VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 449: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 5 (CANH NGỌ, 1090)
Từ tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 5 đời Triết Tông đến hết tháng đó
[1] Tháng 10 mùa đông, ngày Quý Tỵ, dẫn nước sông Hoàng Hà vào sông Biện. (Sách 《Ngọc điệp》 có ghi chép việc này, nhưng 《Thực lục》 không thấy).
[2] Xuống chiếu bãi bỏ Ty Đô đề cử tu sửa sông ngòi.
[3] Tô Triệt lại tâu: “Thần gần đây dâng sớ xin bãi Ty Tu sông và giáng chức Lý Vĩ, theo lệnh ngày 26 tháng 9, Lý Vĩ tạm làm Giám thừa Bắc ngoại, đề cử dòng Đông. Lại theo lệnh ngày 2 tháng 10, bãi chức Đô đề cử Ty Tu sông. Thần cho rằng Ty Tu sông tuy bãi nhưng Lý Vĩ không bị cách chức, thì cũng như không nghe lời thần. Xét Lý Vĩ nhiều lần dùng lời gian trá lung lạc triều đình, khởi xướng việc lớn. Tháng 8 năm ngoái, hắn dâng sớ riêng nói sông lớn nay đã chia làm hai nhánh, nhưng cần mở rộng lòng sông ở khu vực phố thứ tư, chỉ cần 2 vạn binh dân, khởi công tháng 9, đến tháng 10 trời lạnh thì xong, nhờ đó dẫn dòng sông, không chỉ thông hai nhánh mà còn tính kế đổi dòng sông lớn. Những lời Vĩ nói đại để đều ngông cuồng như vậy.
Triều đình tin là thật, bèn điều binh dân, bổ quan lại, thu mua vật liệu, làm khổ ba lộ Hà Bắc, Kinh Đông Tây, khiến quan dân nửa năm không yên. Triều đình phát hiện sai lầm[1], vội bãi việc. Lúc ấy trong ngoài đều mong triều đình trừng trị ngay, làm rõ tội lừa dối để tạ thiên hạ, nhưng do dự không quyết, vẫn dùng Vĩ như cũ. Sau đó Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ trả lại chiếu thư, xin bãi chức Vĩ, triều đình vẫn nhẫn nhịn, ngày 5 tháng 4 ra lệnh chờ qua mùa nước lũ sẽ xét. Nay lũ đã qua, mọi người đều cho rằng Bệ hạ sẽ giáng chức Vĩ để giữ lời trước, nhưng lại thăng làm Giám thừa, vẫn đề cử dòng Đông. Chưa đầy mấy ngày, lại bãi Ty Tu sông. Việc triều đình bãi Ty Tu sông là vì không thể đổi dòng sông được nữa. Đã không đổi dòng được thì tội lừa Vua hại nước của Vĩ rõ ràng.
Nay lại cho kẻ mới làm Tri huyện tạm giữ chức Đô thủy Giám thừa, tức là kẻ có tội lại được thăng trái phép, nên công luận không phục. Ty Tu sông tuy bãi nhưng Lý Vĩ không đi, lời gian vẫn thường tâu, việc sông thay đổi bất định, dân Hà Bắc không lúc nào yên, đó là điều công luận lo lắng. Mệnh lệnh triều đình quý ở chỗ tín, lệnh ngày 5 tháng 4 đã ghi rõ tại Hữu ty[2], nay bỏ không dùng, khiến thiên hạ bàn tán, cho rằng triều đình nói suông, tạm để Cấp sự trung thi hành chiếu lệnh, khi đã thi hành rồi thì bỏ như lời nói suông, không màng gì. Các đại thần tiếc gì một Lý Vĩ mà để mang tiếng xấu? Thần thiết tha xét lại sớ trước, nhanh chóng đày Vĩ đi. Nếu không cách chức Vĩ, công luận sẽ không yên.”
Dán tờ vàng: “Tháng 8 năm ngoái, Vĩ xin đổi dòng sông. Triều đình nghe theo, sai quan binh, mua vật liệu, đào lòng sông, đắp đập, hao tốn rất lớn. Nay xem lại đều uổng phí. Thần xin cử quan không dính líu xét lại chi phí, chỉ căn cứ vào đó cũng đủ tội đày Vĩ, huống chi tội lừa Vua hại nước là đại ác của bề tôi!” (Ngày 28 tháng 8 năm ngoái).
[4] Thị ngự sử Tôn Thăng tâu: “Thần trộm nghĩ, tước thưởng là để ghi nhận công lao, hình phạt là để trừng trị kẻ có tội. Không có công mà được thưởng thì bề tôi chẳng biết khuyên răn, có tội mà không phạt thì gian ác không thể răn đe. Đó là mối họa lớn của quốc gia. Xin xét rằng Tuyên đức lang Lý Vĩ, cuồng vọng giữ tà tâm, lừa dối hại nước, đã dâng sớ riêng bàn việc đắp đê ngăn sông hai nhánh, lại có lời lẽ nhân thời lập đại sự, trong dựa thế quyền của Văn Ngạn Bác, ngoài mượn lời du thuyết của Ngô An Trì, khiến đại thần dao động, triều đình nghe theo, khởi công xây đắp gây hại cho công tư. Đã chẳng thông được hai nhánh sông, huống chi khôi phục hoàn toàn dòng chính? Khi lời gian của Lý Vĩ được thi hành, sĩ đại phu trong ngoài đều kiêng nói việc đắp đê, người có thức giả đều than thở. Nếu không nhờ hai bậc thánh minh quyết đoán, soi rõ sự lừa dối, tạm dừng việc đắp đê, thì hậu họa sao kể xiết? Gần đây ty Đô đại tu hà đã bãi bỏ (ngày 2 tháng 10), tội lừa dối của Lý Vĩ càng rõ. Nay triều đình chẳng những không trừng phạt Lý Vĩ, lại còn ban chức Ngoại giám thừa cho y. Như thế là không công được thưởng, có tội không phạt, thần e rằng trái với ý hai bậc thánh minh dùng thưởng phạt để khuyến khích bề tôi. Kính mong Thánh từ xét rõ tội lừa dối của Lý Vĩ, sớm cách chức để thỏa lòng trong ngoài.”
Thiếp hoàng: “Lý Vĩ đã nhận chỉ dụ ngày 5 tháng 4 rằng sẽ xem xét chức vụ sau mùa nước lũ, sợ bị bãi chức nên ngày đêm tính toán, dựng công trạng giả về việc giảm nước lũ ở dòng cũ để mê hoặc triều đình.”
[5] Thăng lại nói: “Thần gần đây tấu luận về Lý Vĩ là kẻ tiểu nhân khinh bạc, trước sau lừa dối, xin bãi chức, giao việc quản lý đạo cũ cho Bắc ngoại giám thừa ty. Nghe nói Lý Vĩ vừa được bổ làm (ngày 26 tháng 9) Quyền Bắc ngoại giám thừa, phụ trách Đông lưu, còn Tôn Huýnh phụ trách Bắc lưu. Như thế thì việc sông ngòi khởi công không ngừng, dân chúng Hà Bắc khốn khổ không nghỉ, thần rất tiếc cho triều đình. Nay đạo cũ Đông lưu chỉ để phân giảm nước lũ mùa hè thu, nếu đạo cũ thông được thì Bắc ngoại giám thừa Tôn Huýnh quản lý đủ rồi, không hiểu sao phải đợi Lý Vĩ mới lo liệu được? Thần nghe bọn gian thần mê hoặc triều đình, cho rằng năm nay nước lũ Bắc lưu không gây họa là nhờ công phân giảm của Đông lưu. Đâu biết trước đây bàn chuyện chuyên về đắp sông, không tu sửa đê Bắc lưu, từ mùa thu năm ngoái triều đình biết sông lớn không thể đắp lại, bèn giao cho Trịnh Hữu coi Bắc lưu, nên đê điều dần hoàn chỉnh, nhờ đó nước lũ mùa thu nay không gây họa. Nếu triều đình dùng vật liệu, nhân lực lãng phí ở Đông lưu để tu sửa đê Bắc lưu cho vững chắc thì đâu lo sâu, Ký gặp họa. Năm nay nước lũ, phía đông Bắc Kinh nguy cấp suýt không giữ được, phía nam Ngư Trì sụt lở khiến người ta kinh hãi, đều do ngăn ba sông, đắp đê chắn, đầu ngựa và răng cưa chặn nước, khiến nước lũ ứ lại, Bắc lưu không thông[3], lại bắt sông lớn chảy xiết vào bờ đông, nên Bắc Kinh, Ngư Trì suýt vỡ. Ngô An Trì, Lý Vĩ chỉ lấy công phân giảm nước lũ để mê hoặc triều đình, không bàn đến nguy cấp Bắc Kinh, Ngư Trì suýt mất, mà hao phí vật liệu gấp đôi tu sửa đê Bắc lưu. Mong hai Thánh xét lời thần, bãi Lý Vĩ, giao việc cho Bắc ngoại giám thừa ty, may ra việc sông ngòi dần ổn, dân Hà Bắc thoát khổ.”
Dán tờ vàng: “Gần đây Đô thủy sứ cùng Giám ty bản lộ bàn tâu: ‘Thần vâng mệnh, chỉ xét lời các quan, sợ sông lớn bồi lấp ngăn dòng, nên như trên. Sau này nếu cần xử lý gì sẽ do quan ty thi hành.’ Thần ngu, xét lời tâu, nếu Giám ty bản lộ thấy Lý Vĩ có kế hoạch hoàn hảo thì không nên nói sau này còn việc phải làm. Giám ty bản lộ hiểu lợi hại còn không dám bảo đảm kế Lý Vĩ, triều đình lại tin hắn thế, thật đáng tiếc. Mong hai Thánh xét lúc Ngư Trì nguy cấp, người qua đường hướng nam kinh thành đều kinh hãi. Ngoài đê ngang Bắc Kinh mênh mông như biển, nếu gió mưa không ngừng ắt nguy. Nhà giàu Bắc Đô đa phần dời đi, chỉ còn kho tàng binh phòng phó mặc nguy hiểm. Nay kẻ bàn luận còn lấy công Lý Vĩ phân giảm nước lũ Bắc lưu mê hoặc, chẳng quá lắm sao?
Mong hai Thánh xét Lý Vĩ là kẻ khinh bạc tham lam vô sỉ, trước giúp Ngô Cư Hậu bóc lột dân Đông Kinh, nay triều đình há không có người am hiểu việc sông lão luyện hơn Lý Vĩ, mà phải dùng kẻ cuồng vọng trẻ tuổi? Lý Vĩ cậy thế lực, mọi người đều nể, nếu không bãi hắn thì việc sông ngòi không ngừng, dân Hà Bắc khổ mãi. Mong hai Thánh nghĩ đến dân Hà Bắc, bãi Lý Vĩ, Ngô An Trì.”
