"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 457: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 6 (TÂN MÙI, 1091)

Bắt đầu từ tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 6 đời Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 4 mùa hạ, ngày Tân Mão, Tam tỉnh tâu: “Lại bộ tấu rằng, Phó sứ Cung bị khố là Triệu Tư Phục xin được chuyển qua khảo khóa để thăng chức Phó sứ Tả tàng khố Tây Kinh, rồi chuyển lại cho con trai là Hi Nguyên, đang giữ chức Tam ban sai sứ, được thăng lên chức Tá chức.” Chiếu chỉ: “Vì Tư Phục là hậu duệ của Triệu Phổ, nên đặc cách cho phép chuyển lại, người khác không được viện dẫn làm tiền lệ.”

[2] Khởi cư lang, quyền Trung thư xá nhân Tôn Thăng tâu: “Từ trước đến nay, các quan lại được thăng chức hoặc là do có công lao, hoặc là do được ủy nhiệm. Nay Văn vừa mãn tang, được bổ nhiệm vào chức vụ nhàn hạ, từ chức Trực Long đồ các thăng lên chức Tu soạn Tập hiền điện, không phải do công lao, cũng không phải do ủy nhiệm, e rằng không phù hợp với ý nghĩa trọng danh khí của triều đình.” Chiếu chỉ ban hành mệnh lệnh.

(Ngày 26 tháng 3, Văn được bổ nhiệm làm Tu soạn.)

[3] Thượng thư tỉnh tâu: “Hộ bộ tấu xin rằng, tất cả các lộ vận chuyển hàng hóa đến kinh đô, nếu người phụ trách vận chuyển gặp sự cố hoặc bị thay thế đột xuất, thì lập tức cử người dự bị trên bờ quản lý, đưa đến Ty bài ngạn Tứ châu để bàn giao, không được giữ lại, mà phải đưa về bến kinh đô; vẫn cấp giấy thông hành dịch trạm như cũ, nhưng không được chi trả phí tổn dừng chân. Những người dự bị của các lộ được cử quản lý đoàn vận chuyển, phải đến giao cho Chuyển vận sứ của lộ tương ứng.” Được chấp thuận.

(Bản mới không có đoạn này.)

[4] Chiếu bãi việc ngự giá đến Kim Minh Trì, Quỳnh Hoa Uyển năm nay. Trước đó, Lã Đại Phòng cho rằng việc thi cử ngự thí làm cản trở yến tiệc mùa xuân[1], xin tổ chức hội thưởng hoa câu cá để tuân theo lệ cũ. Có chiếu định ngày 26 tháng 3, nhưng trời âm u liên tục, khí trời lạnh giá, hoa chưa nở, nên chọn lại vào khoảng đầu tháng 4. Đến khi sắp đổi ngày, trời vẫn rất lạnh, Cấp sự trung Chu Quang Đình dâng sớ xin bãi yến. Lã Đại Phòng chưa đồng ý, nhưng khi vào chầu, Thái hoàng thái hậu dụ chỉ: “Thiên ý không thuận, nên bãi yến.” Mọi người đều kính phục. Một hôm, Vương Nham Tẩu tâu việc xong, nhân tiện nói: “Hôm qua thấy Tam tỉnh nói đã có chỉ bãi hội thưởng hoa câu cá, việc này rất tốt, mọi người cho rằng bệ hạ kính trọng thiên ý, rất đáng mừng. Nay vào hạ mà trời vẫn lạnh, thiên ý không thuận, bệ hạ đều không xem nhẹ, đó là việc lớn tốt đẹp.” Thái hoàng thái hậu nói: “Thiên đạo sao dám xem nhẹ!” Nham Tẩu nói: “Từ xưa, bậc quân vương thường lo trên thì xem nhẹ thiên ý, dưới thì xem nhẹ lời người. Nay bệ hạ trên kính sợ thiên ý, dưới kính sợ lời người, đó là việc đức lớn, mong bệ hạ thường giữ tâm này, thiên hạ may mắn lắm thay.”

(Chính mục ghi ngày 2 tháng 4 bãi hội thưởng hoa câu cá.)

[5] Ngày Nhâm Thìn, Tể thần Lã Đại Phòng, Lưu Chí tâu: “Những việc Nhân Tông ghi chép gồm 36 điều, trong đó việc ví dụ cây cột nguy hiểm đứng trước 36 điều, chú thích làm mất ý chỉ của Nhân Tông. Thánh ý cho rằng bậc quân vương ở nơi cao nguy, phải dùng người chính trực, ví như cột nguy hiểm phải dùng gỗ thẳng. Người xưa nói rau tà hảo quân vương không nên ăn, ăn thì không hại gì, nhưng vì tên không chính, huống chi là kẻ gian nịnh!”

(Ngày 1 tháng 3 có thể tra cứu.)

[6] Ngày Quý Tỵ, Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ nói: “Lục Điền nhờ công biên soạn xong 《Thực lục》 được thăng làm Long Đồ các Trực học sĩ. Xét theo lệ cũ không có tiền lệ, sợ rằng khi mệnh lệnh ban ra sẽ gây nhiều lời bàn tán.” Chiếu cho Lục Điền thăng một chức.

[7] Kinh lược an phủ sứ Hi Hà Lan Dân lộ là Phạm Dục tâu: “Tây Phiền A Lý Cốt dâng thư xin ban cho 5.000 cân đồng thục.” Triều đình ban chiếu cấp 1.000 cân đồng thục, lệnh cho Phạm Dục dụ bảo A Lý Cốt rằng đồng thục theo pháp luật nhà Hán vốn bị cấm, nhưng vì ngươi cung thuận nên triều đình đặc biệt ban cho.

(Sách 《Chính mục》 chép: “Ngày mùng 4, ban yến Văn Hỉ.”)

[8] Ngày Giáp Ngọ, nước Giao Chỉ sai người đến cống.

[9] Thượng thư tỉnh tâu: “Phủ Thiểm là nơi giao giới giữa tiền đồng và tiền sắt, người phương Tây đến đây đều phải đổi tiền đồng mới có thể đi về phía đông. Hiện nay dân gian phải dùng 1.700 đồng tiền sắt mới đổi được 1.000 đồng tiền đồng, khiến tiền sắt ngày càng mất giá, tiền đồng ngày càng tăng giá, trăm vật đều đắt đỏ, gây hại rất lớn. Nay muốn cho người đi về phía đông từ châu Thiểm và trấn Giáp Thạch, nếu có thuế vật muốn đổi tiền đồng tại địa phương, thì lấy số tiền thuế nộp làm hạn mức, cho phép đổi 2 phần trong 10 phần. Nếu tiền thuế dưới 1.000 đồng thì cho phép đổi toàn bộ. Dù nhiều, mỗi người cũng không được đổi quá 5.000 đồng. Đối với quan viên đi về phía đông từ châu Thiểm và trấn Giáp Thạch được cấp khoán liệu tiền, cùng quân đội đi về phía đông được cấp khoán liệu tiền, nếu muốn đổi tiền đồng tại châu Thiểm và trấn Giáp Thạch thì cho phép, cứ 1.000 đồng tiền sắt đổi 800 đồng tiền đồng; nếu muốn xuất giao tử tại châu Thiểm và trấn Giáp Thạch để đến Tây Kinh nhận tiền thì cũng cho phép.” Triều đình nghe theo.

