"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 447: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 5 (CANH NGỌ, 1090)

Từ ngày Canh Tuất tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 5 đời Triết Tông đến hết tháng

[1] Tháng 8, ngày Canh Tuất, Lâm đồ các đãi chế, Khu mật đô thừa chỉ Vương Nham Tẩu và Quyền Binh bộ thị lang Phạm Thuần Lễ được cử làm sứ sang chúc mừng sinh thần Liêu chủ, Dẫn tiến phó sứ Vương Thuấn Phong và Trang trạch sứ Trương Hữu làm phó sứ; Lại bộ lang trung Tô Chú và Hộ bộ lang trung Lưu Dục làm sứ chúc Tết Nguyên đán, Cung bị khố sứ Quách Tông Nhan và Tây kinh Tả tàng khố phó sứ Tất Khả Tế làm phó sứ.

Vương Nham Tẩu lấy cớ cha mẹ già, Phạm Thuần Lễ lấy cớ bệnh xin từ chối, nên đổi cử Trung thư xá nhân Trịnh Ung và Quyền Công bộ thị lang Mã Mặc thay. Mã Mặc lại cáo bệnh, đổi cử Lại bộ thị lang, Thiên chương các đãi chế Lưu Phụng Thế. Phụng Thế cũng từ chối, lại đổi cử Thái bộc khanh Lâm Đán. Cuối cùng, Quách Tông Nhan cũng bệnh, chiếu cho Tây đầu cung phụng quan, Cáp môn Lục Hiếu Lập thay đi. (Ghi chép hợp nhất: Ngày 24, đổi cử Trịnh Ung, Mã Mặc; ngày 28, cử Lưu Phụng Thế; ngày mùng một tháng 9, cử Lâm Đán; ngày 26 tháng 10, cử Lục Hiếu Lập thay Quách Tông Nhan.)

[2] Hộ bộ thượng thư Lương Đào và Cấp sự trung Chu Quang Đình nhiều lần xin ra ngoài nhậm chức, Tả gián nghị đại phu Lưu An Thế xin giữ chức cung quan. Chiếu cho Lương Đào làm Long đồ các đãi chế, Tri châu Trịnh Châu; Chu Quang Đình làm Tập hiền điện tu soạn, Tri châu Đồng Châu; Lưu An Thế làm Tập hiền điện tu soạn, Đề cử cung Sùng Phúc.

Chu Quang Đình sau đó vì lý do kiêng kỵ, đổi làm Tri châu Bạc Châu. (Đổi sang Bạc Châu ngày 22, ghi chung ở đây.)

[3] Lúc đầu, (triều đình) bổ nhiệm An Thế làm Trung thư xá nhân, An Thế tâu: “Chức vụ thay lời Vua (soạn chiếu chỉ) vốn nổi tiếng là khó tìm người tài. Như thần đây kiến thức nông cạn, thực là nhận hư vị. Hơn nữa, trước đây thần đã nhiều lần dâng tấu luận tội ác của Đặng Ôn Bá, không nên để y ở lại triều đình, nhưng đã mấy tháng nay chưa được chấp thuận. Đang đợi bị khiển trách, lại được thăng chức, bản thân thần đã thấy khó yên, huống chi lời bàn công khai khắp triều đình, sao dám không sợ? Hơn nữa, thần đã lâu mang bệnh, thể trạng suy nhược, từng tâu xin được nhận một chức quan ở cung quán. Kính mong bệ hạ thu hồi ân điển nhầm lẫn, xét lại tờ tấu trước, sớm ban lời chấp thuận để thần được yên phận. Còn tờ cáo mệnh (bổ nhiệm), thần không dám nhận.” Chiếu không cho từ chối.

[4] An Thế lại tâu: “Thần giữ chức gián quan, chưa từng lập công trạng gì, đã nhận trách nhiệm can gián, nghĩa phải hết lòng trung, nhưng từ mùa xuân đến nay, việc dâng lời bàn luận đều không hiệu quả, lại thêm bệnh tật lâu ngày, bỏ bê chức vụ, đáng lý phải bị cách chức để phù hợp với dư luận, nay lại được khen thưởng thăng chức, thực làm tổn hại thể chế. Kính nghĩ bệ hạ thăng giáng chức vụ cho nhiều người, cần giữ sự công bằng, bổ nhiệm quần thần không trái với tài năng của họ, mong xét đến chí hướng cô độc nguy nan của thần, để thần được toàn vẹn trong việc ra làm quan hay lui về.” (Triều đình) lại không cho phép.

[5] An Thế lại tâu: “Thần cố chấp nông cạn, chưa vâng mệnh ngay, có hai lý do: Xưa nay đài gián bàn việc, ắt lấy tà chính làm đầu, bởi quân tử tiểu nhân thịnh suy là then chốt, quan hệ đến gốc rễ trị loạn của thiên hạ. Thần đã dâng nhiều chương sớ luận tội Ôn Bá mà rốt cuộc không lay chuyển được, ấy là thất chức, đáng bãi miễn để răn kẻ bỏ trống chức vụ, lại được khen thưởng thăng chức, càng mắc tội với dư luận – điều này thần không dám nhận. Chức Xá nhân thay lời Vua, phụ trách sáu phòng, dự biết việc cơ mật, nếu không phải người học rộng giỏi văn, thông hiểu chính sự thì ai đáng giữ? Thần văn chương vụng về, ứng đối chậm chạp, trí nhớ suy kém, không thông cựu chương, một mai chiếm giữ chức ấy ắt chuốc lời chê trách – điều này thần không thể làm. Đã có điều không dám, lại có việc không thể, chỉ hai lẽ ấy, nghĩa không thể liều lĩnh nhận chức. Kính mong bệ hạ xét lòng thành khẩn của thần, thu hồi ân điển nhầm lẫn, xét lại các lời tâu trước, ban cho chức cung quan nào đó để yên phận ngu muội, khỏi liên lụy thời sáng suốt.” Vua lại không cho, sai trung sứ đến hỏi thăm ban cơm, dụ bảo nhận chức. An Thế cương quyết không nhận, có chiếu cho các môn đem cáo thư chức Trung thư xá nhân đến ban cho An Thế, miễn lạy tạ. An Thế vẫn kiên quyết không nhận, chiếu bảo cứ theo mệnh lệnh trước.

[6] An Thế lại tâu: “Thần nghe luận của Giả Nghị nói rằng: ‘Bề trên đặt lễ nghĩa liêm sỉ để đối đãi bề tôi, mà kẻ dưới không thể giữ tiết hạnh báo đáp bề trên thì chẳng phải loài người’. Bệ hạ đối đãi thần hết mực, mà thần báo đáp bệ hạ chẳng có tài năng gì khác, chỉ nghĩ trau dồi tiết hạnh, trong lúc tiến thoái ra vào không để thiên hạ chê trách, may ra không phụ ơn bồi dưỡng của hai cung. Thần bàn việc không xứng, đang chờ bị giáng chức, bệnh lâu chưa khỏi, vốn nên tránh chức. Lại được thăng chức, càng thêm bất an, nên nhiều lần làm phiền long nhan, mong bãi bỏ mệnh mới. Thánh từ rộng lượng, nhiều lần dụ bảo. Nếu thần miễn cưỡng nhận ân lễ, làm trái lời nói, lợi thắng nghĩa, thì tiết tháo báo đáp trên mất rồi, bệ hạ dùng làm gì? Xưa nay bề tôi được bổ nhiệm, phần nên nhận, chỉ lấy lễ từ chối, triều đình bắt nhận, không gì không được. Như thần hôm nay xin, chỉ vì nghĩa không yên, thà chịu tội chậm trễ nặng, chẳng dám vâng mệnh mà tạm nhận”.