(Việc Ngô An Trì cùng Giám ty bản lộ khảo sát vào ngày 12 tháng 8.)
[6] Thiếp hoàng: “Lời tâu tháng tám năm ngoái của Lý Vĩ đều là lừa dối, nhưng vẫn tại chức, nếu xuân sang lại khơi dòng, hao tổn công tư, hắn đâu tiếc gì. Lý Vĩ tiểu nhân láu cá, tham lam vô sỉ, trước giúp Ngô Cư Hậu bóc lột dân Đông Kinh. Trong triều không thiếu người am hiểu việc sông, sao phải dùng kẻ cuồng vọng? Vĩ cậy thế lực, mọi người nể nang, nếu không bãi chức, việc sông khởi động, dân Hà Bắc khổ sở không dứt. Lại việc đổi dòng trước, đập Thôn Dương, Phiền Hà vẫn đóng, các đê ngăn ‘Thử’, đập chắn, đầu ngựa vẫn còn. Gần đây lại đắp đập nhỏ Hoa Hoa ở nội Hoàng, nước sông đổ thẳng bờ đông Bắc Kinh. Nước dâng tràn, đê Bắc Kinh nguy cấp suýt vỡ. May nhờ đức hai Thánh cảm trời đất, gió lặng mưa ngừng, không thì Bắc Kinh sao giữ được? Đây không phải sông gây họa mà do Lý Vĩ tạo ra. Bắc Kinh còn là may mắn!”
(Mật sớ có viết này, nay giữ nguyên, ngày 23 tháng 9 năm thứ 5. Xét ngày 2 tháng 10 mới bãi Ty Tu sông, không lẽ trước đó Gián quan đã tâu, chắc ngày tháng mật sớ sai. Hoặc là ngày 23 tháng 10. Nay tạm đưa sau ngày 2 tháng 10.)
[7] Lại nói: “Thần nhiều lần tâu bàn việc Lý Vĩ lừa dối về chuyện đắp đê ngăn sông, xin bãi chức, nhưng triều đình vẫn chưa thi hành. Lòng trung ngu muội không tự kìm được. Trước đây thần từng tâu đối, được nghe lời vàng rằng sông không thể ngăn được. Như thế, hai bậc thánh đã rõ lợi hại của việc đắp đê, không cần đợi thần nói mới biết. Năm ngoái Lý Vĩ tâu rằng dòng sông đã chuyển ba phần, rõ ràng có thể ngăn hoàn toàn, nên nhân cơ hội này làm việc lớn. Đến khi sương xuống nước rút, lòng sông cũ khô cạn, thế mà đại thần vẫn ủng hộ Lý Vĩ không bãi chức. Mùa xuân năm nay lại khởi công đắp đê giảm lũ, danh là giảm lũ nhưng thực chất là ngăn sông, những công trình như chỉ thủy, cứ nha, mã đầu, tiệt hà đê đều là công cụ ngăn sông. Khi nước lên mùa hè thu, Ngô An Trì tâu lên triều đình rằng sông đã chuyển dòng, có thể nhân thế ngăn lại. Các đại thần đều tin theo. Nay nước đã rút về lòng sông, cửa Tôn Thôn lại bị bồi lấp. Hai năm lừa dối của Lý Vĩ, Ngô An Trì không hiệu quả, hai bậc thánh đã thấy rõ, không cần đợi thần nói. Thần nghĩ bệ hạ biết rõ sông không thể ngăn, nhưng người chủ trương vẫn không cho là thế; bệ hạ thấy rõ Lý Vĩ lừa dối, nhưng người chủ trương không cho là tội. Như vậy là đại thần có chủ kiến riêng, dù là thiên tử cũng không thay đổi được. Đó là lý do thần ngu muội không tránh khỏi mạo phạm, nhiều lần tâu lên. Mong bệ hạ dùng uy quyền quyết đoán, trị tội lừa dối, bãi chức Lý Vĩ để thỏa lòng trong ngoài.”
[8] Lại tâu: “Thần trước đã nhiều lần tâu bàn việc Tuyên đức lang Lý Vĩ dối trá về việc đắp đê ngăn sông, xin cách chức. Gần đây tuy có chỉ dụ cách chức Giám thừa ngoại Bắc của Lý Vĩ, nhưng hắn vẫn tại chức, quản việc đắp đê ngăn dòng phía đông, cùng điều động nhân công vật liệu ở hai nơi. Như vậy danh là cách chức Giám thừa ngoại Bắc, nhưng thực quyền vẫn như cũ, khác gì không cách? Thần nghĩ hai Thánh thượng đã rõ việc đắp đê ngăn sông là hại, mà dòng cũ phía đông không thể khôi phục, chỉ khiến dân chúng một phương khốn khổ nhiễu loạn. Trước đây việc giải tán phu dịch, bãi bỏ Đô đại Tu hà ty đều do Thánh chỉ, mà Lý Vĩ ngông cuồng dối trá, trong ngoài đều biết, sao lại lưu lại không đi? Lý Vĩ chỉ là tiểu thần, không đáng bàn, nhưng thần nhiều lần tâu bày không chỉ vì hắn có tội không bị trừng trị, hay chiếm bổng lộc không chịu đi. Bởi Lý Vĩ đầu tiên dâng kế đắp đê ngăn sông, khiến đại thần dao động. Khi lời gian trá của hắn được thi hành, quan lại trong ngoài đều kiêng nói về việc này. Sau khi Chuyển vận sứ Hà Bắc Tạ Khanh Tài, Đô chuyển vận sứ Hà Bắc Phạm Tử Kỳ đều vì bất đồng với Lý Vĩ mà bị cách, từ đó dù có người hiểu rõ việc sông ngòi cũng đều câm lặng, không dám nói. Vì thế dân Hà Bắc xem việc Lý Vĩ ở hay đi để biết việc đê điều động tĩnh, thấy lòng triều đình hướng về đâu. Nếu Lý Vĩ còn ở lại, ắt lại sinh kế hoạch hưng công đắp đê để chứng minh lời trước, đến khi thất bại lớn, họa hại lộ rõ mới bãi chức thì đã muộn. Kính xin hai Thánh thượng nghĩ đến sinh linh Hà Bắc, cách chức Lý Vĩ, chọn người từng trải khác giao việc sông ngòi, không chỉ khiến dân Hà Bắc có hy vọng nghỉ ngơi, ai nấy yên lòng, mà người hiểu rõ việc sông ngòi cũng dám nói hết, thật là phúc lớn cho trong ngoài!”
(Việc cách chức Giám thừa ngoại Bắc của Lý Vĩ cần tra xét ngày tháng. Sách 《Chính mục》 chép: Ngày 12 tháng 10, Giả Chủng Dân làm Ngoại thừa Bắc. Có lẽ thay Lý Vĩ. Cần tra xét thêm).
[9] Ngày đó, chiếu dẫn nước sông vào sông Biện.
(Sách 《Ngọc điệp》 chép năm thứ 5 tháng 10 ngày Quý Tỵ việc dẫn nước sông vào sông Biện, các sách khác không thấy ghi, nên phụ chú ở đây để tra cứu thêm. Cuối đông năm thứ 4, Lương Đốc tâu xin khôi phục cửa sông Biện, theo lệ cũ dẫn một nhánh sông lớn, mở đóng đúng thời, hoặc chuyển dòng chỗ khác vào đây. 《Nhật lục》 của Tăng Bố cũng chép việc này cần đối chiếu. Bố ngày 24 tháng giêng năm thứ 5 từ Thái Nguyên chuyển đến Hà Dương, ngày 2 tháng 12 cùng năm đổi sang Thanh Châu.)
[10] Ngày Ất Mùi, chiếu rằng kỳ thi ứng cử chế khoa lần này, hạn nộp đơn vẫn theo lệ cũ đến cuối tháng 10.
[11] Quyền Tri Khai Phong phủ Vương Nham Tẩu tâu: “Hàng năm trong số tiền thu được từ án tham nhũng, chi một nghìn quan để dùng vào việc bắt trộm cướp. Do số chi các năm không đều, nếu còn dư, xin cho chi tiếp sang năm sau ngoài định mức.” Theo lời tâu.
[12] Biệt thí sở tâu: “Khảo xét các tông thất thi nghề nghiệp đạt chuẩn gồm: Tả Giám môn suất phủ suất Sĩ Tắc, Hữu Thiên Ngưu vệ tướng quân Sĩ Chú, Lệnh Văn, Lệnh Thục, Hữu Giám môn vệ đại tướng quân Lệnh Chuyên, Hữu Giám môn suất phủ suất Thúc Hoành, Hữu Thiên Ngưu vệ tướng quân Công Miến.” Chiếu thăng Sĩ Tắc làm Hữu Thiên Ngưu vệ tướng quân, Sĩ Chú, Lệnh Văn, Lệnh Thục, Lệnh Chuyên, Thúc Hoành, Công Miến đều giảm 5 năm khảo khóa.
(Sách 《Chính mục》 chép: “Theo lệ cũ đều thăng chức, nhưng phụng chỉ chỉ thăng Sĩ Tắc, còn lại giảm 5 năm khảo khóa.”)
[13] Kinh lược ty lộ Phu Diên tâu: “Châu Hựu chuyển văn thư nói: ‘Trước đây khi phân định biên giới, có chiếu cho phía Hán chừa 10 dặm đất cỏ, phía Phiên cũng chừa tương ứng. Nay muốn phía Phiên chỉ chừa 5 dặm làm đất cỏ, nước Hạ sẽ xây dựng đồn trại trong 5 dặm đó.’ Nay soạn thư trả lời: ‘Triều đình coi trọng ân tín, đặc cách chấp thuận. Tại nơi phân giới hiện nay, cho phép phía Phiên chừa 5 dặm làm đất cỏ trống, phía Hán cũng chừa 5 dặm tương ứng, thành đất không canh tác của cả hai bên. Không được xây đồn trại trong đất cỏ.'” Theo lời tâu.
[14] Ngày Bính Thân, Lại bộ xin thêm vào quy định về việc tránh thân tộc 14 chữ: “hoặc chồng của chị em ruột thịt của vợ trở lên và con của họ”. Được chấp thuận.
[15] Ngày Đinh Dậu, châu Định tâu rằng trong châu có đền thờ Hàn Kỳ, xin đưa vào điển thờ cúng. Được chấp thuận.
