VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 439: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 5 (CANH NGỌ, 1090)
Từ ngày Bính Dần tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 5 đời Triết Tông đến hết ngày Nhâm Thìn cùng tháng.
[1] Tháng 3, ngày Bính Dần mùng một, Trung đại phu, Đồng tri Xu mật viện sự Triệu Chiêm mất. Triều đình ngừng chầu để đến viếng, truy tặng chức Hữu Ngân Thanh Quang Lộc đại phu, thụy là Ý Giản. Theo di biểu, ngoài số thường lệ, đặc cách bổ nhiệm thêm hai người.
[2] Ngày Đinh Mão, xuống chiếu ban cho gia đình cố Long Đồ các Trực học sĩ Tôn Giác 500 quan tiền, lệnh cho địa phương lo việc tang lễ và cho mượn nhà công. Việc này do Ngự sử Trung thừa Lương Đạo thỉnh cầu.
(Chắc vì Tôn Giác từng là quan Kinh diên nên mới có chiếu này, cần xem xét thêm. Tôn Giác mất ngày 3 tháng 2. Việc Lương Đạo thỉnh cầu, theo tấu nghị của Lương Đạo mà thêm vào.)
[3] Đô thủy sứ giả Ngô An Trì tâu rằng, nước sông lớn đang dâng cao[1], xin huy động nhân công để sửa chữa khẩn cấp. (Sách cũ chép: Thuê nhân công sửa chữa dần các công trình khẩn cấp. Sách mới sửa lại: Huy động nhân công để sửa chữa khẩn cấp.) Xuống chiếu đặc cách phát 20 vạn quan tiền trong kho Nguyên Phong để chi trả tiền thuê nhân công.
(Phạm Tổ Vũ, Lương Đạo có bàn việc này, xem thêm ngày 6 tháng này. 《Chính mục》 chép: Ban 30 vạn quan tiền trong kho Nguyên Phong để thuê nhân công trị thủy, mỗi người được 200 đồng, không được cắt giảm.)
[4] Xuống chiếu: “Trước đây, Đông thượng các môn Phó sứ Cảnh Tư Nghị vì bị vây ở thành Vĩnh Lạc, đã thả dây xuống thành để đàm phán hòa bình với người Hạ, bị bắt giữ. Nay đã trao trả những người bị bắt, nhưng Tư Nghị vẫn chưa được thả về. Lệnh cho suý thần Phu Diên lộ là Triệu Tiết trình bày sự việc và gửi văn thư đến châu Hựu.”
(Ngày 4 tháng 2, ngày 18 tháng này.)
[5] Hộ bộ tâu: “Các quan viên, điện thị, quân đại tướng, tuyển nhân, tướng hiệu xin nhận thêm cấp, nếu không theo quy định trong hạn mà trình lên Hộ bộ, thì đánh một trăm trượng; cùng với việc tự ý cấp lịch, và không đợi lịch phân chia đến mà thu nhận, mỗi việc đều phải đi đày hai năm.” Vua theo lời tâu. Việc xin cấp thêm trước đây không có pháp lệnh cấm, nên thường xảy ra tình trạng trùng lặp và giả mạo, có người đã chia đi nơi khác mà vẫn xin nhận toàn bộ, có người đã chết mà nơi chia đi vẫn xin nhận, vì thế mới đặt ra pháp lệnh này.
[6] Ngày Mậu Thìn, Thị ngự sử Tôn Thăng tâu: (Mật sớ ngày 3 tháng 3 năm thứ 5.) “Thần thấy Lý Vĩ, Ngô An Trì từ năm ngoái khởi xướng việc đắp đê ngăn sông, hai người cùng nhau lừa dối triều đình, mà An Trì xảo quyệt gian trá, đã lừa gạt các đại thần, không chịu cùng chịu trách nhiệm, nếu may mắn thành công thì muốn hưởng lợi, nếu thất bại thì đổ lỗi cho người đề xuất, nên đã để Lý Vĩ vào tháng 8 năm ngoái đơn độc tâu trình về những việc hệ trọng của sông lớn, đại lược rằng: ‘Hiện nay sông lớn đã chia dòng, không cần phải đào vét nữa. Do vụ vỡ đê trước đây, dòng chảy về phía đông đã thuận lợi, bồi lắng dần thành lạch nước, hiện đã chia thành hai nhánh, chiếm khoảng một phần ba dòng chính. Nếu có được hai vạn nhân công, khởi công vào tháng 9, đến tháng 10 trời lạnh thì xong, nhờ đó dẫn dòng sông, không chỉ thông suốt hai nhánh mà còn có thể khôi phục lại dòng chính. Hiện nay nhờ việc ngăn dòng đông, tu sửa các đập chắn, nên tiếp tục tăng cường, mỗi đập mang lại lợi ích, đến mùa xuân hạ năm sau có thể khôi phục hoàn toàn dòng cũ.’ Lại nói: ‘Thần thấy hiện nay hai bờ tăng cường các đập chắn, cửa sông đã thông suốt, rõ ràng có xu hướng khôi phục hoàn toàn, chỉ có Đô thủy sứ Ngô An Trì ngày đêm nghiên cứu, thấy rõ những lợi hại này. An Trì sai thần tạm thời trình lên Thượng thư tỉnh xin ý kiến. Mong sớm được quyết định, xin lập lại Ty tu sông, các quan chức và công việc đều theo quy định trước đây, để cơ quan hoạt động chính thức, mọi việc đều có quy củ, có thể nhân thời cơ làm việc lớn.’
Lý Vĩ, Ngô An Trì cùng nhau đưa ra lời lẽ gian trá này, triều đình tin theo và thi hành. Nay xét lại lời tâu của họ, không có điều nào đúng, mà hao tốn tiền của sức dân đã không kể xiết, gần xa đều xôn xao. Nhờ ơn tổ tiên xã tắc, sự sáng suốt quyết đoán của bệ hạ, soi xét lời gian trá, bãi bỏ hết, nếu không thì hậu quả khó lường.
Thần nghe nói Đô thủy sứ Ngô An Trì trước khi bãi việc đắp đê, thấy kế hoạch dần được thông qua, bệ hạ đã biết, dư luận xôn xao, mà An Trì biết lời gian trá bị lộ, ngồi yên trong kinh thành, không đến nơi làm việc, lại nói trong triều rằng: ‘Cơ quan chỉ là thi hành mệnh lệnh triều đình mà thôi.’ Thế mới biết trước đây chỉ để Lý Vĩ đề xuất, âm mưu gian trá, không chịu cùng chịu trách nhiệm. Kẻ tiểu nhân gian tà, không nghĩ đến lợi hại triều đình, không tiếc tiền của quốc gia, không thương xót sinh mạng dân chúng, chỉ lo mưu cầu danh lợi, lợi dụng quyền lực để mưu đồ riêng. Như trước đây lừa dối trên, phá hoại pháp luật, trong việc thị dịch lừa lấy ân thưởng, dù cha bảo cũng không nghe, gây hại cho công tư, đến nay chưa dứt, muốn họ quên mình vì nước, sao được? Có bề tôi như vậy, dùng làm gì?
Thần ngu nghĩ việc sông lớn chưa có kế hoạch vạn toàn, triều đình khó tránh lo lắng phương bắc. Nên chọn người am hiểu việc sông, từng trải, trung thực, có đức, làm quan thủy, để họ nghiên cứu, may ra có ích cho hiện tại. Như Ngô An Trì, Lý Vĩ lời lẽ xảo trá, lừa dối tâu trình, truyền khắp trong ngoài, lời gian trá lộ rõ, tội ác khó che, xin sớm bãi chức, để hợp lòng dân; xin bãi Ty tu sông, đợi có quyết định, nghe theo chỉ dụ, trong ngoài đều mừng!”