Tờ thiếp hoàng tâu: “Thần lo triều đình cho thần từng làm quan cận thần, không muốn đột ngột cho chức nhàn, ắt mượn một châu để tỏ ân lễ. Nhưng thần nằm bệnh nhiều tháng, thân tâm suy nhược, thực khó gượng gạo làm việc. Lại mẹ thần già yếu, không thể rời kinh, đợi mệnh Vua ban ra lại xin từ chối, sợ càng thêm phiền. Cúi mong thánh từ thuận theo lời thần, chỉ cho chức cung quan sai khiển, tùy ý ở, may ra trên phụng dưỡng mẹ già, dưới chữa bệnh”. Chiếu không cho.

[7] An Thế lại tâu: “Nay gian tà trong triều còn, bệnh tật kẻ ngu thần chưa khỏi, há dám nhận vinh sủng, phạm vào thanh nghị? Chỉ mong bệ hạ giữ trọn tiết tháo cho thần hôm nay, để thần báo đáp sau”. Bèn hạ chiếu theo lời An Thế, cùng Lương Đào, Chu Quang Đình ra ngoài. Đào, Quang Đình xin ra ngoài đều vì Đặng Ôn Bá. (Lương Đào, Chu Quang Đình nhiều lần dâng sớ từ chối chức Thượng thư, Cấp sự, nên xem kèm).

[8] Lý Đào ban đầu bị ép nhận mệnh lệnh do ân lễ, nhưng tự thấy bất an về nghĩa lý. Sau khi dự lễ mừng thọ Thái hoàng thái hậu, lui về liền dâng sớ khẩn thiết xin từ chức. Trần Quang Đình vốn không chủ trương việc này, nhưng bị mọi người chất vấn dồn dập nên đành tiếp bước.

Các phụ thần trước rèm trước tiên định cho Lý Đào làm Trực học sĩ, đến lượt Quang Đình và An Thế, Lã Đại Phòng nói: “Hai người này nếu bổ làm Đãi chế e là quá ưu đãi, nên cho chức Tu soạn.” Lưu Chí đáp: “Theo phép, từ Thị lang đến Gián nghị đại phu, nếu bổ chức khác hoặc đi ngoại nhiệm đều đổi làm Đãi chế.” Đại Phòng nói: “Tiên Vu Sân từ Gián nghị đại phu đổi làm Tu soạn.” Chí nói: “Phép cũ trong vòng một năm thì như vậy. Lúc ấy chưa có quy định đổi làm Đãi chế, nay đã có điều khoản rõ.” Đại Phòng nói: “E rằng sau này ai cũng sẽ cương trực để được chức tốt rồi đi.” Chí đáp: “Như thế là giáng chức vì tội can gián, trong khi họ đã được thăng quan một lần rồi, Đào làm Thượng thư, hai người kia làm Cấp xá rồi.” Đại Phòng nói: “Nếu vậy thì hơi ưu đãi, hai ba người ắt không nhận, lại từ chối lôi thôi.” Thái hoàng thái hậu phán: “Đúng vậy, đúng vậy. Hãy cho làm Tu soạn, không lâu sau sẽ bổ nhiệm khác.” Hứa Tướng tâu: “Hai người đã bãi Đãi chế, vậy một mình Đào làm Học sĩ thế nào?” Đại Phòng đáp: “Cũng phải cân nhắc tương đương.” Bèn đổi làm Đãi chế.

Khi tấu việc khác xong, Chí lại tâu: “Chưa rõ ba người này nên dùng lời bình thường hay lời trách cứ?” Thái hậu bảo: “Sao lại dùng lời trách?” Chí thưa: “Vậy hãy dùng lời bình thường, sau đó sẽ đổi chức danh khác.” Bèn lui. (Đoạn này thêm từ《Lưu Chí nhật ký》.)

[9] Chí từng tự thuật rằng:

[10] Mùa thu năm trước (khoảng tháng 8-9), khi (Lưu) Chí giữ chức Trung thư thị lang, có chiếu chỉ từ nội đình gửi đến Trung thư tỉnh và Thượng thư tỉnh phê duyệt hai bản tấu: một về cắt giảm chi phí dư thừa của hoàng tộc, một về quy định biên chế lại các bộ. Phòng Hộ xin niêm phong gửi Thượng thư tỉnh. Chí hỏi: “Văn thư thường làm lục hoàng chuyển qua cửa, nay niêm phong gửi là sao?” Đáp: “Thượng thư tỉnh đã thi hành lâu rồi[1]. Thường sau tấu chương có dán tờ ghi ‘Xin giao Thượng thư tỉnh’, nay quên dán nên mới gửi Trung thư.” Chí hỏi: “Phê duyệt giao Trung thư mà không theo sắc lệnh thi hành, có ổn không?” Đáp: “Muốn hỏi Thượng thư tỉnh xử lý thế nào.” Chí đồng ý. Phòng này dán tờ trình: “Chiếu nội đình hai bản tấu…, không rõ làm lục hoàng gửi thẳng Đô tỉnh? Đô tỉnh xử lý việc này hiện theo quy định nào? Thi hành ra sao?”

Ban đầu, từ khi Vua thân chính, mọi thuế khóa đều có mức độ, bãi bỏ hết những khoản thu nặng trước đây, nhưng chi tiêu triều đình vẫn như cũ, có nguy cơ thiếu hụt nên mới bàn cắt giảm chi phí, lập ty tại Hộ bộ, giao Môn hạ tỉnh và Trung thư hậu tỉnh giảm biên chế. Hậu tỉnh thẩm tra bàn bạc hơn năm, sắp hoàn thành. Lệnh sử phòng Phong trang Đô tỉnh là Nhậm Vĩnh Thọ, giỏi giang có mưu lược, vốn là lại viên ngoại ty được điều vào, vốn bất hòa với lại dịch ba tỉnh, ghét bè phái nên bí mật tố cáo các tệ nạn, gốc rễ tham nhũng lên tể tướng, được Lã Đại Phòng tin dùng giao chủ trì việc cải tổ. Vĩnh Thọ sợ đơn độc, đề cử Đô sự Thời Thầm, Chủ sự Lại phòng Tô An Tĩnh, Thủ đương quan Thời Uẩn cùng phụ trách, thu thập tài liệu từ Hộ bộ và Hậu tỉnh, lập phòng Lại ngạch tại Đô tỉnh, mượn phủ Tư không làm nơi làm việc. Cải cách chi tiết hợp lý, nhưng mấy người này xảo quyệt, lộng quyền, lấy thế hống hách đe dọa nên bị ghét.

