VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 456: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 6 (TÂN MÙI, 1091)
Từ tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 6 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 3, ngày Canh Thân (mùng 1), Vua ngự tại điện Nhĩ Anh. Tể tướng Lã Đại Phòng tâu rằng: “Ba mươi sáu việc mà Nhân Tông từng chép, trong cung còn giữ không?” Vua đáp: “Có.” Đại Phòng xin cho vẽ lại và đặt ở góc chỗ ngồi để tiện xem xét. Vua đồng ý.
(Có thể tham khảo thêm ngày Nhâm Thìn tháng 4.)
[2] Ngày Tân Dậu (mùng 2), Trung thư xá nhân Trịnh Ung được bổ làm Tả Gián nghị đại phu, Hữu Triều phụng đại phu Trương Tu làm Quang lộc thiếu khanh, Độ chi viên ngoại lang Điền Tử Lượng làm Hữu ty viên ngoại lang, Tả ty gián Dương Khang Quốc làm Lại bộ viên ngoại lang (theo 《Chính mục》 vào ngày mùng 4), Bí các hiệu lý, Hữu chánh ngôn Lưu Đường Lão làm Binh bộ viên ngoại lang (ngày mùng 4 có ghi chép về Trịnh Ung). Từ vương phủ Dực thiện Trần Hiên, Thị giảng Kiều Chấp Trung đều làm Bí các hiệu lý, do vương xin theo lệ.
[3] Lễ tân sứ Hình Tá Thần làm Tây thượng các môn phó sứ, Đại danh phủ lộ Phó tổng quản, theo lời tiến cử của An phủ sứ Trương Tảo.
(Có thể tham khảo thêm ngày mùng 8 tháng 4.)
[4] Tri phủ châu Chiết Khắc Hành, Thông phán Lương Tử Nhã tu sửa thành trì, binh dân an cư, được ban chiếu khen thưởng.
[5] Cấp sự trung Chu Quang Đình tâu: “Gần đây bổ nhiệm Lưu Định làm Đề hình Kinh Tây Nam lộ. Xét thấy Định tính tình khắc nghiệt, tội ác nhiều, trước đây làm Đề cử Bảo giáp Hà Bắc lộ, cả lộ bị hại, mọi người đều biết, sao có thể lại đề bạt làm Giám ty, gây hại cho một lộ nữa?” Chiếu y theo lệ trước. Quang Đình lại tâu: “Thần nghĩ rằng Giám ty là người làm gương cho cả lộ, phải chọn người công chính nhân hậu, thì mọi người mới được hưởng phúc. Gian ác như Định, sao có thể được chọn?” Chiếu cho Lưu Định làm Đề điểm Khanh dã Chú tiền sự Kinh, Hoài, Kinh, Chiết, Phúc Kiến, Quảng Nam lộ.
(Lệnh thay đổi của Định vào ngày 16 tháng 3, nay ghi chung. Lần đầu bổ nhiệm Định vào ngày 18 tháng giêng.)
[6] Hôm đó, Thượng thư Hữu thừa Tô Triệt được đưa vào, theo ban tấu sự xong, Triệt ở lại lâu. Lại sai Trung sứ Diêm An đưa vào tỉnh. Dương Khang Quốc, Lưu Đường Lão đều bị bãi chức ngôn quan, làm Thượng thư lang. Lưu Chí tự nói: “Những người bàn luận đều muốn phân biệt phải trái, để chính sự thăng giáng, đây thực là việc quan trọng của quốc gia, nhằm làm cho thiên hạ phục. Nhưng có điều không thể làm, vì triều đình thăng giáng đại thần, không nên dùng lời của một hai người mà bãi chức. Nếu cho rằng người nói là không đúng mà bãi chức, thì lời của hai người đó chưa hẳn đều sai, dư luận bên ngoài đều cho rằng hai người đó đúng. Nếu cho hai người đó đúng mà bãi chức đại thần, thì việc chỉ ra chưa đủ để làm nặng nhẹ cho đại thần, mà đối với quốc thể cũng không tiện, hơn nữa việc có thể hay không còn tùy thuộc vào lòng Vua khi trình bày, không thể không có điều nghi ngại. Vì vậy chỉ dừng ở chỗ công bằng, vừa để toàn vẹn ân trên, giữ thể diện khi thăng chức đại thần, vừa để bảo vệ hai người, nuôi dưỡng khí tiết trung trực, khó thay! Khó thay!” Trung thư xá nhân Trịnh Ung trình lên Tam tỉnh, hỏi Khang Quốc nên làm lời gì? Lã Đại Phòng phê rằng: “Làm lời công bằng.” Chí hỏi Đại Phòng: “Đông Đài thì sao?” Ý chỉ Chu Quang Đình. Đại Phòng nói: “Đã có dấu hiệu nghi ngờ, e rằng không dám làm.” Quang Đình trước đây bị Triệt đàn hặc, nên mới nói vậy.
(Theo《Lưu Chí nhật ký》thêm vào.)
[7] Ngày Quý Hợi, tiến trình 《Thần Tông Hoàng đế thực lục》. Hoàng thượng hướng về phía đông lạy hai lạy, sau đó mở sách. Tể tướng Lã Đại Phòng đứng trước rèm đọc, chưa được bao lâu, trong rèm vang lên tiếng khóc thảm thiết, ngừng đọc, lệnh tiến trình.
Theo 《Vương Nham Tẩu triều luận》 chép: Ngày mồng 4 tháng 3, vào buổi thường triều, lên điện Diên Hòa, tể tướng bên trái tâu trước. Vì hôm nay tiến trình 《Thần Tông thực lục》, không tâu việc, nên lui xuống phía đông ở chỗ nghỉ. Hai cung dẫn việc công lui, vào dâng cơm. Trước tiên dẫn 11 giường 《Thực lục》, mỗi giường một hộp sách[1], tổng cộng 300 quyển, xếp ở phía đông. Một lúc sau, thay áo, phủ khăn vàng, buông rèm. Từ thừa tướng trở xuống tâu lại chúc hoàng thượng vạn phúc, đứng hướng về phía đông ở phía tây, đợi các quan tu soạn 《Thực lục》 là Hàn lâm Triệu Ngạn Nhược, Cấp sự Phạm Tổ Vũ, Trứ tác Hoàng Đình Kiên chào hỏi xong, cùng lên điện đứng theo thứ tự. Hoàng thượng đội khăn xếp, mặc áo màu nhạt, đi hài đen, đai đen, từ gian phía tây đi ra, cúi xuống bậc thềm đón. Đặt hộp sách 《Thực lục》 đầu tiên lên bàn, đối diện đặt bàn, mở niêm phong, lạy hai lạy, thắp hương, lại lạy, rồi vào rèm. Lệ cũ như vậy, nay đều theo lệ cũ. Tể tướng bên trái đề cử tu soạn cùng Triệu Ngạn Nhược đối diện mở biểu đọc. Lấy quyển đầu tiên đọc, mở sách, hai cung đều khóc, các quan hầu đều lau nước mắt. Một lát sau, hoàng thượng khuyên thái hậu rằng: “Trời lạnh, xin đừng khóc nữa, hãy nghe đọc.” Đọc xong bốn tờ, hoàng thượng nói: “Tiến vào.” Rồi dừng lại. Vội vàng xuống, lạy hai lạy. Lại triệu ban trà, uống trà xong, tể tướng bên phải đã xuống trước về chỗ nghỉ. Tể tướng bên trái lạy hai lạy, tâu việc ban ơn cho các quan tu soạn sách. Sau đó thúc giục Triệu Ngạn Nhược và các người khác tạ ơn, rồi lui ra.