Tờ phụ: “An Trì trước đây phụ trách thị dịch, dùng hàng hóa kém chất lượng, ở các huyện gần kinh đô đặt trường bán chịu, cố ép buộc người mua, rồi xin cử sáu người thăng chức, khiến người được chọn tranh nhau ép buộc, vi phạm pháp luật, gây hại cho công tư. Nay phụ trách Ty tu sông, lại xin cử sáu người thăng chức, tạo thế lực, để ép buộc, dư luận đều kinh ngạc. Huống chi mệnh lệnh đó chỉ là tờ giấy trắng, không có chiếu chỉ, Lại bộ cũng không thông báo Ngự sử đài.”
Lại tờ phụ: “Lại bộ hiện có hơn hai trăm người chờ thăng chức, người đến chưa dứt. Theo quy chế cũ, số người được cử thăng chức cần giảm bớt, Đô thủy sứ lại cử người thăng chức, rõ ràng là vô cớ. Mà Ngô An Trì trước đây tâu xin, vì cửa sông hai nhánh ở Bắc Kinh nước chảy về đông thuận lợi, xin cử người thăng chức, tạo thế lực, để ép buộc. Nay lời nói về dòng đông đã lừa dối, thì mệnh lệnh thăng chức nên thu hồi.” Lại tờ phụ: “Trước đây trên dưới bưng bít, quan lại trong triều đều không dám nói về việc đắp đê. Nay bệ hạ đã soi xét lời gian trá, dư luận mới xuất hiện. Người bàn luận cho rằng nếu đóng cửa dòng bắc, chưa nói đến tai họa cho dân chúng Hà Bắc[2], thì đập Thiên Đài, Ngư Trì chắc chắn vỡ, nước đổ thẳng vào kinh đô, dù giết người đề xuất cũng không kịp. Nghe nói mùa thu năm ngoái nước lũ chưa rút, khi tăng cường các đập chắn, Thiên Đài vì tăng đập, ai cũng lo sợ.” Lại tờ phụ: “Ngô An Trì nói trong triều, chỉ có Quang lộc khanh Phạm Thuần Lễ biết. An Trì vốn cùng Lý Vĩ lừa dối, đến khi bị lộ, lại đổ lỗi cho triều đình, người nghe đều căm phẫn.” Chiếu rằng việc thăng chức đợi ngày tu sông thi hành, còn lại bãi bỏ.
(Thăng dâng tấu này vào ngày mồng 3 tháng 3, ban chiếu này vào ngày mồng 8 tháng 3, nay ghi chung vào ngày dâng tấu. Sách cũ ghi vào ngày mồng 8 tháng 3: Điện trung thị ngự sử Tôn Thăng tâu rằng Lý Vĩ, Ngô Ngô An Trì khởi xướng việc đắp đê ngăn sông, xin cách chức, lại xin bãi bỏ việc tu sửa sông và đổi lại việc cho phép tiến cử người được chọn làm quan. Chiếu rằng việc đổi quan cứ theo ngày tu sửa sông mà thi hành, còn lại thì bãi bỏ. Sách mới theo sách cũ. Nay đã ghi đầy đủ tờ tâu của Thăng, nên sách cũ không dùng được, tạm ghi chú ở đây. Tờ tâu của Thăng có dán giấy vàng, nhưng trong gia tập lại không có, nay căn cứ vào 《Nguyên Hựu mật sơ》 mà thêm vào. Tên Quang lộc khanh có lẽ là Phạm Thuần Lễ, ngày 14 thăng làm Hình bộ Thị lang.)
[7] Ngày Kỷ Tỵ, Vua xuống chiếu phong Hoàng thành sứ Lý Hứa làm Tây thượng các môn sứ, nhưng không lấy làm lệ. Vì Lý Hứa đã từng mang theo khí giới của Vua, quản lý Hoàng thành ty, ba lần tham gia đại lễ, nên được ban ân đặc biệt giải chức.
[8] An phủ, Kiềm hạt Kinh Hồ Nam lộ là Tạ Linh tâu rằng việc xử lý bọn giặc man làm loạn dưới quyền quản lý của Thiệu Châu đã xong. Vua xuống chiếu chia công lao thành năm bậc, thăng chức, giảm năm khảo hạch, ban thưởng có khác biệt. Những người thuộc cấp bắt được giặc thì không được xét thưởng. Khí giới được định giá và trả tiền.
[9] Vua xuống chiếu: “Ở kinh thành, ai tố giác bắt được tư nhũ hương, dù là tội nhẹ hơn đánh trượng, cũng được thưởng riêng, và được trả bằng tiền quan: dưới một cân, năm quan; một cân, mười quan; mỗi cân thêm, tăng mười quan. Tội đến mức đi đày, thì theo điều luật riêng.” Vì Hộ bộ tâu rằng tư hương đang lưu hành nhiều, khiến thuế khóa bị thiếu hụt, và những tội nhẹ hơn đánh trượng không được thưởng bằng tiền quan, nên không khuyến khích được người đi bắt giặc.
(Sách mới không ghi.)
[10] Ngày Canh Ngọ, Vua phê: “Vợ của Cao Tuân Lộ là Tào thị xin cho con gái là Lệnh Quần và vợ là Cao thị được trở về đời thường. Ngoài trường hợp con gái hoàng tộc và con gái của Vương Thuấn Phong được trở về đời thường, còn có trường hợp nào tương tự không, và cũng không có pháp lệnh cho phép xin trở về đời thường.” Hình bộ xét thấy so với trường hợp của Vương thị được ân xá nhiều lần, muốn theo lệ tha cho về. Vua phê: “Con gái của Cao Tuân Lộ là Lệnh Quần và vợ là Cao thị trước đây vì phạm tội nên bị cạo đầu, thuộc về Diệu Pháp viện. Phụ nữ hoàng tộc vốn không có điều lệ tha về đời thường, Hình bộ vì sao lại định đoạt là được ân xá nhiều lần, muốn theo lệ tha cho về? Hơn nữa, xét thấy con gái của Vương Thuấn Phong được tha về đời thường vì cha là Thuấn Phong đi sứ Cao Ly có công, là đặc ân một lần, khó lấy làm lệ. Việc vợ Cao Tuân Lộ xin, nên không thi hành. Hình bộ định đoạt không đúng, phải xét lại và tâu lên.”
(Sách Ngự tập ngày 5 tháng 3 năm thứ 5, ngày 8 tháng 8 phạt tiền.)
[11] Ngày Tân Mùi, Hoàng thành sứ Hướng Xước và Hữu tàng khố phó sứ kiêm Các môn thông sự xá nhân Chu Bá Tài đều được mang theo khí giới của Vua, và Hướng Xước vẫn quản lý Hoàng thành ty.
[12] Long Đồ các Trực học sĩ, Trung đại phu, Lại bộ Thị lang Thái Diên Khánh mất. Ban cho 300 quan tiền, lại lệnh cho bộ thuộc tùy việc ứng phó vào ngày chôn cất, do Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ và các quan xin vậy.
[13] Tổ Vũ lại tâu: “Trung thư lục hoàng: ‘Thượng thư tỉnh gửi đến trạng văn của Nguyên Phong khố: “Theo chiếu chỉ, ngày 2 tháng 3 cùng phụng thánh chỉ, đặc biệt cấp cho Nguyên Phong khố 20 vạn quan tiền để thuê nhân công, lệnh cho Đô thủy giám xem xét phân chia cho các địa phận Nam Bắc Thừa, cùng Thâm Châu và những nơi cần khẩn cấp xin chỉ để tiến hành công việc trước, nhưng không được để các châu huyện bắt dân phu.” Thượng thư tỉnh xem xét thấy Nguyên Phong khố không có tiền vật từ Hà Bắc lộ chuyển về kinh, nên khó mà chuyển đổi. Tam tỉnh cùng phụng thánh chỉ: từ khoản phong trang của các lộ Hà Bắc Đông, Tây đề hình ty trong phường trường và miễn dịch theo pháp cũ, đặc biệt cấp ngay 20 vạn quan tiền, còn lại theo chỉ huy đã ban. Tất cả các chỉ huy về việc cấp tiền từ Nguyên Phong khố đều không thi hành nữa.’