[16] Ban chiếu: “Nếu binh lính địa phương dưới quyền Tuần kiểm nguyện sung vào Cấm quân, giao cho Giám ty mỗi năm phân người đến các nơi, cùng quan chức tại chức tuyển chọn người dưới 40 tuổi, theo mẫu của từng Chỉ huy mà bổ sung điền vào.”
(Sách mới không ghi.)
[17] Hữu ty Viên ngoại lang Vương Cổ làm Bí các Hiệu lý, Thái phủ Thiếu khanh; Thái phủ khanh Lý Cảo Khanh làm Vệ úy khanh; Vệ úy khanh Lưu Thầm làm Thái phủ khanh; Thái phủ Thiếu khanh Trình Bác Văn làm Tư nông Thiếu khanh; Tư nông Thiếu khanh Liêm Chính Thần làm Tri châu Hoạt. Lã Đại Phòng, Lưu Chí cho rằng Cảo Khanh già mà lười việc, vốn dựa vào Bác Văn; Vương Cổ vốn không mạnh mẽ sáng suốt, lại không siêng năng minh mẫn; còn việc Thái phủ thì Lưu Thầm tuy già nhưng vẫn tinh tường, nên đổi như vậy.
(Đoạn này thêm vào theo《Nhật ký Lưu Chí》.)
[18] Tri châu Tử Châu Chu Doãn làm Trực Bí các, tại nhiệm tiếp.
(Tại nhiệm tiếp thêm vào theo chính mục.)
[19] Ngày Mậu Tuất, Tú châu Đoàn luyện phó sứ Thẩm Quát làm Tả Triều tán lang, thụ Quang lộc Thiếu khanh, phân ty Nam Kinh, được tùy ý cư trú.
[20] Lễ bộ tâu: “Các sắc chỉ bổ nhiệm chức Thừa vụ lang không tên, Trợ giáo các châu, cùng giấy bổ nhiệm chức Trai lang đã chuyển đến, đều lấy chữ trong 《Thiên tự văn》 làm ký hiệu[4], sau khi đóng dấu xong thì giao xuống cho cơ quan có thẩm quyền, đồng thời ghi rõ lý do và nơi ban cấp. Khi nhận được báo cáo đã cấp xong thì lập tức ghi chú hủy. Tất cả sắc điệp đều phải lập sổ quản lý, sau khi ghi xong lý do vào sổ thì chuyển sang Lại bộ, lập tức ghi chú hủy trong sổ. Sắc điệp không được giao xuống cấp dưới, quan chức phụ trách phải kiểm điểm số lượng ngay lập tức, niêm phong kỹ lưỡng rồi thu giữ. Dán bảng chiêu mộ người đến nộp tiền, quan chức phụ trách phải tự tay viết và cấp phát, ghi đầy đủ họ tên, quê quán, ba đời, tuổi, ký hiệu cùng ngày tháng và lý do, cùng số lượng hiện có, báo lên Lại bộ. Nếu có thương nhân mua bán sắc điệp, phải chỉ định châu đến nhận, mỗi bản cấp giấy công văn đối chiếu, lấy chữ làm ký hiệu hợp đồng, đóng dấu và ký tên, giấy đối chiếu phải niêm phong kỹ gửi trạm dịch. Sắc điệp giao cho thương nhân, chiêu mộ người đủ điều kiện mua lại, đến châu nộp đơn, theo quy định trên kiểm tra rồi viết và cấp phát. Giấy đối chiếu và công văn sau khi ghi chú hủy bỏ phải trong vòng hai ngày ghi đầy đủ họ tên, quê quán, ba đời, tuổi, ký hiệu trên sắc điệp bổ nhiệm, báo về nơi tiếp nhận ban đầu.” Được chấp thuận.
[21] Điện trung thị ngự sử Sầm Tượng Cầu tâu: (Ngày 7 tháng 10) “Thần gần đây có dâng sớ luận việc Tri Thanh Châu, Tư chính điện học sĩ Vương An Lễ buông thả không kiểm soát hành vi [tài liệu về việc Vương An Lễ buông thả không kiểm soát hành vi, chữ “không” trước đây bị thiếu, nay căn cứ vào bản trong các khố mà bổ sung], làm phiền thánh thính. Nay tiếp tục điều tra thấy Vương An Lễ tại nhiệm mua tơ, bắt thợ dệt dệt các loại vải hoa cách điệu, bịa đặt danh mục, sai lính vận chuyển, lén lút trốn thuế thương mại cả vùng, đem lên kinh bán, thu lợi lớn, không chỉ một lần. Gần đây trong tháng 9, có dân thường Trương Nha Nhân đem 320 tấm vải hoa trắng cách điệu của Thanh Châu đến các cửa hiệu của Tôn Sư Nhan, Trịnh Hiếu Tôn, Triệu Lương Hữu ở đầu phía nam giới, nói là của Khương Điện trực ở phía bắc thành bán ra. Thần tra hỏi được có viên thư biểu ty Thanh Châu là Trương Cận hiện đang ở quán trọ của Khương Điện trực tại cầu Thái Thị phía bắc thành, chính là Vương An Lễ sai Trương Cận giả cớ áp tải vải vóc đến nhờ Khương Điện trực bán, thu mua hàng hóa mang về, cùng mua đồ trang sức, lụa bọc để dùng trong nhà. Khương Điện trực trước kia thường lui tới nhà Vương An Lễ, được An Lễ chiếu cố, giàu có, hiện mở bốn cửa hiệu chính. Kính mong bệ hạ đặc cách hạ thánh chỉ, sai Khai Phong bắt giữ Trương Cận và Khương Điện trực, tra hỏi kỹ để thấy rõ sự thực, đồng thời truy xét số lượng vận chuyển theo danh mục bịa đặt, cùng các việc trốn thuế thương mại dọc đường, quấy nhiễu thợ dệt, xử trị đúng pháp để trừng trị tội tham lam tùy tiện phạm pháp của quan lớn.” (Ngày 7 tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 5).
[22] Hữu chánh ngôn Lưu Đường Lão lại tâu: “Thần nghe nói Tri thanh châu Vương An Lễ tại chức có hành vi nhơ bẩn phạm pháp, có kẻ thù ghét ông ta đã làm bài phú ghi lại sự việc, giả mạo danh tính, đem khắc in ở kinh thành, nhân đó lưu truyền, dư luận rất xôn xao. Với hành trạng của An Lễ, đương nhiên phải điều tra tận gốc và trách phạt, nhưng việc bịa đặt ngôn từ để vu hại, tệ này cũng không thể dung thứ. Nếu trong lúc mâu thuẫn quyền lợi, chỉ muốn trả thù mà tranh nhau viết sách vô danh, như thế sẽ kéo theo đổ xô hãm hại lẫn nhau, thần e rằng trong nhân tâm sẽ có kẻ bất an. Phong tục liên quan đến điều này rất trọng yếu, thói xấu đang manh nha ngày nay, há nên khơi mào? Thần nay muốn ngoài việc căn cứ lời tâu của quan lại để xử lý tận gốc vụ Vương An Lễ, còn đề nghị bắt những kẻ soạn phú và khắc in, giao cho Khai Phong phủ treo thưởng truy bắt thi hành.”
[23] Ngày Kỷ Hợi, Tư chính điện học sĩ, Tri thái châu Vương Tồn đổi chức với Tri thanh châu Vương An Lễ. (Vương Tồn đổi sang Dương Châu vào ngày 21.) Long đồ các đãi chế, Tri việt châu Tiền Hiệp làm Tri doanh châu, Bảo văn các đãi chế, Tri doanh châu Trương Giáp làm Tri kinh nam.
[24] Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu: “Thần thấy triều đình cho rằng việc thiết lập quân Cừ Dương là bất tiện, đã bàn bạc việc bỏ đi từ lâu. Từ năm ngoái đến nay, muốn bỏ mà không được, bọn man tộc hoành hành, biên giới phía Nam đến nay vẫn bị ngăn trở, vì sao? Là do dùng người không đúng và bỏ đi không có phương pháp vậy. Đường Nghĩa Vấn chỉ là một viên lại tầm thường, không có tài lược gì khác, trước đây được triều đình phái thẳng vào vùng man tộc, muốn bỏ thành này, bị bọn man vây hãm, dùng kế của Hồ Điền, lừa gạt bọn man để thoát thân. Khi trở về, không dám tâu thực tình, mọi vụ cướp bóc đều chỉ huy không được báo cáo, triều đình không xét rõ sự thật mà vẫn cứ dùng không thay, đó là sai lầm thứ nhất.
Đến mùa hạ năm nay, giặc man nổi lên lớn, giết tướng diệt quân, thần nhiều lần tâu lên, nhưng triều đình vẫn tin dùng Nghĩa Vấn không suy giảm, nghe nói đại thần chỉ lấy cớ giữa trận không đổi tướng, rốt cuộc muốn che chở Nghĩa Vấn, không thương xót nỗi khổ can não đồ địa của dân biên giới, đến nay đã gần nửa năm, đó là sai lầm thứ hai.
Nay triều đình bổ Trương Giáp làm tri Kinh Nam, Giáp từ Doanh chuyển sang Kinh, thực không phải thăng quá, nhưng gần đây có chiếu chỉ bảo một mình một ngựa đến nhậm chức, người ngoài mới biết triều đình muốn dùng Giáp thay Nghĩa Vấn. Nguyên nhân Nghĩa Vấn thất bại là do u mê cố chấp, hung hăng mất lòng người, nay Giáp đa nghi hiểm ác còn hơn Nghĩa Vấn, mà triều đình lại cất nhắc[5], đó là sai lầm thứ ba. Thần thầm thương xót người Hồ Bắc, ngoài bị bọn man quấy nhiễu, không yên nơi ở, trong lại chịu ba sai lầm, không biết nương tựa vào đâu, nên không ngại phiền toái, dám dâng lời mù quáng.