Mỗi khi trình văn bản, Vĩnh Thọ mang đến hai tỉnh, tóm tắt nội dung, yêu cầu cùng ký tên trình, xin giao Thượng thư tỉnh, bản tỉnh dùng sắc trắng ban hành. Đến khi nhận tờ trình Trung thư, ba ngày sau Vĩnh Thọ đến nói: “Theo ý Thừa tướng, hai tỉnh cử lại viên đến ty Lại ngạch cùng làm việc.” Chí nhận ra Vĩnh Thọ gây mâu thuẫn, bảo: “Vốn chỉ hỏi cách xử lý hai bản tấu, nào phải cho lại dịch hai tỉnh tranh công với Đô tỉnh? Nếu lời xuyên tạc đã tới tai tướng công, không cần trả lời tờ trình này.” Vĩnh Thọ sợ: “Không dám. Hai bản tấu cứ làm lục hoàng ban hành như thường.” Hai ngày sau, Vĩnh Thọ lại mang bản thảo tờ tâu: “Văn thư phòng Lại ngạch trước nay làm gấp nên xử lý thẳng, nhưng chưa có quy định, muốn xin ba tỉnh cùng thông qua: việc cắt giảm biên chế theo thủ tục văn thư quan nghỉ hưu, để có chỉ đạo tuân thủ.” Chí đáp: “Năm ngoái Môn hạ tỉnh giao thẳng Đô tỉnh vì quan xin nghỉ chậm trễ, nhiều người chết trước khi nhận lệnh. Nay cắt giảm không cần gấp mà bỏ quy trình. Nếu nói ‘cần bí mật’, một tỉnh sao không giữ kín? Đợi bàn trực tiếp với ba tỉnh.” Mấy ngày sau, Đại Phòng đưa bản thảo cho Chí: “Việc này cứ làm đi.” Chí gật đầu mà không biết bị nghi ngờ.

Ít lâu sau, Trung thư tâu xin giữ Lưu Đường Tẩu (đáng lẽ thay) ở ty Pháp, đã có chỉ, nhưng Hữu ty Triều Đoan Ngạn, Vương Cổ cùng Lệnh sử Nhậm Ngạn dâng Đại Phòng ý kiến: “Đang giảm biên chế mà giữ người là tăng thêm.” Không biết đó là theo luật. Đại Phòng mừng rỡ, đến Đô đường quát tháo chất vấn. Chí thong thả đáp: “Trung thư làm đúng điều lệ.” Lát sau nói: “Đợi bàn sau.” Khi họ đi, Hữu ty hỏi Đường Tẩu bằng tờ trình: nếu không xin trợ cấp thì được. Đường Tẩu muốn giữ chức đợi điều nên không tính toán, lại hiểu ý nên không dám cãi, làm tờ cam kết nhận lương cũ. Thượng thư tỉnh phê chuẩn như vậy là trái luật. Chí biết Đại Phòng oán mình sâu, dùng chuyện này trả đũa. Bị trả đũa, Chí cũng không so đo, mọi việc yên ổn.

Không lâu sau, Lưu Chí được điều về Môn hạ tỉnh, khi việc định lại ngạch quan lại hoàn tất, bốn người bàn công lao. Cơ quan Khảo công căn cứ điều lệ trình lên việc giảm năm khảo khóa khác nhau, nhưng Đô ty đều không theo, tự ý đề xuất thưởng hậu: Vĩnh Thọ được thăng chức Ban hàng dựa trên công trước sau, Thầm được cải quan, An Tĩnh giảm ba năm khảo khóa, được bổ làm Đô sự trước hạn, Uẩn giảm năm khảo khóa. Việc này khiến dư luận bên ngoài sôi sục, cho rằng việc định ngạch quan lại vốn do Hậu tỉnh xử lý hơn năm, đã có trật tự, sắp hoàn thành thì bọn Vĩnh Thọ cướp công[2], nên mới xong trong hai tháng, tuy có thêm bớt so với Hậu tỉnh nhưng gốc rễ vẫn ở Hậu tỉnh[3], đã hoàn thành tám chín phần, nay ban thưởng quá hậu. Trung thừa Lương Đào, Gián quan Chu Quang Đình, Lưu An Thế, Ngự sử Tôn Thăng, Cổ Dịch lần lượt dâng chương bàn việc không đúng, bốn viên lại đó đều bị xử lý, chỉ dùng phương án ban đầu của Khảo công. Từ đó Lữ Đại Phòng càng nghi ngờ, vì mấy người ở Ngôn lộ đều là người cũ của Lưu Chí khi ở Đài tỉnh. May là họ không biết việc Chí từng tranh luận, vốn là do sắc lệnh không qua Trung thư, Môn hạ, các chức Cấp, Xá đều không được tham vấn, mà chỉ đàn hặc bọn Thầm lộng quyền, Đô tỉnh nghe lời tà thuyết ban thưởng hậu để chiều theo, chỉ vậy thôi. Sau lại tiếp tục công kích Đô tỉnh không tuân pháp luật, thông đồng với quan lại, xin cách chức. Hàng chục chương tấu dồn dập, lời lẽ càng gay gắt, dần chuyển sang việc bọn Vĩnh Thọ có tư lợi.

Chí trước mặt Thượng hoàng giải trình cặn kẽ, cho rằng: “Quan lại và chi phí dư thừa, lý nên cắt giảm, nay việc định ngạch đã tạm công bằng, chỉ là người bị giảm bớt không khỏi oán hận, nên bịa đặt chuyện bêu xấu, nhưng mới đầu thế nào cũng vậy, lâu dần sẽ ổn định. Bọn Thầm tuy không xứng, nhưng vốn là người phụ trách việc cắt giảm, nay nếu trị tội nặng Thầm cùng các Lang quan thì không những thỏa lòng kẻ giận dữ, mà sau này kẻ may mắn không thể kiềm chế, mọi việc đều phải nuông chiều, hại đến chính thể.” Thường đem ý này tâu lên, nhưng trong rèm đều biết rõ tội ác của bọn Thầm, nhất định phải đuổi, nên bốn người đều bị điều ra ngoài, riêng Thầm và An Tĩnh vẫn được đường trừ, Đô ty đều vô sự, người khiếu kiện đều không được xử. Đại Phòng thấy Chí có công trong việc này thì mừng, nhiều lần nói với bốn Đô ty và khách rằng: “Việc này không có Lưu Môn hạ thì không dễ dẹp yên.” Nói vậy là muốn Chí biết. Nhưng người khiếu kiện cũng vì Chí mà không được xử, nên oán hận đổ dồn. Sự vụng về của Chí thường như thế.

[11] Việc tuy đã định, nhưng Lữ Đại Phòng căm giận những người dâng lời đến tận xương, muốn trả thù mà chưa có cớ phát động. Những người bàn luận cũng cho rằng họa từ đường ngôn luận bắt đầu từ đây, mọi người đều nói như vậy. Không lâu sau, xảy ra việc của Ôn Bá. Đến khi chiếu chỉ ban ra hôm nay, dư luận bên ngoài nói: “Có thể nói là vét sạch một lưới.” Chỉ có Tôn Thăng, trước đây thượng dụ khen là trung trực, biết nói việc, nên thăng làm Thị ngự sử, vì thế dù cùng chung số phận với mọi người, nhưng xin từ chức muộn cũng không gấp, nên không bị bãi, những người muốn ông đi cũng không gây sức ép mạnh. Trước đây bàn việc ở Đô ty, lời của Thăng thẳng thắn nhất, nên mới nói “biết nói việc” là vì thế.

Khi dâng tấu chương Tôn Thăng lại xin cách chức Ôn Bá, phần thiếp hoàng viết: “Nghe đồn Văn Ngạn Bác trước khi đi có nói với các tể chấp rằng: ‘Việc triệu Ôn Bá, thực ra là Ngạn Bác nhờ Trung thư thị lang soạn tiến cử, nay đã có người nói không tiện[4], chi bằng bãi đi.’ Có thể biết mệnh lệnh về Ôn Bá không phải ý của hai cung.” (Tấu chương của Tôn Thăng xem ngày Tân Sửu tháng sáu.) Từ khi Đào và những người khác được thăng lên Thượng thư, tất cả các chương tấu nói về Ôn Bá đều không được hạ xuống, bỗng nhiên ban ra chương này. Đại Phòng và Phó Nghiêu Dũ vội dâng một tờ trát xin minh oan, cũng giao ra ngoài.