Thần xem xét kỹ chiếu chỉ ban ngày 6 tháng 2, tạm ngừng việc tu sửa sông, giải tán nhân công, mọi người đều cho rằng việc sửa chữa dòng chảy cũ Đông Lưu nên ngừng, còn những nơi dòng Bắc Lưu đang chảy thì cần tu sửa và bảo vệ để phòng ngừa tai họa mùa hè thu, thực sự không thể ngừng. Bệ hạ thương xót dân chúng, không muốn bắt phu, nên ngày 2 tháng này lại ban chiếu chỉ, cấp 20 vạn quan tiền phong trang để thuê nhân công. Từ khi ban chỉ huy này, bên ngoài đều cho rằng ngoài những nơi thuộc địa phận Nam Bắc Thừa và Thâm Châu cần tiến hành công việc, còn những nơi cần khẩn cấp xin chỉ để tiến hành trước, chính là việc sửa chữa dòng chảy cũ Đông Lưu do Lý Vĩ phụ trách, vì trong chiếu chỉ ngày 6 tháng 2 có nói đến việc chờ mùa thu này xin chỉ, nên chiếu chỉ ngày 2 tháng 3 lại đề cập đến việc công việc ở những nơi cần xin chỉ trong tương lai[3]. Bệ hạ vì hạn hán kéo dài muốn cho dân nghỉ ngơi, việc sửa chữa Bắc Lưu là bất đắc dĩ, nhưng việc sửa sông vừa tạm ngừng chưa đầy một tháng, công việc Đông Lưu lại tiếp tục, thần e rằng sẽ lãng phí tiền của quốc gia, gây thêm tổn hại vô ích, dân chúng Hà Bắc thấy tình hình này, lại càng hoang mang.
Kính mong Thánh từ trong chỉ huy cấp tiền phong trang của đề hình ty lần này, trừ chiếu chỉ trước, tất cả những nơi cần khẩn cấp xin chỉ để tiến hành công việc trước, không thi hành nữa, còn lại theo chỉ huy đã ban, để hợp lòng trong ngoài. Thần đã phong hoàn lục hoàng xin cấp cho Lý Vĩ, xin bãi nhiệm Lý Vĩ. Tất cả lục hoàng lần này, cũng chưa dám ban hành, kính cẩn trình lên phong hoàn.”
(Tổ Vũ tấu này vào ngày 6 tháng 3, việc theo hay không cần xem xét. Theo tấu của Tô Triệt cuối tháng 9, sau khi Tổ Vũ phong bác, ngày 5 tháng 4 có chỉ: Sai khiển của Lý Vĩ, chờ qua mùa nước lũ sẽ xin chỉ.)
[14] Ngự sử trung thừa Lương Đào tâu: “Thần nghe đồn triều đình bàn dùng tiền phong trang để thuê phu sửa sông, thần chưa dám tin, nhưng đã nghe nói thì không dám không tâu lên. Nếu quả có việc này, sau này mới nói thì e khó thu hồi mệnh lệnh đã ban.
Thần nghĩ rằng vừa qua vì hạn hán lâu ngày, thánh ân miễn thuế phu dịch, tiếng hoan hô vang khắp đường xá, trong ngoài đều cảm động vui mừng, chắc chắn đã đến tai bệ hạ. Chưa đầy một tháng mà có người lại muốn thuê phu, thần từng được nghe tuyên dụ rằng thuê phu chỉ là danh nghĩa hòa thuê, thực chất là sai dịch, thánh minh đã thấy rõ tệ hại. Các quan ty muốn dễ quản lý nên cần người địa phương, dù triều đình có ước thúc nghiêm ngặt, cuối cùng cũng không tránh khỏi phiền nhiễu. Lúc này đang hạn hán, lại càng hại đến nông nghiệp, huống chi sắp đến tiết Cốc vũ, nếu mấy ngày nữa có mưa thì phải gieo trồng, đúng lúc nông vụ bận rộn, làm sao có thời gian đi làm dịch? Nếu mệnh lệnh này ban ra, ắt khiến dân chúng lo lắng, từ hoan hô lại trở thành than thở, rất không hợp với ý trời thương yêu dân chúng.
Mong thánh từ xét kỹ, đợi tâu xin chỉ dụ, trực tiếp răn bảo đại thần tuân thủ mệnh lệnh đã ban, giữ uy tín với thiên hạ, xét tình hình hạn hán này, sao có thể lại làm khổ dân? Nếu có chỗ cần khởi công, chỉ nên điều động quân sương gần đó, cấp thêm tiền lộ phí, không những tránh được phiền nhiễu dân chúng, mà còn không làm trở ngại nông vụ, lại được binh sĩ làm việc hết sức, tiết kiệm chi phí cho quốc gia, rất có lợi mà không có hại. Kính mong bệ hạ lưu tâm.”
Thiếp hoàng: “Thần gần đây có tờ tâu xin tu sửa đê sông lớn hiện nay, ý là thấy quân Hà Thanh và quân thượng hà hàng năm đã đông, hoặc có thể điều thêm quân sương gần đó để tăng thêm nhân lực, xin đừng bàn thuê phu nữa. E rằng chấp chính có tâu khác, mong bệ hạ lưu ý lời tâu của thần. Lại nữa, tiền phong trang vốn là để phòng việc bất thường, không nên dùng dễ dàng. Mong bệ hạ xem xét.”
(Tấu của Đào kèm sau Phạm Tổ Vũ, việc theo hay không cần xét thêm.)
[15] Ngày Nhâm Thân, Trung đại phu, Thủ Thượng thư Tả thừa Hàn Trung Ngạn được bổ nhiệm làm Đồng tri Xu mật viện sự. Vợ của em trai Hàn Trung Ngạn là Hàn Thuần Ngạn là con gái của Tri Xu mật viện Tôn Cố, cả hai đều vì lý do thân thích xin từ chức, nhưng không được chấp thuận.
[16] Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ, Quang lộc đại phu, Tri chế cáo kiêm Thị độc Tô Tụng được thăng làm Hữu Quang lộc đại phu, Thủ Thượng thư Tả thừa.
[17] Ngự sử Trung thừa Lương Đào tâu: “Thần thấy gần đây bổ nhiệm Hàn Trung Ngạn làm Đồng tri Xu mật viện, Tô Tụng làm Thượng thư Tả thừa, tiếp đó có chỉ huy, lệnh cho Trung Ngạn đứng hàng dưới Tụng. Thần thấy lấy làm lạ. Xét theo quan chế, thì Đồng tri Xu mật viện ở dưới Tả, Hữu thừa; xét theo lệ gần đây, thì Đồng tri Xu mật viện vào trước, ở trên Tả, Hữu thừa, Trung Ngạn vốn hợp lẽ phải ở trên Tả, Hữu thừa. Nay đã không theo quan chế, lại không tuân theo lệ gần đây, thần nghĩ thánh ý hẳn là vì Tụng là bậc kỳ cựu[4], nên đặc biệt ban ơn lễ này. Trung Ngạn tuy là bậc hậu bối, nhưng được tiến cử trước; Tụng tuy là người cũ, nhưng được dùng sau. Thần nghĩ triều đình coi trọng tước vị, nên sắp xếp thứ tự trước sau, nay đã không theo thứ tự trước sau, thì đó là ý của bệ hạ đặc biệt tỏ ra nặng nhẹ. Bệ hạ bổ nhiệm chấp chính, sự ủy nhiệm đều như nhau, không thể ở chỗ thứ tự cao thấp mà tỏ ra hình tích[5], khiến họ không yên vị. Đã không yên vị, sao có thể trách họ hết lòng? Trước đây Phó Nghiêu Dũ làm Trung thư Thị lang, thứ tự tự cao, không phải do thánh ý xử trí, nên không có mối nghi ngờ hình tích, khác với việc Trung Ngạn lần này.