Năm Nguyên Hựu thứ hai, triều đình bổ Giáp làm Hộ bộ thị lang, lúc ấy thần làm gián quan, đã nhiều lần nêu tám việc của Giáp xin miễn chức. Lúc đó tuy không nghe, nhưng dùng Giáp chưa đầy năm, biết không thể được, cuối cùng đưa ra ngoài. Nay chưa bao lâu, lại giao việc biên cương, việc biên cương trọng đại, khác hẳn Hộ bộ. Phàm đối mặt kẻ địch thống lĩnh quân đội, quan hệ đến tính mạng binh dân, không thể không thận trọng. Nghe nói đại thần cho rằng Giáp nguyên quán Đỉnh châu, nghĩ rằng quen biết việc man, nên phái đi. Nhưng không biết nhân tài đều có chỗ mạnh yếu, chưa chắc sinh ở đấy ắt giỏi việc đó. Thần chỉ sợ Giáp buông thả theo tính tình, do bản tính, già không đổi, ắt dẫn đến thất bại. Giáp trước làm Kinh lược sứ Quế châu, ban đầu vì keo kiệt tiền nhỏ, sau lại bố trí sai lầm, sự việc như thần đã tâu tám việc của Giáp, khiến di nhân Nghi châu phản loạn, giết quan binh bản châu. Giáp liền phái Phí Vạn Toàn, Vương Kỳ hai tướng tiếp tục đi đánh, đều bị diệt. Tiên đế nổi giận, sai quan điều tra, bèn cách chức tước, giáng làm tri Quân châu.
Lại năm Nguyên Phong thứ ba, bổ Giáp làm tri Hi châu, lúc ấy có thần liêu tâu rằng Giáp tính tình hẹp hòi nóng nảy, hay đa nghi ghen ghét, Giáp ở Quảng Nam, tranh cãi lẫn nhau, quan lại châu quận không yên, xin thu hồi mệnh mới. Sau phụng thánh chỉ, lệnh vẫn làm tri Thương châu. Như vậy Giáp không thể giao việc biên cương, đã rõ từ tiên triều, không phải chỉ nay thần nói. Những việc thần trước tâu về Giáp, đều không phải lời hư, đều có căn cứ, xin biên riêng tâu lên, mong đại thần xem xét, bãi bỏ chức mới của Giáp, hoặc không cho dính líu việc biên cương, chọn người khác quen dùng binh, giao trách nhiệm thành công.”
Dán tờ vàng: “Trương Giáp thâm niên đã lâu, bổ làm tri Kinh Nam không quá đáng. Thần chỉ nói Giáp tính đa nghi hiểm ác, đến đâu cũng không được lòng người, không thể giao việc biên cương.”
(Theo hay không cần tra cứu.)
[25] Chiếu phong Triệu Thế Trưởng – Thứ sử châu Tuyên, châu Hòa, Nội thị Hữu ban Phó đô tri làm Tuyên chính sứ. Lôi Du – Tả thị cấm, Cáp môn chi hậu, Đông Nam đệ cửu tướng bị truất chức Cáp môn chi hậu và cách chức, vì tội giả ốm không đến Thiệu Châu ứng chiến.
[26] Thái thường bác sĩ Vương Niệm tâu: “Gần đây thần đến tế cáo tại miếu Trường Nguyên Vương (tước hiệu của thần sông Hoài) ở Đường Châu, thấy đồ tế khí trong miếu không đúng quy chế, lại thiếu số lượng, ba vị Hiến quan không có mũ áo tế lễ, chỉ mặc thường phục. Xin ban hành nghi thức hiện dùng cho các nhạc độc, sai Hữu ty bàn định chế tạo đồ tế khí đủ số lượng cùng mũ áo tế lễ cho ba vị Hiến quan, Phụng lễ, Thái chúc, giao cho miếu này để dùng vào việc tế tự.” Được chấp thuận.
(Sử mới không chép.)
[27] Ngày Quý Mão, Long đồ các Đãi chế, Tri Quảng Châu Thái Biện được điều làm Tri Việt Châu.
[28] Lộ Xương Hoành – Triều phụng đại phu, Tri Kinh Nam được bổ làm Trực bí các, Tri Quảng Châu. Trung thư xá nhân Hàn Xuyên tâu Xương Hoành thô bỉ xấu xa, nếu cho giữ chức Trực các lĩnh chức vụ quân, hai ba năm sau sẽ theo lệ thăng làm Thị tùng, nên không soạn chiếu. Bèn hạ chiếu bãi chức quán các, đặc cách thăng một bậc làm Tri Quảng Châu.
(Việc bãi chức thăng quan vào tháng mười, nay gộp chép.)
[29] Tôn Huýnh – Đề cử xuất mại giải diêm được bổ làm Tri Bộc Châu.
(Xem chi tiết ngày 8 tháng 5 về lời tâu của Lương Đào, ngày 6 tháng 4 năm thứ 6, cần tra cứu thêm.)
[30] Tam tỉnh tâu: “Trước đặt Biên tu viện chuyên trách biên soạn quốc sử, thực lục và nhật lịch. Năm Nguyên Phong thứ 4 bãi bỏ viện này, sáp nhập vào Sử quán. Khi thi hành chế độ quan chức mới, thuộc quản lý của án Quốc sử thuộc Bí thư tỉnh. Nhưng việc sử sự rất cơ mật, giao cho Bí thư tỉnh không tiện.” Chiếu dời án Quốc sử về nơi đang đặt cục hiện nay, chuyên trách biên soạn quốc sử, thực lục và nhật lịch, đổi tên thành Quốc sử viện, thuộc Môn hạ tỉnh, không thuộc Bí thư tỉnh nữa. Các quan Quyền trứ tác hiện tại, ngoài việc sửa chữa nhạc từ, cung cấp tư liệu không mật và đón xa giá vẫn theo lệ cũ, chỉ làm việc tại viện này.
[31] Chiếu quy định các chức Quyền thị lang mới bổ nhiệm đều theo lệ của Gián nghị đại phu và Đãi chế.
[32] Hộ bộ Viên ngoại lang Mục Diễn làm Hữu ty Viên ngoại lang.
(Ngày 2 tháng 8, Diễn đi sứ Hi Hà với chức Hộ bộ Viên ngoại lang, đến nay hơn hai tháng, được thăng Hữu ty, có lẽ lúc này Diễn chưa về. Ngày 27 tháng 12, lại thăng Lang trung.)
[33] Đồn điền Lang trung Trần An Kỳ làm Tri châu Tế. An Kỳ xin bổ nhiệm ngoài, nên có mệnh này.
[34] Xu mật viện tâu: “Cấm quân cung nỏ, xạ thủ có tài nghệ xuất chúng, nếu trên 40 tuổi sức yếu đi, hoặc chưa đến tuổi mà vì chấn thương tay chân, đều cho thời hạn nửa năm, nếu luyện tập không đạt mức cũ, do tướng hiệu bản doanh bảo lãnh, quan chức phụ trách xét thực, cho phép giảm bớt sức lực, nhưng không được giảm quá mức thượng đẳng của bản quân.” Theo đó.
(Sử mới không chép.)
[35] Ngày Giáp Thìn, Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu: “Thần trộm thấy chức quan quản quân đang khuyết ba người. Trước đây nghe nói các đại thần bàn dùng Trương Lợi Nhất và Trương Thủ Ước. Bệ hạ cho rằng cả hai người này đều tư cách còn non, nếu dùng thì là vượt cấp; lại Lợi Nhất là con của Trương Kỳ, anh của Thành Nhất, nên không thể dùng, đặc biệt xuống ý chỉ muốn dùng Vương Văn Uất và Diêu Hủy. Các đại thần lui về, liền gác lại Văn Uất và Hủy, mà tiến cử Lợi Nhất, Thủ Ước. Hữu thừa Hứa Tướng vốn đã ký tên theo mọi người, sau lại tâu bày việc này không tiện, vì thế tờ tiến cử bị thánh chỉ bác bỏ, đến nay đã hơn một tháng mà bỏ không bàn nữa.
Thần nghĩ theo lệ cũ của tổ tông, phàm bổ nhiệm quản quân [phàm dùng quản quân, chữ “quản” nguyên là “quan“, căn cứ vào các bản khác và sách 《Loạn Thành Tập》 quyển 45 tờ “Khất định sai quản quân thần liêu trát tử” sửa lại], đều căn cứ thứ tự trước sau của tư cách, chưa từng tùy tiện thay đổi, nếu không có công lao chiến trận đặc biệt xuất sắc, sao có thể vượt cấp bổ dụng? Nay Lợi Nhất, Thủ Ước tư cách non nớt, tài năng thấp kém, lại không có công trạng gì nổi bật, mà gia thế Lợi Nhất lại như lời thánh chỉ đã nói. Các đại thần cố chấp ý mình, nhất định muốn tiến cử, sự bất tiện đã rõ không cần nói. Hứa Tướng đã biết là sai, lẽ ra phải cùng mọi người bàn bạc, ngăn việc tiến cử, nay lại bên ngoài thì ký tên, bên trong lại tâu bày, thái độ tráo trở, thực không phải phong cách đại thần. Do đó gây nghi ngờ cản trở lẫn nhau, khiến việc bổ nhiệm quan chức bị đình trệ.
Theo thiển ý của thần, e rằng thói chuyên quyền và tật rình mò sẽ cùng nảy sinh ở trên, lan rộng không ngừng, đều chẳng phải là phúc của triều đình. Huống hồ từ đời tổ tông đến nay, dùng tám vị quản quân thống lĩnh quân đội trong ngoài, đối nội kiềm chế hổ báo, đối ngoại uy hiếp rợ Hạ, trọng trách lớn lao, há vì đại thần bàn bạc chưa vừa ý mà để khuyết không bổ? Thần xin chỉ dụ, căn cứ lệ cũ triều đình và thánh chỉ gần đây, nếu không phải người có chiến công biên cương hiển hách được mọi người suy phục, hoặc tội ác rõ ràng bị thiên hạ ruồng bỏ, thì nên tuân thủ thứ tự, nhanh chóng bổ nhiệm để thỏa lòng công luận.”
Tờ phụ ghi: “Nghe nói khi Lợi Nhất nhậm chức Tổng quản Định châu, từng vào giáo trường tuần tra, vì không được lòng quân, các quân không chào hỏi, nên bị điều làm Tổng quản Chân Định. Xét tình hình này, thực khó lòng cho quản quân.” Sau đó cuối cùng dùng Thủ Ước và Văn Uất, còn Lợi Nhất và Hủy thì không được dùng.
(Vương Văn Uất từ chức Phó tổng quản Hi Hà Lan Dân được bổ làm Đoàn luyện sứ Nghi châu, Đô chỉ huy sứ bốn tướng Phụng Nhật Thiên Vũ, vẫn thăng chức Phó đô tổng quản; Trương Thủ Ước từ chức Tri châu Kinh châu được làm Thứ sử Xương châu, Đô chỉ huy sứ bốn tướng Long Thần Vệ, sung chức Phó đô tổng quản Phu Diên, là việc ngày 24 tháng 12 Giáp Dần, nay phụ chép ở đây. Ngày 2 tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 5, Lợi Nhất từ chức Đoàn luyện sứ Hùng châu được làm Tri châu Thương châu, sau đổi làm Tổng quản lộ Đại Danh, Tri châu Thiện châu. Ngày 10 tháng 11 năm thứ 5, Hủy từ chức Đoàn luyện sứ Thông châu được làm Tổng quản Hoàn Khánh, ngày 14 tháng giêng năm thứ 6 Ất Tỵ đổi làm Kinh Nguyên. Lợi Nhất ngày 2 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ nhất lại được bổ chức vụ quân sự, sau đó bãi chức.)