(Bản mới bỏ đoạn này.)

[10] Ngày Ất Mùi, ban chiếu khôi phục lại khoa Thông lễ, quy định số lượng người thi đỗ và thể thức khảo thí, lệnh cho Lễ bộ đặt ra quy chế rồi tâu lên. Lại lệnh cho Thái thường tự hiệu đính lại sách 《Khai Bảo Thông Lễ》, gửi đến Quốc tử giám ban hành.

(Sách 《Cựu lục》 chép: “Năm Hi Ninh đổi mới phép khoa cử, khiến sĩ tử hiểu kinh nghĩa, nên bãi bỏ khoa này, nay lại khôi phục.” Sách 《Tân lục》 biện rằng: “《Thần Tông Thực Lục》 đã chép việc bãi bỏ khoa Thông lễ, nay 《Thực Lục》 chỉ chép ‘Chiếu khôi phục khoa Thông lễ’, ý văn đã rõ, không cần giải thích thêm, nên xóa bỏ 20 chữ.”)

[11] Tả Gián nghị đại phu Trịnh Ung tâu: “Trước đây thần sung chức Bắc triều sinh thần quốc tín sứ, thấy triều đình hàng năm dùng ngọc đái tặng cho người Liêu, e rằng lâu ngày sẽ hết. Xin từ nay lệnh cho thợ ngọc ở Hậu uyển chọn ngọc tốt, chế tác ngọc đái mới để dùng hàng năm.” Triều đình nghe theo.

(Chính mục ngày mồng 4 chép: “Chế tác ngọc đái, sung quốc tín.”)

[12] Lại tâu: “Giao mùa đông xuân, âm dương rối loạn, xin chiếu cho các quan cận thần trình bày lợi hại, nói rõ được mất, xét theo kinh truyện, tham khảo xưa nay, để thêm rộng ý thông minh cầu trị.” Chiếu cho Ngự sử đài thi hành.

(Đây tức là việc Lưu An Thế ngày mùng một tháng 5 nói: “Cận thần được phép tâu việc.”)

[13] Hộ bộ Lang trung Lưu Dục làm Kinh Tây lộ Chuyển vận phó sứ, Tả Triều nghị đại phu Phùng Như Hối làm Hộ bộ Lang trung, Giang Nam Đông lộ Chuyển vận phó sứ Hồ Tông Sư làm Hộ bộ Viên ngoại lang, Lợi Châu lộ Chuyển vận phán quan Chu Cấu làm Kim bộ Viên ngoại lang, Tả Triều tán lang Vương Bá Hổ làm Hình bộ Viên ngoại lang, Đô quan Lang trung Lý Khang làm Đề điểm Giang Nam Tây lộ hình ngục, Quyền Đề cử xuất mại giải diêm Tôn Huýnh làm Chuyên thiết Đề cử xuất mại giải diêm.

(Chính mục ngày 12 tháng 10 năm ngoái chép: Tôn Huýnh ở Bộc Châu. Nên khảo cứu.)

[14] Ngày Bính Thân, ban chiếu thương xét hình ngục.

[15] Binh bộ tâu: “Điều phát các quân đi Quảng Nam lộ, phải ước định lộ trình, trong mùa đông phải đến được Lĩnh ngoại. Các chỉ huy được thay thế, phải trở về doanh trong mùa đó, người vi phạm thì quan điều phát bị phạt đồ 2 năm.” Triều đình nghe theo.

(Sách mới không chép.)

[16] Công bộ tâu: “Nhà cửa, cổng, cầu là nơi xa giá đi qua, nếu là điện ngự tọa, mỗi mùa luân phiên ủy thác Thừa, Bạ điểm kiểm. Nơi nào hư hỏng thì bộ phận phụ trách tu sửa.” Triều đình nghe theo.

(Sách mới không chép.)

[17] Ngày Đinh Dậu, Hi Hà Lan Dân lộ Kiềm hạt Lý Tường thăng làm Bản lộ Đô kiềm hạt.

[18] Hình bộ và Đại Lý tự tâu: “Các văn thư được giáng xá truyền đi bằng ngựa trạm, mỗi ngày đi được 500 dặm. Những việc liên quan đến ngoại giới hoặc quân cơ, cùng các văn thư về trộm cướp khẩn cấp thì truyền đi bằng chân trạm khẩn, mỗi ngày đi được 400 dặm. Nếu không có chân trạm khẩn, thì các văn thư khẩn cấp và về trộm cướp truyền đi bằng ngựa trạm, mỗi ngày đi được 300 dặm. Vi phạm thời hạn chưa đầy một giờ thì đánh 50 roi, một giờ thì đánh 80 trượng, một ngày thì đánh 100 trượng, hai ngày thì tăng thêm một bậc, tội nặng nhất là đi đày 3 năm. Nếu gây ra việc trọng đại bị bỏ sót thì tâu lên xin xử lý. Các văn thư thường lệ truyền đi bằng chân trạm, mỗi ngày đi được 200 dặm. Vi phạm thời hạn[2] thì giảm năm bậc so với ngựa trạm. Những người thuê mướn hoặc đổi chác để truyền đạt văn thư, đều bị đánh 80 trượng. Nếu vì thế mà ăn cắp, giấu giếm, hủy hoại, mở trộm, hoặc trì hoãn văn thư, thì đều giảm một bậc so với tội của phạm nhân chính.” Đều theo đó.

[19] Lễ bộ tâu: “Quảng Châu lộ Tri châu Lộ Xương Hoành tâu xin: Từ nay trừ các nước Bắc triều, Hạ quốc, Cao Ly ra, muốn lệnh cho các sứ giả nước ngoài đến tiến cống, nếu gặp các quan Giám ty, Suý thần, thì các trạm dịch phải bố trí chỗ ở cách biệt.” Đều theo đó.

[20] Trước đó, Xu mật viện tiến cử Vương Sùng Chửng, Hùng Châu đoàn luyện sứ, làm Long Thần vệ tứ sương đô ngu hậu; Tào Tụng, tri Đại Châu, làm tri Hùng Châu; Lý Lượng, tri Bảo Châu, làm tri Đại Châu; Hình Tá Thần, tân Đại Danh phủ lộ phó tổng quản, làm tri Bảo Châu. Sau khi nhận được chỉ dụ, tại Đô đường họp bàn về hai bản phong của hoàng đế, một truy phong cho Sùng Chửng, một truy phong cho Tá Thần, nhưng chưa được thi hành, cần phải tiến trình lại.