Thần mong bệ hạ xem xét, chỉ theo lệ gần đây mà sắp xếp thứ tự, để ân ý quân thần, nghi thức triều đình đều được thỏa đáng. Mong bệ hạ nghe lời ngu muội, ban chỉ huy khác.”
Thiếp hoàng: “Danh vị Nhị phủ rất quý trọng, bậc nhân chủ dùng người đến mức này là tột cùng, bề tôi báo đáp quân vương đến mức này là hết lòng, nếu không dùng thì thôi, nếu dùng, ắt phải khiến họ như thế, mới là đúng. Nay thăng Tụng lên trên Trung Ngạn, đối với Tụng là vinh sủng, đối với Trung Ngạn và các tướng đều là hổ thẹn lo sợ, đó là được lòng một quan mà mất ý hai bề tôi, e không phải là đạo lý trách bề tôi hết lòng báo đáp. Bệ hạ ban danh khí như thế cho người, lại khiến họ có lòng hổ thẹn lo sợ không yên, thần thật tiếc cho bệ hạ. Việc này không thể không khiến bệ hạ suy nghĩ sâu xa.
Bệ hạ đối với đại thần, biết họ không thể dùng mà cách chức thì được; thấy họ có tội mà trục xuất thì được; để họ tại vị mà coi nhẹ, khiến họ xa lòng, thì không được. Bệ hạ từ khi lên ngôi đến nay, mọi việc xử trí đều thỏa đáng, lòng người vui phục, chỉ có việc này, người ngoài đều nói chưa được ổn thỏa. Thần đã nghe thấy, không dám không tâu lên. Đối với Tụng, được trọng dụng là quý, không lấy thứ tự đè nặng làm trọng, nếu theo lệ gần đây, lấy thứ tự trước sau, đối với Tụng cũng không tổn hại, huống chi nghe nói Tụng đã từng từ chối, cũng đủ để thành cái đẹp của Tụng. Thần xin dùng ý này mà đặc biệt ban chỉ huy.”
(Theo tấu nghị của Lương Đào thêm vào, việc theo hay không cần xét lại.)
[18] Ngày Quý Dậu, lệnh cho Tri Dĩnh Xương phủ Phạm Thuần Nhân và Tri Thái Nguyên phủ Đằng Nguyên Phát đổi chức vụ cho nhau. Sáu ngày sau, bãi bỏ mệnh lệnh này, theo lời tâu của Trung thư xá nhân Vương Nham Tẩu. Nham Tẩu tâu rằng: “Thần trộm thấy ngày mồng 6, có chỉ dụ thăng chức và đổi địa bàn cho Tri Diên An Triệu Tiết và Tri Thái Nguyên Đằng Nguyên Phát. Thần vừa nhận lệnh soạn chiếu, bỗng được lệnh thu hồi, thần không hiểu nguyên do, đã sinh nghi ngờ. Hôm nay, lại thấy lệnh đổi Đằng Nguyên Phát sang Dĩnh Xương, thay bằng Phạm Thuần Nhân. Thần nghe nói việc này là do lời tâu của Tẩu mã thừa thụ trong vùng. Thần cho rằng việc thăng giáng các tướng lớn của triều đình cần phải thận trọng, không thể dễ dàng nghe theo lời một người mà quyết định. Nếu lời tâu đó xuất phát từ tình cảm yêu ghét, vui giận cá nhân, mà lừa dối công luận, há chẳng làm tổn hại đến sự sáng suốt của bệ hạ, gây hại cho việc nước hay sao? Nếu thực sự có điều đáng nghi, nên lệnh cho các quan Giám ty trong vùng cùng xem xét, nếu lời tâu đúng, thi hành cũng chưa muộn.
Thần nghe nói Đằng Nguyên Phát ở Hà Đông có nhiều công lao, được các sĩ đại phu khen ngợi. Xét trong vùng, hàng năm vào mùa thu, thường điều binh mã từ các châu quân gần đó đến đồn trú ngoài biên giới, đến mùa xuân mới rút về, tiêu hao lương thảo ở nơi khó khăn, không biết bao nhiêu mà kể. Trước đây, các tướng lĩnh dù biết việc này không cần thiết, nhưng chưa ai dám không điều quân. Mùa thu năm ngoái, chỉ có Đằng Nguyên Phát dám không điều quân, tiết kiệm cho quốc gia, lợi ích rất lớn. Đó là do ông ta nhìn rõ thời thế, dám đảm đương trách nhiệm, nên làm việc không do dự, mọi người đều khen ngợi Đằng Nguyên Phát có tài năng của một vị tướng lớn. Thần nghĩ bệ hạ hẳn chưa biết việc này, nếu biết chắc sẽ không vội đổi chức. Nay người tâu việc che giấu ưu điểm của ông ta mà không báo cáo, lại bới móc khuyết điểm để công khai, thì tình cảm yêu ghét của họ đã rõ ràng. Có công lao mà không được ghi nhận, lại nghe lời gièm pha mà vội hành động, bốn phương nghe tin, ai còn dám hết lòng vì bệ hạ? Nếu chỉ vì lời một viên Tẩu mã mà đổi tướng, thì mọi người sẽ sợ hãi những kẻ này, lo lắng không yên; còn những kẻ này sẽ lấn át tướng lĩnh, sinh ra kiêu căng ngang ngược, bệ hạ không thể không xem xét. Tình trạng này nếu kéo dài, chẳng phải là điều tốt cho triều đình.”
Lời tâu kèm (thiếp hoàng) viết: “Một Đằng Nguyên Phát không đáng tiếc, điều đáng tiếc là thể thống thăng giáng tướng lĩnh của triều đình. Nếu lời thần có thể dùng được, mong bệ hạ thu hồi lệnh, nhanh chóng triệu tập các đại thần bàn bạc kỹ lưỡng rồi thi hành. Bệ hạ giao trọng trách cho người, việc nghe lời khen chê không thể không thận trọng, việc xét thực tài đức không thể không kỹ càng. Nếu tài năng của họ đủ đảm đương việc, dù có chút bệnh tật, có hại gì đến việc trị nước? Nếu họ bất tài, dù khỏe mạnh cũng chẳng ích gì.”
(Sách 《Vương Nham Tẩu mộ chí》 chép: Nham Tẩu làm Trung thư xá nhân, Đằng Nguyên Phát từ Thái Nguyên đổi sang Dĩnh Xương, Nham Tẩu từ chối soạn chiếu, tâu rằng: “Việc thăng giáng tướng lĩnh cần phải thận trọng, nay chỉ vì lời một viên Tẩu mã mà đổi tướng biên cương, khiến người sau sợ hãi không yên, tình trạng này nếu kéo dài, chẳng phải là phúc cho việc giao trọng trách giữ yên biên cương.” Đằng Nguyên Phát bèn không phải đi nhậm chức. Tên viên Tẩu mã thừa thụ cần tra cứu thêm. Lại chép: Nham Tẩu từ chối soạn chiếu cho Đằng Nguyên Phát, nhân đó tâu rằng: “Nguyên Phát biết cách thăm dò tình hình, không điều quân phòng thủ mùa thu, xứng đáng là một vị tướng.” Sau đó, các tướng khác lại điều quân. Đến mùa thu năm thứ 6, có việc binh đao ở Lân Châu, người tâu việc không biết, lại nói rằng Nham Tẩu khi ở Xu phủ đã đề nghị bãi bỏ việc này, sau đó ông bị điều ra làm Tri Trịnh Châu.)
