VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 464: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 6 (TÂN MÙI, 1091)
Bắt đầu từ ngày Quý Tỵ tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 6 đời Vua Triết Tông đến hết tháng.
[1] Tháng 8, ngày Quý Tỵ, Trần Thứ Thăng, vừa được bổ nhiệm làm Đề điểm Hình ngục lộ Hà Đông, vẫn giữ chức Viên ngoại lang bộ Hình như cũ.
(Ngày mồng 2 được bổ làm Hiến ty Hà Đông, nay lại làm Viên ngoại lang bộ Hình.)
[2] Trung thư xá nhân Tôn Thăng tâu: “Tả Triều nghị đại phu Vương Bành được bổ làm Hình bộ lang trung. Xét Vương Bành trước đây khi làm Hình bộ lang trung, Ngự sử Lâm Đán đã tâu rằng ông ta gia đình không nghiêm túc, vì thế xin đi làm quan ngoài. Nhân tài như vậy, sao có thể đảm nhận chức vụ quan trọng ở Trung đài?” Chiếu chỉ cho Vương Bành làm Tri châu Châu Châu.
[3] Tam tỉnh tâu: “Lộ Kinh Tây thiếu hụt chi phí tài chính. Tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 4 từng có chiếu chỉ cho Chuyển vận ty và Đề hình ty cùng bàn bạc phân bổ 20 vạn quan tiền từ các trường vụ để cấp cho lộ này, nhưng đến nay vẫn chưa phân bổ xong[1]. Nay tính toán chi phí phụng sự lăng tẩm khoảng 20 vạn quan.” Chiếu chỉ rằng các chi phí tiền lương, vật phẩm, lụa vải cho lăng tẩm, lệnh cho Đề hình ty hai lộ Kinh Tây lần lượt chi trả từ khoản tiền vật phong trang của triều đình cho phủ Hà Nam sử dụng, không được lấy danh nghĩa khác ngoài lăng tẩm để chi tiêu. Nếu vi phạm, sẽ bị xử tội vi chế, không được xét giảm tội dù đã thôi chức hoặc được ân xá. Chiếu chỉ tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 4 không được áp dụng.
[4] Trước đó, Ngự sử trung thừa Triệu Quân Tích tâu: “Thần nghe thiên tử lấy việc tôn phụng trời đất, thần linh, tông miếu, lăng tẩm làm việc trọng yếu, quân thần trên dưới đều nên dốc lòng, dồn sức vào đó mà không dám lơ là chút nào. Thần thấy từ trước đến nay, tài phú hàng năm của Kinh Tây lộ thu vào rất ít, chi dụng lại rất nhiều, thường khổ vì không đủ, phải xin triều đình, sau đó mới tạm đủ chi dùng. Như việc phụng sự lăng tẩm, tạp chi trong đó, vất vả chạy ngược xuôi, thường lo không kịp. Khổng Tử khen đức của Đại Vũ, cho rằng ‘ăn uống đạm bạc mà hết lòng hiếu kính với quỷ thần, mặc áo xấu mà làm đẹp mũ miện’, thì việc thánh nhân phụng sự tổ tiên, thờ phụng thần linh không dám khinh suất là điều có thể biết được. Nay quốc dụng nhiều vô kể, mà lại không thể hết hiếu với lăng tẩm, lấy cái giàu của bốn biển chín châu mà khiến quan lại lo lắng, thường sợ thiếu hụt để lỡ việc lớn, chỉ hàng năm cấp phát, lúc cần thì cho, bất đắc dĩ mà đáp ứng yêu cầu vô cùng, mà chưa thể lập pháp chế, cẩn thận tích trữ, không để lẫn vào kinh phí, để tỏ rõ đạo hết lòng tôn kính. Đây thực là tội của người giữ chức vụ giám sát không thể trên rộng mở sáng suốt. Kính mong thánh từ đặc biệt hạ chỉ, ứng với chi phí tiền vật cho lăng tẩm, đều do triều đình cấp phát cho Kinh Tây lộ chuyển vận ty, lập riêng một khoản quản lý để phụng sự. Thần ước tính mỗi năm không quá hai ba mươi vạn, đối với triều đình chi ra rất ít, mà việc thờ phụng các vị thánh tổ là hiếu đạo rất lớn. Thêm nữa, nếu miễn phụng sự lăng tẩm cho bản lộ, thì không cần đợi ban thưởng hàng năm cũng tự có thể đủ dùng, như vậy là bớt phiền nhiễu xin xỏ của quan lại, làm đẹp đức lớn của minh chủ, thiện ác cách nhau rất xa. Mong hai thánh lưu tâm xét duyệt.” Do đó, thi hành lời tâu của Quân Tích.
[5] Xuống chiếu bãi chức Chính tự của Tần Quan, vẫn giữ chức Hiệu đối sách Hoàng bản. Do Ngự sử Giả Dịch tâu việc lỗi của Quan và Quan tự xin.
(Ngày 21 tháng giêng bổ chức Chính tự.)
[6] Xuống chiếu định ngạch Trực tỉnh quan ở sảnh Tể thần 8 người, sảnh Chấp chính 6 người, không được tăng thêm ngoài ngạch.
[7] Ngự sử đài tâu: “Xin từ nay về sau, các thợ làm việc tại các xưởng Đông Tây chế tạo quân khí, mỗi nửa năm một lần so sánh tiến bộ hay thụt lùi, và hạn đến tháng giữa của quý tiếp theo để thử nghiệm, xem xét thực tế rồi kết thúc. Vẫn cần quan quận thuộc quyền hoặc quan ty khác được ủy nhiệm kiểm tra, tránh thông đồng kéo dài sinh ra tệ nạn. Các nơi khác có việc so sánh tương tự, cũng xin làm theo như vậy.” Vua theo lời tâu.
(Bản mới không có.)
[8] Ngày Ất Mùi, Quyền tri Khai Phong phủ, Long Đồ các Học sĩ Phạm Bách Lộc được làm Hàn lâm Học sĩ kiêm Thị độc, Lại bộ Thị lang, Bảo Văn các Trực học sĩ Lý Chi Thuần làm Quyền tri Khai Phong phủ, Ngự sử Trung thừa Triệu Quân Tích làm Thiên Chương các Đãi chế, Lại bộ Thị lang. Đây là theo ý kiến của Lã Đại Phòng, Lưu Chí. (Ý kiến của Đại Phòng, Chí đã ghi trước vào ngày mồng 4.) Chí cho rằng Bách Lộc hiểu kinh điển, ham học, có văn chương và đức hạnh, ngày mồng 4 tháng 2 năm nay được bổ làm Kinh doãn. Lúc đó Chí đang ở nhà, từ chối ân mệnh xong, nói với Lã Đại Phòng rằng việc Kinh doãn nhiều việc phức tạp, không phù hợp với Bách Lộc, nêu ra điểm yếu của ông, không phải là cách yêu quý và bồi dưỡng nhân tài, nên sớm đưa ông về, nhưng vẫn kéo dài đến nay.
[9] Một hôm, Xu mật viện tâu việc xong, Hàn Trung Ngạn hỏi: “Triệu Quân Tích, Giả Dị bị bãi chức, không biết nguyên do, có phải vì nói về Tô Thức không?” Thái hoàng thái hậu nói: “Đúng vậy, họ đã lấy việc đề thơ để vu cáo Thức. Tiên đế băng hà tháng ba, Thức đề thơ tháng năm, họ lại nói Thức có ý đồ. Như thế này thì người ta làm sao chịu nổi? Việc trước mắt không nói, lại đi tìm chuyện từ lâu để nói, rõ ràng là cố tình bới móc. Ban đầu Giả Dị nói, sau đó Triệu Quân Tích bị Giả Dị sai khiến cũng nói, Thức may mắn không có việc gì, nhưng lại sinh chuyện như thế.” Trung Ngạn nói: “Quân Tích vốn không có chủ kiến, thần từng quen biết ông ta, đại để là không thể trái ý người khác. Nghe nói ông ta còn nói về con gái của Lý Đoan Nguyện gả cho họ Phù, xin đừng để đến nhà họ Lý, việc này cũng có lẽ là do người khác xúi giục.” Thái hoàng thái hậu nói: “Xu mật cũng hiểu việc này. Vả lại, tự mình làm Trung thừa, sao lại khổ sở quản chuyện người khác như thế? Chỉ cần người ta bảo nói là nói.” Vương Nham Tẩu tiến lên nói: “Quân Tích tuy không có chủ kiến, nhưng cũng không phải là người xấu.”