Ban đầu bàn tán xôn xao, cho rằng Hàn Chẩn ở Tây Kinh đã bàn hôn nhân với Ôn Bá, lo ngại xa cách nên gửi thư cho Nghiêu Dũ, bảo triệu Ôn Bá về. Vì Nghiêu Dũ là con rể họ Hàn. Nhà Chẩn có người vú nuôi, bán cho nhà một quan chức, lỡ lời tiết lộ việc này. Lại nói Hoàng Cảnh đang để tang ở nhà Ngạn Bác, thường gặp Ngạn Bác, Cảnh vốn thân với Ôn Bá, nhiều lần xin rằng: “Nên triệu Ôn Bá về.” Nên Ngạn Bác mới nói với Nghiêu Dũ, Ngạn Bác không muốn Ôn Bá về, chỉ vì Cảnh nhờ vả. Lại nói Kiều Chấp Trung có con gái hứa gả cho cháu Ôn Bá, cháu mồ côi, theo Ôn Bá, Chấp Trung nhiều lần nhờ Nghiêu Dũ. Tích tụ ba lời cầu xin trong lòng, nên dám khởi xướng, mà lời của Thăng chỉ nắm được phần thô thiển. Hôm nay, Nghiêu Dũ tránh việc này xin nghỉ. Sau khi dâng tấu, Đại Phòng nói muốn chất vấn Thăng về nguồn gốc lời nói, ắt lại có lòng nghi ngờ. Trong rèm nhiều lần cười mà không đáp, lâu sau mới nói: “Ngạn Bác có từng nói với tể chấp không?” Đại Phòng nói: “Chưa từng nói việc này.” Lưu Chí nói: “Ngạn Bác nếu thực có cầu xin ai, thì há lại chịu nói với người khác?” Dụ rằng: “Việc này không cần bàn.” Hứa Tướng cũng nói: “Thực không có gì để tra hỏi.” Hai ngày sau, Nghiêu Dũ dâng tấu xin minh oan, dụ rằng: “Bên ngoài có nhiều lời bàn tán, quan ngôn sự nghe đồn, chắc không có việc này.” Nghiêu Dũ liền nói: “Đã được minh xét, thần không còn gì để bàn.” (Chí và Đại Phòng biện việc Lại ngạch phòng, đã phụ vào cuối tháng sáu năm thứ năm. Trước căn cứ 《Tô Triệt Di Lão Truyền》, 《Long Xuyên Lược Chí》 cùng tấu nghị và Lưu Phỏng, Vương Tri Thường biên soạn 《Chí Hành Thực》 để tu chỉnh, sau được nhật ký của Chí, kể việc này rất tường tận, nay đều giữ lại. Tuy văn tự trùng lặp, nhưng hai lần thấy cũng không sao.)

Ngự sử trung thừa Tô Triệt, Thị ngự sử Tôn Thăng nói Đào và những người khác không nên ra ngoài. Triệt một tấu, Thăng ba tấu. Thăng nói: “Thần thấy Lương Đào, Chu Quang Đình, Lưu An Thế ba người đều bổ ra ngoài, ba người hết lời can gián, ý muốn yêu nước tôn Vua, làm sáng tỏ đại nghĩa chí công cho thiên hạ đời sau mà thôi. Thần không lượng sức kiến, dám mạo phạm thiên thính, đến hai ba lần, cùng ý ba người không khác. Nay ba người đã đi, thì thần nhỏ sao yên lòng được? Mong thánh từ thương xét lòng trung cô độc, bãi chức ngôn quan của thần, để phần nào yên lòng công luận.” Đều không được trả lời.

(1 bản tấu, 3 bản tấu, căn cứ theo 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》 bổ sung lời tâu. 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》 chép: “Nham Tẩu phong hồi chiếu bãi chức Đặng Ôn Bá không hiệu quả, các quan đài gián liên tục công kích. Nham Tẩu xin từ chức Trung thư xá nhân. Ngày 18 tháng 5, được bổ làm Long đồ các đãi chế, Xu mật đô thừa chỉ. Ngày 26, lấy Lương Đào làm Quyền Hộ bộ thượng thư, Chu Quang Đình làm Cấp sự trung, Lưu An Thế làm Trung thư xá nhân, Điện trung thị ngự sử Cổ Dịch làm Quốc tử tư nghiệp. Các người đều không nhận chức, riêng Cổ Dịch vì tránh việc liên quan đến Tô Triệt nên khác với ba người kia, trước được bổ làm Hoài Nam đề hình. Ba người từ chối nhiều lần. Một hôm, sai trung sứ đưa Huống Chi, Công Diễm nhận chiếu, còn Khí Chi đang nghỉ nên sai sứ ban đồ ăn hỏi thăm. Huống Chi, Công Diễm đến cửa điện, lại sai ngự dược Trần Diễn tuyên dụ, đặc biệt dụ Huống Chi nói chuyện lâu, hai người đành nhận mệnh, lại đưa đến tỉnh nhận chức. Huống Chi ngay tờ tạ ơn đã nói sau lễ Khôn Thành sẽ lại xin từ. Tháng 8, Huống Chi ra ngoài, lấy chức Long đồ các đãi chế giữ Trịnh Châu, Công Diễm làm Tập hiền điện tu soạn giữ Bạc Châu, Khí Chi làm Tập hiền điện tu soạn đề cử Sùng Phúc cung, ở lại kinh sư. Riêng Thị ngự sử Tôn Thăng không đi, nhưng cũng dâng tấu nhiều lần, Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu một lần rồi thôi.”)

[12] Các môn tâu: “Trong các niên hiệu Cảnh Đức, Tường Phù, Bảo Nguyên, Hi Ninh, triều đình ủy các cận thần Lương Hạo, Lý Tông Ngạc, Trần Bành Niên, Trương Tri Bạch, Lý Thục, Tống Mẫn Cầu cùng quan Các môn tu định nghi chế, thi hành đã lâu, rất tường tận đầy đủ. Đến năm Nguyên Phong thứ 4, các ty sắc lệnh thức sửa thành nghi, thức, lệnh, sắc, so với nghi chế cũ, không khỏi sơ lược. Xin ủy quan cùng quan Các môn căn cứ nghi chế cũ, đồ sách và nghi, thức, lệnh, sắc hiện hành, cùng xem xét tu định[5], không phân biệt nghi, thức, lệnh, sắc, vẫn theo lệ cũ làm 《Các môn nghi chế》.” Chiếu giao Đô thừa chỉ Xu mật viện Vương Nham Tẩu, Thiếu giám Bí thư Vương Khâm Thần cùng quan Các môn tu định.

(Cựu lục chép: “Tiên đế phân định thể chế tu pháp rằng: ‘Cấm việc đã xảy ra gọi là sắc, cấm việc chưa xảy ra gọi là lệnh, đặt ra điều này để đợi điều kia đến gọi là cách, đặt ra điều này để bắt điều kia làm theo gọi là thức.’ Sắc, lệnh, cách, thức, từ đó mới rõ. Nguyên Hựu thay đổi trăm việc, Các môn cũng phụ họa bãi bỏ cải cách.” Tân lục biện rằng: “Sắc, lệnh, cách, thức đã chép đủ trong 《Thần Tông thực lục》; việc Các môn phụ họa, đâu đủ nặng nhẹ trong một thời? Đều không cần chép, nay bỏ đi.”)