[19] Ba tỉnh và Xu mật viện tâu: “Năm Nguyên Hựu thứ tư, mùa đông, có 142 người được nhập lưu; năm thứ ba, mùa đông, có 179 người được nhập lưu. Năm thứ tư, mùa đông, so với năm thứ ba, mùa đông, ít hơn 37 người. Số người được tiến cử trong các khoa trường, đại lễ, chuyển viên, hoán thụ, tính theo 12 quý của năm thứ ba, mỗi quý khoảng 154 người; cộng với 142 người được nhập lưu vào mùa đông năm Nguyên Hựu thứ tư, tổng cộng là 296 người. Trừ những người đã mất, về hưu, bị cách chức, để tang, đi tìm thuốc, phụng dưỡng, hết hạn nghỉ phép, bị xóa tên, được bổ nhiệm lại, mãn tang, đi tìm thuốc, v.v., số người được nhập lưu nhiều hơn 20 người.”
[20] Ngày Ất Hợi, ban chiếu: “Nếu ông bà còn sống mà không có con cháu đã thành niên, tự ý bỏ nhà đi lính, sẽ bị đánh 100 trượng, cho phép trong vòng một năm người tôn trưởng tự trình báo, lấy sương kỳ hoặc người láng giềng làm người bảo lãnh để được miễn nghĩa vụ. Nếu là thân nhân có quan hệ huyết thống với quan viên, dù chưa có con cháu thành niên và không phải là tự ý bỏ nhà, nếu muốn được miễn nghĩa vụ, cũng áp dụng theo quy định này mà không giới hạn thời gian.” Ty Đô tổng quản Phu Diên tâu: “Theo luật Hi Ninh, người tự ý bỏ nhà đi lính, trong vòng hai tháng, cho phép người tôn trưởng tự trình báo; nhưng luật Nguyên Hựu đổi thành sau khi người tôn trưởng biết, trong vòng một năm mới được trình báo, điều này dễ tạo kẽ hở cho sự gian lận.” Vì vậy, ban hành luật này.
[21] Ngày Kỷ Mão, Đặng Ôn Bá, người đang giữ chức Tri châu Bạc, Long đồ học sĩ, được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ thừa chỉ. Trung thư xá nhân Vương Nham Tẩu dâng sớ xin thu hồi mệnh lệnh, nói rằng: “Ôn Bá tính tình nhu nhược, khéo léo trong việc xu nịnh. Cuối niên hiệu Nguyên Phong, ông ta đã ở trong Hàn lâm viện, kết giao với Thái Xác để cầu cố sủng lộc. Khi bệ hạ mới lên ngôi, khen thưởng các đại thần, lúc đó Vương Khuê đang giữ chức Thừa tướng, Ôn Bá soạn chiếu thư cho Khuê, viết rằng ‘đã định nghị ở nơi cấm địa’, còn khi soạn chiếu thư cho Xác, lại viết ‘đặc biệt khen ngợi công lao định nghị’. Trong cách dùng từ nặng nhẹ, đã thể hiện ý đồ gian trá, ngầm nghe theo lời tà thuyết để chiếm đoạt công lao của Vương Khuê, mong cầu may mắn về sau. Lòng dạ bất trung, không gì lớn hơn thế. Khi Thái Xác bị hạch tội, tội trạng mới lộ rõ, nhưng lúc đó Ôn Bá đang để tang, chưa bị trừng phạt. Trước đây khi bị điều ra ngoài, từng được bổ nhiệm làm Thiên quan, nhưng Môn hạ tỉnh đã phản đối, nên đổi sang làm Tri châu Bạc. Trong giới quan lại, đã có nhiều nghi ngờ; nay chỉ mới vài tháng, đã vội vã trở lại Hàn lâm viện, không chỉ làm hỗn loạn chính tà, mà còn khiến việc thưởng phạt sai lệch. Xin thu hồi mệnh lệnh bổ nhiệm, chọn người hiền tài khác, để xa lánh kẻ gian, làm rạng rỡ thánh đức.” Vua hạ chiếu cho Trịnh Ung, người đứng sau trong hàng Xá nhân, soạn chiếu thư. Sau đó, Cấp sự trung Trịnh Mục lại dâng sớ xin thu hồi mệnh lệnh, nhưng không được chấp thuận; Ngự sử trung thừa Lương Đào và các quan khác liên tiếp dâng sớ phản đối, nhưng cũng không được nghe theo.
(Lương Đào từng dâng sớ phản đối Ôn Bá vào ngày 22 tháng 9 năm thứ 4 khi Ôn Bá được bổ nhiệm làm Lại bộ thượng thư, lần này lại dâng sớ, nên tìm toàn bản để bổ sung, nhưng trong tập sách của Lương Đào không có phần này.)
[22] Nham Tẩu lại tâu: “Thần gần đây đã phong hoàn từ đầu của Ôn Bá, được chỉ huy lệnh cho thứ xá nhân soạn từ. Vì hôm đó cũng là thần đương trực, lui về tự xét, nếu không phải do thần sơ suất, thì không có việc xử phân này, nếu vẫn mạo nhận, nghĩa thực khó yên. Kính xin Thánh từ xét cho, đặc biệt cho phép bãi chức, để thích hợp với phần ngu của thần.” Chiếu không chấp thuận. Nham Tẩu lại tâu: “Thần nghĩ rằng trách nhiệm điển cáo là để phát huy sự yêu ghét của nhà Vua, để chỉ bảo thiên hạ, thì việc phân biệt hiền nịnh là điều cần làm trước. Nếu dùng đúng người, nên dựa vào công nghị, viết thành huấn từ; nếu không đúng người, thì nên trình bày những điều đã nghe, xin thu hồi trừ mục. Việc cũ không nhất định, nhưng phong tục vẫn còn. Nay việc dùng Ôn Bá, lấy tà loạn chính, có hại đến thể chế trị quốc, nên thần dám phong hoàn, mong dùng trung lương thay thế kẻ nhu nịnh này, nhưng được mệnh lệnh không thay đổi, chỉ đổi từ thần, thì thần lạm dụng chức vụ, không bổ ích gì cho sự thịnh minh, không thể thực hiện nghĩa vụ giữ chức, có lỗi với trách nhiệm đại ngôn. Kính mong Thánh từ xem xét lại lời tâu trước của thần, sớm ban cho sự chấp thuận.” Sau hai tháng, Nham Tẩu cuối cùng được điều chuyển sang chức khác.
(Ngày 18 tháng 5, Nham Tẩu đổi làm Đô thừa chỉ. Lưu An Thế trong chương đầu nói: Cấp sự trung hai lần phong bác. Lúc này, Cấp sự trung có hai người, Trịnh Mục và Phạm Tổ Vũ. Gia truyền của Tổ Vũ ghi chép rất chi tiết về các luận nghị của Tổ Vũ, nhưng không nói đến việc phong bác mệnh lệnh của Ôn Bá, vậy thì hai lần phong bác đều là Trịnh Mục. Ngày 18 tháng 5, Vương Nham Tẩu được điều chuyển; ngày 26, Lương Đào và Lưu An Thế được điều chuyển; ngày 27, Mục và Chu Quang Đình được điều chuyển. Đây đều là những người không giữ được chức vụ của mình. Người soạn cáo thư thừa chỉ cho Ôn Bá là Trịnh Ung, theo sách 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》.)