Khi vào chầu, chiếu chỉ rằng Sùng Chửng ở Hùng Châu chưa lâu, nay triệu Kinh Nguyên kinh lược sứ Lưu Thuấn Khanh về nhận chức Hoàn vệ, và lấy Phạm Tử Kỳ, tri Hà Dương, thay thế Thuấn Khanh. Mọi người đều không dám nhận, Lã Đại Phòng xin tiến trình lại. Chiếu lại dụ Xu mật viện rằng: “Tá Thần chỉ biết nói chuyện tầm phào, không có tài cán gì, nên theo lời xin của ông ta, cho về hưu.” Đối lại rằng vì từ chối nên cho về hưu, không có lý như vậy, đợi tiến trình lại.

Sau khi lui ra, Vương Nham Tẩu nói với Hàn Trung Ngạn: “Việc này cần phải tranh luận mạnh mẽ.” Đại Phòng nói: “Nếu tiến trình lại, bất đắc dĩ thì cho Tử Kỳ trực tiếp làm tướng ở Bình Lương cũng không sao.” Nham Tẩu nói: “Tên tuổi đến từ nơi không chính đáng, không thể giao ngay, cần phải hạn chế một chút.” Đại Phòng vội nói: “Cũng chưa thấy được.” Trung Ngạn nói riêng với Nham Tẩu: “Mọi người không nói như vậy, ông còn có thể nói, nhưng Vi Trọng không chịu nhận, phải không?” Nham Tẩu và Trung Ngạn quyết định, Bình Lương là vùng biên giới rộng, tuyệt đối không thể giao nhẹ nhàng cho người khác, Tử Kỳ chưa từng thử làm tướng, sợ sẽ làm hỏng việc nước, không thể hối hận được.

Hôm đó trước khi vào chầu, Nham Tẩu lại nói với Đại Phòng: “Ông cần phải coi trọng Bình Lương.” Đại Phòng nói: “Đúng vậy.” Sau đó tiến trình tấu báo từ Diên An, giặc Tây nhiều lần xâm nhập, cướp người và ngựa, nên xin tạm giữ Thuấn Khanh ở Kinh Nguyên, đợi việc biên giới ổn định rồi bàn tiếp. Thái hoàng thái hậu nói: “Hoàn vệ không thiếu người lắm, nên để ông ta ở Vị.” Đại Phòng lại nói: “Tử Kỳ đợi khi nào có chỗ trống tướng thì bổ nhiệm.” Lại tiến trình văn tự của Tá Thần, muốn không cho phép ông ta từ chối. Theo đó. (Theo 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》. Ngày 2 tháng 3, Hình Tá Thần được bổ làm Đại Danh tổng quản, cần xem việc giặc Tây xâm lược Diên An, nên ghi lại việc này, cần xem xét kỹ và chỉnh sửa. Lưu Chí chép việc này, so với Nham Tẩu chi tiết hơn, cần chỉnh sửa riêng, nay tạm ghi ở đây: Ngày 4 tháng 4, danh sách bổ nhiệm, Xu mật viện tiến cử Vương Sùng Chửng quản quân, cùng tiến trình phê duyệt. Xu mật viện lại đề cử Tào Tụng làm Hùng Châu, Lý Lượng làm Đại Châu, Hình Tá Thần làm Bảo Châu. Sau khi họp ở Đô đường, nhận được chỉ dụ, bốn bổ nhiệm đều chưa được thi hành, cần tiến trình lại. Sùng Chửng quen thuộc việc người, khéo léo phụng sự, nên được tiếng tốt; Tá Thần có tài tướng, nhưng đã già yếu, thường lui tới nhà Lộ công, Ngụy công, Lỗ công, tuổi đã hơn bảy mươi; Lượng ngay thẳng, tôi từng khuyên ông ta nên cẩn thận.

Ngày 6 tháng 4, tiến trình danh sách bổ nhiệm, Xu mật viện dựa vào chỉ dụ trước đó và liệt kê tên tuổi, xuất thân của những người có thể quản quân, đều không bằng Sùng Chửng. Dụ rằng: “Sùng Chửng có công lao gì? Nghe nói chỉ là quen việc, cần chọn người có công lao.” Xu mật viện xin dùng Tào Tụng, dụ rằng: “Không được. Sao không triệu Lưu Thuấn Khanh về nhận chức?” Tể tướng Vi Trọng cùng vào chầu nói: “Khó tìm người thay thế, hơn nữa biên giới Kinh Nguyên rất quan trọng, sợ không thể rời Thuấn Khanh.” Dụ rằng: “Trước đây Phạm Thuần Túy mãn nhiệm ở Khánh Châu, đều nói không thể rời quận, nay triệu về làm thị lang, sao lại dễ dàng như vậy? Nếu Thuấn Khanh về, có thể bổ nhiệm Phạm Tử Kỳ thay thế.” Mọi người kinh ngạc nói: “Người này tuy có công, nhưng chưa từng làm tướng biên giới, sợ sẽ làm hỏng việc.” Dụ rằng: “Thái hoàng tự dùng người này, không liên quan đến các khanh.” Lại nói: “Hình Tá Thần già yếu vô năng, chỉ thấy được đề bạt, biết gì về việc? Chỉ biết nịnh bợ, sao không cho về hưu?” Sư Phác nói: “Hiện cũng có văn tự xin về hưu, nay khó vì bổ nhiệm mà bắt về hưu.” Dụ rằng: “Bảo ông ta về hưu.” Chí nói: “Đợi xem bản tấu của ông ta, sẽ tiến trình lại.” Tể tướng nói: “Việc quản quân cũng đợi ngày mồng 8 sẽ xin chỉ dụ.” Sùng Chửng, Tá Thần, Chí đều không quen biết.

Xét theo những điều nghe được, đều như lời tuyên dụ. Gần đây thấy Viện Mật thường bàn việc bổ nhiệm các quan tá thần và Đỗ Sư Ích, tá thần không có lý do gì lại đổi từ chức Hoành Hành sang làm Đại Danh lộ Kiềm, vừa từ chối chưa nhận, lại được bổ làm Tri châu Bảo Châu. Đỗ Sư Ích từ chức Tướng quan Kinh Đông được bổ làm Châu Kiềm, rồi đổi làm Lộ Kiềm, lại bổ làm Tri châu Hình Châu, đến đâu cũng không quá nửa năm. Người ngoài cũng bàn tán nhiều, mới biết lời tuyên dụ ắt có cơ sở. Kinh Thi nói: “Cao cao tại thượng, nhật giám tại tư”, há chẳng đáng kính sợ sao? Từ việc Hứa Xung Nguyên trước đây, lúc ấy Chí nhiều lần nói với các quan rằng Thuấn Khanh có thể triệu về làm túc vệ, chọn một văn thần làm tướng giữ Bình Lương. Tả tướng không cho là phải. Nay thấy lời tuyên dụ, tuy trong lòng biết là đúng, vẫn lui ra nói: “Thuấn Khanh e không thể triệu về được.” Việc triệu Phạm Ngũ, sau này nghe nói là do Tiểu Phượng và lời chúc của Phạm Tam, mọi người không biết.