《Lưu Chí nhật ký》 chép: Ngày mồng 4, ngày nghỉ trước ngày giỗ. Ngày nghỉ vẫn vào triều ở điện Diên Hòa, không tâu việc, vì hôm nay tiến trình 《Thần Tông thực lục》. Tiến trình 《Thần Tông thực lục》, ngồi lại, tuyên chỉ cho tể tướng cùng xem. Trước tiên đứng thành hàng, xướng danh tâu vạn phúc, tể tướng hướng về phía đông, đứng một lát, đợi các quan tu soạn, biên tu chào hỏi tạ ơn xong, cùng lên điện. Tam tỉnh, Mật viện đi từ bậc bên phải, các quan tu soạn là Triệu Nguyên Khảo, Phạm Thuần Phu, Hoàng Lỗ Trực đi từ bậc bên phải lên, đứng yên, lấy quyển đầu tiên đặt lên bàn trước rèm. Tể tướng bên trái đọc vài dòng, hai điện đều khóc, hoàng thượng khuyên thái hậu rằng: “Trời lạnh, sợ hít phải khí lạnh, xin hãy ngừng khóc để nghe đọc.” Đọc xong bốn tờ, tuyên dụ rằng: “Có thể dừng lại, chỉ tiến vào.” Mọi người xuống điện, từ người đề cử trở xuống tạ ơn, dời hàng. Lễ xong lui đứng, Lưu Chí cùng các chấp chính khác đứng riêng hàng tạ ơn rằng: “Kính mong thánh từ vì viện biên tu tiến trình 《Thần Tông thực lục》, tuyên triệu bề tôi được xem lãm[2], không dám nhận…” Dời hàng như vậy. Tuyên chỉ ban trà, Lưu Chí một mình lên bậc bên phải. Uống trà xong, lui ra, tể tướng bên trái một mình tâu việc[2].
Lại lên, chẳng bao lâu xuống, tự ngồi lại. Đứng hàng phía trước, hai bộc xạ bên trái phải đều đứng riêng như cũ. Hàng phía sau xen kẽ, nhưng chỉ dời Thị lang Hữu tỉnh làm đầu hàng bên trái[3], Mật viện không qua, vì sao vậy?)
[8] Vương Nham Tẩu ung dung khuyên Vua đọc sách, nói: “Người xưa thường sáng đọc kinh, trưa đọc sử và các sách của các bậc hiền triết, hoặc đọc thơ ca có tính chất khuyên răn của người đời Đường.” Vua hỏi: “Làm sao để thấm nhuần đạo lý sâu sắc?” Ông đáp: “Muốn đọc sách thấm nhuần đạo lý sâu sắc, tự có bí quyết. Phải đem lời dạy của các bậc thánh hiền trước đây từng câu từng chữ ghi nhớ và tiếp thu, giống như các bậc thánh hiền chuyên vì bệ hạ mà nói điều này, thì tiếp thu mới có sức mạnh, đọc sách mới có ích. Điều hay thì tiếp nhận làm khuôn mẫu, điều không hay thì tiếp nhận làm bài học răn dạy. Như vậy thì giống như suốt ngày được trò chuyện với các bậc thánh hiền, đức độ của bệ hạ ngày càng mới mẻ.”
Vua bàn về việc bắn cung, ông tâu: “Đây là việc làm sau khi đọc sách, dùng để thư giãn tinh thần thì được, nhưng không phải là điều mà bậc đế vương cần học, không nên quá chú tâm mà cản trở việc học tập của bệ hạ. Trong việc bắn cung, cũng có đạo lý tu thân, trị thiên hạ. Sách 《Lễ Ký》 có thiên “Xạ Nghĩa“, nói về phương pháp bắn cung. Tiến thoái xoay vần phải hợp lễ, tâm chí bên trong ngay thẳng, thân thể bên ngoài đoan chính, sau đó mới cầm cung tên; xem xét kỹ lưỡng, sau đó mới có thể nói trúng đích. Điều này có thể xem được đức hạnh. Bệ hạ nếu lấy ý nghĩa của việc bắn cung để trị thiên hạ, mọi việc đều bình tâm chính kỷ, xem xét kỹ rồi mới hành động, thì hành động ắt không sai lầm.” Lại nói: “Bắn cung là cầu ở mình, ngay thẳng rồi mới bắn, bắn mà không trúng, không oán người hơn mình, mà phải xem lại bản thân mình. Đây là thánh nhân mượn việc bắn cung để dạy người, mọi việc đều phải cầu ở mình, không nên trách người khác. Lại nữa, bệ hạ không nên coi việc tập bắn cung là võ nghệ của bậc đế vương. 《Xuân Thu Tả Truyện》 bàn về việc “chỉ qua vi vũ“, ý nói có thể ngăn chặn chiến tranh, khiến nó không xảy ra, đó mới là võ. Võ có bảy đức: ngăn chặn bạo lực, chấm dứt chiến tranh, bảo vệ đất nước, lập công, an dân, hòa hợp mọi người, làm giàu, đó là bảy đức. Bệ hạ thường lấy bảy đức này làm tâm, thì võ nghệ của bệ hạ sẽ vô địch thiên hạ. Mong bệ hạ lưu tâm suy xét tiếp nhận, thật may mắn biết bao.”
[9] Trung thư xá nhân Trịnh Ung tâu: “Hôm qua, Tả ty gián Dương Khang Quốc được bổ làm Lại bộ viên ngoại lang. Xét theo lệ cũ, các quan đài gián nếu tâu việc xứng chức thì người giỏi nhất sẽ được thăng chức không theo thứ tự, người kém hơn cũng được thăng lên chức tốt; nếu nói sai hoặc không xứng chức thì sẽ bị giáng chức hoặc cách chức rõ ràng. Nay Khang Quốc được bổ làm viên ngoại lang, nếu cho là do xứng chức mà thăng thì chức viên ngoại lang lại thấp hơn chức ty gián; nếu cho là do nói sai mà bị giáng thì chưa thấy lý do giáng chức.” Chiếu cho Khang Quốc đổi làm lang trung. Hàn Xuyên cũng từ chối phê chuẩn chiếu chỉ bổ Lưu Đường Lão làm Binh bộ viên ngoại lang, nói rằng không thấy lý do bãi miễn chức Hữu chánh ngôn của Đường Lão. Cuối cùng, cả Đường Lão và Khang Quốc đều bị điều ra ngoài làm thú.
(Việc điều ra ngoài làm thú xảy ra vào ngày 26 tháng 3. Tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 8, Hoàng Khánh Cơ tâu rằng Lưu Đường Lão dâng sớ nói về việc Tô Thức và Triệu Tiết thông đồng vu cáo, cần xem xét. Tờ tấu của Dương Khang Quốc đã được nhắc đến vào ngày mùng 4 và 18 tháng 2. Khang Quốc là người nước Ngụy, Lưu Chí soạn văn bia cho cha ông. Sách 《Triều An Lục》 chép: Đường Lão và Khang Quốc đều bàn luận về Tô Triệt.)
[10] Ngày Giáp Tý, chiếu cho cháu của Hoàng thái phi là Hữu thị cấm Chu Hiếu Tôn được đặc cách làm Cáp môn khán ban chi hậu, Tả môn điện trực Chu Hiếu Chương làm Ký ban chi hậu.
[11] Ngày Ất Sửu, Giám sát ngự sử Từ Quân Bình được bổ làm Độ chi viên ngoại lang. Quân Bình tự tâu rằng đã nhiều lần bàn về việc Thiêm thư xu mật viện Vương Nham Tẩu bổ nhiệm không đúng, nhưng không được chấp nhận, nên xin chịu giáng chức, vì thế có mệnh lệnh này.
[12] Ngày Kỷ Tỵ, Vua ngự tại điện Tập Anh, ra đề thi cho các tiến sĩ do Lễ bộ tiến cử.
[13] Ngày Canh Ngọ, ra đề thi cho các tiến sĩ đặc cách tiến cử và thi võ cử.
[14] Ngày Nhâm Thân, thi các khoa minh kinh, kinh luật và các khoa đặc cách tiến cử.