[23] Lại bộ Thị lang kiêm Thị độc Phạm Bách Lộc tâu: “Thần ngu muội, thiết nghĩ việc phân biệt kẻ tà người chính từ xưa đã khó, chỉ có thể xét lời nói, xem việc làm, khảo sát sự thật. Người được gọi là chính trực, hoặc là bẩm tính ngay thẳng, hoặc gia thế trung nghĩa, hoặc có chí báo quốc, hoặc tự lập danh tiết; kẻ được gọi là gian tà, hoặc là nịnh bợ ý trên, hoặc a dua quyền quý, hoặc tính tình lập dị, hoặc mong cầu lợi lộc. Hai hạng người này, tình trạng không giống nhau, không thể kể hết, nay xin liệt kê các điều mục như sau:
Phàm dẫn dắt Vua theo lối chất phác ngay thẳng, khiến Vua lắng nghe tiếp thu, là người công chính; dẫn dắt Vua theo lối nịnh hót, khiến Vua che giấu lỗi lầm, cự tuyệt lời can, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua theo đức nghĩa, là người công chính; dẫn dắt Vua theo công lợi, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua tôn kính tông miếu, cung kính tế tự, là người công chính; dẫn dắt Vua coi thường tông miếu, xúc phạm thần linh, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua hòa thuận cửu tộc, nuôi dưỡng người già, là người công chính; dẫn dắt Vua xa lánh người thân, bỏ rơi người già, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua cung kiệm thanh tịnh, tuân theo phép tắc, là người công chính; dẫn dắt Vua kiêu căng phóng túng, không theo quy chế cũ, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua hiểu sự vất vả của nghề nông, ban ơn cho kẻ góa bụa cô đơn, là người công chính; dẫn dắt Vua coi thường việc nông, không thương xót người cô độc, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua nhún nhường xa lánh binh đao, là người công chính; dẫn dắt Vua dùng binh đánh nhau, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua xét tình hình mà định tội, là người công chính; dẫn dắt Vua dùng luật nghiêm khắc để lập uy, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua an dân lợi nước, là người công chính; dẫn dắt Vua lao dân động chúng, là kẻ gian tà. Dẫn dắt Vua tiến cử người quân tử, dùng người lương thiện, là người công chính; dẫn dắt Vua gần gũi tiểu nhân, dùng kẻ ác đức, là kẻ gian tà. Kính mong bệ hạ đặc biệt lưu tâm, suy xét những việc này, để xem xét tình người, thì kẻ tà người chính sẽ phân minh, mà trí tuệ không bị mê hoặc.”
(Sách chép Bách Lộc dâng hai mươi điều phân biệt kẻ tà người chính vào ngày 18 tháng 4, sau khi giảng xong được lưu lại đối đáp. Nay nhân Bách Lộc mới được bổ nhiệm, liền ghi chép kèm theo. Hai mươi điều này vốn không phải là tấu chương mật, không cần đợi lưu lại đối đáp mới dâng lên.)
[24] Binh bộ Thị lang Triệu Ngạn Nhược được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị lang, (theo《Chính mục》: sau đó vẫn giữ chức cũ). Lễ bộ Thị lang Lục Điền được gia hàm Long đồ các Đãi chế, bổ nhiệm làm Lại bộ Thị lang, (theo《Chính mục》: sau đó vẫn giữ chức cũ). Quang lộc khanh Phạm Thuần Lễ được quyền làm Binh bộ Thị lang. Triệu Ngạn Nhược và Lục Điền sau đó được khôi phục chức cũ, Phạm Thuần Lễ được đổi sang Hình bộ. (Ngày 16, Lục Điền và Triệu Ngạn Nhược được khôi phục làm Lễ bộ và Binh bộ Thị lang, Phạm Thuần Lễ đổi làm Hình bộ Thị lang, nay ghi chung). Quốc tử Tư nghiệp Phong Tắc được bổ nhiệm làm Khởi cư Xá nhân.
[25] Hồ Bắc Đề hình ty tâu rằng, theo chiếu chỉ năm Nguyên Hựu, gia đình quan lại không được xin cấp đất, xin đổi chữ “thỉnh xạ” thành “thỉnh điền”. Được chấp thuận.
[26] Ngày Tân Tỵ, Điện trung thị ngự sử Tôn Thăng được bổ làm Thị ngự sử. Thăng tâu: “Thần kính nhận cáo mệnh, trong đó có câu: ‘Ngươi hãy xét rõ gốc rễ của tà chính, chỉ rõ con đường của hiền nịnh.’ Thần ngu muội bất tài, kính cẩn ghi nhớ lời dạy của Thánh thượng, dám không dốc hết sức từ sớm đến khuya. Vì sự trị loạn an nguy của thiên hạ đều liên quan đến sự tiêu trưởng của tà chính. Kẻ tà nịnh chưa hẳn đã làm việc ác lớn để lộ rõ hành vi, nhưng ngầm kết bè phái, che giấu mưu gian, lúc thì theo lúc thì chống, một khi đắc chí thì hại đến thiên hạ. Lời dạy của Thánh thượng thật đúng đắn và cần thiết.
Thần nghe gần đây bổ nhiệm Đặng Ôn Bá làm Hàn lâm thừa chỉ. Ôn Bá từng giữ chức này, nhưng vì tang mẹ mà từ chức. Khi tội ác của Thái Xác chưa lộ, mưu đồ kết bè của Ôn Bá cũng chưa rõ, nếu chỉ giữ chức này thì chưa có gì sai. Nhưng nay, Thái Xác oán trách quân thân, tự cho mình có công trong việc định sách, muốn che lấp công lao to lớn của Thái hoàng thái hậu. Thái Xác đã bị đày, tội ác lộ rõ, mưu đồ kết bè cũng đã hiển nhiên, Ôn Bá vì thế bị công luận ruồng bỏ. Tại sao? Mưu đồ kết bè của Ôn Bá thể hiện trong chế mệnh, từ khi tội ác của Thái Xác bị phơi bày, thì chế mệnh của Ôn Bá truyền đi khắp nơi, dấu vết kết bè dù muốn che giấu cũng không được. Khi Hoàng đế bệ hạ mới lên ngôi, Vương Khuê làm Thủ tướng, Ôn Bá soạn chế mệnh cho Khuê có câu: ‘Dự định nghị ở cấm đồ’; soạn chế mệnh cho Thái Xác thì viết: ‘Đặc biệt khen ngợi công lao định nghị’. Nếu đúng như lời Ôn Bá, thì lúc đó hẳn có nghị sự nguy hiểm khó quyết, nhờ Thái Xác mới định được. Ý định của Tiên đế truyền ngôi cho con, công lao lập cháu của Thái hoàng thái hậu, đều bị Thái Xác che lấp, đều do chế mệnh của Ôn Bá. Ôn Bá kết bè giữ tà như vậy, triều đình nếu trả lại chức cũ, cho dự vào mệnh lệnh cơ mật, giao phó nơi thanh khiết cho kẻ không xứng, thần e rằng tà chính không phân, hiền nịnh không rõ. Kính mong Thánh thượng đặc biệt xem xét, sớm ban chỉ dụ, thu hồi chức vụ của Ôn Bá, để làm rõ gốc rễ của tà chính, thì thiên hạ may mắn biết bao!”
(Có thể tham khảo vào cuối tháng ba, ngày 27 tháng năm, ngày 8 tháng sáu và ngày 24 tháng bảy.)
[27] Tân nhậm chức Tri châu Tề Châu là Tăng Triệu nhậm chức Tri châu Trần Châu.
[28] Ngày Quý Mùi, Thượng thư Hộ bộ Lữ Công Nhụ được cử làm Đề cử Lễ Tuyền Quan.
[29] Thiếu khanh Đại Lý Lưu Cổn nhậm chức Tri châu Tề Châu.
[30] Chiếu rằng: “Mưa thuận chưa đủ, tạm thời bãi bỏ yến tiệc mùa xuân.”