Ngày 7 tháng 4, họp ở Đô đường, Vi Trọng bàn muốn dẹp việc triệu Thuấn Khanh, như vậy thì mọi việc đều không động, chức vụ quân sự cũng không thiếu. Chí nói: “Hoàng thượng nếu hỏi rằng chức vụ quân sự không thiếu, vậy trước đây sao lại bàn việc bổ Sùng Chửng? Như vậy thì là thấy có việc cử Tử Kỳ nên dẹp đi, e không ổn.” Vi Trọng nói: “Tạm như vậy thôi. Nếu không được, thì lấy Chương Tiết làm tướng Vị, Tử Kỳ làm tướng Khánh.” Sư Phác nói: “Việc bổ Chương Tiết, người Khánh còn cho là không đủ sức, huống chi Vị sao được?” Chí nói: “Thái Kinh, Tưởng Chi Kỳ đều có thể làm tướng Vị. Tạ Nhị cũng được.” Vi Trọng, Ngạn Lâm, Tử Do đều nói: “E sẽ bị dị nghị, thêm nữa Tử Kỳ đều không thể thay ba người đó được.” Chí nói: “Vậy rốt cuộc phải làm sao?” Vi Trọng nói: “Bất đắc dĩ thì để Tử Kỳ làm tướng Vị vậy.” Chí nói: “Như thế thì công luận sẽ ra sao?” Ngày 8 tháng 4, tấu việc ở Diên Hòa, được dẹp việc triệu Thuấn Khanh. Tuyên dụ hỏi: “Tử Kỳ có thể làm tướng được không?” Đáp rằng: “Có thể đợi khi có khuyết sẽ xin chỉ.”

[21] Ngày Tân Sửu, Ngự sử trung thừa Triệu Quân Tích tâu: “Xin ban chiếu cho các đại thần phụ tá, từ nay việc bổ nhiệm các chức vụ trong triều, nếu không phải là người tài năng xuất chúng, được mọi người suy tôn, thì không nên dễ dàng tuyển dụng. Nên mở rộng tìm kiếm những người tài năng ẩn dật, không màng danh lợi, để sẵn sàng sử dụng. Những quan lại nào nhân việc xin bổ nhiệm, hoặc khi đến nhậm chức dâng biểu tạ ơn, mà khoe khoang công lao của mình, kêu ca về sự chậm trễ, hoặc xin riêng các đại thần bổ nhiệm chức vụ, rồi oán hận không đủ, lời lẽ ngạo mạn, xin đều giao cho Ngự sử đài xét xử trị tội, rõ ràng cách chức giáng chức.” Chiếu cho Ngự sử đài theo dõi tâu lên, và treo bảng cáo thị ở triều đường.

[22] Trung Thái nhất cung sứ, Quan văn điện học sĩ, Tả Ngân thanh Quang lộc đại phu kiêm Thị độc Phùng Kinh xin nghỉ hưu. Chiếu không cho phép, lệnh ngoài việc giảng kinh, gặp ngày sóc vọng thì đến triều tham dự.

[23] Ngày Nhâm Dần, chiếu rằng: “Từ nay, các việc bổ nhiệm và thăng giáng chức vụ của các tiểu sứ thần do Môn hạ tỉnh chuyển đến, hạn trong ba ngày phải dâng lên, gặp ngày nghỉ thì đưa vào ngày hôm sau. Việc từ tháng nhuận tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ 3, mỗi tuần vào ngày mùng 1 và ngày 6, các điều khoản đã dâng lên thì không cần dùng nữa.”

[24] Hình bộ tâu: “Tể tướng được hưởng ân điển của Đại trình quan, nếu xin đổi bổ nhiệm cho các sứ thần thì giảm hai năm khảo hạch, đại tướng thì giảm bốn năm, người mới nhập lưu thì giảm số năm tháng lẻ.” Theo đó.

[25] Ngày Quý Mão, Tri Khai Phong phủ Phạm Bách Lộc tiến cử Tri pháp tào tham quân Trình Bá Tôn làm Thôi quan.

(Việc này căn cứ vào chính mục. Lệnh bổ nhiệm Trình Bá Tôn, thực lục ghi vào ngày 24.)

[26] Ngày Giáp Thìn, Thượng thư tỉnh tâu: “Tri Bình Ân huyện thuộc Minh châu là Tôn Nhượng xin rằng ruộng đất không có người thừa kế nên nhập vào Quảng Huệ thương, định mức thuế[3], trước hết hỏi người đang canh tác, nếu có hai hộ trở lên cũng cho phép chia nhau canh tác. Nếu không có người canh tác hoặc không muốn nhận canh tác thì hỏi khắp bốn xóm, nếu không ai muốn thì giao cho người khác nhận canh tác.” Theo đó.

(Sách mới không có.)

[27] Tây thượng các môn sứ, Khang châu thứ sử Chủng Nghị làm Đông thượng các môn sứ.

[28] Trước đó, Ngự sử trung thừa Triệu Quân Tích dâng tâu: “Sĩ đại phu không có liêm sỉ, lấy việc chạy chọt cầu cạnh làm thói quen. Người trên tuyển chọn nhân tài cũng dựa vào yêu ghét, siêng năng cầu xin, hoặc cưỡng ép giữ lấy, thường đạt được điều mình muốn, còn những kẻ trầm lặng giữ đạo phần nhiều vì không biết mà bị bỏ sót. Nên ban bố điều cấm, để làm dày thêm phong tục. Nếu có loại người này, hoặc cầu xin oán trách, đều giao cho đài xét xử trị tội.” Hôm đó, các quan phụ chính trình lên: “Xin kiểm tra các điều lệ về việc bổ nhiệm tại triều đình, cùng với quy định về khách tại các viện, dán bảng tại triều đường, lại lệnh cho Hành thủ ty báo cáo cho Đông Tây phủ, các sảnh dán bảng tại nơi tiếp khách.” Được chấp thuận.

[29] Ngày Đinh Mùi, làm lễ triều hiến tại cung Cảnh Linh.

[30] Ngày Mậu Thân, ban chiếu tặng thêm cho quốc vương nước Phất Lâm 200 tấm vải, bình bạc, áo đối, đai lưng vàng.

[31] Ngày Canh Tuất, Hình bộ tâu: “Trước đây, việc vận chuyển lương thực trên sông Ngự Hà được coi là nhiệm vụ khó khăn, sau đó vì đường sông thuận lợi nên đổi thành nhiệm vụ nhẹ nhàng. Nay do đê Tiểu Ngô vỡ, nước chảy vào Hoàng Hà, dòng nước hung hiểm, xin khôi phục lại là nhiệm vụ khó khăn.” Được chấp thuận.

[32] Thượng thư tỉnh tâu: “Các quan viên được nhận ban thưởng, phần nhiều xin xuống Kinh Tây lộ để nhận. Xét Kinh Tây lộ phải lo việc chi phí cho lăng tẩm, phòng chống lũ lụt đã nặng nề, xin từ nay các quan viên được ban thưởng, nếu không phải do sai phái tại Kinh Tây lộ mà được, thì không được phép xin nhận tại Kinh Tây lộ.” Được chấp thuận.

(Sách mới không chép.)