[15] Ngày Quý Dậu, ban chiếu cho Hữu chính nghị đại phu, Đoan minh điện học sĩ, Lễ bộ Thượng thư Đặng Ôn Bá, Triều thỉnh đại phu, Hàn lâm học sĩ, Tri chế cáo Triệu Ngạn Nhược, Tả triều phụng lang, Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ, Tả triều thỉnh lang, Bảo văn các Đãi chế, Tri Ứng Thiên phủ Tằng Triệu, Tả triều phụng đại phu, Thiên chương các Đãi chế, Tri Hàng Châu Lâm Hi đều được thăng một chức. Long đồ các Đãi chế, Tri Dĩnh Châu Lục Điền được thăng làm Long đồ các Trực học sĩ, Trứ tác tá lang Hoàng Đình Kiên được thăng làm Khởi cư xá nhân. Đô đại quản câu Nhập nội nội thị tỉnh Đô tri Trương Mậu Tắc cùng một người con được thăng một chức. Thừa thụ Nhập nội nội thị tỉnh Nội thị áp ban, Văn tư sứ, Gia Châu thứ sử Lương Duy Giản, Nhập nội nội thị tỉnh Nội đông đầu cung phụng quan, Quản đương Ngự dược viện, Ký Cung bị khố sứ Trần Diễn, Cung bị khố phó sứ Hác Chung Cát, Nội điện thừa chế Bằng Tuân đều được thăng một chức, riêng Trần Diễn được ký thêm tư. Ôn Bá và các người khác đều được thưởng công do hoàn thành việc biên soạn 《Thần Tông hoàng đế thực lục》.
(Lục Điền, Hoàng Đình Kiên, ngày 26 và 28 có thể tra cứu. Lưu Chí ngày 14 ghi chép rằng: Các quan tu soạn thực lục được ban ân, ngoại trừ các quan đề cử theo chế độ riêng, còn lại không kể thời gian lâu hay gần, trong hay ngoài, đều được tăng một bậc. Dụ Trung thư lệnh ngày 16 tiến thục trạng[4].)
[16] Điện trung thị ngự sử Sầm Tượng Cầu được thăng làm Kim bộ lang trung. Việc này là để tránh thân thích với Tô Triệt.
[17] Ban chiếu cho Ngự sử trung thừa tiến cử hai người có thể đảm nhiệm chức Điện trung thị ngự sử, Hàn lâm học sĩ đến Gián nghị đại phu cùng tiến cử hai người có thể đảm nhiệm chức Giám sát ngự sử để tâu lên.
[18] Tam tỉnh tâu: “Những người xuất sắc trong kỳ thi võ cử là Tân Dục cùng 16 người khác, nếu bắn cung đúng phép, bắn nỏ trúng đích, thì được bổ làm Tam ban tá sai, giảm 5 năm khảo hạch, được sai phái làm chỉ huy sứ ở biên giới, theo lệnh được ban thưởng. Nếu bắn cung không đúng phép, bắn nỏ không trúng đích, thì tạm thời cho ôn tập kỹ năng. Riêng Tá chức Quách Ngạn Khanh bắn cung đúng phép, xin giảm 3 năm khảo hạch, đặc biệt ban thưởng áo bào, đai, hia, hốt.” Được chấp thuận.
[19] Ngày Ất Hợi, quyền phát khiển Hà Đông lộ chuyển vận sứ Lâm Đán vào triều từ biệt, được ban áo mặc tam phẩm.
(Việc từ biệt này cần xem xét thêm.)
[20] Chiếu chỉ cho Đô tri của nhập nội nội thị tỉnh là Trương Mậu Tắc cùng với cháu của Tôn Hoặc là người có chức quan được thăng một bậc, chiếu chỉ trước đây không thi hành. Lại có chiếu chỉ rằng sách 《Thần Tông Hoàng đế Thực lục》 đã hoàn thành, các quan tu soạn được ban thưởng, lệnh cho nhập nội nội thị tỉnh nhận chỉ, trong đó các quan cũ từng làm đề cử là Tư Mã Quang, Lữ Công Trứ mỗi người được ban 300 lạng bạc và 300 tấm lụa, giao về cho gia đình họ.
[21] Điện trung thị ngữ sử Sầm Tượng Cầu tâu: “Hữu triều phụng đại phu Tống Bành Niên trước đây làm tri châu Hình Châu, tham nhũng không kiêng nể, chính sự trong châu suy đồi. Xin triều đình cử quan đi xem xét, hoặc đưa ông ta đến nơi xa xôi, hoặc cho giữ chức nhàn nhã.” Chiếu chỉ cho Hà Bắc chuyển vận ty xem xét sự thật rồi tâu lên.
[22] Kinh lược sứ Phu Diên lộ là Triệu Tiết tâu: “Nếu người Tây Hạ đến phủ Diên An để bàn việc phân chia ranh giới Hi Châu và Lan Châu, một mực cứng rắn, đòi trở về nước, không biết nên trả lời thế nào để không bị cản trở[5]?” Chiếu chỉ cho Triệu Tiết căn cứ vào các mệnh lệnh trước sau mà giải thích, lần lượt bảo các quan được ủy nhiệm khéo léo ứng đối. Nếu họ kiên quyết không nghe, muốn về nước, thì từ từ nói: “Lần này đến để giải thích, là lẽ đương nhiên. Nay đã hoàn toàn không nghe, tức sẽ báo cáo lên Xu mật viện, chờ chỉ thị.” Hoặc nếu người Tây Hạ cần tạm về nước, cũng cho phép, nhưng dặn rằng khi sứ giả và phó sứ về nước, cũng phải bàn bạc kỹ với các thủ lĩnh cấp cao. Nếu sau khi báo cáo lên Xu mật viện, vạn nhất có chỉ thị khác, sẽ sai người đến biên giới mời, xin họ đến phủ Diên An để bàn bạc. Cốt sao giữ được mối quan hệ với người Tây Hạ, không để bị cản trở. Nếu người Tây Hạ vẫn không chịu nghe, việc cần báo cáo, lệnh cho Triệu Cấp đến Tam tỉnh và Xu mật viện xin chỉ thị.
[23] Ban đầu, Tiết liên hịch gửi đến Hựu Châu, yêu cầu phái thủ lĩnh đến nghe bàn về biên giới, nhưng lâu không nhận được hồi âm. Sau đó, trại Thuận Ninh bắt được tù binh sống là Ất Ngô Ma, người thường qua lại biên giới nhà Hán, thông thạo ngôn ngữ và việc giao thiệp. Tiết hậu đãi hắn nhiều vàng lụa, bảo hắn mang ý hòa hiếu của triều đình về báo cho Ất Bô, nói: “Triều đình lệnh cho Hạ quốc phái người đến nghe bàn về biên giới, không phải vì sợ ngươi, mà chỉ vì hòa hiếu sắp thành, không nỡ tự dứt bỏ. Ất Bô muốn hòa thì hãy đến, không muốn thì tùy ý. Trao đổi thư từ qua lại, không bằng phái sứ giả đến gặp mặt bàn bạc. Ngươi từng là người đi sứ, không phải giặc, hãy về báo lại lời ta cho Ất Bô.” Lúc đó, Ất Bô đang tập hợp mấy vạn quân ở cửa ải Mật Mộc, định ngày nào đó sẽ đánh Hi Lan. Khi Ngô Ma đến, kế hoạch của giặc bị hoãn lại, liền phái người thân tín là Ngôi Danh Ma Hồ và Ất Cát (Khẩu Lăng) Đan đến. Tiết gọi đến chất vấn, giải thích suốt mấy ngày[6], Ma Hồ và đồng bọn đuối lý, nói: “Lời ngài đều đúng, đều vì dân vì nước, nhưng nhà ta không được lợi thì sao!”
(Ngày 12 tháng giêng.)
[24] Ngày Bính Tý, Thái trung đại phu, Thủ Thượng thư Tả bộc xạ kiêm Môn hạ Thị lang Lã Đại Phòng được đặc cách thụ chức Chính nghị đại phu. Khi 《Thực lục》 hoàn thành, Đại Phòng đáng lẽ được thăng làm Thông nghị đại phu, nhưng vì tổ tiên ông có tên húy là “Thông”, nên các quan chấp chính cùng tâu xin cho ông được thăng vượt cấp. Đại Phòng cố từ chối, nhưng không được chấp thuận.