[31] Kinh lược sứ Phu Diên Lộ Triệu Tiết tâu: “Người Hạ đang thương lượng phân chia ranh giới, thúc giục yêu cầu công văn. Theo tờ trát của Xu mật viện: Ngoại trừ trại Tắc Môn ở ba mặt đông, tây, bắc, mỗi mặt lấy 20 dặm làm ranh giới, còn lại ranh giới Lan Châu và các thành trại Định Tây, cùng các thành tiếp giáp với Nghĩa Hợp của bản lộ và trại Ngô Bảo của Hà Đông, ở những nơi tiếp giáp với biên giới, đo đạc 20 dặm ngoài thành, lấy đường thẳng làm ranh giới, chọn đất dựng cột mốc, xây dựng trại phòng thủ. Vẫn theo đại ý này, tu chỉnh văn bản, hoàn thiện bản công văn rồi tâu lên.” Chiếu cho Kinh lược ty Phu Diên lệnh cho quân Bảo An chuyển công văn đến châu Hựu rồi tâu lên.
(Chính mục: Cuối tháng 3, châu Hựu gửi công văn: Ngoại trừ trại Tắc Môn[6]phân chia ranh giới theo đường cong, còn lại các thành tiếp giáp, lấy đường thẳng làm ranh giới, dù đất đai ở giữa rất rộng lớn, cũng cắt về phía Hán. Căn cứ vào điều này, có lẽ là việc cuối tháng giêng, không phải cuối tháng 3. Chính mục có số trang sai lệch, cần tra cứu thêm.)
[32] Ngày Đinh Hợi, Tả Trung tán đại phu Lữ Hi Đạo được bổ nhiệm làm Thiếu phủ Giám.
[33] Ngày Kỷ Sửu, chiếu rằng: Ân trạch của Thái sư Văn Ngạn Bác khi về hưu, ngoài theo quy định, đặc cách ban thêm một người.
(Cùng ngày 22 tháng 4.)
[34] Ngày Canh Dần, Hộ bộ tâu: “Người tiếp đón, các chức Tri châu và quan võ từ Lộ phân Đô giám trở lên, được phép điều động cấm quân; Lộ phân Tổng quản, Phó Tổng quản, Kiềm hạt, vẫn được phép điều động mã quân; các quan khác đều được phép điều động sương quân. Nếu không có người, thì chi trả tiền thuê, mỗi người mỗi chặng đường 100 văn đủ.” Theo đó.
(Bản mới đã bỏ.)
[35] Ngày Tân Mão, Trứ tác tá lang, Tập hiền hiệu lý Khổng Vũ Trọng được bổ nhiệm làm Quốc tử Tư nghiệp.
[36] Tân nhậm chức Đề điểm hình ngục Vĩnh Hưng Quân lộ là Dương Úy được bổ nhiệm làm Giám sát Ngự sử.
[37] Tả Gián nghị đại phu Lưu An Thế, Hữu Gián nghị đại phu Chu Quang Đình tâu rằng: “Thần trộm thấy triều đình vì thiếu người ở Ngự sử đài, nhiều lần xuống chiếu cho các quan gần gũi, bảo cử người mà họ biết. Trước đây, Đại đài và Lưỡng chế đã nhiều lần đưa tên lên, nhưng chưa từng được chọn dùng, trong ngoài đều nghi ngờ, không biết vì sao; đến khi lại ra lệnh cử quan, chiếu chỉ hạ xuống, nêu sơ qua nguyên do, như Diệp Thân, Mục Diễn thì nói ‘đã thuộc hàng tỉnh lang’, Trần Bằng thì nói ‘đã thuộc hàng giám ty’, thần bèn trong số thông phán thường điều, lấy Trần Cổ, Trương Vi sung tiến. Hai người này đều là người trung hậu, cương trực, có thể đảm nhiệm chức trách ngôn luận, từ khi dâng sớ tiến cử đến nay đã hai tháng, chưa được triều đình chọn dùng, hôm nay lại nghe tin lấy Dương Úy làm Giám sát ngự sử. Thần nghĩ, chế độ của tổ tông, việc sai các quan gần gũi cử người làm ngôn quan, là vì chức vụ tai mắt, không muốn đặt người thân tín của kẻ chấp chính. Nay Lưỡng chế vâng chiếu cử quan, không hợp ý đại thần, bèn lấy cớ giám ty, tỉnh lang để từ chối, không dùng; Dương Úy không thuộc số người được cử, lại đang giữ chức Đề hình lộ Vĩnh Hưng quân, không rõ triều đình dựa vào danh nghĩa gì mà bổ nhiệm. Những người thần tiến cử sau này, đã không phải là giám ty, tỉnh lang, thì nên theo công luận mà chọn lựa, ngày sau nếu không xứng chức, tự có thể cùng chịu tội tiến cử sai lầm. Nay chưa từng thử việc, đã vội cho rằng tài năng không đủ, việc dùng bỏ tùy tiện, thật không có đạo lý. Kính mong bệ hạ thu hồi mệnh lệnh mới bổ nhiệm Dương Úy, chỉ lệnh trong số người mà Lưỡng chế đã cử để chọn dùng, mong rằng pháp độ của tổ tông không đến nỗi bị hủy hoại.”
[38] Lại tâu rằng: “Thần trộm xem việc cũ của tổ tông, năm Thiên Hi thứ 2 tháng 2, chiếu cho Tả gián nghị đại phu Nhạc Hoàng Mục, Tri chế cáo Trần Tri Vi, trong số các quan thường tham cử người công minh thanh liêm, cương trực mẫn tiệp, tài năng đảm đương chức Ngự sử, mỗi người một người. Thần trộm nghĩ thánh huấn đều có ý sâu xa, vì sao? Chức vụ Ngự sử là để giám sát trăm quan, nếu không cương trực vô tư thì không thể tùy tiện giữ chức này, nên trước hết phải chọn người cử, để họ tiến cử người cùng loại. Vì vậy người nhận chiếu biết rõ ân sủng của minh chủ, chọn lựa người đoan chính lương thiện; người được cử hiểu được ý trách nhiệm của triều đình, coi trọng danh tiết. Việc được người giỏi thịnh vượng, không thẹn với cổ nhân. Sau đó mới lệnh cho hai chế theo thứ tự cử quan, lúc ấy người bàn luận đã nói rằng không phân biệt thiện ác đều có thể tiến cử sĩ tử, nên nhiều người không xứng đáng, nhưng cũng chưa từng chuyên do chấp chính cử. Nay hai chế vừa đưa tên lên, liền nói rằng ‘đã thuộc Giám ty, Tỉnh lang’, lại lệnh cử người khác; sau này người được tiến cử đã đủ tiêu chuẩn, lại bỏ mà không dùng, lại vì tư ý triệu Dương Úy từ ngoài. Úy hiện nhận chức Đề hình lộ Vĩnh Hưng quân, chẳng phải là Giám ty sao? Trước kia lấy cớ này từ chối người, mà nay lại tự mình làm vậy, tự ý dùng uy phúc, phản phúc như thế, chiếu cử quan trở thành văn suông, phép tắc tổ tông ngày càng hủy hoại, thần trộm tiếc cho bệ hạ. Huống chi hai thánh ngự trị, trông cậy vào phụ tá, nếu đường ngôn luận dần dần bày đặt phe đảng, thì chính sự được mất, làm sao thấu đến tai trời? Kế sách của đại thần thì yên ổn, nhưng lo lắng cho bệ hạ thì sơ hở. Kính mong thánh từ xem xét mối họa gian tà che lấp đời trước, noi theo đạo lý thánh nhân mở rộng thông minh, bãi bỏ mệnh mới của Úy, để tỏ rõ sự công bằng.”