[33] Ty Nông tự tâu: “Xin theo lệnh của Thái phủ tự, các cơ quan không được điều động nhân viên của bản tự, dù có chỉ đặc biệt cũng không được phép giữ lại, cũng cho phép tâu lên mà không phái đi.” Được chấp thuận.

(Sách mới không chép.)

[34] Nhĩ Anh các đọc sách 《Bảo Huấn》, đến đoạn “Bãi chức Bành Thừa làm Khởi cư xá nhân, vào tạ ơn, Nhân Tông bảo rằng: ‘Trẫm biết khanh lâu ở ngoài bổ nhiệm, điềm đạm không cầu tiến, chưa từng tự tiến cử, nên Trẫm trọng dụng khanh.'”

Tể tướng Lã Đại Phòng tâu rằng: “Nhân Tông trọng dụng người điềm đạm không cầu tiến, muốn sửa đổi thói bon chen đương thời. Việc quan trọng của bậc quân chủ là biết người, nên nói ‘Biết người, an dân’. Nhưng biết người là việc khó ngay cả với Nghiêu, Thuấn. Nếu lấy chính là tà, lấy tiểu nhân làm quân tử thì không được. Quân tử được tiến cử thì dẫn người cùng loại làm bạn, sẽ đồng tâm đồng đức mà trị nước; tiểu nhân được tiến cử thì dẫn bè đảng, cùng làm điều ác mà gây loạn. Xưa Đường Hiến Tông bảo tể tướng Bùi Độ rằng: ‘Trẫm ghét kẻ bè phái.’ Bùi Độ đáp: ‘Quân tử, tiểu nhân cùng loại tụ họp, chưa từng có kẻ không đồng bọn. Đồng bọn quân tử cùng làm điều thiện, đồng bọn tiểu nhân cùng làm điều ác.’ Hiến Tông nói: ‘Lời người khác cũng thế.’ Người khác là chỉ tiểu nhân. Lời tiểu nhân cũng thế, bậc quân chủ phân biệt tà chính, biết quân tử, tiểu nhân là việc khó, không thể không xem xét kỹ.”

Thiêm thư Xu mật viện sự Vương Nham Tẩu tâu rằng: “Bậc quân chủ thường giữ lòng khiêm tốn, ý bình đẳng, không thiên vị, xem xét sự việc trên lẽ đạo thì việc đúng sai, người tà chính tự nhiên hiển lộ.”

[35] Vương Trung Chính vì đã hết nhiệm kỳ thứ hai ở chức cung quan, muốn xin được tùy ý cư trú. Lã Đại Phòng, Lưu Chí bàn theo ý ông ta. Đại Phòng nói: “Việc này nên cùng Xu mật viện tâu lên.” Vương Nham Tẩu nói: “Nếu theo ý thì ông ta sẽ đến kinh sư, không được. Hoặc cho ở ngoài nhiệm thì còn được.” Đại Phòng, Lưu Chí cho là phải, Tô Triệt nói: “Như thế là hợp lý.”

(Chính mục, ngày 14 Vương Trung Chính được đề cử làm Đề cử Bạc Thanh. Có thể gộp vào đây.)

[36] Ngày Tân Hợi, quan phiên châu ở Hà Đông lộ là Cao Vĩnh Niên, chức Như Kinh phó sứ, được đặc cách thăng một bậc lên làm Trang trạch phó sứ, sung chức Đô tuần kiểm tộc A Nhĩ ở Lân châu, lại được ban thưởng trang trạch xong, lại ban thêm 50 quan tiền. Trước đó, Phạm Thuần Nhân, quan coi Hà Đông lộ, tâu rằng: “Vĩnh Niên hiểu biết sơ lược về văn lý, xin cho ông ta mang sách vở đến kinh đô, xin được đổi sang chức quan của người Hán.” Vì không có tiền lệ, nên có mệnh lệnh này.

[37] Chiếu cho Tông thất đỗ tiến sĩ, Tả Thừa nghị lang Tử Y được thăng một chức.

(Tử Y là con ai, cần tra cứu.)

[38] Trung thư xá nhân Hàn Xuyên tâu: “Theo chiếu, xin theo lời thỉnh cầu của Tiết Thiệu Bành, ban cho Tiết Hướng hai chữ làm tên bia, giao cho thần soạn. Thần nghĩ rằng triều đình ban tặng tên bia để vinh danh đại thần, ắt phải có công lao và đức nghĩa, không phải để đáp ứng yêu cầu của con cháu. Tiết Hướng tuy từng giữ chức chấp chính, nhưng chỉ là bề tôi lo việc tài lợi, không được dư luận đánh giá cao, xin bãi bỏ việc ban tên bia, và từ nay về sau không cho phép các quan lại xin tên bia. Những người có công đức lớn, do triều đình đặc cách ban tặng; hoặc giao cho Tam tỉnh xem xét những người xứng đáng, tâu lên xin chỉ dụ.” Được chấp thuận.

[39] Lễ bộ tâu: “Hàng năm trong các yến tiệc ban thưởng, cần dùng khoảng 450 cân vú dê, ngoài ra còn có các yêu cầu khác không kể. Việc dùng những thứ này không cấp thiết, mà lại làm tổn hại nhiều sinh mạng, thật đáng thương xót. Xin theo lệ cấm dùng thịt dê con, ngừng cung cấp, thay bằng vật khác.” Được chấp thuận.

[40] Hộ bộ lang trung Diệp Thân được bổ làm Tả ty lang trung. Tả Gián nghị đại phu Trịnh Ung và Hữu Chánh ngôn Diêu Miễn tâu: “Thân trước đây từ chối chức Điện trung thị ngự sử, mà nay lại được bổ làm Tả ty lang trung, điều này không hợp lý.” Sau đó, Thân cũng tự xin ra ngoài làm quan, chiếu cho Thân được bổ nhiệm chức khác.

(Việc Thân được bổ nhiệm chức khác là ngày 18 tháng 5 năm Bính Tý, nay ghi chung. Ngày 28 tháng trước, Thân được bổ làm Điện trung, trong Chính mục ngày 14 ghi Thân làm Tả trung.)

[41] Tả Triều tán đại phu Lữ Hi Tích được bổ làm Đô quan viên ngoại lang, Tả Triều phụng đại phu Lữ Hi Triết được bổ làm Binh bộ viên ngoại lang.

(Hai người họ Lữ vì tang lễ của Lữ Công Trứ đã mãn, nên được bổ nhiệm. Chính mục ghi ngày 14.)