Lại nói: “Nghe nói Giả Dị vừa rồi được bổ nhiệm là do ý chỉ của Thánh thượng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Ban đầu không phải do ai tiến cử.” Nham Tẩu nói: “Người này có tiếng tăm lâu năm.” Trung Ngạn nói: “Bệ hạ cũng chắc là nghe tiếng mà trọng dụng, nhưng lại làm lỡ việc sử dụng của Bệ hạ.” Nham Tẩu lại nói: “Giả Dị được bổ làm Ngự sử ngày ấy, trong ngoài đều khen là đúng. Trước khi đến, các quan lại trăm ty ở kinh sư đều ngưỡng mộ và sợ hãi, quan đài gián khó có người có tiếng tăm lâu năm như thế. Nay bị bãi chức, sĩ luận rất tiếc. Việc thăng giáng người quá nhanh cũng là điều nhà Vua nên thận trọng, mong Bệ hạ lưu ý. Việc bổ nhiệm các chức vụ khác, càng nên thận trọng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Rất nên thận trọng, phải tìm người lão thành.” Trung Ngạn nói: “Nên chọn người trung hậu.” Nham Tẩu nói: “Tìm được người theo đạo trung dung mà dùng, mới tốt.”
(Đoạn này căn cứ theo 《Quân Tích cựu truyện》 và 《Nham Tẩu hệ niên lục》.)
[10] Chiếu rằng năm nay các quan giám địch ở các lộ, nếu thu mua được số lượng đủ để được thưởng, thì đều được tăng thêm một bậc trong mức ban thưởng xứng đáng.
(Sách 《Chính mục》 chép: “Các quan giám địch ở các lộ được ban thưởng.” Ngày 24 tháng trước có thể tham khảo.)
[11] Ba tỉnh và Xu mật viện tâu: “Bàn về sáu lễ cưới hoàng hậu: Mệnh sứ, Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp thành, Cáo kỳ. Lấy tòa Thượng thư cũ làm nơi tạm thời cho hoàng hậu, cử quan chấp chính làm Thái úy giả, quan thị tòng hoặc quan phán tông chính làm Tông chính khanh giả, đều mặc triều phục. Hôm đó, Thái hoàng thái hậu mặc lễ phục, ngự tại điện Sùng Chính, ban hành năm loại sách lễ, quan nội thị trước tiên mang sách Nạp thái và Vấn danh ra cửa Đông theo nghi thức thường lệ, các sách khác đặt tại màn che trong điện Sùng Chính. Quan sứ và phó sứ nhận sách, bưng ra ngoài cửa triều đường, đặt sách lên xe. Quan sứ và phó sứ lên xe theo nghi lễ, đến cửa ngoài nơi ở của hoàng hậu, cùng xuống xe, chủ nhân mặc triều phục ra đón theo nghi thức. Ngày hôm sau, tiến hành Nạp cát, Nạp thành, Cáo kỳ. Nạp thành thêm cốc khuê, ‘Thỉnh kỳ’ theo lễ Khai Bảo đổi thành ‘Cáo kỳ’, đều theo nghi thức như trên. Trước Nạp thái, chọn ngày cáo tế trời đất, ban sách mệnh sứ. Nay muốn cử tể thần làm Thái úy giả, quan chấp chính làm Tư đồ giả, xe và y phục theo nghi thức. Hôm đó, hoàng đế mặc thông thiên quan, áo sa tía, ngự tại điện Văn Đức, cử sứ và phó sứ theo nghi thức. Nghi trượng và vệ binh theo lễ sách phong năm Nguyên Hựu thứ hai. Một ngày trước đó cáo tế tông miếu. Lễ Phụng nghênh mệnh sứ, nay muốn theo lễ Khai Bảo thông lễ đổi ‘Thân nghênh’ thành ‘Mệnh sứ phụng nghênh’, cử tể thần làm Thái úy giả, quan chấp chính làm Tư đồ giả[2], xe và y phục theo nghi thức. Hoàng đế ngự tại hiên, cùng ngày cử sứ và phó sứ, lệnh cho văn võ bá quan đến nơi ở của hoàng hậu đón chào.
Hôm đó, hoàng hậu mặc huy y, ngồi xe trọng trạch, nghi trượng theo lệnh lễ, đi qua cửa Đông Tuyên Đức vào, các quan văn từ đại khanh giám trở lên, các quan võ từ chính nhiệm thứ sử trở lên[3], đứng đón tại cửa Tuyên Đức. Hoàng hậu đến trong cửa, xuống xe vào nơi nghỉ, đổi sang kiệu, đi qua triều đường vào cửa Đông. Hoàng đế mặc thông thiên quan, áo sa tía, ngự tại điện Phúc Ninh, đặt nơi nghỉ lớn của hoàng hậu ở phía nam sân. Ngày hôm sau, theo lễ triều kiến Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu, và tham kiến Hoàng thái phi.” Chiếu theo lời tâu.
(Chính mục: “Ngày mùng 8, kho Nguyên Phong chi vàng bạc hỗ trợ chi phí cho hoàng hậu.”)
[12] Ban đầu bàn định lấy đô đình dịch làm nơi ở tạm của hoàng hậu, Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ tâu: “Đô đình dịch vốn là nơi tiếp đón sứ thần nước Liêu, nay lập hoàng hậu làm mẹ thiên hạ mà trước tiên lại cho ở nơi tiếp đãi sứ thần, như thế không phải là cách để làm gương cho thiên hạ, cũng không phải là đạo lý chính thống của buổi đầu. Xin lấy cựu Thượng thư tỉnh làm nơi ở tạm.” Vua nghe theo.
[13] Tổ Vũ lại tâu: “Khi ban sách, đón rước, cử sứ thần và hoàng hậu vào cung, hoàng đế đều mặc thông thiên quan, áo sa tía. Thần kính cẩn xét: Lễ cưới xưa dùng miện phục, không có ghi chép nào về việc dùng phục sức khác. Thông thiên quan, áo sa tía vốn là để thay thế cho bì biện phục thời xưa. Lễ nghi Đường Khai Nguyên và Khai Bảo thông lễ của triều ta cũng đều dùng cổn miện. Nay ban sách và đón rước cùng ngày, hoàng hậu sẽ là chủ của trời đất, tông miếu, xã tắc, kế tục tiên thánh, há có thể không làm long trọng sao? Kính xin hoàng đế khi ngự hiên ban sách, cử sứ thần, đón rước và hoàng hậu vào cung đều mặc cổn miện, để tăng thêm sự trọng thể cho đại lễ hôn nhân. Kính mong thánh từ ban xuống cho Tam tỉnh, Xu mật viện tham khảo, để hợp với quốc thể và ý nghĩa của lễ kinh tiên vương. Tờ lục hoàng chưa dám ban hành, kính cẩn xin được phong trả lại.”
[14] Thiếp hoàng nói: “Có người bàn rằng trước đây khi ban sách bảo cho Thái hoàng thái hậu chỉ mặc thông thiên quan, áo sa tía, nay lập hoàng hậu mà mặc miện phục thì có điều đáng ngại về sự vượt quá tôn ti. Thần kính cẩn xét: Miện phục là lễ phục tế tự; biện phục là lễ phục trai giới. Vì thế khi trai giới ở Nam Giao thì mặc thông thiên quan, áo sa tía, đến ngày tế lễ mới mặc cổn miện. Miện phục dùng để giao tiếp với thần linh, không phải để thể hiện sự thân thiết. Lễ cưới là để lập chủ của trời đất, tông miếu, xã tắc, có ý nghĩa quỷ thần, âm dương, vì thế mặc tế phục khác với lễ phục thân thiết, tức là không có điều đáng ngại về sự vượt quá tôn ti. Thần cùng Đặng Ôn Bá và các quan đã bàn luận kỹ về việc này. Nay mặc thông thiên quan, áo sa tía thì không có căn cứ lễ nghi. Thần nghĩ rằng đây là đại điển của thánh triều, nếu không có căn cứ theo lễ nghi tiên vương thì không đủ để làm khuôn phép. Xin được xem xét kỹ lưỡng hơn.” Cuối cùng Vua không nghe theo.