[39] Lại tâu rằng: “Từ thời tổ tông đến nay, việc phong chức giám sát luôn được coi trọng, phải chọn người công chính, trao quyền đàn hặc để răn đe trăm quan, chỉnh đốn kỷ cương. Dù là bậc quân chủ cũng không dám tùy ý bổ nhiệm, mà phải sai cận thần cùng các quan đài gián bàn bạc, tiến cử để hợp lòng trong ngoài. Như Dương Úy, vốn không có tiếng tăm gì, lại không phải do tiến cử theo chiếu chỉ, bỗng được bổ nhiệm, khiến dư luận xôn xao. Xưa Vương An Thạch nắm quyền, chỉ chuyên phá hoại pháp độ tổ tông, thường đặt người thân tín vào chức vụ giám sát, nịnh hót kết bè, dần thành tệ hại lớn. Nay triều đình theo phép cũ, há để quan đài gián lại đi vào vết xe đổ? Xin bệ hạ xét kỹ sự tình, bãi chức mới của Dương Úy, lại sai cận thần tiến cử người hiền, để giữ gìn phép tắc xưa.”
[40] Lại tâu rằng: “Thần nghe có người bàn rằng triều ta từng dùng người cũ, nên muốn dùng lẽ đó để ngăn trở công luận. Thần xét từ thời tổ tông, tuy có lệ triệu lại người cũ, nhưng đều là những người có tiết tháo nổi bật, được sĩ phu kính phục, như Lã Hối chẳng hạn, mới không cần tiến cử mà được trao chức giám sát. Nay Dương Úy theo học Vương An Thạch, luận bàn lộn xộn, đến khi Lữ Huệ Khanh nắm quyền lại hết lòng nương tựa, sau nhờ Thư Thiện tiến cử mà làm Ngự sử. Xem việc ông ta làm, vốn đã khắc nghiệt, xét lại quá khứ, lại càng khác thường, há có thể vin vào lệ cũ mà tùy tiện dùng người không xứng? Thần cho rằng triều đình chưa đến nỗi thiếu nhân tài đến thế. Xin bệ hạ xét kỹ đạo lý, bãi chức mới của Dương Úy, để đường ngôn luận được thuần nhất, lòng dân không nghi ngờ.”
[41] Lại nói: “Thần nghĩ rằng chức quan Ngự sử, triều đình tuy có lệ triệu lại người cũ, nhưng nên xem xét tài năng thực chất của họ, tham khảo ý kiến công luận. Như Dương Úy có xu hướng lệch lạc, a dua với kẻ gian tà, trong giới sĩ phu, nhiều người khinh bỉ, không chỉ là lời nói riêng của thần. Huống chi cuối năm Nguyên Phong, đã từng được bổ nhiệm, nhưng khi tại chức, chẳng có gì đáng kể, dù có đôi lần đàn hặc người quyền quý, cũng chỉ là nghe theo ý chỉ của quyền thần, làm tay sai cho họ. Nay nếu không xét lại bản chất của hắn, dễ dàng giao chức phong hiến, kẻ bất tài được tiến cử, sẽ làm hỏng con đường ngôn luận. Kính mong bệ hạ sâu sắc xem xét, kiểm tra lại những lời tấu trước đây của thần, sớm ban chỉ dụ, bãi bỏ mệnh lệnh mới của Dương Úy, để xứng với ý của bệ hạ là chọn người xứng đáng cho chức vụ.”
(Ngày 22 tháng 5, theo lời của Lưu An Thế, Dương Úy được đổi sang chức Công ngoại. 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》 chép: Dương Úy được bổ làm Ngự sử, giới ngôn luận chê cười hắn học theo Vương Kinh Công, a dua với Huệ Khanh, ủng hộ Thư Thiện, nên bị bãi chức.)
[42] Ngự sử Trung thừa Lương Đào tâu: “Thần nghe nói gần đây bổ nhiệm Dương Úy làm Giám sát Ngự sử, mệnh lệnh đã ban xuống, Dương Úy nhiều lần từ chối, ý tứ chân thành khẩn thiết, có lẽ là vì không nỡ xa rời người thân. Xem tấm lòng của hắn, đối với việc phụng dưỡng cha mẹ thì đủ rồi, nhưng đối với việc phụng sự Vua thì chưa có thời gian. Người xưa có câu, trung hiếu khó vẹn toàn, tuy đây không phải là đạo của thánh nhân, nhưng cũng không làm tổn hại đến hành vi của kẻ sĩ. Kính mong bệ hạ hôm nay cho Dương Úy được toại nguyện hiếu đạo, còn việc trung thành với Vua thì để sau này, đặc biệt chấp thuận lời thỉnh cầu của hắn, để yên phận.”
(Lưu An Thế, Chu Quang Đình công kích Dương Úy rất mạnh, nhưng Lương Đào lại có tấu chương này, không rõ vì sao, xin ghi lại để tham khảo. Lúc đầu bổ nhiệm Dương Úy làm Ngự sử vào ngày 26 tháng 3, bãi chức vào ngày 22 tháng 5[7].)
[43] Chuyển vận phán quan Thiểm Tây lộ là Du Sư Hùng được bổ làm Đề điểm hình ngục Tần Phượng đẳng lộ, Đề điểm hình ngục Tần Phượng đẳng lộ là Trương Thuấn Dân về kinh.
(Theo 《Chính mục》 ngày 26, Trương Thuấn Dân về kinh, cần tra cứu thêm. Trong 《Lương Đào tập》 có hai bản tấu tiến cử Thuấn Dân. Truyện của Thuấn Dân chép: Làm Hiến ty Tần Phượng, chưa được bao lâu, được triệu về làm Khảo công viên ngoại lang, Thuấn Dân cố từ chối, được cho trở lại chức cũ. Sau đó được bổ làm Điện trung thị ngự sử. Ngày 22 tháng 5, Thuấn Dân làm Điện trung thị ngự sử.)
[44] Tri Hà Nam là Hàn Chẩn tâu rằng, Thái trung đại phu trí sĩ là Trình Thác đã mất, xin cho em ông là Lưu được quyền quản lý Tây Kinh Quốc tử giám. Được chấp thuận.
(Lưu giữ chức gì, cần tra cứu thêm.)
[45] Cùng ngày, lại ở đô tỉnh là Thời Thầm được xuất chức, Nhậm Vĩnh Thọ trở về Lại bộ.
(Theo 《Chính mục》 ngày 26 tháng 3, và ngày 2 tháng 2 có thể tra cứu. Số bản bị lộn xộn, có lẽ là ngày 28 tháng giêng.)
[46] Ngày Nhâm Thìn, Công bộ tâu rằng, xa giá đến Quỳnh Lâm uyển và Kim Minh trì, theo chế độ cũ thì cuối tháng 3 xin chỉ. Chiếu rằng năm nay tạm bãi, nhưng vẫn chiếu lệ cấp phát.
[47] Long đồ các trực học sĩ, Chính nghị đại phu Lữ Công Nhụ mất. Được tặng Hữu quang lộc đại phu.
- Chữ 'tín thủy' trong câu 'đại hà tín thủy hướng sinh' ban đầu viết đảo ngược, căn cứ vào bản trong các sách và 《Tống hội yếu》 phương vực 15/14 mà sửa lại. ↵
- chưa nói đến tai họa cho dân chúng Hà Bắc 'chưa' nguyên là 'Mạt', theo các bản sửa. ↵
- Tương lai thủ chỉ khứ xử công dịch 'Công' nguyên là 'Thượng', theo văn cảnh sửa lại. ↵
- 'Kỳ cựu' nguyên là 'lão', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 96 dùng 'cựu thần' mà sửa. ↵
- 'Trì hữu hình tích' nguyên là 'thời', theo các bản khác sửa. ↵
- Chữ 'Tắc' trong 'Tắc Môn' nguyên bản là 'Trại', theo chính văn sửa lại. ↵
- Bãi chức vào ngày 22 tháng 5, '22' nguyên bản là '26', căn cứ theo các bản và quyển 442 năm Nguyên Hựu thứ 5, tháng 5, ngày Bính Tuất sửa lại. ↵