[42] Hôm đó, ba tỉnh và Xu mật viện cùng tâu việc,

Thái hoàng thái hậu tuyên dụ rằng: “Vì việc chọn hoàng hậu, đã xem qua hơn trăm nhà, rất khó tìm được người thích hợp. Nay muốn chọn nhà Địch Tư, có vẻ khả thi.” Lã Đại Phòng nói: “Địch Thanh là bậc huân thần, gia đình tốt.” Thái hoàng thái hậu nói: “Còn có hai việc cần bàn bạc[4], việc này không thể sai lầm.” Vương Nham Tẩu nói: “Bệ hạ cẩn trọng như vậy, rất tốt. Không biết có điều gì nghi ngại?” Thái hoàng thái hậu nói: “Một là, con gái là con thứ; hai là, mẹ đích hung dữ, con gái mới ba tuổi đã đuổi mẹ đẻ, nay nuôi ở nhà bác, nên coi mẹ đẻ là cha mẹ hay người nuôi dưỡng là cha mẹ?” Đại Phòng nói: “Chỉ cần coi là con gái Địch Vịnh, để Địch Tư làm chủ hôn là được.” Thái hoàng thái hậu nói: “Ba tuổi đã qua nhà khác, nếu có thể sửa đổi[5], lại là con thứ có được không?” Đại Phòng không biết trả lời thế nào. Vương Nham Tẩu nói với Lưu Chí: “Theo lễ, phải là con do vợ chồng sinh ra.” Đại Phòng và Chí cùng tâu lên, Thái hoàng thái hậu nói: “Nên làm văn bản dâng lên.”

Sau khi xuống triều, Nham Tẩu vội nói với Chí: “Ba mẹ, nhiều đầu mối, không tiện.” Lại nói với Đại Phòng: “Trong 《Thông lễ》 quy định rõ con do vợ chồng sinh ra.” Hàn Trung Ngạn nói: “Hôm trước bổ nhiệm Tư làm Định Kiềm, không cho đi, chắc đã có ý này, không lạ gì người ngoài đều nói.” Đại Phòng nói: “Tư đã thành vương rồi.” Ở Đô đường bàn bạc, Đại Phòng hỏi Tô Tụng: “Còn có chuyện gì khác không?” Tụng nói: “Nhà Đường không có việc cưới hoàng hậu, phần nhiều do phi tần tiến cử.” Nham Tẩu nói: “Do phi tần thì không bàn, chỉ bàn việc cưới hoàng hậu phải chính đáng.” Đại Phòng nói: “Thời Xuân Thu cầu hậu, cũng chọn con của thiếp.” Nham Tẩu nói: “Nay sĩ đại phu cưới vợ, cũng phải chọn con đích.” Đại Phòng nói: “Nếu bất đắc dĩ, thì đành chịu.” Nham Tẩu nói: “Với sự hưng thịnh của quốc gia, sao nên làm việc bất đắc dĩ?”

Trung Ngạn nói: “Đem chuyện cũ trình lên, để ý chỉ của bệ hạ được thông suốt.” Nham Tẩu lại nói với Đại Phòng và Chí: “Ba mẹ sau này cần được gia ân, tướng công nên suy nghĩ.” Tụng nói: “Triều đình xử lý xong rồi thì sao?” Chí nói: “Mẹ con không có đạo tuyệt, triều đình sao cấm họ ra nhận con gái đẻ?” Trung Ngạn nói: “Hãy bàn việc trước mắt.” Nham Tẩu nói: “Sao không lo cho ngày sau?” Đại Phòng nói: “Nếu tuyên dụ hai ba nhà, còn có thể chọn, nay chỉ một nhà này, chắc ý chỉ đã quyết.” Nham Tẩu nói: “Trong màn, bệ hạ hỏi chấp chính, không thể không nói hết.” Đại Phòng nói: “Không dám không đối đáp chính đáng.” Nham Tẩu bèn lấy 《Thông lễ》 thiên Vấn danh chỉ đáp văn, đưa cho mọi người xem và nói: “Con gái thần do vợ chồng sinh ra, đã liệt kê ba đời, lại liệt kê ngoại tổ.” Đại Phòng nói: “Chỉ cần thêm câu ‘con của thiếp’.” Lại nói với Tụng: “Nên tìm thêm lệ lập con thứ.” Lại nói với mọi người: “Nên mỗi người xem xét chuyện cũ, ngày mai họp bàn, ngày kia dâng lên, việc này không thể chậm trễ.”

[43] Hôm sau, Trung Ngạn đưa truyện về Minh Đức hoàng hậu cho Đại Phòng xem và nói: “Mẹ đẻ của Minh Đức là Trần thị, mẹ chính thất là Ngô thị, quốc sử đều ghi chép đầy đủ.” Đại Phòng vui mừng nói: “Có được ví dụ này rất tốt, lại là của triều đình ta.” Nham Tẩu nói với Đại Phòng: “Đây là lễ cưới phi tần, không phải là ví dụ, hơn nữa lại là phi tần thứ hai.” Đại Phòng im lặng. Nham Tẩu lại nói: “Chỗ nào lòng người chưa yên, không dám không nói hết.” Tô Triệt nói riêng với Nham Tẩu: “Ý Vua đang nghi ngờ, nếu tìm cớ để thành sự, có được không?” Nham Tẩu đáp: “Việc này quyết không thể theo.” Lại viết thư cho Chí rằng: “Việc này ngài nên suy nghĩ sâu về ý nghĩa trong 《Lễ Kinh》 nhất định phải liệt kê ngoại tổ, há chẳng phải là tinh tế sao! Điều này không thể không coi trọng. Nếu không coi trọng, sau này có thể bị xem nhẹ, hối hận cũng không kịp.” Chí bèn nghe theo Nham Tẩu, chép lại thiên “Vấn danh” trong 《Thông Lễ》, định dâng lên. Hôm sau nữa, Đại Phòng không vào triều, Chí nói với Trung Ngạn: “Nhất định phải liệt kê ngoại tổ.” Trung Ngạn nói: “Mẹ chính thất tức là nhà ngoại.” Nham Tẩu nói: “Đây chỉ là lập ra thôi, không phải là thật.” Nhưng vì Đại Phòng không vào triều, nên không thể dâng lên được.

[44] Hai ngày sau, Lữ Đại Phòng cùng các quan tiến trình chương “Vấn danh” trong 《Thông lễ》 và việc Linh Vương cầu hậu ở nước Tề trong 《Tả truyện》, cùng với truyện về Minh Đức hoàng hậu trong quốc sử. Đại Phòng và Hàn Trung Ngạn đứng đối diện nhau, Lưu Nham Tẩu đứng sau Trung Ngạn. Đại Phòng nói: “Việc tuyển hậu ngày trước, nay đã chuẩn bị các điển cố để tiến trình. Thánh ý nghi ngờ hai việc: con trai có thể xuất kế, nhưng con gái không nên quá phòng, tự nhiên phải sửa lại. Dù 《Thông lễ》 nói ‘con do vợ chồng sinh ra’, 《Tả truyện》 lại nói ‘con của thiếp nếu có’, như vậy con gái thứ cũng được dự tuyển.”