[15] Hàn Lâm học sĩ Phạm Bách Lộc tâu rằng: “Thần trộm nghĩ, triều đình bàn bạc việc hôn lễ lớn, sắp cử hành sáu lễ, hợp với ý nghĩa kính trọng của tiên vương. Tuy nhiên, theo lệ cũ của triều đình, thì Thái hoàng thái hậu trước hết ban chiếu, tiếp đó khóa viện tuyên chế, rồi sau mới phát sách nghênh đón. Việc làm hôm nay, có lẽ muốn kết hợp cả lễ cổ và lễ kim. Trong chế thư viết: ‘Nên sai các cơ quan chọn ngày chuẩn bị sáu lễ, sách mệnh để thi hành.’ Nhưng sáu lễ đều thuộc về Thái hoàng thái hậu xưng chế, nếu đã ban chế thư chỉ huy, thì đã tự lập văn, còn việc Thái hoàng thái hậu mặc lễ phục ngự điện, sai sứ truyền mệnh lại ở sau, xét ra có chỗ chưa ổn. Thần trộm nghĩ, hôn lễ phải thông báo xuống, không có mối lái thì không xong. Nay việc chọn dâu đã định trước, mệnh lệnh đã tập hợp, mà lại dùng chế thư trước để tuyên cáo họ tộc của hoàng hậu ra ngoài triều, rồi mới sai sứ mang chế thư đi làm lễ nạp thái, vấn danh, thì lễ văn đảo lộn, dường như mất thứ tự trước sau. Xin từ ngày ban chiếu, cử hành lễ nạp thái, vấn danh; ngày tuyên chế, cử hành lễ nạp cát, nạp thành, cáo kỳ. Tất cả chế văn chỉ theo lệ cũ, sai các cơ quan chọn ngày chuẩn bị lễ sách mệnh, lại xin xét định. Tương lai ban chế chiếu cử hành lễ theo thứ tự, ban giao cho các cơ quan tuân theo, khiến trước sau không mất thứ tự, nền tảng phong hóa đều hợp lý, việc lớn một đời lưu lại đời sau để xem.”
(Nghị này phụ lục để tham khảo.)
[16] Ngày Bính Thân, Hộ bộ tâu: “Tiền vật của triều đình và Hộ bộ phong trang cùng tiền thường bình đẳng bị chiếm dụng trái phép, cùng các cơ quan khác mượn tiền thường bình đẳng để mua vật hộc, nên đối chiếu để chi trả. Những kẻ chưa được phân bổ giá tiền mà tự tiện chi dùng sẽ bị phạt tù hai năm, tiền thường bình đẳng đó cũng không được xóa bỏ dù quan lại đã thuyên chuyển hay được ân xá. Đối với tiền vật phong trang dùng cho quân nhu cấp bách không thể chờ báo cáo, mới được phép mượn, nhưng phải kê khai số lượng và báo lên cấp trên để được cấp hạn trả lại. Nếu dùng để chi tiêu cấp bách ở biên giới, mà đã có tiền vật định sẵn ở châu Định, hoặc triệu tập người vào để tiện lợi, tiết kiệm chi phí vận chuyển mà không gây thiếu hụt, thì phải báo lên Thượng thư tỉnh và bộ này.” Được chấp thuận.
(Thực lục lại chép việc này vào ngày 25 tháng 11, nay bỏ đi.)
[17] Ngày Kỷ Hợi, Giám sát ngự sử An Đỉnh tâu: “Sổ tịch của Tông chính tự có tên là 《Tông phiên khánh tự lục》, xét thấy hai chữ ‘khánh tự’ là tên con của An Lộc Sơn nhà Đường, nay dùng làm tên sổ tịch hoàng tộc của triều đình, thật là sai lầm lớn. Xin đặc biệt đổi tên.” Chiếu đổi tên thành 《Tông phiên khánh hệ lục》.
[18] Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ tâu: “Lưu Thỉnh vừa được bổ làm Chuyển vận sứ lộ Thành Đô phủ, có giao du xấu xa với Thái Xác, việc này các sĩ đại phu đều biết, ắt không thể chính thân dẫn dắt cấp dưới, lại để ông ta thanh tra một lộ, thăng giáng quan lại. Xét theo dư luận, đều cho là không nên.” Chiếu cho Lưu Thỉnh làm Chuyển vận sứ lộ Kinh Hồ Nam. Sau đó, Phạm Tổ Vũ lại dâng sớ trả lại lục hoàng, đổi sai làm Tri châu Bân.
(Lưu Thỉnh, ngày 2 tháng 8 được bổ làm Chuyển vận sứ lộ Thành Đô, chính mục. Phạm Tổ Vũ dâng sớ trả lại từ mệnh của Lưu Thỉnh vào ngày mồng 6. Đổi làm Tri châu Bân, chính mục ghi ngày 22, nay theo thực lục.)
[19] Hộ bộ tâu: “Những người tố cáo, bắt giữ việc buôn bán, mua bán lương thực vận chuyển bằng thuyền, nên được thưởng tiền, và trong ngày hôm đó phải mượn trước từ tiền bán phường trường, theo quy định cũ giám sát thúc giục nộp đủ, đến cuối năm, nếu thu nộp không đủ, thì giao cho Đề hình ty thông báo Phát vận ty dùng tiền lãi để bù đắp số còn thiếu.” Được chấp thuận.
[20] Lại có lời tâu: “Ngự sử đài dâng trạng, xin từ nay các quan văn từ chức Thừa vụ lang trở lên, khi ra vào cửa thành kinh đô, đều phải ghi rõ chức vụ, nhiệm vụ, tên họ, nơi đến, lý do, và cửa thành đó phải báo cáo ngay trong ngày lên Ngự sử đài và các cơ quan liên quan, rồi tâu lên Thượng thư tỉnh.” Được chấp thuận.
[21] Chiếu chỉ cho các cơ quan trong kinh thành rằng: Những người trước đây do thi hành pháp trọng lộc mà nhận hối lộ, lạm dụng quyền lực, dẫn dụ quá mức, cùng những người vi phạm pháp cấp nạp thường bình bị biên phối, đều theo chỉ thị ngày 25 tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 2 mà được tha bổng.
[22] Hữu bộc xạ Lưu Chí tâu: “Thần trộm thấy ngày 12 tháng này, trong cung ban ra tờ tấu của gián quan Diêu Miễn, nói rằng quan chú giải sách 《Tấn thư》 là Đặng Trung Thần tiến cử Lưu Đào làm Kiểm thảo quan, là con của quan tể tướng đương nhiệm. Thần trước đây thấy tờ tấu của Trung Thần tiến cử Lưu Đào là Tiết độ suy quan của Thương châu, con của Lưu Huy mới nhậm chức Tri Hải châu, người Lưỡng Chiết, không phải là thân thích của thần. Nay Miễn nói là con của tể tướng, chỉ Lưu Đào là con thần là Tuyên đức lang Lưu Đạo, ắt là nghe nhầm tin đồn. Kính mong Thánh từ xét kỹ, ban tờ chiếu cho Miễn biết rõ, để tránh việc bàn luận hư không, làm phiền Thánh thượng.”
[23] Lưu Chí tự thuật việc này rằng: “Miễn hôm nay vào chầu, tờ tấu liền được ban ra. Ban đầu, quan chú giải 《Tấn thư》 là Đặng Trung Thần dâng lên Đô tỉnh, xin bổ nhiệm Lưu Đào, Tô Tượng Tiên, Vương Chích, Bạch Thời Trung làm Kiểm thảo quan, tờ tấu gửi đến Bí thư tỉnh. Nay Miễn nói Trung Thần nịnh hót đại thần, tiến cử con cháu của tể tướng, chấp chính đương nhiệm, xin trục xuất. Bởi Tượng Tiên là cháu của Tụng; Chích là con của Nham Tẩu; lại chỉ Lưu Đào là Lưu Đạo. Đây ắt là do truyền đạt nhầm lẫn, không đáng bàn. Nhưng gián quan vào chầu sớm, ắt sẽ có lời bàn luận, mà Thánh thượng chưa biết đúng sai, không thể ngồi yên nhận việc này, nên thần dâng tờ tấu trình bày.”
[24] Chí lại nói: “Trung Thần, người Trường Sa, là môn khách của Vương Khuê, sau khi đỗ đạt, nhờ cơ duyên vào làm việc ở Quán, rồi vì tang mẹ mà từ chức. Hết tang, lại vào Bí thư làm Chính tự, bị người tố cáo nên bị cách chức, đi làm Thông phán ở Doanh Châu. Khi trở về, được sai chú giải sách 《Tấn thư》, hiệu đối bản Hoàng. Trung Thần có học vấn, giỏi văn chương, đặc biệt giỏi viết tạp ký. Gần đây từng chú giải thơ Đỗ Phủ, lại lâu nay để tâm đến sử nhà Tấn, nên sai ông chú giải.” Sau đó có chiếu, dựa vào tờ tâu của Chí giao cho Miễn biết. Lục Hoàng đến Đô tỉnh, Chí nói: “Các chấp chính muốn bỏ tờ tâu này.” Lại tâu lên Trung thư cùng tiến trình, Chí tâu mặt: “Ban đầu thần soạn tờ tâu, chỉ muốn hai cung biết việc sai lầm mà thôi. Nay nếu đưa tờ tâu ra, e rằng sẽ tổn hại đến thể thống của ngôn luận, xin bỏ chiếu này.” Được chấp thuận.
(Việc ngày 16, nay gộp vào đây.)