[25] Trước đó một ngày, sau khi việc tấu sự ở Diên Hòa kết thúc, Lữ Đại Phòng tâu mặt: “Thần gần đây có tờ tráp tử[7], xin miễn việc ban ân cho quan đề cử thực lục, mong được chấp thuận. Thần nghe nói có chỉ dụ cho Trung thư soạn lệ ban ân, xin được dùng lệ gần đây, cho phép miễn.” Tâu xong liền lui ra trước. Hữu bộc xạ Lưu Chí và hai tỉnh dẫn lệ tiến trình việc hoàn thành thực lục và chính sử thời Chân Tông, các quan đề cử đều được thăng chức; sau này khi thực lục thời Nhân Tông, Anh Tông và chính sử hai triều hoàn thành, các quan đề cử là Hàn Kỳ, Tăng Công Lượng, Vương Khuê đều từ chối, chỉ được ban cho khí tệ khác nhau, Vương Khuê lại được thêm cho một con trai được mặc áo phẩm lục phẩm. Vua dụ rằng Lữ Đại Phòng chức vụ còn thấp, không nên nghe theo lời từ chối, tối nay có thể khóa viện. Lưu Chí tâu: “Thêm nữa, công lao biên soạn thực lục thời Thần Tông rất lớn, thực sự nên tăng bậc. Nhưng Lữ Đại Phòng nên thăng lên chức Thông nghị đại phu, chữ “Thông” phạm húy tổ tiên của ông ấy, lý nên tránh. Theo lệ thời trước khi có quan chế, thủ tướng phần nhiều được thăng vượt cấp, nay có thể đổi hai chức thành Tả chính nghị đại phu, không quá đáng[8].” Vua lại hỏi: “Việc tránh húy trước đây thế nào?” Đáp: “Nếu là bách chấp sự thì gửi lý quan tư, đợi đến ngày khám xét lại sẽ thăng hai chức. Nay Lữ Đại Phòng là thủ tướng, e khó dùng cách này.” Vua dụ: “Rất tốt.” Lại tâu rằng việc thăng chức cho tể thần cần phải triệu học sĩ đến mặt để trao chỉ dụ, khó soạn thục trạng, xin cho Trung thư soạn việc thăng chức và ban ân rồi tâu lên, xin để lại trong cung làm trung chỉ thi hành. Vua đồng ý. Lui ra rồi làm như lời tâu, soạn tờ trạng dâng lên. Người soạn chế là Trung thư xá nhân, Trực học sĩ viện Hàn Xuyên.
(Đoạn này thêm vào theo nhật ký của Lưu Chí.)
[26] Ngày Đinh Sửu, Điện trung thị ngự sử Sầm Tượng Cầu tâu: “Vương An Lễ trước đây ở Thanh Châu, buông thả làm nhiều việc trái phép. Tiết độ suy quan Nghê Trực Hầu giúp hắn làm việc ác, quản lý việc xuất nạp công sứ không minh bạch, đến khi bị phát giác, liền giấu sổ sách, giả vờ đi tìm kiếm, cuối cùng không tìm thấy. Hành vi bê bối không chịu sửa đổi, quan lại và dân chúng đều biết rõ. Xin giao cho bản lộ điều tra, nếu quả có sự thật, xin trị tội.” Chiếu giao cho bản lộ Chuyển vận ty điều tra rồi tâu lên.
[27] Trung thư xá nhân Hàn Xuyên tâu: “Vừa bổ nhiệm Lục Điền làm Long đồ các trực học sĩ, xét thấy Điền là người thấp hèn, không thể đáp ứng được sự kỳ vọng của thiên hạ.” Chiếu ra lệnh bãi bỏ việc ban chức.
(Ngày mồng 4 bổ nhiệm.)
[28] Trước đó, lệnh bổ nhiệm Điền và Hoàng Đình Kiên đã được ban xuống Trung thư, Hàn Xuyên đều phong trả lại. Hôm đó, Lã Đại Phòng không vào triều, Hàn Xuyên đến Đô tỉnh bẩm báo, Lưu Chí giải thích rằng Điền làm thị tòng hơn mười năm, trước đây xin ra ngoài nhậm chức, đương nhiên phải thăng chức. Lúc đó vì có người dâng tấu nên hạ chỉ đợi khi biên soạn xong thực lục sẽ không thăng quan gia chức. Nay sách đã hoàn thành, thực hiện theo chỉ dụ trước. Những điều người dâng tấu nêu ra, sau đó qua khảo xét của chế ngục đều không có tội. Hàn Xuyên hiểu ra rồi bỏ đi, còn Hoàng Đình Kiên vẫn đang bàn bạc.
(Theo ghi chép của Lưu Chí ngày 18 mà thêm vào. Hàn Xuyên cùng bãi bỏ việc bổ nhiệm Điền và Đình Kiên, nay trước tiên bãi bỏ chức vụ của Điền, còn Đình Kiên cuối cùng bị bãi chức vào ngày 28 Đinh Hợi.)
[29] Chiếu rằng bốn tướng thượng phiên ở các châu Lân, Phủ, Phong thuộc Hà Ngoại kiêm chức Đô đồng tuần kiểm, cùng với các sứ thần ở bảo trại cùng quản lý việc biên giới và trộm cướp, không cần xuống phiên nữa, theo chế độ thưởng phạt của sứ thần ở các bảo trại cực biên và tướng quan Thiểm Tây, đồng thời bãi bỏ sáu viên Đô đồng tuần kiểm và binh mã thượng phiên ở Hà Ngoại. Theo đề nghị của suý thần Hà Đông là Phạm Thuần Nhân.
[30] Ngày Tân Tỵ, Tả trung tán đại phu Yến Tri Chỉ được bổ nhiệm làm Thiếu phủ giám.
(Ngày 22 tháng giêng, từ chức Chủ khách nhậm chức Tri châu Thái.)
[31] Ngày Nhâm Ngọ, Vua ngự tại điện Tập Anh, ban cho các tiến sĩ và các khoa thi từ Mã Quyên trở xuống đỗ đệ, xuất thân, đồng xuất thân, giả chức Thừa vụ lang, Văn học, tổng cộng sáu trăm lẻ hai người. Quyên là người Lãng Trung. Có tám người thuộc hoàng tộc, trong đó Tử Y từ giáp thứ tư được thăng lên giáp thứ hai, những người còn lại đều được thăng lên một giáp. Từ thời Anh Tông, hoàng tộc đã tăng cường việc bổ nhiệm giáo quan và phương pháp giảng dạy, đến thời Thần Tông lại mở rộng chế độ xuất thân, mọi người đều tranh nhau học hành, nay đã cùng với các sĩ tử bình thường thi đỗ. Tô Tụng có cháu là Tượng Tiên đỗ giáp thứ ba, Vương Nham Tẩu có con là Chích đỗ giáp thứ tư, cả hai người cùng các hoàng tộc đều xuống điện tạ ơn. Theo lệ cũ, chỉ có những người từ chức Lưỡng chế trở lên mới tạ ơn.
(Theo nhật ký của Lưu Chí thêm vào.)
[32] Ngày Quý Mùi, ban cho các tiến sĩ đặc cách và các khoa thi từ Lưu Tất trở xuống đồng xuất thân, giả chức Thừa vụ lang, Trợ giáo ở kinh phủ, Văn học, tổng cộng ba trăm hai mươi ba người, cùng hai mươi ba người đỗ Vũ cử tiến sĩ là Giả Quân Văn và các người khác.
[33] Ngày Ất Dậu, Vua ngự tại điện Diên Hòa, Thái hoàng thái hậu tuyên dụ rằng: “Năm nay, sau khi kỳ thi Đình đã chấm xong hai ngày mới xướng danh, việc cấm lửa trong cung không tiện. Từ nay về sau, sau khi xem xét thứ tự thi cử[9], sẽ quyết định ngày xướng danh ngay.”