[13] Binh bộ tâu: “Tướng, phó áp đội sai đến lộ khác tạm đóng quân, số người nhà đi theo giảm một phần ba so với số người đón tiếp khi nhậm chức[6], vẫn đều sai quân sương.” Theo lời tâu.

(Tân lục không chép.)

[14] Ngày Giáp Dần, nguyên Phó vận sứ Kinh Đông lộ[7] Phạm Ngạc có công lao trong việc đốc thúc bắt giặc quân, đặc chiếu khen thưởng.

(Ngày 2 tháng 7, Ngạc đã được bổ làm Kim Trung.)

[15] Lại bộ tâu: “Quan viên phạm tội tư, nếu vì già yếu bệnh tật được thay thế, theo chiếu gần đây cho phép bãi nhiệm. Còn trường hợp phạm tội công được thay thế mà xin từ chức thì cũng cho phép[8].” Được chấp thuận.

[16] Ngày Ất Mão, Lại bộ tâu: “Quan viên tại chức, trừ trường hợp được điều động ứng phó việc quân sự khẩn cấp hoặc phòng chống lũ lụt, nếu mỗi lần khảo công mà tổng số ngày ra khỏi địa giới châu quá 100 ngày thì số ngày thừa không tính vào kỳ khảo công.” Được chấp thuận.

[17] Ngày Bính Thìn, Khách tỉnh sứ, Gia Châu thứ sử Vương Quang Tổ được bổ làm Phó tổng quản lộ Thái Nguyên phủ. Trước đó ông được bổ làm Tri Hình Châu, nhưng do Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu rằng khi Quang Tổ làm Tri Lư Châu đã dùng hình phạt tàn khốc, mua vàng trả giá thấp, không thể làm quan cai trị dân, nên có mệnh lệnh này.

[18] Trứ tác tá lang kiêm Thị giảng Tư Mã Khang được điều làm Trực tập hiền viện, quản lý cung Sùng Phúc, do xin vì bệnh.

(Ngày 4 tháng 6, được bổ làm Tả ty gián nhưng vì bệnh không nhận chức; ngày 6 tháng 9 mất, ngày 16 được truy tặng chức Gián nghị.)

[19] Ty chuyên trách biên sự Hồ Bắc tâu: “Phó tướng thứ 7, Nội điện thừa chế (Ghi chú: Bản gốc chép “thừa chế“. Tra cứu chức quan chí trong Tống sử không có tên này, có lẽ sai chữ “thừa“, nay sửa lại.) Vương An cùng con trai dẫn quân đánh phá trại giặc Đồng Mộc, tiến vào hang Ca Tân, đều bị giặc giết. Xin ban ân điển hậu hĩnh để khích lệ tướng sĩ liều chết.” Chiếu truy tặng Vương An chức Hoàng thành sứ, Dao quận phòng ngự sứ, các con được ban ân trạch 6 bậc, cấp tiền tuất theo thứ bậc, lệnh cho Kiềm hạt ty cử người đưa gia quyến về quê.

[20] Hình bộ tâu: “Trong bản tấu nửa năm của các Ty đề hình về tình hình trộm cướp các châu, xin quy định rõ việc ghi chép tỷ lệ bắt được hay chưa bắt được.” Được chấp thuận.

(Không thấy trong bản mới.)

[21] Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu: (Cuối tháng chín, trong tờ tấu bàn lại việc người Man ở Cừ Dương có đoạn: “Ngày 24 tháng trước, đã dâng tờ tấu trực tiếp, bàn việc Nghĩa Vấn xử trí sai lầm.” Chính là tờ tấu này, nay phụ vào ngày hôm nay.) “Thần trộm thấy triều đình gần đây cử Đường Nghĩa Vấn xử lý việc người Di ở trại Cừ Dương, người bàn luận đều cho rằng Nghĩa Vấn là quan văn, không có tài năng gì khác, không quen việc biên cương. Năm ngoái nhận mệnh bãi bỏ quân Cừ Dương, bị người Di mưu tính, cùng khốn nguy cấp, không biết tính sao. Lúc ấy Tri châu Nguyên Châu là Hồ Điền đang bị vây, bày mưu kế lừa các bộ tộc Di, nói Nghĩa Vấn sẽ tâu xin khôi phục quân hiệu và xin phong chức cho tù trưởng. Người Di tin lời, tụ tập trước sảnh đường, giám sát bắt phải phát tấu, Nghĩa Vấn mượn cớ này mới thoát được về. Sau sai trạm dịch đuổi theo thu hồi tờ tấu trước, lời hứa không ứng nghiệm, các bộ tộc Di biết là bị lừa, sau này thường xuyên gây rối, Nghĩa Vấn chỉ thị dọc biên giới không được báo cáo.

Nay triều đình lại giao việc biên cương cho Nghĩa Vấn đảm nhiệm (ngày 6 tháng bảy, giao Nghĩa Vấn chuyên trách xử lý việc biên giới), thần rất lo sẽ có hại mà không có lợi. Lúc ấy thần chưa biết Nghĩa Vấn là người thế nào, thấy triều đình lại chọn dùng, ngờ rằng cũng có thể sai khiến; nay nghe tin việc biên giới dồn dập, tướng thứ bảy Đông Nam là Vương An do Nghĩa Vấn phái vào cõi đã tử trận, số tướng hiệu bị chết không ít, thần mới biết lời bàn quả không sai.

Lại nghe được hiện nay bọn Dương Thịnh Đài gây rối, quân lính dưới trướng tuy chỉ năm sáu ngàn người, nhưng các tộc chiếm cứ hang động khe suối, số lượng rất đông, Thịnh Đài hung ác xảo quyệt, nhiều lần phản bội, quen thủ đoạn gian trá, thêm vào đó núi khe trùng điệp, đường sá hiểm trở, quân Hán dù có giáp binh khí sắc, cũng không thể thi thố. Nếu xử trí đúng cách, vốn không đáng ngại, nhưng nếu bố trí sai lầm, thực khó dẹp yên. Hành động trước đây của Nghĩa Vấn đã bị ngoại Di khinh thường, nay lại thất bại, thực khó trông cậy. Xưa nay tướng soái phải dựa vào thành tích đã qua, trong được quân dân tin tưởng, ngoài khiến man Di khiếp sợ, uy danh lừng lẫy, mới mong lập công. Nay tin báo khẩn cấp liên tục, thương vong đã nhiều, nên chọn người khác thay thế để ngăn giặc cướp.

Thần trộm thấy Tri châu Đàm Châu là Tạ Lân nhiều lần xử lý việc người Man, có nhiều công lao, trong vùng hang động khe suối, người ta phục trí dũng của ông, mọi người đều bàn rằng muốn chế ngự các bộ tộc Man, không ai bằng Lân. Kính xin chỉ thị cho Viện khu mật tra xét thành tích trước sau của Lân, nếu đúng như lời bàn, xin giao trọng trách, may ra giặc Man có thể nhanh chóng dẹp yên. Thần lo lắng cho nước, xin thuật lại ý kiến chung để bổ sung phần nào.”