[25] Ngày Canh Tý, Ty đề hình Kinh Hồ Nam lộ tâu: “Công việc đúc tiền ở tiền giám từ sáng đến tối rất cực nhọc. Những người bị chiêu mộ, đổi ngạch, phạm tội bị thích chữ và phối đày, cùng những người bị trưng dụng từ quân sương, vốn không quen việc, nếu bắt họ học đúc tiền mà thu công toàn phần, e rằng sẽ trì hoãn tiến độ công việc. Xin xem xét từ ngày họ đến làm việc, cấp lương; tạm cho họ học đúc tiền, thu công ba phần; sau 30 ngày, thu công nửa phần; qua một năm, thì thu công toàn phần.” Được chấp thuận.
(Bản mới bỏ.)
[26] Đại Lý tự tâu: “Quan bắt trộm cướp ở nơi có thể cưỡi ngựa, không được đi kiệu.” Được chấp thuận.
(Bản mới không có.)
[27] Hôm đó cầu tạnh.
(Chính mục: Việc ngày 12.)
[28] Ngày Tân Sửu, ba tỉnh dâng tâu việc Ôn Châu phòng ngự sứ, Đề cử Vạn Thọ Quan Tào Bình xin được bổ nhiệm ngoại nhiệm. Lã Đại Phòng và các quan nói: “Em của Tào Bình là Tào Dụ vừa mãn tang, e rằng khó để cùng lúc cho cả hai người bổ nhiệm ngoại nhiệm. Nghe nói trong các anh em, Tào Dụ là người tham lam nhất, hiện nay gia đình họ đang phân chia tài sản chưa xong, xin tạm thời cho một người bổ nhiệm ngoại nhiệm, chưa rõ ý chỉ của Thánh thượng thế nào?” Thái hoàng thái hậu nói: “Nghi Vương có bốn người con, con trưởng là Tào Dụ vốn có tật, không thể đảm đương việc nhà. Vợ của ông ta là Hàn thị tính tình hung hăng, không hòa thuận với các phòng khác. Ban đầu vì trong thời gian để tang mà giấu một chiếc bồn vàng, các anh em bất bình, tố cáo lẫn nhau, việc này đến tai quan phủ.” Lã Đại Phòng và các quan nói: “Nghi Vương mất chưa được mấy năm, trong nhà không thể hòa thuận, đã vội tranh chấp, thật đáng thương xót.” Thái hoàng thái hậu nói: “Nghi Vương tính tình keo kiệt, không biết dạy dỗ con cháu, chỉ lo tích trữ của cải, chứa chấp không biết chán, việc tranh chấp ngày nay há chẳng phải do đó sao! Hơn nữa, tích trữ nhiều của cải chỉ khiến con cháu trở nên bất nghĩa, nếu không tích trữ nhiều, ắt không đến nỗi như vậy. Chỉ cần không tích trữ của cải, con cháu tự nhiên sẽ biết nghĩa.” Lã Đại Phòng và các quan nói: “Thật đúng như lời Thánh huấn, người xưa nói rằng kẻ ngu mà nhiều của cải thì càng tăng thêm lỗi lầm, chính là vì thế. Nay muốn cho Tào Dụ bổ nhiệm ngoại nhiệm, chưa rõ có được không?” Thái hoàng thái hậu nói: “Được.”
[29] Tả gián nghị đại phu Trịnh Ung được bổ nhiệm làm Ngự sử trung thừa.
[30] Cùng ngày, các phụ thần tấu: “Chức Ngự sử trung thừa và Thị ngự sử đang khuyết. Vì Ngự sử Dương Úy có lời tâu, nên cẩn thận chọn người giữ chức này, e rằng các cận thần khéo léo dùng lời nói để dẫn dụ đồng đảng. Vì thế, thần không dám tiến cử.” Thái hoàng thái hậu nói: “Cứ nói xem ai có thể làm được.” Các quan bèn tiến cử Trịnh Ung. Thái hoàng thái hậu nói: “Rất hợp ý của ta. Người này bàn việc vừa phải, chín chắn không hồ đồ.” Bèn dùng ông.
(Việc này căn cứ theo nhật ký của Lưu Chí mà ghi vào. 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》 cũng ghi tương tự. Lại nói: “Triệu Quân Tích, Cổ Dịch công kích Tô Triệt trái ý, Trịnh Ung theo đó mà đả kích, người bàn luận nói: ‘Sẽ soán đoạt.’ Quả nhiên sau đó đúng như vậy.”)
[31] Tả Tàng khố sứ Vương Duy Thuần làm Kiềm hạt lộ Tử Quỳ, quản câu công sự ty An phủ duyên biên Lô Nam, kiêm tri châu Lô.
(Phạm Tổ Vũ nói…, xem ngày 18 tháng nhuận.)
[32] Hộ bộ tâu: “Những người chưa bị kết tội, theo pháp luật tuy không cho phép tố cáo bắt giữ, nhưng nếu hợp lý cần triệu tập người tố cáo bắt giữ, thì cho phép lập mức thưởng tiền, không được quá 50 quan, tội trượng trở xuống không được quá 30 quan. Những việc đã được ân xá nhưng liên quan đến tài sản, lương thực quan trọng cần chứng cứ, thì cho phép quan trưởng xem xét giảm bớt.” Được chấp thuận.
(Bản mới không có.)
[33] Lại tâu: “Nợ vật chất trong hạn 30 ngày, nếu xét thấy phân bổ đều không có gian lận, thì giám thúc phải thu nộp trên 2 phần; nếu chưa đủ, và trong 30 ngày, số còn lại trong hạn 5 ngày phải báo ty Lý Khiếm, theo hạn quý thúc thu nộp. Nếu gặp ân xá được miễn trừ, thì ngoài số phải thu trước ân xá, chỉ căn cứ số phải nộp sau ân xá mà ngừng thúc thu, châu đó phải bảo đảm minh bạch báo lên ty Giám, ty này xét nghiệm xác thực, theo đó tâu lên. Nếu hạn 5 quý vẫn chưa đủ, thì trước tiên ước tính nộp tài sản, sau đó đến lĩnh thụ. Nếu vẫn không đủ, thì bắt người bảo lãnh trong hạn 30 ngày phải đền nộp. Nếu tài sản thế chấp ban đầu cũng không đủ, dù là số nợ trước ân xá, cũng tạm ngừng thúc thu, theo như trên bảo đảm minh bạch tâu lên xin miễn trừ, tức là phân bổ đều và báo ty Lý Khiếm. Nếu vô cớ vi phạm hạn, thì một ngày phạt 100 trượng, 5 ngày tăng một bậc, tội cao nhất là đi đày 2 năm. Số nợ quan vật, vẫn căn cứ ngày tháng phải giám thúc và báo ty Lý Khiếm ban đầu, theo điều khoản xử lý, miễn trừ. Những khoản nợ quan vật ban đầu không có gian lận, chưa từng giám thúc mà gặp ân xá được miễn trừ, thì bảo đảm minh bạch tâu lên Thượng thư tỉnh.” Được chấp thuận.
(Bản mới lược bớt, nói: “Hộ bộ tâu: ‘Xin lập hạn ngày trả nợ quan vật, và điều ước miễn trừ khi gặp ân xá. Nếu cố ý vi phạm, thì định tội theo ngày, tội cao nhất là đi đày 2 năm.’ Được chấp thuận.”)
[34] Ngày đó, Hữu thừa Tô Triệt xin bổ nhiệm ra ngoài, tờ tấu đã dâng lên xong, Triệt lại xin trực tiếp, cũng không được chấp thuận.
[35] Ngày Nhâm Dần, Hộ bộ tâu: “Xin theo lệ cũ, đặt Đô tri tạp ty tại sảnh Thượng thư, chủ trì các công việc vốn thuộc quyền quản lý, nhân viên sử dụng chỉ theo điều lệ trong ngạch tuyển chọn và điều động. Số lượng nhân viên các ty tri tạp thuộc các tào, trừ việc điều động, vẫn giữ nguyên như cũ, quản lý việc tiếp nhận yêu cầu của quan viên bộ này, cùng các việc như ghi chép lịch túc trực, so sánh công tội, các việc tạp vụ, và tiếp nhận, phát hành văn thư. Lại lệnh điều động ba thủ phân, bốn năm thay một lần, việc thăng chuyển theo lệ cũ của Tam ty.” Được chấp thuận.
(Sách mới không ghi.)