[34] Long Đồ các học sĩ, nguyên Tri Hàng Châu Tô Thức tâu rằng:
[35] Thần gần đây được ơn chiếu, triệu về triều đình. Thần thấy rằng vùng Chiết Tây hai năm nay bị lũ lụt, đặc biệt là Tô Châu và Hồ Châu, tuy đã nghe báo cáo chi tiết, nhưng trăm nghe không bằng một thấy, nên thần đi từ đường Hạ Đường qua Hồ Châu vào Tô Châu. Thần tận mắt thấy nước lũ chưa rút, ruộng thấp đã chìm sâu dưới nước, năm nay chắc chắn không có hy vọng thu hoạch, còn ruộng trung và cao cũng ngập nước. Phụ nữ, người già và trẻ em ngày đêm phải tát nước, nhưng mưa dầm không ngớt, nước rút một tấc lại dâng lên một thước. Hiện nay đã cuối xuân mà vẫn chưa gieo hạt, dân làng thiếu ăn nhiều, đến nỗi phải ăn cám trộn với rau cần và rau thuần. Lại thêm nước lũ dâng cao, củi và cỏ khó kiếm, ăn cám uống nước lạnh, nhiều người bị chướng bụng mà chết. Đây đều là những điều thần tận mắt chứng kiến, không phải nghe đồn. Giữa mùa xuân và hè, chắc chắn sẽ xảy ra nạn đói và dịch bệnh. Các châu năm ngoái tuy có chuẩn bị sẵn một ít thóc gạo thường bình, hiện nay các châu huyện đang bán ra, giá gạo không tăng quá cao, nhưng dân nghèo ở các làng xa xôi không thể đến thành thị mua, quan lại muốn điều thuyền chở gạo về làng bán, nhưng số lượng cần quá lớn, e rằng không đủ dùng, giữa mùa hè và thu, chắc chắn sẽ thiếu thốn nghiêm trọng. Từ nay về sau, nếu mưa dầm tạnh, nông dân phải tranh thủ đầu hạ gieo mạ, công việc tát nước và cày cấy sẽ vất vả gấp mười lần năm thường, hoàn toàn phải dựa vào lương thực cứu trợ. Hiện nay đã thiếu ăn, đến lúc đó chắc chắn khó làm việc, dù trời có cho thêm thời gian cũng không có hy vọng, cả công lẫn tư đều lâm vào cảnh khốn đốn, điều này là tất nhiên.
[36] Thần năm ngoái đã tâu xin hạ lệnh cho Phát vận ty ở những nơi thuận tiện gần Giang Đông, Hoài Nam được mùa, mua 50 vạn thạch gạo, chuẩn bị vận chuyển và điều động để bán ra cứu tế các châu quân bị thiên tai ở Chiết Tây. Sau đó được ơn Thánh chỉ ban xuống, nói rằng đã hạ lệnh cho Phát vận ty điều động, hợp với số tiền thượng cung và phong trang tổng cộng 1 triệu quan, kịp thời mua hộc gạo, phong trang chuẩn bị dùng khi cần, gửi về Hộ bộ theo lệnh đã nhận, còn lại thì thi hành theo tấu chương của Kiềm hạt ty Chiết Tây. Thánh chỉ vừa ban xuống, bản lộ đều được nghe, nông dân vui mừng, bắt đầu có sinh khí, nhưng quan lại Phát vận ty hoàn toàn không hiểu ý nhân từ thương dân của Thánh thượng, tâu rằng giá gạo ở Hoài Nam, Giang Đông cao, không chịu mua. Xét rằng giá gạo năm ngoái ở Chiết Tây đều cao, Hàng Châu cũng phải dùng 70 đồng tiền để mua một đấu, tuy mua đắt nhưng vẫn hơn là không có gạo, ngồi nhìn dân chết, nay quan lại Phát vận ty trực tiếp nhận Thánh chỉ mà hoàn toàn không thi hành, lấy cớ giá gạo cao, không chịu mua. Khiến mệnh lệnh đã ban của Thánh chúa bỗng thành lời suông; lòng dân đói khát mong được cứu giúp, giữa đường thất vọng. Lại chỉ căn cứ theo chiếu chỉ năm trước điều động 20 vạn thạch gạo thượng cung, cùng với 16 vạn 7 nghìn thạch gạo còn lại trong bản lộ chưa bán hết để bù vào. Nay ngoài số 50 vạn thạch, chỉ xin trong số gạo thượng cung cắt thêm 20 vạn thạch, cùng với bản lộ phối hợp bán ra.
[37] Vì số gạo còn lại không bán hết là hơn mười sáu vạn bảy nghìn thạch đã lâu được tích trữ tại địa phương này. Trước đây, thần đã tâu xin mua năm mươi vạn thạch gạo từ Phát vận ty, đã chỉ định dùng số gạo này ngoài việc chi dùng, cần thêm năm mươi vạn thạch nữa. Nay Phát vận ty lại lấy ân điển của Thánh thượng trước đây để bù vào số gạo được ban năm nay, quan lại và dân chúng nghe tin, sao có thể tâm phục? Thần đã nhiều lần tâu trình, nhưng chưa được Thánh chỉ. Nay thân chứng kiến nhiều châu bị lũ lụt, nạn đói đáng lo ngại, thần đang giữ chức gần Thiên tử, lẽ ra phải tâu trình, đâu dám vì đã rời chức mà để lại hậu họa cho người sau, không còn đảm đương trách nhiệm. Kính mong Thánh thượng xét lòng thành của thần, thương xót một phương, đặc biệt ban chỉ cho Phát vận ty theo chỉ dụ trước, ngoài việc đã cắt cấp hai mươi vạn thạch, xin thêm ba mươi vạn thạch nữa để cấp cho các châu ở Chiết Tây dùng vào việc bán và cho vay. Nếu Phát vận ty năm ngoái không thu mua, không thể cấp[10], xin tạm giữ lại gạo cung cấp để đủ năm mươi vạn thạch, sau đó lệnh cho Phát vận ty dùng một triệu quan tiền tích trữ để mua gạo bù lại khi mùa thu năm nay thu hoạch. Nếu triều đình không đồng ý với lời thần, đợi đến khi nạn đói và dịch bệnh bùng phát mới cứu tế, e rằng phải vận chuyển tiền gạo từ nơi khác đến, dù có trăm vạn cũng khó kịp thời.
Thiếp hoàng nói: “Phát vận ty tâu rằng, ở các châu Túc, Bạc thuộc Hoài Nam bị thiên tai, giá gạo cao nhất là bảy mươi bảy đồng, ở Giang Đông giá gạo cao nhất là bảy mươi đồng. Trước đây thần đã tâu xin mua gạo ở nơi gần và thuận tiện[11], nghe nói giữa Dương, Sở, lúa chín gạo rẻ, nay Phát vận ty lại dẫn giá gạo cao nhất ở các châu Túc, Bạc để ngăn cản chỉ dụ triều đình, rõ ràng không phải là ý tốt của Thánh thượng và lời tâu xin ban đầu của thần.” Lại thiếp hoàng nói: “Nếu theo lời tâu của Phát vận ty, lấy số gạo còn lại không bán hết là hơn mười sáu vạn bảy nghìn thạch để bù vào, vẫn cần thêm ba mươi bốn vạn thạch nữa mới đủ năm mươi vạn thạch, nay chỉ cấp hai mươi vạn thạch, rõ ràng thiếu mười bốn vạn thạch so với chỉ dụ ban đầu. Huống hồ số gạo còn lại không bán hết này đã được Thánh thượng ban năm trước, Phát vận ty không nên lấy để bù vào, rõ ràng thiếu ba mươi vạn thạch.” Lại thiếp hoàng nói: “Nếu được thi hành, xin hạ lệnh cho Chuyển vận ty cấp thêm số lượng cho các châu Tô, Hồ, nếu cần cứu tế, không bị ràng buộc bởi tỷ lệ miễn thuế năm ngoái.” Lại thiếp hoàng nói: “Nếu lại giao cho các cơ quan, xét đi xét lại, chắc chắn không kịp việc. Chỉ xin Thánh thượng quyết đoán, nhanh chóng ban chỉ dụ.” (Từ đây mới được chấp thuận. Lưu lại kiểm tường, ghi vào cuối tháng mười một năm ngoái.)
[38] Khởi cư lang Tôn Thăng quyền Trung thư xá nhân, Đề điểm Hoài Nam Đông lộ hình ngục Giả Dịch làm Thị ngự sử.
(Theo《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》chép: “Ngày 28 tháng 3, họp tại Đô đường, thấy Giả Dịch được bổ làm Thị ngự sử. Ban đầu, Dịch vì lời nói về Đặng Ôn Bá không được thực hiện, xin ra ngoài, được làm Hiến quan Hoài Đông, công luận rất tiếc, nhưng người cầm quyền không vui, chỉ cho làm ở Trịnh châu. Lương Huống Chi lâu không được triệu, nhân Trung hiến tiến cử Dịch bổ làm Ngự sử, chưa kịp trình lên, Thái mẫu dụ rằng: ‘Giả Dịch là người tốt, có thể làm Thị ngự sử.’ Các quan đều im lặng.” Việc này cần xem xét thêm.)