Nham Tẩu nói: “Đây là việc chủ thượng yêu cầu, nhà bề tôi không dám giấu, nên đưa cả con thứ vào để đối đáp, chưa chắc đã chọn.” Thái hoàng thái hậu nói: “Tự nhiên không dám giấu.” Đại Phòng lại nói: “Nếu bất đắc dĩ, cũng phải chọn.” Nham Tẩu nói: “Với sự hưng thịnh của quốc gia, sao lại nói bất đắc dĩ?” Thái hoàng thái hậu nói: “Vốn đã nghi ngờ điều này.” Nham Tẩu nói: “Bệ hạ nghi ngờ là rất đúng.” Đại Phòng lại nói: “Minh Đức hoàng hậu đã phong mẹ là Ngô thị, lại phong mẹ đẻ là Trần thị, điều này đủ để chứng minh.” Nham Tẩu nói: “Đây là việc Thái Tông ở Nam Nha, Thái Tổ cưới phi cho Thái Tông, không phải lệ nạp hậu.” Lưu Chí nói: “Lễ phải liệt kê ngoại tổ.” Nham Tẩu nói: “Nay 《Lễ kinh》 đã nói trước về con do vợ chồng sinh ra, rồi mới kể đến ba đời, kể xong ba đời, lại kể ngoại tổ. Bệ hạ thử xem, đây là ý nghĩa gì?” Thái hoàng thái hậu nói: “Đã như vậy, thì không tránh khỏi phải chọn lại.” Nham Tẩu lại nói: “Đây là việc trọng đại, cần khiến thiên hạ không thể chỉ trích mới tốt.” Thái hoàng thái hậu nói: “Việc này nếu sai, lại không thể hối cải.” Nham Tẩu nói: “Đây là lý do phải trân trọng.”

Đại Phòng lại nói: “Không biết người ngoài đã biết chưa?” Nham Tẩu nói: “Biết thì sao? Người được chọn không phải một nhà, việc chưa định, biết thì sao?” Đại Phòng lại nói: “Không biết đã chọn định được mấy nhà? Xin tuyên thị.” Thái hoàng thái hậu nói: “Chỉ vì khám hôn khó.” Nham Tẩu nói: “Cứ khéo léo tìm kiếm, ắt có người phù hợp.” Tô Triệt nói: “Phải cầu toàn vẹn.” Thái hoàng thái hậu nói: “Hãy giữ lại văn tự.” Đại Phòng cùng các quan lui ra.

[45] Đến mùa xuân năm sau, Thái hoàng thái hậu lại hỏi về việc nhà của Địch Tư. Lữ Đại Phòng vẫn muốn thúc đẩy việc này, nhưng Vương Nham Tẩu kiên quyết nói không thể, nên việc dừng lại.

(Vương Nham Tẩu trong bài “Nạp hậu tất dĩ đích nữ” bàn luận rất chính đáng, nhưng thực lục đều không ghi chép đầy đủ, chỉ vào ngày 2 tháng 8 năm thứ 6 viết sơ lược vài dòng. Nay lấy 《Hệ niên lục》 của Vương Nham Tẩu và 《Hành thực》 của Lưu Chí, chỉnh sửa biên soạn vào, vẫn kèm theo thời điểm bàn luận ban đầu. Theo 《Hệ niên lục》, ngày 2 tháng 3 năm thứ 7, Thái hoàng thái hậu vẫn hỏi về việc nhà của Địch Tư, nay ghi chép cả vào ngày 22 tháng 4 năm thứ 6.)

[46] Ngày Nhâm Tý, ban chiếu ban thưởng cho Nam Bình vương Lý Càn Đức áo gấm, đai thắt, vàng lụa, ngựa yên cương, vì đã dâng cống.

[47] Ngày Quý Sửu, Dương Úy, Viên ngoại lang Bộ Hộ, được bổ nhiệm làm Điện trung thị ngự sử, theo đề cử của Ngự sử trung thừa Triệu Quân Tích. Trước đó, Úy được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử, nhưng bị các quan ngôn luận chỉ trích vì đã phụ họa Lữ Huệ Khanh và Thư Thiện để tiến thân, nên bị cách chức. Sau hơn một năm, lại được dùng lại và thăng tiến thêm. Vương Nham Tẩu gửi thư chất vấn Lưu Chí, nhưng không được hồi đáp. Có người nói: “Úy ban đầu thân thiện với Chí, sau đó Lã Đại Phòng cũng thân thiện với ông ta.” Lúc đó, Đại Phòng và Chí có ý kiến khác nhau, đều muốn tranh thủ sự ủng hộ của Úy. Việc Quân Tích tiến cử Úy thực chất là theo ý chỉ của Chí. Tuy nhiên, cuối cùng Úy lại giúp Đại Phòng đả kích Chí[6].

Theo 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》, 《Thiệu Bá Ôn biện vu》, và 《Cựu lục Triệu Quân Tích truyền》 chỉnh lý, vẫn liệt kê ba sách ở sau. Vương Nham Tẩu nói: “Ngày 26 tháng 4, họp tại Đô đường, Lưu tướng nói: ‘Trung ty tiến cử hai người tài, cần xem xét kỹ Lý Kiệt và Dương Úy. Lý Kiệt muốn đi sứ Hồ Nam, không nằm trong danh sách bàn luận.’ Nham Tẩu nói: ‘Xu hướng của Dương Úy thế nào? Năm ngoái từng được bổ nhiệm làm Sát viện, nhưng bị các quan ngôn luận chỉ trích vì học theo Kinh công, phụ họa Huệ Khanh, ủng hộ Thư Thiện, nên bị cách chức.’ Lã tướng nói: ‘Tinh tinh.’ Rồi bổ nhiệm ông ta. Nham Tẩu cho rằng việc này không thuộc phạm vi của Mật viện, nên không tranh luận. Ngày 7 tháng 5, Nham Tẩu gửi thư nhắc khéo Sân Lão: ‘Trường Sa lại nói trách nhiệm mà thăng tiến thêm, e rằng không dám buông bỏ chuyện trước đây. Lời thỉnh cầu của Nam Dương, ắt phải có cách xử lý.’ Đáp rằng: ‘Không dễ nói ngay được.'”

Trường Sa[7] chỉ Dương Úy, nhưng không rõ lời thỉnh cầu là gì. Nam Dương chỉ Đặng Ôn Bá, lúc đó Ôn Bá xin về quận nhưng không được chấp thuận. Thiệu Bá Ôn nói: “Dương Úy từng làm Giáo thụ ở Vận Châu, khi thi cử ở Nam Kinh, Lưu tướng lúc đó làm Thiêm phán Nam Kinh, giám thí, thấy Úy và yêu mến. Lại nhờ con rể của Lã tướng là Vương Đảng gặp Lã tướng, Lã tướng cũng yêu mến, bổ nhiệm làm Viên ngoại lang Bộ Công. Lưu tướng sau khi làm việc ở Tân Châu, không yên lòng, muốn đuổi cả Lã tướng và các quan dưới quyền Tô, chỉ làm việc phục tịch để phòng ngừa hậu họa. Biết Úy có tài, bèn bảo Trung thừa Triệu Quân Tích tiến cử Úy làm Đài quan, muốn ông ta giúp sức, rồi bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử.” Xét: Dương Úy vào tháng 3 năm thứ 5 từ Hiến ty Vĩnh Hưng được triệu về làm Giám sát ngự sử, tháng 5 đổi làm Viên ngoại lang Bộ Công, ngày 24 tháng 4 năm thứ 6, từ Viên ngoại lang Bộ Công lại được bổ nhiệm làm Điện viện. Bá Ôn nói “bổ nhiệm làm Giám sát”, là sai. Việc Lưu tướng bảo Triệu Quân Tích tiến cử Úy, phù hợp với truyện cũ, nhưng có vẻ khác với ghi chép của Vương Nham Tẩu, cần xem xét thêm. 《Cựu lục Triệu Quân Tích truyền》 chép: “Quân Tích từng cùng Lưu Chí đồng liêu, Chí làm tướng, hết sức giúp Quân Tích giữ chức Trung ty, các luận bàn đều theo ý Chí, xin lệnh các quan chấp chính không được tiếp khách, lệnh người Cao Ly mười năm cống một lần, các việc khác đều như vậy.” Truyện cũ chép Quân Tích bàn việc đều theo ý Chí, khá phù hợp với lời Thiệu Bá Ôn nói về việc tiến cử Dương Úy, cần xem xét thêm.)