[36] Thượng thư tỉnh tâu: “Việc sai dịch ở châu theo lệnh hương, nếu hộ bản đẳng và hộ thứ nhất đẳng không rảnh dưới bốn năm, thì dùng tiền trợ dịch để thuê người có hạnh kiểm tốt, chưa từng phạm tội đồ hình. Nếu tiền trợ dịch ước tính không đủ để thuê người làm việc sắc dịch trong châu, thì trước tiên thuê người ở những nơi dân cư thưa thớt và cần nhiều nhân lực, mỗi người theo thời hạn của dịch vụ, khi mãn hạn, châu đó kiểm tra sổ sách, nếu có hộ rảnh rỗi đủ thời gian, thì sai phái và miễn dịch. Những nơi hộ dân rảnh rỗi từ bốn năm trở lên, không thuộc phạm vi này. Nếu không phải do biên soạn sổ sách và quyết định thăng giáng đẳng cấp của hộ dân[4], mà sai phái và thuê người theo thời hạn, thì giao cho Giám ty tuần tra và cử tội. Các châu hàng năm căn cứ vào số tiền trợ dịch thu được, trừ để lại một phần dự phòng, nếu còn thiếu hoặc thừa, giao cho Đề hình ty điều động trong toàn lộ để ứng phó.” Được chấp thuận.
(Sách mới hơi lược bỏ sách cũ, rất vô nghĩa, nay dùng hoàn toàn sách cũ. 《Chính mục》 ghi: “Ngày 15 thi hành pháp sai dịch.”)
[37] Ngày Quý Mão, triệu tập các quan phụ chính đến vườn sau xem lúa.
[38] Hữu Chánh ngôn Diêu Miễn làm Tả Chánh ngôn, Giám sát ngự sử Ngu Sách làm Hữu Chánh ngôn.
[39] Chiếu cho Tả Triều tán lang, Tân tri Lư Châu Giả Dịch làm Tri Tuyên Châu, Tri Tuyên Châu, Tả Triều phụng lang, Trực Long đồ các Chu Phục làm Tri Lư Châu.
[40] Ngày hôm trước, Ngự sử Dương Úy và Ngu Sách dâng lên hai tờ sớ, đều giao cho Tam tỉnh. Hai người bàn luận việc giống nhau, một tờ nói: Nghe đồn Giả Dịch có tờ sớ lớn, nói về mấy chục việc của Tô Thức và Tô Triệt, tìm cách bãi chức Thừa tạp, bên ngoài không biết nội dung, xin ban hành tờ sớ của Dịch công khai. Một tờ khác là việc tiến cử hôm trước, đều nói việc Dịch được bổ làm quận thái ưu. Úy nói: “Thần ban đầu cho rằng việc bổ nhiệm Dịch là do ý chỉ của bệ hạ, nên không dám tranh luận. Nay được tuyên dụ, mới biết chấp chính cho rằng thay đổi Dịch sẽ động chạm đến nhiều người ở châu, cần bàn luận.” Lại nói: “Được tuyên dụ cho tiến văn tự, lại xin bãi bỏ pháp cấp hoàng điệp cho tri châu, và lệnh ban cáo, để thấy rõ công tội.” Sách nói: “Thần thấy chí của Giả Dịch cứng cỏi, ích kỷ, thần thường ngồi xem chờ hắn tự hủy vì cuồng vọng, nên hắn ít nói chuyện với thần. Việc bàn luận hôm nay, thần không tham gia, nên tiến trình.” Dịch bèn được đổi làm Tri Tuyên Châu.
[41] Lại bàn về việc thiếu quan gián, dụ cho Ngu Sách làm Chánh ngôn, nói: “Người này lại bình ổn.” Lại dụ rằng Vũ Văn Xương Linh có thể làm Thị ngự sử, cùng đối rằng: “Đúng là cựu đài quan. Nhưng xin cho thần đợi xem xét, ngày khác sẽ tiến trình.” Chí riêng nói: “Sách đúng là người đoan chính, nho nhã, nên tiến vào Lưỡng tỉnh. Nhưng xem hai chương hôm nay đột nhiên khác biệt, vội tự phân giải, cho rằng không phải đồ đệ của Dịch, có điều đáng nghi.”
[42] Uý lại nói: “Lý Chi Thuần là người trung hậu, không thể làm doãn kinh. Trước đây ở Lại bộ, sai người được tuyển là Phó Mẫn Chi quản câu hạ ngự ty, là không tuân thủ pháp luật.” Sau khi trình bày xong, Chí nói: “Uý vốn theo học thuyết của họ Vương, thờ Phật. Năm Nguyên Phong làm Ngự sử, đổi làm Thừa ở Tông Chính tự, rồi đi làm Đề điểm hình ngục lộ Tử Châu, sau về làm quan cung. Khi trở về, đi khắp các nơi quan trọng để tự biện minh, thường làm như vậy, trái ý Vương, Thái. Sau một thời gian, làm Lang trung ở tỉnh. Triệu Quân Tích tiến cử làm thuộc hạ, ba lần từ chối vì mẹ già. Sau khi được chấp thuận, Quân Tích lại nói: ‘Một hai quan ở đài đều có mẹ.’ Nên bị điều đi xa. Ban đầu cùng Giả Dịch bàn luận, như nói việc thiên tai, công luận cho là đúng, nhưng khi thấy tình hình biến đổi, lại tìm cách an thân. Trước đây Chu Quang Đình từng kịch liệt phê phán Uý. Than ôi! Tội của Quân Tích thật lớn vậy.” Cuối cùng, Vua dùng Sách và Miễn, cùng làm Tả, Hữu Chính ngôn.
[43] Đại Phòng, Chí sau đó cùng dâng sớ: “Xương Linh là người thanh liêm, thành thật, có thể đáp ứng sự lựa chọn của bệ hạ. Nhưng là người Xuyên, cùng Tô Triệt cùng quê, lại có quan hệ hôn nhân. Trước đây công kích anh em họ Tô rất gấp, từ khi bãi chức Thừa tạp, và Thức ra ngoài làm quan, tình hình mới tạm ổn. Nếu đột nhiên dùng Xương Linh bổ nhiệm làm đài quan, chắc chắn sẽ lại xôn xao, làm phiền thánh thượng. Muốn ngày 18 vào bẩm, nhưng hôm đó cùng tam tỉnh tấu sự, có chỗ trở ngại, nên trước dâng sớ này để báo.” Khi vào chầu, Vua bảo: “Trước đây nói muốn bổ nhiệm Giả Dịch vào chỗ khuyết, không bằng tạm thôi.” Liền tấu: “Đã bổ nhiệm Trung thừa. Theo lệ cũ, hoặc Thừa tạp thay nhau bổ nhiệm, cũng không thiếu việc. Xương Linh đợi ngày khác bàn bạc sai khiển.”
[44] Xu mật viện tâu: “Trung thư tỉnh cho rằng Khang Thức, khi làm Tri Phu châu, đã xử án chết oan, có chiếu đặc cách thay thế. Xét Thức lâu năm ở Hi Hà, hiện là Kiềm hạt lộ này, Tri Dân châu, nay đang là thời điểm phòng thu.” Chiếu cho Thức gia hạn hai năm khảo khóa, lệnh thay thế không thi hành.
[45] Ngày Giáp Thìn, Ty Chuyển vận lộ Hà Bắc tâu rằng: “Trong các điều luật của lộ này, có những điều quá nặng không được giảm nhẹ dù đã bị cách chức hay được ân xá, như tội đào bới ruộng dân khi tu sửa đê điều ở các đoạn sông Hoàng Hà, dù được ân xá cũng không được giảm nhẹ. Khi đê sông Hoàng Hà chưa đến mức nguy cấp mà tự ý huy động dân phu, sẽ bị xử tội vi phạm quy định, dù được ân xá hay bị cách chức cũng không được giảm nhẹ hoặc miễn tội. Xin xóa bỏ các điều khoản này.” Triều đình đồng ý.
[46] Ngày Ất Tỵ, Trung thư xá nhân Hàn Xuyên được cử làm sứ sang chúc mừng sinh thần Liêu chủ thay mặt Thái hoàng thái hậu, Hoàng thành sứ, Thứ sử Khang châu Tí Hổ làm phó. Hình bộ Thị lang Bành Nhữ Lệ làm sứ sang chúc mừng sinh thần Liêu chủ thay mặt hoàng đế, Tả tàng khố sứ Tào Tư làm phó. Lại bộ Lang trung Triệu Xưng làm sứ sang chúc mừng Tết Nguyên đán Liêu chủ thay mặt Thái hoàng thái hậu, Tây Kinh Tả tàng khố sứ Vương Giám làm phó. Tư nông Thiếu khanh Trình Bác Văn làm sứ sang chúc mừng Tết Nguyên đán Liêu chủ thay mặt hoàng đế, Tả tàng khố Phó sứ Khang Bính làm phó. Sau đó, Tí Hổ từ chối không đi, nên cử Tây thượng các môn Phó sứ Tống Cầu thay thế. (Ngày 8 tháng 8 nhuận.) Hàn Xuyên từ chối không đi, nên cử Xu mật đô Thừa chỉ Lưu An Thế thay thế. (Ngày 18 tháng nhuận.) Lưu An Thế từ chối, nên cử Trung thư xá nhân Tôn Thăng thay thế. (Ngày 24 tháng nhuận.) Tôn Thăng từ chối, nên cử Hộ bộ Thị lang Hàn Tông Đạo thay thế. (Ngày 23 tháng nhuận.) Bành Nhữ Lệ từ chối, nên cử Hồng lư Khanh Cao Tuân Huệ thay thế. (Ngày 24 tháng nhuận.) Hàn Tông Đạo lại từ chối, nên lại cử Bành Nhữ Lệ.