[36] Ất Tỵ, Chiêu Tuyên sứ, Khang Châu phòng ngự sứ, Nhập nội phó đô tri Lương Tòng Cát mất, được tặng chức Cảm Đức quân Tiết độ sứ, thụy là Mẫn Khác.
[37] Bính Ngọ, triều hiến ở cung Cảnh Linh.
(Xét lệ cũ, e không hợp ghi chép.)
[38] Đinh Mùi, Lại bộ tâu: “Thân thuộc tông thất trong họ từ đời Đản Miễn trở xuống, nếu có quan hệ thống thuộc trong công việc thì không phải kiêng tránh, còn các thân thuộc khác theo phép quan ngoài.” Theo đó.
[39] Chiếu cho quân Sương, quân Cấm đang ở trước quân cùng hai trại Cừ Dương, Quán Bảo thuộc Kinh Hồ Bắc lộ, vì phơi nắng dãi dầu lâu ngày, được ban tiền theo thứ bậc.
[40] Chiếu rằng tất cả văn thư liên quan đến việc cơ mật biên giới, đều không cho phép Ngự sử trích dẫn.
(Việc này ắt có nguyên do, nên khảo xét.)
[41] Tam tỉnh tâu: “Quân Thông Viễn xin thêm một huyện lỵ, đặt tên là Lũng Tây, cử người được tuyển làm Huyện uý kiêm Lệnh, Chủ bạ.” Theo đó.
[42] Thị ngự sử Tôn Thăng tâu: “Thần tra xét theo chiếu ngày 28 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 4, căn cứ lời tâu của Lưỡng Chiết chuyển vận phó sứ Diệp Ôn Tẩu, xin cho người có ấm tước phạm tội buôn rượu đến ba lần thì đặc cách xử trảm. Người không có ấm tước ngoài việc xử phạt theo luật, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà bắt buộc di chuyển đến châu huyện khác cư trú, đủ một năm không tái phạm mới báo lên cấp trên thi hành. Thần nghe rằng các châu huyện Lưỡng Chiết Tây lộ hiện nay theo chỉ thị này, chiều theo ý Diệp Ôn Tẩu, hễ phạm tội buôn rượu lậu đều không phân biệt nặng nhẹ, bắt hết phải dời làng. Thậm chí có kẻ vì hiềm khích, đủ cách vu cáo, lấy vài đấu rượu mà hãm hại dân lành, khiến họ phải di cư mất nghiệp, dân chúng than oán khắp nơi. Thần thấy trước đây triều đình trừng phạt tệ nạn di dân theo pháp giám của Lô Bỉnh, đã bãi bỏ rồi, nay lại theo lời xin của Ôn Tẩu khiến dân chúng cả lộ phải di cư mất nghiệp, e tổn thương chính sách nhân hậu của hai Thánh. Huống chi tội buôn rượu lậu trong các chiếu trước sau đã phân rõ mức phạt từ đồ, trượng đến phối lưu, nay thêm luật ngoài pháp chỉ sinh tệ nạn. Kính mong Thánh từ ban chỉ huỷ bỏ chỉ thị ngày 28 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 4 về việc di dân phạm tội buôn rượu ở Lưỡng Chiết lộ, để dân chúng được yên ổn.”
(Tâu ngày 16 tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 5, chưa rõ có chấp thuận không.)
[43] Ngày Kỷ Dậu, Tri đại tông chính thừa sự Từ Quân Bình và Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận phán quan Ngu Sách cùng được bổ làm Giám sát ngự sử. Do Ngự sử trung thừa Tô Triệt và Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Đặng Ôn Bá tiến cử.
(Tay chép của Phạm Tổ Vũ: Từ Quân Bình lâu năm theo học Kinh công, lúc Kinh công nắm quyền không a dua, Tử Do khen văn học của ông giống Cung Nguyên. Lại có Ngu Sách tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 5 cùng các quan hai tỉnh tiến cử làm Ngự sử, từ chức Kinh Hồ vận phán thăng làm Giám sát. Sách 《Huy lục》 tháng 3 năm Đại Quan thứ nhất có truyện của Sách, người Dư Hàng.)
[44] Triệt lại tâu: “Vương Thế An vừa được bổ làm Thứ sử Thuận An quân, trước đây khi giữ chức Đô đại đề cử hà tảo, đã sai binh sĩ Hà Thanh đào giếng tưới vườn. Dù đã bãi chức Tri quân, lại được thăng làm Đô giám Kinh Tây Nam lộ. Xin thu hồi mệnh lệnh mới, giao cho cơ quan chức năng điều tra trị tội.” Chiếu chỉ bãi chức Đô giám Kinh Tây Nam lộ của Thế An, việc vi phạm pháp luật giao cho Đô thủy giám xử lý theo điều lệ. Nếu không đáng cách chức giáng chức, thì giao cho Xu mật viện bổ nhiệm lại.
[45] Ngày Canh Tuất, Thượng thư tỉnh tâu: “Quế Châu tấu rằng quan viên thiếu người phục dịch làm Bạch trực, xin theo lệ cũ điều binh sĩ trạm.” Được chấp thuận.
[46] Điện trung thị ngự sử Sầm Tượng Cầu tâu: “Thần vào ngày mồng 7 tháng này đã dâng sớ trình bày việc Tri Thanh châu Vương An Lễ tại nhiệm có hành vi lạm quyền phạm pháp, xin triều đình xét xử. Sau đó chỉ thấy triều đình điều ông ta làm Tri Thái châu mà không truy cứu tội trạng. Thần cho rằng triều đình xử lý như vậy là không thỏa đáng. Bậc quân vương đối với bề tôi, thăng giáng chức tước phải dựa trên công trạng, phải công khai trước triều đình để cùng bàn luận, không thể thiên vị riêng ai. Nay đại thần phạm tội, theo phép nên giao cho hữu ty điều tra, nhưng triều đình chỉ giáng chức xuống làm Thứ sử châu nhỏ, lại không tước bỏ chức tước, không chỉ khiến quan lại trong triều không phục, còn khiến kẻ bị hặc tội cho là bị oan ức, đổ lỗi cho người tố cáo, che giấu hành vi gian trá. Thần thấy trước đây Bồ Tông Mạnh ở Vận Châu chỉ vì trừng trị trộm cướp quá nghiêm khắc mà bị triều đình tước chức, giáng làm Thứ sử. Tông Mạnh trừng trị trộm cướp so với An Lễ lạm quyền phạm pháp, tội trạng khác xa nhau, nhưng xét xử lại nặng nhẹ khác nhau. Quan lại trong triều không phục, có gì lạ? Kính mong bệ hạ ban chỉ xét xử ngay, giáng chức rõ ràng để hợp lòng thiên hạ.”
(Ngày 17 tháng 10 năm thứ 5, Tượng Cầu dâng tấu này.)
[47] Tượng Cầu lại tâu: “Thần trước đây đã dâng sớ tố cáo Tri Thanh Châu Vương An Lễ vượt quá phép tắc, cùng việc mua tơ bắt dân thợ dệt dệt gấm hoa, bịa đặt danh mục, sai người chuyên chở, lén lút trốn thuế thương mại cả lộ, đem lên kinh bán kiếm lợi riêng… đã được triều đình xử lý tra xét. Còn những việc khác phát sinh liên quan, thần đều tạm lược bỏ để tránh liên lụy bắt bớ người khác, gây thêm phiền nhiễu, chỉ mong giúp triều đình trong sạch, trừng trị bọn quan lại tham tàn buông thả.
Nhưng thần lại nghe được An Lễ tại nhiệm từng đem một tấm gấm nhà cùng 20 bộ bàn ghế bán cho kho công, tính giá cao để chiếm tiền công; lại bắt các huyện thu các khoản tiền tạp không thuộc ngân sách hàng nghìn quan, giao cho thuộc lại cất giữ, tiêu dùng phi lý. Thần muốn im lặng, nhưng sợ tiền công không rõ số phận, bị kẻ khác lạm dụng chiếm đoạt, thì thần mang tội bao che gian tà thất chức. Vì vậy không ngại phiền phức, xin trình bày thêm.
Thần nghĩ An Lễ phạm tội nhiều việc, lại lộ rõ như thế, buôn bán vải lụa không chỉ một lần, khiến thợ dệt bỏ trốn, dân Trầm Đại bị đánh đòn gông cùm vô cớ, phải bỏ tiền đền cho Triệu Ngũ đến nỗi tan cửa nát nhà. Các Giám ty bản lộ không thể không biết, rõ là sợ An Lễ hung hãn, hoặc bị An Lễ nắm tội lỗi nên không dám tố cáo, phụ lòng tin cậy của bệ hạ, khiến quan dân một phương chịu cảnh mê loạn. Thần vô cùng phẫn nộ.
Xin bệ hạ từ bi đặc biệt giao việc thần trình bày cho Giám ty mới đến nhiệm bản lộ, hoặc quan viên không liên quan xét thực. Nếu quả có tình trạng như trên, xin lập ty tra xét, xử trị đúng phép.
Thần nghe Vương Tồn là anh em rể của vợ An Lễ, nay điều làm Tri Thanh Châu, e rằng quan dân sợ hãi tránh né, không dám khai thật. Xin triều đình xem xét chỉ đạo.” (Ngày 21 tháng 10, Tượng Cầu dâng tấu này. Hai tấu đều cần chỉnh sửa.)