Lời phụ: “Cừ Dương ở Hồ Bắc và Thì Trúc ở Hồ Nam vốn là châu Huy, châu Thành ki mi. Nghe nói trước kia tuy đặt làm châu huyện, nhưng thể chế khác với Nguyên Châu các nơi, bởi Nguyên Châu các nơi trước kia đều dùng binh giết chết thủ lĩnh, hoặc di chuyển vào nội địa, san phẳng hang ổ, nên châu huyện đặt ra được yên ổn lâu dài; nay Cừ Dương, Thì Trúc tuy gọi là châu huyện[9], nhưng người Di vẫn ở như cũ, ngoài thành trì đều không phải đất ta, đường sá đi lại đều thuộc địa giới người Di, lương thực quân đội, bổng lộc quan lại thường ngày làm hao tổn hai lộ, nay muốn bỏ đi, thực là lợi cho Trung Quốc. Nhưng quân dân đóng đồn, thương nhân ra vào, buôn bán tiền tệ, muối mặn không ngớt, người Di nhờ đó mà giàu có. Một mai bãi bỏ, mối lợi này mất hết, đó là lý do họ liều chết tranh chiếm không thôi. Từ trước tới nay việc bãi bỏ các trại, bảo vệ toàn vẹn quân dân, chống giữ truy kích, đã không dễ dàng, huống chi nay người Di chặn đường, quân không tiến lên được, nếu không có tướng giỏi xử lý, thực lo họa không nhỏ. Hơn nữa các tộc của họ chiếm cứ khắp các động, trải dài ba lộ Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, mọi biện pháp phải thống nhất cả ba lộ. Chỉ riêng Cừ Dương, Thì Trúc liền nhau như môi với răng, nếu Cừ Dương bỏ trước, các bộ tộc Di hợp sức đánh Thì Trúc, khó mà đứng vững. Nay triều đình chỉ giao cho Hồ Bắc xử lý, e rằng chưa thỏa đáng. Nếu cử quan khác phụ trách, nên giao quản lý chung việc biên giới ba lộ, mong rằng các nơi không mâu thuẫn lợi hại.”

[22] Ngày Đinh Tị, Hình bộ tâu: “Phạm tội được hưởng ân xá, hoặc đã thôi chức nên được tha, nhưng có chỉ đặc biệt vẫn phải xét xử thì dù sau đó lại được ân xá hoặc thôi chức, vẫn cứ theo chỉ mà xét tâu.” Vua nghe theo. Lại tâu: “Trong điều lệ bắt giặc được giảm tội, nếu là trường hợp triều đình đặc biệt đặt thưởng bắt kẻ cướp hoặc giết người, thì trừ bè đảng ra, những kẻ cầm đầu và hung ác thứ đến, đều được nhận thưởng, nhưng ai không muốn giảm tội thì tùy ý[10].” Vua nghe theo.

[23] Đại Lý tự tâu rằng chức Tự thừa có khuyết, xin tạm cử người trong hàng Ty trắc đảm nhiệm. Vua nghe theo, nhưng phải chọn người từ chức Thừa vụ lang trở lên.

[24] Ngày Kỷ Mùi, xuống chiếu cho chức Ngoại đô thủy thừa ở Nam, Bắc đều lấy nhiệm kỳ ba năm.

(Án: Từ chữ “Đô thủy thừa” trở xuống, nguyên bản nhầm vào chỗ chữ “quen được gian tiện thêm vào” trong tấu nghị của Tô Triệt, nay sửa lại.)

[25] Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu: “Thần trộm thấy đoạn chiếu thư ngày mồng 3 tháng này nói rằng hoàng đế còn để trống ngôi trung cung, nên lệnh cho quan Lễ bộ Thái thường tham khảo điển lệ xưa nay, chế thành quy thức. Thần kính xét 《Thông lễ》, việc nạp hoàng hậu là đại lễ trọng nhất, từ đời Thiên Thánh đến nay đã hơn sáu mươi năm, quan lại trong triều và các quan Thái thường không còn ai từng trải qua việc này. Lễ này cực kỳ trọng đại, nên càng phải thận trọng. Thần trộm thấy mấy năm gần đây bàn về bảo sách, mũ áo, nghi trượng của Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng thái phi, đều sai Hàn lâm học sĩ, quan hai tỉnh Cấp, Xá cùng bàn với quan Lễ. Nay đại lễ hôn nhân của hoàng đế là để nối dõi tông miếu, phụng sự hai cung, cai trị thiên hạ, việc rất trọng đại, xin vẫn sai Hàn lâm học sĩ trở xuống cùng bàn kỹ. Bởi cẩn thận lúc đầu là để tôn trọng lúc cuối, sửa nhà là để trị thiên hạ, không thể sơ suất.”

[26] Ngày Canh Thân, Trung thư tỉnh xin sai Hàn lâm học sĩ trở xuống cùng bàn. Vua xuống chiếu cho Hàn lâm viện học sĩ, Ngự sử trung thừa, quan hai tỉnh Cấp, Xá cùng với quan Lễ bộ, Thái thường tự họp bàn kỹ.

[27] Xuống chiếu sai Bồi nhung hiệu úy Quỷ Chương đến ở tại Tần châu.

[28] Chiếu cho Tổng quản Hà Dương là Bành Tôn làm Tổng quản phủ Dĩnh Xương, theo lời xin của ông ta.

[29] Ngự sử Trung thừa Tô Triệt tâu: “Thần gần đây có dâng trực tiếp tờ tấu, nói việc Đường Nghĩa Vấn xử trí sự vụ người Man ở Cừ Dương trước sau trái ngược, dẫn đến việc tướng thứ bảy Đông Nam là Vương An tiến vào địa giới tử trận, e rằng mối lo nơi biên ải sẽ càng thêm lớn, xin hãy nhanh chóng chọn người am hiểu việc dùng binh đến thay thế chức vụ. Lại nghe sau khi Nghĩa Vấn thua trận, đã tâu xin bỏ thành trại, giảng hòa với người Di, sự nhu nhược sai lầm ấy khiến ngoại quốc chê cười, việc đã rõ ràng, thần nghĩ triều đình ắt không dùng nữa. Nhưng bên ngoài thấy triệu hồi Bành Tôn, ngờ rằng triều đình muốn giao việc biên giới Hồ Bắc, Bành Tôn cũng tự nhận lấy, dư luận xôn xao, đều không hiểu. Xin xét: Bành Tôn vốn là kẻ cướp bóc, bản tính gian tà không đổi, trước sau được giao việc, lừa dối tham lam, không việc xấu nào không làm. Nay nếu trao binh quyền, rất e sẽ gây khổ cực cho Hồ Bắc, châu huyện không ngăn được. Người Man phản loạn chỉ quấy nhiễu biên thành, còn Bành Tôn gây họa thì các quận huyện trọng yếu đều bị hại. Trước dùng nhầm Nghĩa Vấn chỉ hỏng việc, nay dùng Bành Tôn thì nguy hiểm khôn lường, hậu quả khó đoán. Theo ý thần, dù biết triều đình chẳng dễ dùng người này, nhưng mọi người đều lo, không dám im lặng, nếu đợi đến khi dùng rồi mới can thì sợ đã muộn. Xin bệ hạ xem lại tờ tấu trước của thần, sớm thi hành.”