(Ngày 24 tháng 9, Bành Nhữ Lệ được bổ làm Lại bộ Thị lang.)
[47] Ngự sử Trung thừa Triệu Quân Tích tâu rằng: “Gần đây được ân điển bổ làm Lại bộ Thị lang, sau đó dâng sớ xin bị giáng chức, nhưng chiếu chỉ không cho phép, mong được bổ làm quan ngoại quận.” Chiếu chỉ bổ Triệu Quân Tích làm Thiên chương các Đãi chế, Tri châu Trịnh Châu.
(Diêu Miễn lại tấu rằng Triệu Quân Tích có quan hệ thân thiết với Củng, lệnh cho Ty Chuyển vận Hoài Nam điều tra, vào ngày 28 tháng 8 nhuận. 《Cựu lục》 chép rằng Triệu Quân Tích vì việc này mà xin ra ngoài, là sai, vì việc ra làm Tri châu Trịnh Châu đã xảy ra vào ngày 18 tháng 8 trước đó.)
[48] Chiếu rằng các tăng nhân quản lý bệnh phường ở Hàng Châu, nếu trong ba năm chữa trị được hơn một nghìn người, thì đặc biệt ban cho áo tía và một đạo độ điệp. Đây là theo lời thỉnh cầu của Tô Thức.
(Sách mới không ghi.)
[49] Chiếu rằng Chương Đôn được phục chức Tả chính nghị đại phu. Trước đây, Chương Đôn vì tội mua ruộng đất ở Tô Châu không đúng pháp, bị giáng một bậc quan chức, đến nay đã mãn hạn nên được phục chức, do đó có chiếu này. Cấp sự trung Chu Quang Đình tâu: “Chương Đôn hung hãn ngang ngược, khinh mạn bề trên, kết giao với gian thần, cưỡng đoạt ruộng đất của dân, là kẻ gian tà tham ô phạm pháp, không nên dùng phép thường để phục chức.” Chiếu rằng Chương Đôn phải chờ thêm một kỳ nữa mới được xét chỉ.
(Chờ thêm một kỳ, tức là đến ngày 22, nay gộp vào chỉ. Giáng một bậc quan chức vào ngày 25 tháng 11 năm thứ 4. Chương Đôn vì tang mẹ vào tháng 5 năm thứ 4, nay đã mãn tang, nên có mệnh lệnh này. Ngày 14 tháng 8 năm thứ 7, cần xét lại.)
[50] Hộ bộ tâu: “Những hộ dân nộp tiền trợ dịch, nếu mua bán ruộng đất thì giới hạn trong 50 khoảnh, ruộng đất vượt quá giới hạn phải nộp tiền dịch theo phép miễn dịch cũ. Những ruộng đất đã vượt quá giới hạn trước khi ban xá, không phải do mua bán sau khi ban xá, thì cũng phải nộp tiền dịch theo phép miễn dịch cũ. Ruộng hoang và đất mộ, hoặc được ban ân, thì không thuộc giới hạn này.” Được chấp thuận.
(Sách chính mục ghi: “Lập phép hạn điền.”)
[51] Xu mật viện tâu: “Kinh lược ty Huyên Diên lộ tâu: Theo lời tướng quan Lưu An ở trại Thuận Ninh, người Tây Hạ đã phá hủy hai bảo Tăng Tử và Thổ Môn mới dời đến ở địa phận bảo An Định.” Chiếu rằng Phạm Thuần Túy phải xem xét kỹ tình hình thực tế, tùy nghi thi hành, rồi tâu lên.
(Cần xem xét kỹ lưỡng.)
[52] Ngày Mậu Thân, Lễ bộ tâu: “Các nội thị sứ thần khi mãn nhiệm, quan ngự trù được giảm hai năm khảo hạch.” Được chấp thuận.
[53] Ngày Kỷ Dậu, chiếu rằng khôi phục chức Giải diêm sứ, theo thứ tự như chức Chuyển vận phó sứ các lộ.
(Ngày 8 tháng 7, Phạm Tổ Vũ nói v.v..)
[54] Hữu triều phụng đại phu Vương Hiếu Quang được bổ nhiệm làm Tư nông khanh. Tả triều thỉnh lang, Tư nông thiếu khanh Trình Bác Văn được bổ nhiệm làm Chuyển vận phó sứ Kinh Hồ Nam lộ.
(Ngày 18, đi sứ Liêu.)
[55] Binh bộ tâu: “Quan viên tại nhiệm hoặc trên đường đi mà qua đời, người được cử đưa tang mà tự ý trở về hoặc bỏ trốn, tội nhẹ thì đánh một trăm trượng; nếu là viên chức đô hạt, tướng hiệu tiết cấp, và người cầm đầu dẫn dắt đám đông, đều phải đi đày một năm, không được xét giảm. Nếu phạm tội trong phạm vi ước thúc của chiếu chỉ, cũng không được xét tha; người không trực tiếp quản lý thì đánh tám mươi trượng. Mỗi lần cử người đưa tang về nhà người qua đời, phải ghi rõ điều lệ này trong giấy tờ.” Vua đồng ý.
(Sách mới không chép.)
[56] Tể thần Lã Đại Phòng, người được cử tu sửa thực lục, tâu: “Xin lệnh cho quan viên Quốc sử viện biên soạn và dâng lên bảo huấn của triều trước, để chuẩn bị cho việc đọc ở Nhĩ Anh các.” Vua đồng ý.
[57] Chiếu rằng từ nay về sau, sứ thần áp bạn các phiên không được phép phái đi trước, phải đợi khi người tiến phụng vào triều từ biệt rồi lên đường, mới cho áp hồi.
[58] Chiếu rằng con trai trưởng của Điền Hồng Hữu, cố Ngân thanh quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Quốc tử tế tửu, Tri Khê Động Tân Viễn châu, là Điền Tư Thiên được kế thừa chức cũ của cha.
[59] Phạm Dục, Trực Long đồ các, Tri Hi Châu, được gia chức Bảo văn các đãi chế, tái nhiệm.
(Việc tái nhiệm căn cứ theo Chính mục. Việc gia chức căn cứ theo biểu tạ của Dục. Sách mới và sách cũ đều không chép việc bãi chức. Ngày 28 tháng 6, từ Hi Châu được triệu về làm Quyền Hộ bộ, ngày 12 tháng 7 lại được giữ chức Tri Hi Châu như cũ.)
[60] Xu mật viện trình lên chỉ dụ trong cung, Hoàng thái phi tâu xin vì thân thích mà làm trái phép. Trước đã có chỉ, được nhận ruộng nước ở huyện Trung Mâu, vĩnh viễn làm chủ, số ruộng ngoài định mức được miễn nộp lợi nhuận. Hàn Trung Ngạn và Vương Nham Tẩu tâu: “Có một khoảnh ruộng nước, chính số là ba mươi tám khoảnh[5], số thừa lại hơn bảy mươi khoảnh, việc này quá đáng, về lý không ổn. Bọn thần bàn bạc, muốn lượng ra lợi nhuận, không làm mất ý tốt của bệ hạ. Lại theo phép tắc của triều đình từ trước, cũng khiến người này được yên ổn lâu dài.” Thái hoàng thái hậu cho là phải, bèn lệnh giảm một nửa. Ban đầu, Trung Ngạn muốn lệnh làm theo, Nham Tẩu nói: “Quá may mắn, không thể hoàn toàn theo, cần phải trình lên giảm bớt.” Trung Ngạn nói: “Tam tỉnh không như vậy. Hôm trước phê chuẩn, Tống ty uyển xin hai chỗ doanh trại bỏ hoang cho nhũ mẫu làm thọ đường, hôm qua đã trình lên và được chấp thuận.” Nham Tẩu nói: “Sao có thể thấy sai mà bắt chước, biết đâu nói rõ lại không được chấp nhận?” Sau quả nhiên được chấp thuận.
(Việc ngày 22.)