[48] Hữu ty gián Dương Khang Quốc tâu: (Ngày 21 tháng 12 năm thứ 5) “Xét các vị quan trấn nhậm các đạo, triều đình giao phó trọng trách tiết chế cả một vùng, nhiệm vụ không nhẹ, trước hết phải tuân thủ pháp lệnh, làm gương cho các thành, để giảm bớt nỗi lo phương diện cho triều đình. Gần đây nghe tin Tri Thanh Châu, Tư chính điện học sĩ Vương An Lễ có hành vi tham nhũng, đồi bại, lan truyền khắp kinh thành, nghe nói triều đình đã ra lệnh điều tra kỹ. Xét Vương An Lễ trước đây làm phụ thần cho tiên đế, đã bị cách chức vì vi phạm, nay làm tướng trấn phía đông cho bệ hạ, lại nổi tiếng vì tham ô, tự cho mình là gian hùng, không chịu thay đổi thói cũ, rõ ràng là coi thường phép công, khinh nhờn triều đình, đại thần như thế, há không nên trị tội nặng? Nghe nên Khai Phong đã truy xét việc buôn bán, đã thấy rõ lai lịch, nhưng trước sau không thống nhất. Tra xét thì Tri Thanh Châu mới nhậm chức, Tư chính điện học sĩ Vương Tồn, cùng với An Lễ đều là con rể của Tạ Giáng, e rằng nếu giao cho châu này điều tra, ắt sẽ vì tình riêng mà bao che, làm mờ mắt triều đình. Kính mong bệ hạ đặc biệt ra chỉ thị, nghiêm trách cho Chuyển vận ty hoặc Đề hình ty của bản lộ, căn cứ vào công lý mà điều tra xác thực, trừng trị nghiêm khắc, để làm nghiêm triều cương, khiến cho bè đảng của An Lễ cùng những kẻ ngang ngược coi thường pháp luật, khinh nhờn chiếu chỉ, biết sợ mà răn đe.”
[49] Ngày Nhâm Tý, Tri Thanh Châu mới nhậm chức Vương Tồn đổi làm Tri Dương Châu.
(Việc nhậm chức Tri Thanh Châu vào ngày mồng 8.)
[50] Quan phụ trách chuyên trách việc biên giới Kinh Hồ Bắc lộ Đường Nghĩa Vấn xin triều đình ban bố quy định trước, đợi khi quân tiến công thắng lợi rõ ràng, sẽ phân quan xây dựng vùng biên giới. Chiếu cho Nghĩa Vấn đợi khi quân tiến công thắng lợi rõ ràng, gửi tin gấp về tâu.
[51] Ngày Quý Sửu, chiếu rằng: “Theo chế độ gần đây, các phủ, giám tuyển cử nhân đi thi Hội, mỗi bài kinh nghĩa không quá 500 chữ, mỗi bài sách luận không quá 700 chữ, nếu quá 700 chữ, dù đạt cũng giáng một bậc. Các nơi tuyển cử nhân đều theo quy định này.”
[52] Chiếu rằng: “Từ nay, người Cao Ly ở Đồng Văn quán ra ngoài mua vật phẩm, đều phải kiểm tra. Nếu có vật cấm, khéo léo giữ lại, dùng tiền tạp văn bồi hoàn giá trị. Nếu là văn tự bàn luận chính sự thời cuộc hoặc đề cập cơ mật biên giới[6], phải tra hỏi nơi mua, Khai Phong phủ kiểm tra theo điều lệnh chiếu chỉ để tuyên cáo. Khi sứ bộ tiến cống đến kinh, ty Lục ty phải thông báo cho thương nhân, nếu tự nguyện đem hàng vào quán giao dịch thì ghi rõ họ tên báo lên quán, giám môn không được ngăn cản. Mỗi ngày cho phép 10 người thay phiên ra quán tham quan mua bán, mỗi người có một quan Thân sự đi theo. Ai muốn cưỡi ngựa thì mượn một con từ các ty cùng một lính chăn ngựa, phải trả lại vào giờ Thân. Người đi theo phải khai báo nơi đến. Nếu sứ tiến cống xin cử nghệ nhân dạy, phải tâu xin chỉ dụ triều đình.”
(Tô Triệt trình điều ước tiếp sứ Bắc, sứ Tây, sứ Cao Ly xin xét giảm bớt. Bốn điều nêu trên đều là quy định cũ, không phải mới đặt. Chỉ có điều trước đây cho 20 người hạ tiết ra quán, nay giảm còn 10. Lời Tô Triệt ban đầu không được dùng hết, nên ông lại tâu dù 10 người cũng không nên cho ra quán, không rõ sau xử lý thế nào. 《Thực lục》 cho rằng bốn điều này theo lời Tô Triệt là sai, nay sửa lại và chép lời ông phụ sau.)
[53] Trước đó, Ngự sử trung thừa Tô Triệt tâu: “Thần trộm thấy Cao Ly phía bắc giáp Khiết Đan, phía nam ngăn biển lớn, đất đai cách biệt với Trung Quốc, lợi hại vốn không liên quan. Triều ta ban đầu cho họ vào cống, tổ tông biết là vô ích nên cắt đứt không thông hiếu. Thời Hi Ninh, La Chửng bắt đầu chiêu mộ thương nhân biển dụ họ vào triều kiến, ý muốn chiêu dụ nước xa để điểm tô thái bình, cùng chia cắt Khiết Đan làm viện trợ khi dùng binh mà thôi. Nhưng từ khi bắt đầu thông hiếu đến nay họ nhiều lần đến, thực tế có ích gì đâu, chỉ khiến hai lộ Hoài, Chiết nghìn dặm vất vả cung ứng, trăm quan kinh sư mệt mỏi đón tiếp. Người Cao Ly đi đến đâu cũng dạo xem, dò xét hư thực, vẽ lại địa thế, làm tai mắt cho Khiết Đan. Có người nói Khiết Đan thường phái người thân tín[7]ẩn trong ba đoàn sứ Cao Ly, Cao Ly bí mật chia tặng phẩm, khi về nộp cho Khiết Đan gần một nửa. Triều đình hao phí vô kể mà thu được như thế, thật đáng tiếc. Nay họ lại đến, dù triều đình chưa muốn cắt đứt ngay, nên nghiêm khắc cắt giảm, khiến họ không được lợi lớn thì họ sẽ ít đến[8], mà ta được tiện lợi. Thần thấy gần đây đã có chiếu chỉ giảm bớt lễ nghi tiếp đãi từ Minh Châu trở đi, nhưng kinh sự chưa quy định. Thần cho rằng triều đình giao thiệp với tứ di, không đâu quan trọng bằng Liêu, Hạ, mà cách đãi Cao Ly hiện nay có khi còn hơn cả hai nước ấy. Không chỉ bất tiện cho triều ta, nếu hai nước kia biết được cũng không ổn. Huống chi Cao Ly với Khiết Đan, lớn nhỏ cách biệt, có phân biệt quân thần, nay số lượng khoản đãi, tiết chế ra vào, hoặc ngang bằng, hoặc còn hậu hơn, thực là bất tiện. Thần xin cắt giảm mọi khoản đãi tiếp tặng phẩm. Việc tùy tùng ra vào thì theo lệ cũ sứ phương Tây Bắc. Thời gian lưu trú, trừ khi sông Biện chưa thông, đều định rõ hạn ngày. Làm thế đã chẳng phải bạc đãi.”
Lời phụ chú nói: “Sứ Cao Ly chắc đã đến lộ Chiết Giang, xin không qua tỉnh bộ, chỉ do triều đình chỉ đạo việc quy định cắt giảm, tránh chậm trễ sơ suất.”
Khi sứ đến, Triệt lại tâu: “Thần gần đây tâu xin cắt giảm điều ước đãi Cao Ly ở đồng văn quán, ngoài chiếu chỉ mới ban đã thi hành sơ lược, có một khoản cho 20 người hạ tiết ra vào luân phiên dạo chơi mua bán, giảm còn 10 người. Thần nghĩ người Di Địch[9]mang theo gian trá, tình ý khó lường. Cho họ dạo chơi kinh thành, lớn thì dò xét hư thực, vẽ lại cung khuyết[10], kho tàng, doanh trại, đường sá chỗ quanh co, rất bất tiện; nhỏ thì mua vật cấm, văn thư cơ mật, cùng hành vi sai trái. Xử thì tổn ân, không xử thì hại việc, cho họ ra vào không ổn chút nào. Lệ cũ tuy có quan thân sự giám sát, nhưng tiểu nhân tham lợi, được chút quà biếu thì việc gì chẳng làm, thực vô ích. Nếu triều đình hoàn toàn không nghĩ đến chuyện trước thì cho 20 người ra vào mỗi ngày cũng được, nếu thấy đáng lo thì cho 10 người vẫn chưa tiện. Xin ban chiếu chỉ cấm hẳn.”
(Việc theo hay trái cần khảo cứu. Theo lời Lưu Chí tháng 12 ngày Ất Mùi thì lời Triệt đều được nghe theo.)
[54] Ngày Ất Mão, quan Tân Tri Thanh Châu, Long Đồ Các Học Sĩ, Hữu Quang Lộc Đại Phu Đằng Nguyên Phát mất, được truy tặng Hữu Ngân Thanh Quang Lộc Đại Phu, thụy là Chương Mẫn, đặc biệt ban 30 vạn tiền. Quyền Tri Khai Phong Phủ Vương Nham Tẩu tâu rằng Nguyên Phát mất ở ngoài kinh thành, nhà không còn của cải gì, xin gia ân tuất thêm.
(Lưu Chí có nói thêm, nay chép phụ ở đây. Lưu Chí nói: Ban đầu, triều đình định cho Nguyên Phát và Vương An Lễ đổi chỗ cho nhau, nhưng Hàn Xuyên giữ lại tờ chiếu bổ nhiệm Nguyên Phát, cho rằng ông đã bệnh không thể nhậm chức. Đến kinh thành hơn 20 ngày mà không dám xin vào chầu, bệnh tình rõ ràng. Nguyên Phát là người khảng khái có khí tiết, thường không được lòng những kẻ nắm quyền, nên bị đẩy đi lưu lạc gần 20 năm, đến khi được Vua đoái hoài trọng dụng thì đã già. Ông chỉ bị bệnh chân, không có bệnh gì khác, nhưng trong lòng vẫn còn chút hy vọng. Về sau sức tàn lực kiệt, lại bị lớp hậu sinh chỉ trỏ, người đời ngờ rằng ông buồn bực mà chết. Thật đáng thương.)
[55] Ngày Đinh Tỵ, Xu mật viện tâu rằng sách lệnh về quan tướng đã soạn xong. Các biên tu quan là Đô Thừa Chỉ Lưu Phụng Thế, Hàn Xuyên, Vương Nham Tẩu và Phó Đô Thừa Chỉ Lý Thụ đều được ban thưởng bạc lụa theo thứ bậc.
[56] Từ khi cải cách quan chế, các vụ án hình sự đều trình lên Thượng thư tỉnh để xin chỉ dụ, rồi chuyển sang Trung thư mà không qua Sát viện; những việc liên quan đến cơ mật biên cương hoặc quân chính, hoặc vốn do Sát viện phê chuẩn, gửi xuống địa phương xử lý, hoặc có chỉ dụ đặc biệt để trừng phạt, thì Mật viện đều không được xem. Đồng tri viện Hàn Trung Ngạn trình bày sự việc, cùng Tam tỉnh bàn bạc: “Tất cả các vụ án thuộc các loại trên vẫn như cũ trình lên Mật viện, sau khi xử xong ba lần, nếu mọi người không có ý kiến khác, thì cùng nhau ký vào văn bản.” Ngày 14 tháng 10, phê chuẩn cho thi hành.