Thiếp hoàng: “Thần nghĩ việc biên thần xử trí sai lầm quan hệ đến tính mạng quân dân, sai một ly đi một dặm. Nay Nghĩa Vấn đã rõ sai trái, thất bại hiển nhiên, mà triều đình ngại thay đổi, chần chừ không quyết, dân biên giới tội tình gì phải chịu khổ. Nếu không nhờ lòng nhân từ của bệ hạ sớm ra lệnh, thần e mối lo Hồ Bắc không biết đâu là giới hạn.” (Tờ tấu này của Triệt nói: “Ngày 24 tháng trước, có dâng trực tiếp tờ tấu bàn việc Đường Nghĩa Vấn xử trí sai lầm”. Đã nói tháng trước thì tờ tấu này hẳn dâng tháng 9. Nay nhân việc Bành Tôn thay chức xin phụ chép, bỏ câu “ngày 24 tháng trước”, trên nói “gần đây” cho khỏi mâu thuẫn. Việc Bành Tôn chưa chắc đúng thế này, nên khảo thêm.)

[30] Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu: “Thần vào ngày 24 tháng 7 và mồng 8 tháng này đã hai lần tâu bày trực tiếp rằng Phạm Dục, Chủng Nghị ở Hi Hà lộ đã trái với đại tín, tham công sinh sự, gấp gây biên hoạn, xin điều giáng sang lộ khác, chọn lại tướng khác để trấn giữ. Khi thần đang tâu bày, được Thái hoàng thái hậu nhiều lần tuyên dụ, cho lời thần là phải. Nhưng đến nay đã nhiều ngày, chỉ thấy Chủng Phác được điều sang Kinh Nguyên lộ làm công việc, còn Dục, Nghị vẫn chưa thấy điều động. Thần trộm nghĩ, bề tôi tâu việc, không lo ý thánh không hồi chuyển, mà lo khi ý thánh đã hồi mà đại thần cố chấp, khiến việc bị dừng lại. Vì sao? Nếu ý thánh chưa hồi, chỉ nên nhiều lần trình bày, mong được tỏ ngộ; còn nếu ý thánh đã hồi mà đại thần không theo, việc không thi hành, thì là quyền Vua đã mất, trên dưới đảo ngược, dẫu muốn dâng lòng trung, ích gì cho việc? Đây là điều khiến thần ngày đêm lo sợ, muốn nói lại thôi.

Xưa Tề Hoàn công[11] du ngoại thành, hỏi lý do mất nước của Quách công, các bô lão đáp: ‘Vì thích điều thiện mà ghét điều ác’. Hoàn công nói: ‘Thích thiện ghét ác là Vua hiền, sao lại mất nước?’ Bô lão đáp: ‘Thích thiện mà không dùng, ghét ác mà không bỏ, nên mới mất nước’. Nay bệ hạ cho lời thần là phải mà không dùng, biết đại thần là trái mà vẫn nghe, thần thật lấy làm lạ. Huống chi bệ hạ tuy ở trong màn trướng, thực nắm việc của bậc chủ, nay lại do dự thoái thác, chỉ nghe đại thần, việc có chỗ không ổn, ai sẽ chịu hậu quả? Nên thần cho rằng ở ngôi mà không làm việc, làm việc mà không quyết phải trái, xưa nay chưa từng có. Thần vốn kém cỏi, may được cất nhắc, hết lòng dâng lời, trên trái ý đại thần, dưới trái biên lại. Lý do thần nhiều lần tâu bày, không vì bản thân, thực là muốn ngoài thì lợi dân, trong thì báo quốc. Nay lời nói không được nghe, chỉ kết oán giận, chẳng bổ ích gì, thần dẫu ngu dại, còn khổ gì mà làm thế? Thần sợ từ nay trung thần sẽ câm miệng, không dám đem lời thẳng tâu lên bệ hạ.

Mùa đông năm ngoái, bệ hạ biết việc đắp đê ngăn sông là sai, ra chiếu nghiêm cho đại thần bãi bỏ việc đào sông Đông lưu. Lời trời thống thiết, trong ngoài đều nghe, nhưng đại thần thi hành chưa được nửa, tuy bỏ danh nghĩa ngăn sông, vẫn giữ việc giảm nước, các công trình như Cư Nha, Mã Đầu vẫn như cũ, mong nước lên có thể ngăn sông. Nhưng nay xem lại, rốt cuộc ích gì! Nên mọi người đều nói bệ hạ sáng suốt xét việc, thấu rõ nghìn dặm, nhưng hiệu lệnh không thi hành, chưa thấy hiệu quả. Lúc đó thần đi sứ Khiết Đan về tâu việc ấy, chương tâu còn đó, có thể xem lại. Nay việc biên giới Hi Hà cũng tương tự. Nếu ý thánh lại bị đại thần ngăn trở, thì quyền Vua càng mất, thế bề tôi càng mạnh, nuôi dưỡng mãi, sau càng thêm tệ. Đến khi việc quá khó nhịn mới chế ngự, thì tổn ân tình quân thần, mất thể thống triều đình, chi bằng nay ngăn từ từ, khiến việc không sai lầm mà thần cũng được yên ổn. Thần hết lòng lo xa cho nước, dám phạm điều cấm kỵ, cam chịu phủ việt.”

《Tô Triệt dẫn lời truyện cổ chép》: “Ban đầu, người Hạ đến chúc mừng lễ đăng quang, liên tiếp cầu hòa và bàn việc phân định biên giới, triều đình đồng ý. Theo thỏa thuận, sau khi ổn định biên giới sẽ ban thưởng hàng năm, nhưng đàm phán lâu không xong. Năm sau, Nhân Đa Bảo Trung đem quân đánh úp Kinh Nguyên, giết hại mấy ngàn dân bắn cung rồi rút lui. Triều đình nhẫn nhịn không hỏi tội, lại còn sai sứ ban sắc phong. Người Hạ nhận lễ một cách kiêu ngạo, lấy cớ biên giới chưa xong, không vào tạ ơn, lại còn xâm phạm Kinh Nguyên lần nữa. Đến năm thứ tư, họ mới lại đến chúc mừng tiết Khôn Thành và bàn việc biên giới. Triều đình vội vã chiêu dụ, chưa định xong biên giới đã ban thưởng trước. Sau thấy bất tiện, bèn đòi hỏi thêm nhiều điều về biên giới, không giữ đúng ước cũ. Các tướng Hi Hà là Phạm Dục, Chủng Nghị lại trái ước xây thêm hai thành Trất Cô, Thắng Như, người Hạ lập tức san phẳng. Dục lại muốn dùng quân đưa Triệu Thuần Trung về nước và tự tiện chiêu dụ hơn ngàn người bộ lạc[12], triều đình không nhận, biên giới phía tây náo loạn. Triệt hết sức can ngăn, xin cách chức Dục, Nghị, chọn tướng già giữ Hi Hà. Tuyên Nhân thái hậu cho là phải, nhưng đại thần cản trở.”

(“Tự tiện chiêu dụ hơn ngàn người bộ lạc, triều đình bác bỏ” – cần tra cứu thêm).