[61] Ngày Canh Tuất, các châu về lại ngạch, trừ những người hiện quản lý, đầu danh không được nhận tiền thuê đã quá tám phần, và những người tự nguyện nhận, đều thi hành pháp mộ, ngày không được nhận tiền thuê, đều không cấp tiền, ngoài ra không cấp tiền, lấy lại ngạch của châu đó làm mười phần, trong đó người đầu danh đã quá bốn phần, cấp sáu phần tiền thuê, chưa đủ bốn phần, thì cấp toàn bộ. Lại lấy số tiền thuê hiện tại của châu đó, giao cho quan chức tập hợp lại nhân viên bàn định, căn cứ vào công việc nặng nhẹ của từng án, trừ những việc nhẹ không cần cấp tiền, đều chia làm hai mức tiền để cấp.
[62] Thương Châu tâu: “Theo chiếu lệnh năm Nguyên Hựu, những người lính làm việc nặng nhọc và giám tiền bị phối ngục, trừ những người bị đày ra đảo Sa Môn và những nơi xa xôi độc ác theo quy định, còn lại đều bắt sung vào quân ngũ dưới quyền chỉ huy. Những người không thể lưu lại, thì phối ngục đến các giám khác hoặc các châu có việc nặng nhọc khác[6]. Xem xét điều khoản trên, coi Quảng Nam là nhẹ, việc nặng nhọc là nặng, nên không phối ngục. Nay ở những nơi áp dụng luật nặng, lính làm việc nặng nhọc phần nhiều là những kẻ từng làm giặc, lại để chúng tụ tập một chỗ, dễ dàng kết bè kéo cánh, lại làm cướp. Những người tố cáo và bắt giữ thấy chúng vẫn ở trong doanh trại hoặc nơi làm việc nặng nhọc khác, địa lý cách nhau không xa, thường sợ bị trả thù nên không dám tố cáo. Xin thêm vào điều khoản trên, dưới chữ “đảo Sa Môn“[7], thêm hai chữ “Quảng Nam“.” Được chấp thuận.
[63] Hộ Bộ tâu: “Theo lệnh của Độ Chi, bè gỗ đến kinh đô chưa giao nhận xong, thì giấy phép dịch trạm được cấp tối đa 30 ngày. Xem xét việc sứ thần áp tải bè tre gỗ, lệnh văn chỉ nói đến bè gỗ, chưa đầy đủ, xin bỏ chữ “mộc” trong lệnh.”
(Không có trong bản mới.)
[64] Lại tâu: “Từ nay về sau, quan viên và tướng hiệu ở Xuyên Hạp Lộ nộp tiền lương dư và tiền ruộng chức, giao cho các lộ nơi đến chi trả theo quy định, đồng thời gửi văn thư yêu cầu lộ nơi nộp tiền mua số tiền đã nộp để hoàn trả.”
(Không có trong bản mới.)
[65] Lại tâu: “Theo chiếu lệnh sai dịch năm Nguyên Hựu, những hộ đơn đinh hoặc nữ hộ nếu có thêm nhân khẩu, phải nộp tiền dịch, nếu đã nộp tiền hai năm trở lên, được miễn sai dịch một lần. Vì có những nơi hộ ít mà việc sai dịch nhiều, nay xin thêm vào điều khoản dưới chú thích: ‘Những nơi hộ ít, nhàn rỗi chưa đủ hai năm, thì miễn một năm’.” Đều được chấp thuận.
[66] Ngày Tân Hợi, ba tỉnh tâu: “Hàn lâm học sĩ Phạm Bách Lộc và các quan tâu rằng, năm Cảnh Hựu thứ ba, do Thuyết thư Giả Xương Triều ở điện Sùng Chính tâu xin, Vua ban chiếu tu sửa sách ghi chép ở hai các Nhĩ Anh và Diên Nghĩa. Nay bệ hạ hướng về việc học, xét việc xưa, cách ngày lại ngự đến kinh diên, tuy sử quan đứng trước, lời nói việc làm đều ghi chép, nhưng việc giảng đọc, chưa có người chuyên biên soạn. Xin khôi phục việc ghi chép ở các Nhĩ Anh, như lệ đời Nhân Tông.” Vua nghe theo, lại sai các quan giảng đọc và ghi chép cùng nhau biên soạn.
[67] Lại tâu: “Mẹ của Thái Xác là Minh thị, bị giáng làm Biệt giá ở Châu Anh, an trí ở Châu Tân, dâng trạng xin theo lệnh xá năm Nguyên Hựu thứ tư và lệ an trí Lữ Huệ Khanh ở Châu Tuyên hai năm, cho Thái Xác được dời đến một nơi trong nội địa. Xét theo điều lệ, các quan chấp chính trước đây, sau khi bãi chức, vì việc bị giáng làm tản quan, thì lệnh Hình bộ xét lại. Lại theo lệnh Hình bộ, những người bị xét về quân ngũ, theo pháp, tản quan và an trí, sau ba kỳ thì chiếu cho Khai Phong phủ cáo thị.”
[68] Trước đó, hai cung đến nhà Lý Đoan Nguyện làm lễ viếng, khi trở về, mẹ Thái Xác là Minh thị từ trong xe lông kêu lên: “Thái hoàng vạn tuế, thần thiếp có biểu.” Vệ sĩ lấy đi. Đó là ngày Đinh Dậu tháng này. Hôm sau, các quan chấp chính họp ở Đô đường, Lã Đại Phòng hỏi Lưu Chí: “Biểu của mẹ Thái Xác đã dâng chưa?” Đáp: “Chưa thấy.” Vương Nham Tẩu nói: “Trước đây nghe đã có chỉ huy ba kỳ, có phải không?” Chí đáp: “Theo pháp Hình bộ là ba kỳ. Trước kia ở Trung thư, mỗi năm xét một lần, sau giao về Hình bộ, dùng pháp Hình bộ.” Lâu sau, biểu vẫn không dâng lên.
[69] Hôm đó, ba tỉnh dâng lên tờ trình của Minh thị trước ngựa, Thái hoàng thái hậu tuyên dụ rằng: “Thái Xác không phải vì hắn ngâm thơ phỉ báng, mà chỉ vì người này bất lợi cho xã tắc. Nếu là phúc của xã tắc, Xác nên chết ngay. Việc này các khanh cũng cần lưu ý.” Lưu Chí nói: “Chỉ vì thấy Lữ Huệ Khanh hai năm được dời đi, nên mới đến kêu xin.” Tô Triệt nói: “Khi Huệ Khanh được dời đi, chưa có luật ba năm của Hình bộ.” Thái hoàng thái hậu hỏi: “Còn nói gì về luật nữa?” Lữ Đại Phòng nói: “Xin cho Khai Phong phủ đuổi đi.” Thái hoàng thái hậu đồng ý. Sau đó, Lưu Chí nói với Lữ Đại Phòng: “Đuổi đi quá đáng.” Lữ Đại Phòng liền viết tờ nhỏ đính kèm vào tờ vàng tâu lên rằng: “Sáng nay trước rèm bàn luận, muốn cho Khai Phong phủ đuổi đi, nhưng sợ gây ồn ào, tạm thời cho báo cáo.” Chiếu chỉ đồng ý. Cấp sự trung Chu Quang Đình phản đối tờ vàng, nói: “Tội ác của Xác so với bốn hung thần, đã bị đày, lẽ nào có thể tha về, lại dùng luật Hình bộ thông thường báo trước, lý lẽ cực kỳ không thể chấp nhận.” Do đó, chiếu chỉ trước bị bãi bỏ. Sau đó, các quan chấp chính lại họp ở Đô đường bàn luận, muốn dùng lời bác bỏ của Chu Quang Đình để báo cáo. Lưu Chí nói: “Báo cáo gì mà do dự mãi?” Phó Nghiêu Dũ nói: “Báo cáo không thực hiện được.” Lữ Đại Phòng lại nói: “Vừa rồi đã tâu lên rồi.” Lưu Chí nói: “Khó mà ngồi yên theo thánh chỉ báo cáo, chỉ nên báo cáo trong phòng.” Liền lệnh phòng Hình phê tờ báo cáo, không cần theo thánh chỉ nữa. Sau đó, không còn giáng tờ vàng qua Môn hạ, Cấp sự trung dù muốn bàn luận nữa cũng không được. Bèn tâu lên chỉ lệnh trong phòng báo cáo.