[39] Trực Long đồ các Văn Cập làm Tập hiền điện tu soạn, quản câu Tây Kinh lưu thủ ty Ngự sử đài[12], Hữu triều phụng lang Văn Di Khánh làm Binh bộ viên ngoại lang.
(Ngày 2 tháng 4, Tôn Thăng nói về việc này, ngày 24 tháng 5, Di Khánh được đổi chức.)
[40] Tả ty gián Dương Khang Quốc làm Tri Vệ châu, Hữu chánh ngôn Lưu Đường Lão làm Tri Ráng châu, Giám sát ngự sử Từ Quân Bình quyền Tri Vận châu. Vì Khang Quốc và những người khác nhiều lần xin từ chức mới, nên được bổ nhiệm ngoài. Khang Quốc sau đó được đổi làm Tri Tương châu.
(Khang Quốc đổi làm Tri Tương châu vào ngày 29, nay gộp chung lại. Theo《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》chép ngày 28 vào sớ, xin giữ lại Quân Bình. Cần xem xét thêm.)
[41] Hôm đó, các phụ thần tâu việc, Thái hoàng thái hậu dụ rằng Giả Dịch có tài nói việc, có thể bổ làm Thị ngự sử. Mọi người đều cho rằng thánh minh biết rõ bề tôi như vậy, thật đáng mừng. Dương Khang Quốc vừa được bổ làm Tri châu Từ Châu, sau đó Hàn Trung Ngạn nói với Lã Đại Phòng rằng: “Khang Quốc làm Tri châu Từ Châu quá đáng, so với Đường Lão làm Tri châu Giáng Châu thật không giống.” Lưu Chí vốn cũng cho rằng việc bổ nhiệm Khang Quốc này không công bằng, nhưng Đường Lão có người chủ trì, nên Chí không muốn chỉ trích, sáng sớm hôm đó ở Lậu Xá chỉ nói sơ qua rằng Từ Châu động đến hai người đương chức và đã được bổ nhiệm. Đại Phòng nói: “Không làm sao được?” Chí liền im lặng. Vì tiếc việc thể, không muốn có sự khác biệt. Đến lúc này, nhân lời của Trung Ngạn, liền nói tốt rằng: “Đúng vậy, đúng vậy. Khang Quốc lâu năm ở ngạch ngôn quan, nay từ Tả ty gián đổi làm Lại bộ lang trung, được Từ Châu, so với Đường Lão làm Hữu chánh ngôn, nửa năm đổi làm Binh bộ viên ngoại lang, được Giáng Châu, có chút khác biệt, không bằng đổi một châu ngang với Giáng Châu là đủ.” Đại Phòng vui vẻ nói: “Rất tốt.” Bèn đổi làm Tri châu Vệ Châu. Khang Quốc tự nói trước đây làm quan ở Vệ Châu, có năm người chết, muốn đổi sang Tương Châu hoặc Hoài Châu, nhân đó bổ nhiệm cho. Chí cho rằng Khang Quốc từ chối Vệ Châu cũng được, nhưng tiếc rằng lại chỉ đích danh để cầu xin.
(Đoạn này theo nhật ký của Lưu Chí thêm vào.)
[42] Cấp sự trung Chu Quang Đình tâu: “Sách 《Thần Tông hoàng đế thực lục》 đã hoàn thành, tu soạn quan Lục Điền được bổ làm Long đồ các trực học sĩ. Theo lệ tổ tông, nên thăng chức, chưa nên gia chức.” Chiếu y lệ trước thi hành.
[43] Phát vận sứ các lộ Giang, Hoài, Kinh, Chiết là Triều Đoan Ngạn tâu xin: “Các đoàn vận lương trên sông Biện, mỗi năm nếu vận chuyển trên 8.000 thạch hoặc không đủ 8.000 thạch mà thiếu hụt đến 400 thạch, thì người áp tải bị thay thế, quan coi đoàn bị bắt làm việc nặng; nếu thiếu hụt đến 600 thạch, thì quân đại tướng, điện thị bị thay thế, sứ thần bị cách chức, ngoài ra đều bị kéo dài thời gian khảo hạch thêm 2 năm. Nếu đã vận chuyển được một chuyến trở lên, không kể số chuyến, lấy tổng số thạch vận chuyển trong một năm chia cho 8.000 thạch làm một chuyến, cứ mỗi 8.000 thạch thì tăng thêm 120 thạch. Theo đó, nếu ngoài số tăng thêm còn dư, không đủ 8.000 thạch, thì cứ 1.000 thạch tính là thiếu 15 thạch, số lẻ dưới 1.000 thạch không tính. Nếu đến lúc ngừng vận chuyển, không giới hạn số thạch, chỉ cần thiếu hụt tổng cộng đến 1.500 thạch, ngoài việc bị thay thế, cách chức, còn bị kéo dài thời gian khảo hạch thêm 3 năm. Nếu ngay từ chuyến đầu đã có thiếu hụt, hoặc cố ý trì hoãn tiến độ đến mức phạm tội, cũng bị thay thế và bắt làm việc nặng.” Được chấp thuận.
[44] Ngày Bính Tuất, ty biên sự lộ Kinh Hồ Bắc tâu: “Xét thấy chức Tri châu Châu Thành đang khuyết, nên cho con cháu được thế tập.” Chiếu rằng từ nay về sau, người được thế tập chức Tri châu và Đồng tri châu Châu Thành, Tri châu được phong làm Cung bị khố sứ, Thứ sử Châu Thành, Đồng tri châu được phong làm Cung bị khố phó sứ.
[45] Ngày Đinh Hợi, ngự tại điện Diên Hòa. Thái hoàng thái hậu tuyên dụ rằng: “Hoàng đế mỗi khi ở trong cung, ngoài giờ đọc sách, cũng thường tập bắn cung. Bậc quân vương vốn nên kiêm thông cả văn võ. Hoàng đế nhanh nhạy trong sự nghiệp, vừa cầm cung tên đã tinh thạo, gần đây đã bắn được cung nặng vài đấu lực rồi.”
[46] Hộ bộ Lang trung Diệp Thân được bổ làm Điện trung Thị ngự sử. Thân từ chối không nhận chức. Chiếu lệnh cho Tri Đại tông chính Thừa sự An Đỉnh làm Giám sát Ngự sử, Bí thư Thừa Diêu Miễn làm Hữu Chánh ngôn. (Thân được bổ làm Tả Trung vào ngày 14 tháng 4.) Lưu Chí nói: “Thân vốn là thuộc hạ cũ, từng được tiến cử làm Giám ty, người này rất công bằng, thanh liêm, sáng suốt, có học vấn, tài năng trong việc xét đoán, chỉ e rằng hơi cứng nhắc, ít khoan dung. Đỉnh nghe nói cũng là người đọc sách, không làm điều gì sai trái, là một bậc phu tử trong làng, được Tôn Cố khen ngợi. Miễn có học hạnh, cùng đỗ đạt với tôi, sau khi đỗ đạt, vì mẹ già nên không ra làm quan, chịu nghèo suốt 20 năm. Đầu niên hiệu Nguyên Hựu, triều đình triệu ra từ chức trí sĩ, là người thuần tĩnh, đoan chính, không cẩu thả, Cố Lâm biết rõ.” Lưu Chí đánh giá ba người như vậy. Ban đầu, Thân và Đỉnh đều được tiến cử làm quan ngự sử, Lưu Chí nói với các quan chấp chính: “Thân là người tôi từng tiến cử, theo lệ nên tránh. Đỉnh e rằng không hợp với lòng người.” Nhưng cuối cùng vẫn dùng Đỉnh, còn Thân vì Lưu Chí nên đổi sang chức khác.