[31] Lúc đầu, Thái hoàng thái hậu vì Tô Triệt nhiều lần tấu trình, muốn cách chức Phạm Dục, Chủng Nghị, nhưng các đại thần không cho là phải. Triệt lại tâu mặt rằng: “Những kẻ này đều là thân thuộc cũ của đại thần, không nỡ hủy hoại chức vụ của họ, dù đồng liệt cũng không dám dị nghị. Bệ hạ chẳng thấy việc Hoàng Hà đó sao? Lúc ấy lời đức âm tuyên dụ rất sâu sắc thiết tha, nhưng không phải ý đại thần, đến nay vẫn không thi hành. Quân chủ và bề tôi, thể chế khác nhau. Bề tôi dù thấy rõ phải trái nhưng sức không kham, phải dừng thì dừng; quân chủ việc không biết thì thôi, biết mà không làm được thì quyền hành mất hết. Thần nay nói điều này, chỉ mong bệ hạ thu tóm quyền uy, để chính danh phận quân thần mà thôi. Nếu chỉ nghe họ muốn làm gì thì làm, không dần kiềm chế, đến khi quá đáng, tất phải trị tội, như Hàn Duyên chuyên quyền quá đáng, Phạm Thuần Nhân thiên tư quá đáng, đều không tránh khỏi bị đuổi. Việc đến thế, há phải là chuyện hay của triều đình? Nên ý thần chỉ muốn bảo toàn đại thần, chứ không hại họ.” Thái hoàng thái hậu rất cho là phải, nhưng rốt cuộc không dùng được.

[32] Cấp sự trung kiêm Thị giảng Phạm Tổ Vũ dâng lên tám thiên sách《Đế học》, đồng thời tâu rằng:

Thời Tam Hoàng còn rất chất phác, Phục Hy mới khai mở văn minh, từ Thần Nông trở về sau đều có thầy. Đức của thánh nhân không gì lớn hơn học tập. Trong hào sáu quẻ Càn của Kinh Dịch, đức rồng biến hóa đều là thánh nhân. Hào chín hai nói ‘rồng hiện nơi ruộng’, Khổng Tử giảng: ‘Đức rồng mà chính trung vậy. Nhờ học để tụ lại, hỏi để phân biệt, nên thiên hạ văn minh’. Hào chín ba nói ‘quân tử suốt ngày dốc lòng’, Khổng Tử giảng: ‘Tiến đức tu nghiệp, muốn kịp thời vậy’. Đến hào chín năm ‘rồng bay trên trời’ thì hợp đức với trời đất, hợp sáng với mặt trời mặt trăng, hợp trật tự với bốn mùa, hợp cát hung với quỷ thần, đi trước trời mà trời không trái, theo sau trời mà vâng thời trời. Đức thánh nhân không gì thịnh hơn thế, đều do học mà đạt được. Hào chín hai và chín năm đều nói ‘lợi gặp đại nhân’, bởi không học thì không thể thành bậc đại nhân. Vì thế Nghiêu Thuấn xét xưa, buông áo xiêm mà thiên hạ trị, là hiệu quả của thánh học vậy. Dương Hùng nói: ‘Học là việc của vương giả đã lâu. Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ gấp gáp, Trọng Ni hối hả, đã lâu rồi’.

Học bắt đầu từ Phục Hy đến Thành Vương, Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư nêu gương, thánh nhân thuật lại, làm khuôn phép muôn đời. Từ Hán trở đi, đạo không thuần nên ít người đáng khen. Xưa nay ngày trị ít, ngày loạn nhiều, suy ra gốc là do Vua không học. Kính nghĩ các bậc thánh triều ta nối nhau, 133 năm bốn phương yên ổn, trong ngoài bình yên, muôn vật được nuôi dưỡng, ân đức sâu dày vượt xa đời trước, đều nhờ lấy đạo đức nhân nghĩa văn trị thiên hạ, bởi Vua chúa không ai không ham học. Bệ hạ xem rộng sách vở, xét các đời trước, bậc Vua khai nghiệp giữ nền, có ai như tổ tông đều ham học chăng? Từ Tam Vương đến Ngũ Đại, thịnh trị lâu dài, có ai như triều ta trăm năm thái bình chăng? Nay người có báu vật còn biết giữ gìn sợ hư hỏng, huống chi thiên hạ toàn thịnh hơn 130 năm của tổ tông, há chẳng nên gắng học để giữ lấy sao?

Thần lại nghe học ắt phải hỏi, hỏi rồi mới thành học.《Trung Dung》nói: ‘Quân tử tôn đức tính mà theo đạo học hỏi, đạt rộng lớn mà tận tinh vi, cực cao minh mà theo trung dung, đều là khuôn phép cho thiên hạ’. Vua Nghiêu có nhà Cù Thất để hỏi, Vua Thuấn có điện Tổng Chương để thăm, động tất bàn với Tứ Nhạc. Khổng Tử khen trí lớn của Thuấn là ‘ham hỏi’, Trọng Hôi răn Thang rằng ‘ham hỏi thì rộng’. Học là việc trước của thánh, hỏi là phương pháp lớn của học. Văn Vương hỏi Bát Ngu, bàn với Nhị Quắc, lượng với Hoành Yêu, mưu với Nam Cung, tham với Sái Nguyên, thăm với Tân Doãn, lại trọng Chu, Triệu, Tất, Vinh nên thành bậc thánh. Vũ Vương thăm Cơ Tử, Thành Vương hỏi Doãn Dật. Bốn thánh giữ vững, các hiền phò tá, nên làm thiên tử thái bình, giữ được cơ nghiệp, há do đường khác ư? Chỉ mạnh về học hỏi mà thôi.

Nay thần chép tám thiên, trên từ Phục Hy, dưới đến Thần Tông, mong bệ hạ noi đạo Tam Hoàng, xét đức Ngũ Đế, khuôn phép Tam Đại, bắt chước tổ tông, gom hạnh các thánh, thể sức mạnh quẻ Càn không ngừng, thì bốn biển đến chốn thái hòa, muôn năm mãi ngắm xem vậy.”

(Phạm Tổ Vũ dâng《Đế học》vào tháng 8 năm thứ 5, nay phụ vào cuối tháng.)


  1. Chữ 'khước' nguyên bản là 'như', theo bản trong các các mà sửa
  2. 'cướp' nguyên bản là 'muốn', theo《Tục tư trị thông giám trường biên》quyển 444 sự kiện tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 5 sửa lại.
  3. 'Hậu' nguyên bản là 'phục', căn cứ bản các và văn trên sửa lại.
  4. 'Tiện' nguyên bản chữ 'thụ', theo các bản khác sửa.
  5. 'cùng' nguyên là 'ty', theo 《Tống hội yếu》 Nghi chế 5/20 sửa
  6. 'giảm một' hai chữ nguyên đảo, theo bản các sửa lại
  7. 'Kinh Đông lộ' nguyên là 'Đông Kinh lộ', theo sách này quyển 445 ngày Ất Sửu tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ 5 và 《Tống hội yếu》 Binh 12/12 sửa lại
  8. theo Tống hội yếu tuyển cử 23-5 chữ 'thế' có thêm 4 chữ 'tịnh hậu thế nhân', có lẽ đúng
  9. Chữ 'danh' nguyên bản là 'đa', theo 《Loạn thành tập》 quyển 44 《Luận Cừ Dương man sự tráp tử》 sửa lại.
  10. Chữ 'nguyện' vốn thiếu, nay căn cứ vào 《Tống hội yếu》 binh 12-12 bổ sung
  11. 'Hoàn' nguyên là 'Uy', người Tống kiêng húy Khâm Tông Triệu Hoàn nên đổi, nay đổi lại.
  12. 'Chiêu dụ' nguyên bản chữ 'cự', căn cứ vào 《Tục tư trị thông giám trường biên》 quyển 444, tấu nghị của Tô Triệt tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 5, 《Loan Thành tập》 hậu tập quyển 13 《Dĩnh Tân di lão truyện》 và đoạn dưới sửa lại

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.