[48] Tả Thừa nghị lang Trần Thứ Thăng làm Viên ngoại lang Bộ Hình. Tân Viên ngoại lang Bộ Binh Văn Di Khánh được thêm quyền đồng quản câu Quốc tử giám Tây Kinh, do tự xin để tiện chăm sóc người thân.

(Ngày 24 tháng 3 bổ nhiệm.)

[49] Bộ Hình tâu: “Các ty ngục mỗi tuần phải trình bản tường trình về tù nhân lên cơ quan chủ quản để kiểm tra. Ty Đề hình mỗi quý phải báo cáo tình tiết tội danh của các tội nhân bị lưu đày lên Thượng thư tỉnh. Bộ Hình mỗi quý in nhật lịch, ghi chép các công việc đã nhận, cùng danh sách tù nhân hiện đang bị giam giữ, bị truy nã, bị lưu giữ, bị áp giải, và nộp bản sao cho Giám ty châu vào cuối quý. Khi Giám ty tuần tra đến nơi, phải kiểm tra xem có trường hợp nào không nên giam giữ, hoặc xử lý chậm trễ, hoặc ghi chép không chính xác, thiếu sót, thì quan lại đều bị xét hỏi.” Triều đình đồng ý. Trước đó, Giám sát ngự sử Ngu Sách có đề nghị, nên ban hành thành lệnh.

(Không có trong bản mới.)

[50] Ngày Giáp Dần, Bộ Lại tâu: “Con cháu tông thất là Khắc Vũ và con gái của Ký Vương, tuy được phép xin phong hiệu Huyện quân theo lệ, nhưng không được xin ân trạch cho con trai. Những người đã được phong cũng áp dụng theo quy định này. Con gái nếu cha giữ chức Dao thích trở lên, thì được phong hiệu Huyện quân; nếu cha qua đời, con trai được hưởng ân trạch, nhưng nếu trong nhà không có ai hưởng bổng lộc, chỉ được xin cho con trai của mình; nếu đã có người hưởng bổng lộc, chỉ được xin sai phái một lần.” Triều đình đồng ý.

[51] Ngày Ất Mão, Triều tán đại phu, Tri châu Đạo Châu là Chu Diễn được đổi làm Nội tàng khố sứ, Thứ sử Văn Châu, sung chức Đô giám Quảng Nam Tây Lộ kiêm Tri châu Dung Châu, theo lời tâu của Suý thần Tôn Lãm.

[52] Xu mật viện tâu: “Tướng hiệu cấm quân phạm tội bị giáng chức, thì giáng theo thứ tự. Nếu không có khuyết, thì giáng xuống thứ tự tiếp theo.” Triều đình đồng ý.

[53] Bộ Lại tâu: “Những người thuộc tông thất được bổ nhiệm thêm chức, nếu nơi xin thêm chức đã có tông thất đương nhiệm, nhưng sắp mãn nhiệm trong vòng một quý, thì được phép bổ nhiệm, và khi mãn nhiệm, phải báo cho châu huyện chủ quản.” Triều đình đồng ý.

[54] Ngày Bính Thìn, Tả triều tán đại phu, quyền tri Phúc Châu là Kha Thuật tâu rằng: “Dẫn các quan lại trong châu đến đàn Xã Tắc mới tu sửa để tập nghi lễ, thấy ánh sáng mặt trời có quầng kép, một quầng bao quanh mặt trời với năm màu, quầng thứ hai tiếp nối mặt trời với màu vàng thuần.”

[55] Trước đó, Thái sử tấu rằng: “Ngày mùng một tháng năm, mặt trời sẽ bị che khuất sáu phần.” Cấp sự trung Chu Quang Đình dâng sớ xin tu đức để ứng phó với biến cố. Khi Xu mật viện tâu việc xong, Hàn Trung Ngạn tiến lên nói: “Hôm rằm vừa qua, mặt trăng lẽ ra bị che khuất, nhưng do mây mù nên không thấy, điều này đủ chứng tỏ đức lớn của bệ hạ.” Vương Nham Tẩu nói: “Thần được biết ngày mùng một tháng năm, mặt trời sẽ bị che khuất. Nhật thực khác với nguyệt thực, từ xưa các bậc thánh nhân đều rất coi trọng. Kinh Thi có câu: ‘Mặt trăng bị che khuất, đó là chuyện thường. Mặt trời bị che khuất, sao lại không tốt lành!’ Bậc quân chủ thấy thiên biến, cần phải lo sợ tu tỉnh.” Trung Ngạn nói: “Nên tạm dừng lễ thị sóc, chỉ tuân theo chỉ dụ từ trong cung.” Nham Tẩu nói: “Hai triều Hán thường vì nhật thực mà ban chiếu và các chương sớ của quần thần dâng lên, nếu tuyên dụ cho các quan giảng đọc ghi chép đầy đủ rồi dâng lên, bệ hạ thử xem qua, ắt có ích cho thánh đức.” (Điều này căn cứ theo ghi chép của Vương Nham Tẩu ngày 22 tháng tư.) Hai ngày sau, Thái hoàng thái hậu dụ Tam tỉnh rằng: “Nhật thực tháng năm, có thể ban chiếu bãi bỏ triều hội.” Lưu Chí nói: “Thượng thư tỉnh vừa định xem xét rồi tâu lên.”


  1. Lã Đại Phòng dĩ ngự thí phương xuân yến: 'phương' nguyên là 'Phương', theo bản khác sửa lại.
  2. chữ 'nhật giả' nguyên bản đảo ngược, theo các bản khác sửa lại
  3. 'Thuế' nguyên là 'Trình', theo các bản khác sửa.
  4. Còn có hai việc cần bàn bạc 'bạc', bản các các làm 'Nghị'.
  5. Nếu có thể sửa đổi 'khả', bản các các làm 'Hà'.
  6. Tuy nhiên, cuối cùng Úy lại giúp Đại Phòng đả kích Chí: Chữ 'kích' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống sử toàn văn》 quyển 13 và 《Tống sử》 quyển 355, truyện Dương Úy bổ sung.
  7. Trường Sa: Chữ 'trưởng' nguyên bản viết là 'thường', căn cứ theo bản trong các và văn trên sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.