[47] Trước đó, Trung thư Xá nhân Hàn Xuyên tâu: “Hoàng Đình Kiên vừa được bổ làm Khởi cư Xá nhân, xét thấy chức vụ Tả Hữu sử là chức thanh cao, địa vị quan trọng, là bậc thứ bổ của thị tòng, nhưng Hoàng Đình Kiên từng có hành vi nhẹ dạ, phù phiếm, vốn không có tư cách của kẻ sĩ, dấu vết tà uế lan tràn khắp nơi.” Xin trả lại chiếu chỉ bổ nhiệm. (Việc trả lại chiếu chỉ xem ngày 18 tháng này.) Lã Đại Phòng nhất định muốn dùng Hoàng Đình Kiên, xin hạ chiếu lại, Thái hoàng Thái hậu nói: “E rằng lại bị trả lại, chi bằng cứ theo lệ mà đổi chức.” Bèn hạ chiếu cho Đình Kiên làm Hành Trứ tác Tá lang. Lưu Chí cho rằng Đình Kiên giỏi văn chương, thích hợp với chức vụ từ dịch, nên triều đình bỏ qua những lỗi lầm khác của ông, chọn người cho chức vụ, để sửa chữa tình trạng văn từ không chấn chỉnh gần đây. Tuy nhiên, lỗi lầm của Đình Kiên chỉ là do tuổi trẻ, nhưng vẫn không được công luận tha thứ, thật đáng tiếc!
[48] Ban đầu, Lý Chí làm Môn hạ Thị lang, từng nói với Lữ Đại Phòng rằng: “Hai tỉnh thiếu quan rất nhiều, e rằng cần sớm bổ sung, Tây dịch nên để Phong Tắc thăng lên.” Đại Phòng nói: “Vậy thì Ly đầu có thể bổ sung Trần Hiên không?” Chí đáp: “Vốn có thể, nhưng vẫn không bằng Khổng Vũ Trọng và Hoàng Đình Kiên cùng bổ sung.” Đại Phòng hỏi: “Ai có thể bổ sung Ty nghiệp?” Chí đáp: “Hiên có thể.” Đại Phòng nói: “Rất tốt, nhưng Đình Kiên e rằng sẽ gây lời bàn tán.” Chí nói: “Hai người này có tài văn chương, nên triều đình dùng họ. Nếu người bàn tán thực sự có lý, triều đình nghe theo lời họ mà bãi chức, cũng không phải là triều đình bỏ rơi người tài.” Bèn soạn danh sách bổ nhiệm: Tắc từ Khởi cư Xá nhân thăng lên Lang, Vũ Trọng từ Ty nghiệp thăng lên Khởi cư Xá nhân, Hiên từ Dực thiện Từ vương phủ thăng lên Ty nghiệp. Danh sách bổ nhiệm đã định xong, hôm đó tối họp[13], Đại Phòng lại nói: “Tắc không bằng thăng thẳng lên Từ dịch, lại để Đình Kiên bổ sung Ly đầu.” Chí nói: “Đây vốn là ý kiến từ trước, rất tốt, sáng mai có thể báo cho các vị biết[14].” Lúc đó là ngày 7 tháng 10 năm thứ 5.
[49] Sáng hôm sau, Lữ Đại Phòng vừa đến Lậu xá, liền triệu tập ba tỉnh. Sau khi ngồi xuống, Đại Phòng mở tờ trừ mục, nói với Phó Nghiêu Dũ: “Tắc nên bổ nhiệm làm Tây dịch, còn lại bổ nhiệm một viên lại nữa.” Hứa Tướng vội đứng dậy, chỉ tay vào tờ trừ mục, nói: “Trần Hiên có thể được.” Đại Phòng ngạc nhiên, đã nghe lời ấy, quay lại hỏi Nghiêu Dũ: “Dùng Hiên để bổ nhiệm sao?” Lữ Chí nghi ngờ có chuyện gì đó, liền nói: “Trước đây không nghe thấy bàn bạc việc này.” Đại Phòng mặt đỏ bừng, nói: “Hiên cũng được.” Hứa Tướng nói: “Hiên đỗ cao, đã chờ chức này hai mươi năm rồi, là cùng khoa với tôi.” Tô Tụng cũng nói: “Hiên có văn tài, từng cùng làm quan với tôi.” Chí vốn nghe Nghiêu Dũ và Hứa Tướng nhiều lần nhắc đến Hiên với Đại Phòng, mà Đại Phòng đã ngầm đồng ý. Đến lúc này, bị Hứa Tướng đột ngột đề xuất, ép dùng Hiên, nên Đại Phòng tức giận, không biết nên đồng ý hay từ chối, đành miễn cưỡng chấp nhận. Nghe lời Chí nói, Đại Phòng lại không khỏi nổi giận, nên lộ ra sắc mặt. Sau đó gọi ban vào điện, Chí nói với Đại Phòng: “Quên việc bàn về Hoàng Đình Kiên hôm qua rồi sao?” Đại Phòng chỉ há miệng mà thôi. Khi vào chầu, Nghiêu Dũ muốn đưa tờ trừ mục ra, Đại Phòng liếc nhìn nói: “Chưa cần đưa lên.” Xuống điện, Đại Phòng nói với mọi người: “Đợi bàn bạc về Hoàng Đình Kiên.”
[50] Ngày hôm sau, lại họp bàn việc bổ nhiệm chức Lý đầu. Lữ Đại Phòng bị Lưu Nghiêu Du và tướng sĩ ép buộc, quyết định dùng Trần Hiên. Lưu Chí bảo rằng: “Chức quan này không giống các chức khác, nếu không chọn người phù hợp, lúc mới bổ nhiệm chưa thấy được đúng sai, nhưng sau một thời gian thăng chuyển, sẽ lộ ra tệ hại. Ai chẳng có bạn đồng niên, ai chẳng có người cùng quê, nhưng với danh khí quốc gia, có thể tùy tiện mà không chọn lựa sao?” Đại Phòng cười nói: “Ông vẫn còn phân biệt người phương Nam, người phương Nam như Trần Hiên, cũng có thể dùng được.” Chí đáp: “Không phải phân biệt. Những người trước đây bàn bạc như Khổng Vũ Trọng và Hoàng Đình Kiên, chẳng phải đều là người phương Nam sao? Trần Hiên không phải không dùng được, chỉ sợ không hợp với chức này thôi.” Chí đoán Đại Phòng đã quyết tâm, bèn nói: “Nay nếu bất đắc dĩ phải dùng Trần Hiên, nhưng khiến tướng công khó xử trong việc bổ nhiệm. Vừa muốn hợp ý mọi người, lại phải chiều theo tình cảm, thật không dễ dàng.” Đại Phòng mặt đỏ bừng, cười lớn nói: “Thôi thôi, cứ làm vậy đi.” Nhưng cuối cùng vẫn chưa xong.
(Phong Tắc ngày 26 tháng giêng năm thứ 6 vẫn từ chức Hữu sử được thăng làm Thiếu thường, vì việc bổ nhiệm này không được trình lên.)
[51] Hơn một tháng sau, Đại Phòng lại nói với Chí: “Chức Lý đầu đã khuyết lâu, phải xong việc này.” Chí đáp: “Đúng vậy.” Đại Phòng hỏi: “Hay cứ theo quyết định trước đây?” Chí nói: “Không nhớ là ai.” Đại Phòng hỏi: “Hoàng Đình Kiên và Khổng Vũ Trọng, ai có thâm niên hơn?” Lại nói: “Trần Hiên có thể làm Tư nghiệp ở Quán chức cũng hợp lý, còn Sầm Tượng Cầu cũng làm Tư nghiệp tốt.” Chí nói: “Tượng Cầu tuy tốt, nhưng vừa đến Đài, không có lý do gì để chuyển đi ngay.” Đại Phòng nói: “Cứ dùng Trần Hiên.” Chí chỉ ậm ừ. Đại Phòng lại nói: “Chỉ là khó đảm bảo.” Chí bèn nói: “Xin hãy cân nhắc thêm.” Sau đó cả ba người đều không được thăng chuyển.
(Lúc này Đại Phòng tuy muốn bổ nhiệm Trần Hiên làm Tư nghiệp, nhưng cuối cùng không làm, đến ngày 2 tháng 3 năm thứ 6 mới từ chức Dực thiện thăng làm Bí hiệu, ngày 8 tháng 7 bổ nhiệm làm Khởi nhân.)