Quá mười ngày sau, Trung thư thị lang Phó Nghiêu Dũ bỗng dâng tấu riêng: “Quan chế đã thi hành lâu, không thể đột ngột thay đổi. Trước đây không bàn bạc, lại dịch đưa lên ký, thần tưởng là văn bản thông thường nên ký vào, nhưng thần thực sự mê muội, không giữ được chức vụ, xin bị cách chức rõ ràng, còn chỉ dụ ngày 14 xin đừng thi hành.” Trong cung ban tờ chiếu của Nghiêu Dũ giao cho Đô tỉnh, Nghiêu Dũ liền tại Đô đường biến sắc, nói lời xúc phạm Trung Ngạn, mọi người đều kinh ngạc. Nghiêu Dũ vốn không phải người hay tranh cãi, mọi người nghi là bị lại dịch phòng Hình của Trung thư lừa. Mấy ngày sau, Nghiêu Dũ lại dâng tờ tâu nói: “Việc họp bàn ở Đô đường, thần thực không biết, nếu tra xét kỹ, ắt sẽ rõ sự thật.” Nhưng hoàn toàn không nhắc đến việc đã ký vào văn bản[11].
Lã Đại Phòng nói với Lưu Chí: “Việc của Khâm Chi nên sửa lại chút ít chỉ dụ đã ban, nhưng hành động này của Khâm Chi rất sai, không chỉ khiến bọn gian ngoài rình rập, mừng vì chúng ta có mâu thuẫn, mà còn khiến trong cung nghi ngờ, cho rằng phe ta lừa Khâm Chi.” Khâm Chi là tên tự của Nghiêu Dũ. Bèn sửa chỉ dụ ngày 14 tháng 10 thành: “Các vụ án liên quan đến biên phòng, văn thần trình lên Đô tỉnh, võ thần trình lên Mật viện cùng xin chỉ dụ.” Hôm đó (ngày Đinh Tỵ 26), khi trình lên, Đại Phòng nói: “Việc này bàn bạc lâu rồi, sợ là Nghiêu Dũ không nghe rõ, nay sửa lại như vậy.” Nghiêu Dũ tiến lên nói: “Như thế là ổn thoả.” Ban đầu, Nghiêu Dũ muốn ở lại tâu việc này, Đại Phòng khuyên không cần, cứ nói trước mọi người là được. Lưu Chí cho rằng Nghiêu Dũ đã ký vào văn bản, lại kêu ca nói mình không biết, cho rằng mọi người lừa mình ký, nên trong tờ tâu tự nhận mê muội, muốn ở lại là để đổ tội bị lừa lên mọi người trước rèm, may nhờ Đại Phòng hiểu rõ mà ngăn lại. Sau nghe nói người xúi Nghiêu Dũ làm vậy là Cấp sự trung Phạm Thuần Lễ. Nghiêu Dũ, Thuần Lễ đều có thân thích với họ Hàn, nhiều việc bí mật hỏi Thuần Lễ. Đại Phòng vốn tin Nghiêu Dũ, Nghiêu Dũ lại hay bàn mưu với Thuần Lễ và một hai người khác, nên trong việc bổ nhiệm thường dùng người Lạc và thân thích cũ của họ Hàn.
(Theo《Nhật ký Lưu Chí》bổ sung, ngày 2 tháng 11 có ghi chép về Tô Triệt.)
[57] Ngày Kỷ Mùi, Hình bộ thị lang Hàn Tông Đạo được bổ làm Đãi chế Bảo Văn các, Tri châu Thanh Châu. Ít lâu sau lại giữ chức Hình bộ thị lang.
(Việc phục chức Hình bộ thị lang vào ngày 2 tháng 11, nay ghi chung. Lời bàn của Tô Triệt… vào ngày Nhâm Dần 22 tháng 12.)
[58] Lưu Chí ghi lại sự việc này như sau: “Tông Đạo từ chức Hình bộ thị lang được bổ làm Đãi chế Bảo Văn các, thực ra là do Lã Đại Phòng chủ trì. Ban đầu không hiểu nguyên do, sau khi soạn xong danh sách bổ nhiệm, mới nghi ngờ như vậy. Hỏi han khắp nơi, mới biết Tông Đạo có nhờ vả Phó Nghiêu Dũ, viết thư nhỏ can thiệp với Đại Phòng, nên đột ngột có quyết định này, khiến mọi người đều bất ngờ không kịp phản ứng. Tô Tụng cũng là thông gia với họ Hàn, người bàn bạc việc này chỉ lừa dối Chí và Hứa Tướng mà thôi. Tông Đạo làm Chính Thị lang mới được ba tháng, Chí nhân buổi họp chiều, hỏi Đại Phòng về việc của Tông Đạo: ‘Sao lại điều ra ngoài?’ Đại Phòng đáp: ‘Bên ngoài khó tìm người thay thế, Tông Đạo đã lâu rồi.’ Chí nói: ‘Tông Đạo tuy lâu, nhưng là Quyền Thị lang, mới đổi làm Chính Thị lang đến nay chỉ hơn trăm ngày.’ Đại Phòng ngạc nhiên: ‘Đúng vậy, nhưng rồi cũng phải làm Đãi chế, chỉ là hơi sớm thôi.’ Chí nói: ‘Không phải, xét riêng thì không quá đáng, nhưng so với mọi người thì quá ưu ái. Lục Điền làm Chính Thị lang năm năm mới được Đãi chế Tri châu Dĩnh Châu, Lương Đào hai lần làm Gián nghị đại phu, rồi làm Trung thừa, lại làm Quyền Thượng thư, xin về quê chỉ được Đãi chế Tri châu Trịnh Châu. Dư luận thiên hạ cũng đáng sợ, không biết người ngoài sẽ bàn tán thế nào về việc bổ nhiệm này.’ Đại Phòng im lặng hồi lâu. Hơn một tháng sau, Tông Đạo vẫn trở về chức cũ. Có lẽ Đại Phòng sợ dư luận, nhân việc này sửa lỗi trước vậy.”
(Đoạn này thêm vào theo nhật ký của Lưu Chí.)
[59] Hữu chánh ngôn Lưu Đường Lão tâu: “Thần trộm xem điều chế khoa cử, việc chấm quyển thi tiến sĩ lấy bốn trường khảo thí để định bỏ lấy và xếp hạng cao thấp. Kính xét phép này vốn là để phân kinh tuyển người, nhưng có sự chênh lệch về số lượng nhiều ít, may rủi khác nhau, nên mới quy định lấy chung văn bài, không phân kinh khảo xét nữa. Song các quan chủ khảo dùng bài văn đã định chung cả bốn trường, khi bàn bạc việc bỏ lấy lại không thống nhất, có người chủ trương lấy kinh nghĩa, có người lấy thơ phú, có người lấy sách luận, tùy theo sở học mà nâng lên hạ xuống. Việc lợi hại lớn của thí sinh là ở chỗ đỗ trượt, còn xếp hạng cao thấp chỉ là thứ yếu. Cần phải phân định rõ hai việc bỏ lấy và xếp hạng. Như trước niên hiệu Trị Bình lấy văn chương thơ phú tuyển sĩ, thì việc bỏ lấy lấy thơ phú làm chính; từ niên hiệu Hi Ninh về sau lấy kinh thuật tuyển sĩ, thì việc bỏ lấy lấy kinh thuật làm chính, còn hai trường luận và sách chỉ để xếp hạng cao thấp. Nay đã chia kinh thuật và văn chương thành hai khoa riêng, cần phải có chủ trương riêng: người học kinh phải lấy nghĩa lý đối đáp làm trọng, người làm phú nên coi trọng văn chương câu chữ. Thần xin đề nghị lấy đại nghĩa để định bỏ lấy đối với người học kinh, lấy thơ phú để định bỏ lấy đối với người làm thơ phú kiêm kinh nghĩa, còn trường luận và sách chỉ để xếp hạng cao thấp, không dự vào việc bỏ lấy, vẫn như cũ không phân kinh khảo xét. Như thế thì quan chủ khảo bàn luận đã có chỗ theo, sĩ tử đỗ trượt cũng không lầm lẫn về sở học. Kính xin triều đình xem xét kỹ thi hành.” Được chấp thuận.
(Mật sớ ngày 28 tháng 10 năm [Nguyên Hựu] thứ 5, được chỉ vào ngày 2 tháng 11, nay gộp vào đây. Cựu lục chép: Ngày 2 tháng 11, Hữu chánh ngôn Lưu Đường Lão tâu: “Xin lấy đại nghĩa định bỏ lấy đối với người học kinh dự thi, lấy thơ phú định bỏ lấy đối với người làm thơ phú kiêm kinh nghĩa, cùng lấy luận sách để xếp hạng cao thấp, vẫn như cũ không phân kinh khảo xét[12].” Được chấp thuận. Xét mật sớ Nguyên Hựu, Đường Lão tấu việc này vào ngày 28 tháng 10, đến ngày 2 tháng 11 được chuẩn y, nay gộp lấy toàn bộ mật sớ của Đường Lão và chỉ dụ ngày 2 tháng 11 phụ vào đây, lại thêm một tờ sớ của Thượng Quan Quân liệt kê ở sau.)
[60] Điện trung thị ngự sử Thượng Quân tâu: “Thần trộm thấy triều đình gần đây do lời tâu của quan viên, ban hành quy chế khoa cử, người học kinh thì lấy đại nghĩa định bỏ lấy, luận sách định cao thấp; người thi từ phú kiêm kinh nghĩa thì lấy thơ phú định lấy bỏ, kinh nghĩa luận sách định cao thấp. Quy chế mới vừa ban ra, sĩ đại phu đều cho rằng triều đình không còn xét kinh nghĩa sách luận nữa, học giả bảo nhau chuyên tâm làm thơ phú, không cần đọc kinh sử. Bởi thi tiến sĩ, lấy đỗ trượt làm trọng, cao thấp là thứ yếu. Nay lấy từ phú định bỏ lấy, ắt học giả dồn sức vào thơ phú để may mắn được chọn, đâu rảnh tính toán chuyện cao thấp? Thần xem khoa trường lần này, lấy đều hai khoa tiến sĩ, ở phủ học thi kinh nghĩa chỉ còn hai phần mười. Tính theo lợi hại, tương lai học giả ắt đổ xô học từ phú, sĩ tử cả nước đều ứng thí thơ phú, mà quan chức lại giữ quy chế mới để định bỏ lấy, thần e từ nay học giả làm văn đọc sách chỉ chú tâm thơ phú, không đọc kinh sử, tìm hiểu nghĩa lý[13], dấu tích thành bại các đời. Dù có thi nghĩa vấn sách, cũng chỉ như thiếp kinh ngày trước.
