  5. 'Tu khởi cư chú', chữ 'tu' nguyên văn thiếu, theo sách trên bổ sung.
  6. 'Tả hữu tào, Hữu danh tào chuyển sang Tả danh tào', ba chữ 'Tả hữu tào' nguyên văn thiếu, theo sách trên bổ sung. 'Hữu danh tào' nguyên văn là 'Tả danh tào', 'Tả danh tào' nguyên văn là 'Hữu danh tào', theo bản khác và sách trên sửa lại.
  7. Tư đồ chuyển làm Thái bảo, chữ 'Bảo' nguyên là chữ 'Uý', căn cứ theo sách trên và văn dưới mà sửa.
  8. Thái bảo chuyển làm Thái phó, căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 169, chức quan chí, phần chế độ thăng chuyển, chỗ này và phần trên đều có chỗ thiếu.
  9. Nay vẫn giữ nguyên: Án ngữ này không phải là chú thích nguyên văn của Lý Đào, mà là do người đời Thanh thêm vào, nói rằng chế độ thăng chuyển của văn thần từ kinh quan đến Tam sư trong chú thích có nhiều điểm không khớp với 《Tống sử》 chức quan chí, tức là các điều trên đều căn cứ theo 《Tống sử》 quyển 169, chức quan chí mà sửa.
  10. Tri Bảo Tĩnh quân Bành Nho Vũ, 'Bảo Tĩnh quân' trong 《Tống sử》 quyển 493, phần 'Tây Nam Khê Động chư man truyện' chép là 'Bảo Tĩnh châu'. Dưới tên Bành Nho Vũ, trong 《Tống hội yếu》 phần 'Phiên di 7-40' có thêm 14 chữ: 'Áp án phó sứ Bành Sĩ Quý, Tri Vĩnh Thuận châu Bành Nho Đồng'.
  11. Tri Vị châu Bành Sư Thông, chữ 'Vị' trong các bản và 《Tống hội yếu》 đều giống nhau, nhưng trong 《Tống sử》 lại chép là 'Vị'. Chữ 'Sư' trong 《Tống hội yếu》 chép là 'Tư'.
  12. Ân Đức, chữ 'Đức' nguyên là 'Trạch', theo 《Tống sử》 quyển 91 《Hà cừ chí》 sửa. Xét: Ân, Đức châu đều ở Hà Bắc Đông lộ, Trạch châu ở Hà Đông lộ, xem 《Tống sử》 quyển 86 《Địa lý chí》.
  13. Chữ 'kim' dưới nguyên có chữ 'bát' thừa, theo các bản khác mà bỏ.
  14. Tri châu Giám Bành Sĩ Minh, sách 《Tống hội yếu》 phần Phiên di 7-40 cũng chép như vậy. Xét: Sách 《Vũ kinh tổng yếu》 phần Tiền tập quyển 20 chép về châu Khê Giám thuộc lộ Kinh Hồ Bắc.
  15. Cố Tào bộ đẳng nhân lại vãng vãng hoài nghi cẩu giản 'Đẳng nhân' hai chữ nguyên đảo, theo các bản đính chính.
  16. 'Đóng cửa' nguyên bản là 'nhàn', theo bản trong các các mà sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.