[52] Đến lúc này, nhân việc thực lục hoàn thành (tháng 3 năm thứ 6), bắt đầu dùng Đình Kiên làm Khởi cư xá nhân, sau đó lại bãi chức (ngày 28 tháng 3). Sau bốn tháng, Vũ Trọng mới cùng Hiên cùng làm Tả hữu sử (ngày 8 tháng 7, Vũ Trọng lấy chức Tập hiệu, Ty nghiệp kiêm Thị giảng được bổ làm Tả sử, Hiên lấy chức Bí hiệu, Dực thiện được bổ làm Hữu sử. Đoạn này chủ yếu dựa vào nhật ký của Lưu Chí để tu bổ, có thể thấy việc bổ nhiệm quan chức lúc bấy giờ không dễ dàng. Việc định chức Tả hữu sử từ tháng 10 năm thứ 5, đến tháng 7 năm thứ 6 mới quyết định).
[53] Ngự sử trung thừa Triệu Quân Tích tâu: “Sứ thần và phó sứ của nước Cao Ly, nước Tam Phật Tề vào cống, tự tiện vào xem đấu gậy, các quan hộ tống và tiếp đón theo chiếu chỉ đều được tha tội. Thần nghĩ rằng man di vào cống, các quan phải tuân thủ pháp lệnh, nay các quan hộ tống dám tùy tiện trong đêm xem đèn, công khai vi phạm pháp chế, làm nhục quốc thể, lầm lỗi triều đình, đáng lẽ không được tha.” Chiếu chỉ phạt các quan hộ tống và tiếp đón mỗi người sáu cân vàng.
[54] Lúc đầu, Tô Triệt làm Ngự sử trung thừa, bàn về ba việc liên quan đến việc đắp đê ngăn sông, thứ nhất là xin giữ lại cửa Thanh Phong ở bờ đông, thứ hai là xin giữ lại cửa nước Phi Than ở bờ tây, thứ ba là xin dẹp bỏ các răng cưa ở bờ tây để ngăn nước chảy xiết. Triều đình hạ lệnh cho các giám ty ở Hà Bắc xem xét, chỉ có việc răng cưa là không thể bỏ. Tô Triệt sau khi nhậm chức, ở điện Lư nói với Lã Đại Phòng rằng: “Răng cưa rốt cuộc sẽ xử lý thế nào?” Đại Phòng nói: “Không có răng cưa thì nước không chảy về đông, nếu nước không chảy về đông, dòng chảy phía bắc ắt sẽ gặp tai họa.” Tô Triệt nói: “Chia dòng nước tuy tốt, nhưng làm sao với hàng triệu sinh linh ở Bắc Kinh mỗi năm vào mùa hạ thu thường lo lắng về việc đê vỡ và chết đuối? Hơn nữa, nước chia dòng chảy về đông vào lòng sông cũ, hiện nay lòng sông cũ tuy ở giữa có dòng chảy thông suốt, nhưng hai bên bị bồi lấp nhiều, lợi ích của việc chia dòng cũng không thể kéo dài được.” Lưu Chí nói: “Năm nay mỗi năm đều nạo vét, chính là vì việc này.” Tô Triệt nói: “Bồi lấp một trượng, nạo vét được ba thước, có ích gì? Nếu sau khi nước lũ dâng cao, dốc sức tu sửa đê phòng phía bắc, khiến nó có thể chịu được nước lũ, dẹp bỏ răng cưa, tránh được nguy cấp cho Bắc Kinh, đó mới thực sự là lợi ích.” Chí nói: “Các giám ty ở Hà Sóc đều không nói như vậy, làm sao đây?” Tô Triệt nói: “Quan lại bên ngoài chỉ đứng nhìn mà thôi. Sao lại nói thế? Trương Tảo tuy nói răng cưa nên giữ lại, nhưng lại xin đại tu đê ngang ở Bắc Kinh, chi phí không nhỏ, đó chính là chuẩn bị cho tai họa do răng cưa ngăn nước chảy xiết.” Đại Phòng nói: “Việc sông ngòi rất lớn, khó mà đoán định được.” Tô Triệt nói: “Cả hai bên đều không tận mắt thấy, thì phải dựa vào công luận mà nói.”
Khi đến trước mặt hoàng thượng, Đại Phòng và Chí đều nói việc chia dòng là tiện lợi, Tô Triệt tâu lại lời của hoàng thượng, Thái hoàng thái hậu nói: “Hữu thừa chỉ muốn bàn bạc thêm mà thôi.” Tô Triệt nói: “Triều đình nếu muốn thận trọng, xin đợi sau khi nước lũ dâng, thấy lòng sông cũ bị bồi lấp cao hơn, thì dốc sức tu sửa đê phía bắc, sau đó dẹp bỏ răng cưa, như vậy vẫn còn ổn thỏa.” Khi đến đô đường, Đại Phòng và Chí lệnh phê thánh chỉ, đều theo quyết định của Đô thủy giám. Tô Triệt nói với quan lại trong đường rằng vừa mới tâu xong, xin đợi sau khi nước lũ dâng, sẽ xem xét lại. Chí rất không vui. Đại Phòng biết là không đúng, ý hơi chùng xuống, ngày hôm sau đổi lại chỉ phê không được thêm gì nữa mà thôi.
(Theo 《Long Xuyên Lược Chí》[15] và 《Dĩnh Tân Di Lão Truyện》, phụ vào cuối tháng ba.)
- Trước tiên dẫn 11 giường 《Thực lục》, mỗi giường một hộp sách, hai chữ 'giường' nguyên bản đều viết là 'trạng', theo bản các sửa. ↵
- Tể tướng bên trái một mình tâu việc, chữ 'trái' nguyên bản viết là 'phải', theo bản các sửa. ↵
- Nhưng chỉ dời Thị lang Hữu tỉnh làm đầu hàng bên trái, 'đầu hàng bên trái', bản các viết là 'đầu hàng bên phải'. ↵
- Dụ Trung thư lệnh ngày 16 tiến thục trạng, chữ 'Dụ' nguyên là 'Luận', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại ↵
- 'Cản trở' nguyên văn là 'Cảm', theo bản khác và văn dưới sửa lại. ↵
- Giải thích suốt mấy ngày, chữ 'luỹ' nguyên là 'lai', theo các bản, bản hoạt tự và 《Tây Hạ thư sự》 quyển 29 sửa lại. ↵
- Chữ 'Thần cận' trong 'Thần cận hữu tráp tử' nguyên bản đảo ngược, theo bản trong các các khác sửa lại. ↵
- Chữ 'vi' trong 'bất vi quá' nguyên bản là 'khả', theo các bản khác sửa lại. ↵
- 'xem xét thứ tự thi cử' hai chữ 'khảo thí' nguyên bản đảo ngược, theo các bản và Tống hội yếu tuyển cử 8/36 sửa lại. 'sau', Tống hội yếu viết là 'hậu'. ↵
- không thể cấp 'cấp' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào bản các và 《Tô Đông Pha tập tấu nghị tập》 quyển 9, 《Tái khất phát vận ty ứng phó Chiết Tây mễ trạng》 sửa lại ↵
- Trước đây thần đã tâu xin mua gạo ở nơi gần và thuận tiện 'xin' chữ nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản các và sách trên bổ sung ↵
- Chữ 'Tây Kinh' ban đầu bị đảo ngược. Xét: Nhà Tống tại các bồi đô Tây Kinh, Nam Kinh, Bắc Kinh đều đặt Lưu thủ ty Ngự sử đài, mỗi nơi đặt chức Quản câu đài sự, do quan triều trở lên đảm nhiệm, xem《Tống sử》quyển 164, Chức quan chí, chỗ này 'Kinh Tây' rõ ràng bị đảo, nên sửa lại. ↵
- chữ 'vãn' nguyên là 'hiểu', theo các bản sửa. ↵
- chữ 'lai' nguyên thiếu, theo các bản bổ sung. ↵
- Theo 《Long Xuyên Lược Chí》, chữ 'Lược' nguyên là chữ 'Biệt'. Xét: những điều nói trên, ghi trong 《Long Xuyên Lược Chí》 quyển 7, bàn về việc tu sửa đê vỡ, mà không ghi trong 《Long Xuyên Biệt Chí》, nên sửa lại. ↵