Thần nghĩ triều đình trước khôi phục thơ phú, là do từ khi bỏ kinh nghĩa, học giả cẩu thả, không đọc sách khác, không hiểu luật thơ, nên cho học thêm thơ phú, cùng kinh nghĩa thi song song, lấy bốn trường thi chung định bỏ lấy cao thấp, chứ không hạ thấp kinh nghĩa tôn thơ phú. Nếu triều đình muốn hạ thấp kinh nghĩa, sao lại lấy kinh nghĩa làm trường đầu, lại lấy bốn trường chung định cao thấp bỏ lấy? Người tâu không hiểu ý triều đình, lại muốn bỏ dần kinh thuật, chuyên tiến thơ phú, bỏ lý lấy văn, bỏ thực lấy hoa, chẳng quá đáng sao?
Thần nghe năm Thái Bình Hưng Quốc thứ tám, Thái Tông hạ chiếu: ‘Tiến sĩ cử nhân chỉ chuộng văn chương trau chuốt, ít thông học vấn, không hiểu kinh nghĩa, sao trị dân? Nên lệnh Lễ bộ Cống viện miễn thi thiếp kinh, chỉ thi mặc nghĩa 20 đạo, xét khả năng để định bỏ lấy.’ Năm Thiên Hi thứ nhất, Lỗ Tông Đạo tâu: ‘Tiến sĩ thi thơ phú không gần trị đạo, các khoa đối nghĩa chỉ giỏi tụng thuộc, không hiểu đại nghĩa.’ Chân Tông nói: ‘Trước đã định tiến sĩ kiêm xét sách luận, người các khoa thông kinh thì khảo thêm.’ Đến quy chế khoa cử năm Chí Hòa: thơ, phú, luận, sách bốn môn đều ưu ưu là hạng nhất; ba môn ưu thứ trở lên, một môn trung ưu là hạng nhì thượng; hai môn ưu thứ trở lên, hai môn trung ưu là hạng nhì hạ. Năm Hi Ninh thứ tư bỏ thơ phú, lấy kinh thuật, thời vụ, nghĩa lý, văn từ chung định bỏ lấy cao thấp. Xem thế, từ thời tổ tông vốn muốn dùng cả thơ phú, lại lấy sách luận chung định bỏ lấy cao thấp, chưa từng nghe chỉ lấy thơ phú định bỏ lấy.
Thế mà người tâu lại bảo trước năm Trị Bình lấy từ phú kén sĩ thì bỏ lấy theo từ phú, sau năm Hi Ninh lấy kinh thuật kén sĩ thì bỏ lấy theo kinh thuật. Lại bảo do không phân khoa khảo sát nên khi ấy định chế độ bốn trường chung lấy, chẳng quá đáng sao? Người tâu cho rằng quan chủ khảo do có văn bản bốn trường chung định, chủ trương không nhất, tùy theo sở học mà nâng đỡ nhau. Thần nghĩ học giả học gì cũng có sở trường, bốn trường văn bài đều có ưu khuyết, chỉ vì chủ trương không nhất, nên lấy cái hay mà không bỏ sót nhân tài. Dù tùy sở học nâng đỡ nhau, có hại gì? Nay chỉ lấy từ phú định bỏ lấy, nếu phú không đạt, dù kinh nghĩa sách luận uyên thâm cũng không lấy được. Thế thì người học rộng văn hay bị thiệt nhiều. Hơn nữa từ phú là môn khó giỏi, trước Trị Bình học lâu mà người tinh còn hiếm. Huống chi nay mới khôi phục, tiến sĩ còn sợ phạm luật, văn lý sơ sài, không như trước. Nay chỉ lấy từ phú định bỏ lấy, ắt phải gượng lấy bài vụng về cho đủ số. Thành ra thơ phú dù dở, theo phép phải lấy; kinh nghĩa sách luận dù hay, theo phép phải bỏ. Bỏ cái đáng lấy, lấy cái đáng bỏ, thật trái ý cầu hiền của triều đình. Xin theo quy chế năm Nguyên Hựu thứ hai, lấy bốn trường chung định bỏ lấy cao thấp, mong khỏi mất người tài.”
[61] Lại tâu: “Thần trước đây đã dâng tấu bàn về quy chế khoa cử không nên chỉ dùng thơ phú để quyết định đỗ trượt, xin theo chỉ dụ năm Nguyên Hựu thứ hai, lấy bốn kỳ thi tổng hợp để định cao thấp đỗ trượt, nhưng chưa được thi hành. Thần nghĩ rằng việc quan trọng nhất của triều đình là bổ nhiệm quan chức, mà gốc của bổ nhiệm quan chức chính là tuyển chọn nhân tài. Nếu có phương pháp tuyển chọn đúng đắn thì sĩ tử trong thiên hạ sẽ biết phải học gì mà không sa vào nông cạn. Ngược lại, nếu phương pháp không đúng, kẻ sĩ sẽ ngày càng chạy theo những điều tầm thường, chỉ mong đỗ đạt bằng mọi giá.
Việc học của sĩ tử nên lấy hiểu đạo lý, thấu suốt lẽ phải làm gốc, văn chương chỉ là thứ yếu. Hiểu đạo để tu thân, thấu lý để ứng phó công việc, giỏi văn để diễn đạt ý tứ. Ba điều này trong việc học của sĩ tử không thể thiên lệch. Triều đình trước khi cải cách kinh nghĩa vào niên hiệu Hi Ninh, các đời tiên tổ vẫn theo lệ dùng thơ phú, luận sách để tuyển chọn nhân tài – thơ phú chú trọng sự tao nhã, thanh tân, hài hòa âm vận, lấy văn chương làm chính; luận sách chú trọng hiểu kinh sử, thông suốt việc đời, lấy hiểu đạo thấu lý làm gốc. Dùng bốn yếu tố này để xét đỗ trượt cao thấp, nên sĩ tử trong thiên hạ đều học rộng để ứng thí, không dám chỉ chuyên một kỹ năng để mong may mắn đỗ đạt.
Vì thế trải qua các triều đại, danh thần xuất hiện liên tục, công đức nối tiếp nhau, đời nào cũng có người tài, đều do phương pháp tuyển chọn đúng đắn, chưa từng nghe chỉ dùng thơ phú để quyết định đỗ trượt. Pháp lệnh đề cao điều gì thì sĩ tử theo đó, pháp lệnh bỏ điều gì thì sĩ tử bỏ đó. Nay nếu chỉ dùng thơ phú để quyết định đỗ trượt, thì thầy dạy chỉ chú trọng thơ phú, bạn bè chỉ học thơ phú, cha truyền con, anh bảo em, tất cả đều chỉ chăm chú vào thơ phú. Như vậy sĩ tử trong thiên hạ chỉ chú tâm vào văn chương, không còn nghiên cứu kinh sử, tìm hiểu đạo lý, bàn luận việc đời, dù có thi kinh nghĩa, luận sách cũng chỉ là hình thức. Mười năm sau, lớp hậu sinh sẽ mù tịt về học vấn đạo lý, phong tục ngày càng suy đồi, trở nên nông cạn tầm thường, đó không phải là chuyện nhỏ.
Đất nước ta các bậc thánh minh nối tiếp nhau, thái bình hơn trăm năm, giáo hóa dưỡng dục tích lũy lâu dài, việc học của sĩ tử ngày càng thuần chính, sự rèn luyện ngày càng thành tựu. Nay lại chỉ chuộng thơ phú, dần dần làm mai một học vấn đạo lý, không phải là cách khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài. Xét theo chế độ của tiên tổ thì không thuận[14], xét theo tâm tư của sĩ tử thì không tiện, cũng không phải là ý nghĩa ban đầu của việc kiêm dụng thơ phú trong những năm gần đây. Kính mong bệ hạ hạ chiếu cho các đại thần chấp chính xem xét kỹ lưỡng được mất, sửa đổi quy chế mới, để chấn chỉnh phương pháp tuyển chọn nhân tài, đó là điều may mắn cho thiên hạ!” (Tờ tấu sau ghi là dâng vào ngày 26 tháng 11, nay phụ chép sau tờ tấu của Lưu Đường Lão, không ghi rõ ngày tháng nữa.)
[62] Ngày Canh Thân, giảng xong sách, ban yến ngự ở Đông cung, các quan Tể thần, Chấp chính, Giảng độc, Điều chú đều dự.
- 'Trung' nguyên là 'chung', theo bản Các và sách 《Loạn Thành tập》 quyển 45 sửa. ↵
- 'Trước' nguyên là 'Giả', theo sách trên sửa. ↵
- Theo văn nghĩa, nghi 'quyết' là 'khoái' sai. ↵
- Chữ 'văn' trong 'dĩ thiên tự văn' nguyên bản thiếu, căn cứ 《Tống hội yếu》 chức quan 13-4 bổ sung ↵
- mà triều đình lại cất nhắc chữ 'ủy' nguyên bản thiếu, căn cứ 《Loan thành tập》 quyển 45 《Trương Giáp bất khả dụng tráp tử》 bổ. ↵
- Chữ 'tự' nguyên bản là 'sự', căn cứ vào bản trong các và 《Loan Thành tập》 quyển 45 tờ 'Khất tài tổn đãi Cao Ly sự kiện trát tử' phụ lục điều ước sứ Cao Ly sửa lại ↵
- chữ 'ngôn' nguyên bản thiếu, theo 《Loan Thành tập》 quyển 45 bổ sung ↵
- chữ 'kỳ' nguyên bản thiếu, theo bản các các và sách trên bổ sung ↵
- chữ 'nhân' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung ↵
- hai chữ 'đồ tả' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung ↵
- Nhưng hoàn toàn không nhắc đến việc đã ký vào văn bản 'Ký' nguyên bản là 'phê', căn cứ vào các bản khác và văn cảnh sửa lại. ↵
- Câu 'vẫn như cũ không phân kinh khảo xét' nguyên bản thiếu hai chữ 'không', căn cứ vào chính văn mà bổ sung. ↵
- 'nghĩa lý' nguyên là 'nghĩa luận', theo bản khác và văn nghĩa sửa ↵
- 'Ngưỡng' nguyên là 'Ức', căn cứ vào các bản khác và ý nghĩa văn bản mà sửa. ↵