Ngày 2 tháng 5, mẹ của Xác dâng tờ trình. Việc mẹ Thái Xác kêu oan, đã dùng 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》 sửa lại. 《Lưu Chí nhật ký》 ghi chi tiết hơn, nay chú thêm ở đây. 《Lưu Chí nhật ký》 viết: “Ngày 4 tháng 4, mẹ Thái Tân Châu là Minh thị đến kêu oan, xin tha Xác về quê, nói đã có tờ trình, nhưng chưa xuống. Chiều hôm đó, Minh thị cùng một người con trai, cháu là Quang, ôm đầu ngựa kêu khóc. Dụ rằng đợi xem tờ trình rồi bàn. Ngày 15, Minh thị lại kêu oan, sai cháu Quang mang tờ trình đến, không xưng tước hiệu, chỉ viết ‘Minh thị’. Ngày 25 sáng, Minh thị đi khắp ba tỉnh, Viện Mật, kêu oan ở Lậu xá. Trước ngày 20 tháng 5, Minh thị bốn tờ trình gửi Hình bộ, theo điều lệ báo cáo. Luật cũ, quan chấp chính bị giáng chức, Trung thư một kỳ xét lại. Luật mới, đều thuộc Hình bộ, tản quan ba kỳ. Xác từ tháng 6 năm trước bị đày về nam. Ngày 6 tháng 6, Minh thị lại dâng tờ trình: Nếu không cho về quê, chỉ xin theo lệ Lữ Huệ Khanh, dời đến nơi gần để nghe tin tức. Ngày 21, Minh thị lại dâng tờ trình, ôm đầu ngựa kêu khóc. Ngày 24 tháng 7, buổi tối họp ở Đô đường, Minh thị cùng cháu lại ra trình bày. Ngày 24 tháng 8, ngày Diên Hòa tham tấu sự, mẹ Thái Tân Châu là Minh thị dâng tờ trình lên ba tỉnh, xin dời Xác đến nơi gần.
Ngày 10 trước, đã từng dâng tờ trình trước xe Thái hoàng, xin thi hành. Dụ rằng: ‘Trong cung thường nói với quan gia, người này gian tà sâu hiểm, lâu dài quan gia không thể làm gì được, bất lợi cho xã tắc. Trước đây vì hắn làm thơ mà xử phạt, vốn không phải vì thơ. Nay theo pháp luật thế nào?’ Đáp rằng theo pháp luật đến mùa thu năm sau mới đủ ba kỳ, hợp lệ xét lại. Chỉ vì trong tờ trình nhắc đến Lữ Huệ Khanh hai năm được dời đi, lúc đó chưa có luật ba kỳ. Dụ rằng: ‘Không thể so với Huệ Khanh, dù ba kỳ đủ, cũng không thể dùng luật thường để dời đi. Người này thực sự không thể tha về. Các tướng công nên thường phòng ngừa người này, lâu dài gây hại không ít.’
Tả quỹ nói: ‘Đúng như thánh dụ, nhưng mẹ con hắn ở kinh có người chỉ bảo, quấy rối triều đình.’ Dụ rằng: ‘Chỉ vì hắn có nhiều đảng phái.’ Tả quỹ nói: ‘Muốn cho Khai Phong đuổi ra khỏi kinh.’ Đồng ý. Lui về, viết tờ gửi Khai Phong báo cáo, lại tâu rằng nếu đuổi đi ngay e rằng sẽ gây ồn ào, tạm thời báo cáo.”)
[70] Hộ bộ tâu: “Các châu huyện ven sông thuộc sáu lộ Giang, Hồ, Chiết, Hoài, nếu quan tuần kiểm và thúc đẩy việc vận chuyển lương thực trong một nhiệm kỳ bắt được việc buôn bán, đong đếm lương thực trái phép, sau khi trừ đi số lượng lọt lưới không phát hiện được, mà bắt được tội đồ ba lần trở lên, hoặc tội trượng sáu lần trở lên, thì Phát vận ty xác minh rõ ràng tâu lên, cho giảm một năm khảo khóa. Nếu có lọt lưới không phát hiện được, sau khi trừ đi số lượng bắt được, tính tổng số lượng trước khi ân xá, nếu có số lượng vi phạm, thì kéo dài thêm một năm khảo khóa.” Vua nghe theo. (Sách mới không chép).
[71] Ngày Nhâm Tý, Hữu chánh ngôn Diêu Miễn tâu: (Ngày 25 tháng 8 năm thứ 6.) “Thần nghe nói rằng Triều phụng lang Vương Củng trước đây khi nhậm chức Thông phán Dương Châu, có người lại trong châu là Mã Thủ Trân, Củng thường sai khiến làm việc, coi như tâm phúc. Sau này, việc Củng vi phạm bị phát giác, đã được xem xét và xử lý, nhưng Củng không sợ công luận, ngang nhiên kêu oan lên triều đình, triều đình lại giao xuống cho bản lộ xem xét, nhưng Đề hình Lâm Tích đã hư báo, không nêu rõ sự thật. Công luận trong ngoài xôn xao, triều đình lại hạ lệnh, giao xuống cho bản lộ xem xét. Lúc đó, Củng lại sai Ngự sử trung thừa Triệu Quân Tích lấy cớ tuyển dụng, thu nạp Mã Thủ Trân làm lại viên Ngự sử đài. Mã Thủ Trân vừa được ghi tên vào Ngự sử đài, liền xin nghỉ phép về Dương Châu để bàn bạc với Củng về việc vi phạm, dụ dỗ những người liên quan trước đây, bảo họ đến quan trình bày, nói rằng khi Củng tại nhiệm không hề có việc vi phạm[8].
Gần đây, thần nghe nói quan ty bản lộ trước đây khi xem xét việc của Vương Củng, cũng đã biết được nguyên do của Mã Thủ Trân và những người liên quan. Nay việc Củng đã được bản lộ xem xét và thấy rõ việc vi phạm, nhưng Mã Thủ Trân vẫn chưa bị tra xét. Thần nghĩ rằng Ngự sử đài là nơi căn bản kỷ cương của triều đình, nơi sửa chữa những sai trái của quan lại, mà Quân Tích đang giữ chức thị tòng, đảm nhiệm trách nhiệm chấp pháp, lấy việc đàn hặc làm chức trách, không nghĩ đến việc chính tâm phụng sự trên, lại dám kết giao với Vương Củng, thông đồng làm việc gian tệ, ngầm liên kết trong ngoài để lừa dối triều đình. Huống chi Bệ hạ thánh minh, lấy sự công bằng để trị thiên hạ, thần thường nghe đức âm, mong rằng bề tôi không có tư lợi. Mà Quân Tích là bề tôi chấp pháp, lại kết giao với Củng, có thể nói là phụ lòng tin dùng của Bệ hạ. Hơn nữa, việc công của triều đình cần phải rõ ràng đúng sai, nếu dung túng cho kẻ tiểu nhân như thế này trên dưới lừa dối nhau, làm bậy mà không trừng phạt, thì lấy gì để thưởng phạt thiện ác, khiến trăm quan không dám làm việc tư lợi? Kính xin đặc biệt hạ lệnh, giao cho Hoài Đông Đề hình ty truy bắt Mã Thủ Trân và những người liên quan để tra xét, xử lý công minh, tìm hiểu sự thật, chưa vội kết án, tâu lên triều đình chờ chỉ thị.”
[72] Dán bản tâu: “Mã Thủ Trân tuy chỉ là một lại nhân, nhưng dám mưu tính liên kết trong ngoài, muốn gây rối loạn công việc triều đình, tình tiết không nhẹ. Rõ ràng thấy Triệu Quân Tích, Vương Củng cùng nhau lừa dối công triều, làm hư hỏng kỷ cương. Kính xin sớm ban chỉ thi hành.”
[73] Lại dán bản tâu: “Thần nghe rằng triều đình mỗi khi có chỉ huy xuống các ngoại lộ xét hỏi công việc, hoặc chỉ tóm lược đại ý. Thần e rằng các quan ty ngoại lộ không thấy được đầu đuôi, không chịu tận tình tra xét thực chất. Nay nếu được triều đình thi hành, kính xin ban hành chi tiết đầy đủ.”
(Ngày 28 tháng 8 nhuận, thực lục bắt đầu ghi lời của Miễn và chiếu cho vận ty Hoài Nam xét trị. Nay theo ngày tháng ghi đầy đủ chương tấu của Miễn ở đây.)
[74] Ngày Quý Sửu, chiếu rằng: “Từ nay về sau, các quan đảm nhiệm ở ty Hoàng thành, trừ các đô tri, áp ban của nhập nội tỉnh khi mãn nhiệm được phép xin chỉ để tái nhiệm, còn lại nếu không có chỉ đặc biệt tái nhiệm, thì theo điều lệ cũ.”
[75] Chiếu rằng: “Đô giám lộ Phu Diên kiêm tướng thứ sáu của bản lộ, Hoàng thành sứ Lý Nghi, phó tướng, phó sứ đông tác phường Hứa Hưng cố ý vi phạm chiếu chỉ, và không tuân theo sự điều khiển của suý ty, đem quân vượt biên giới đánh giặc Hạ, tử trận, không được truy tặng quan tước, cũng không được cấp tiền phúng viếng. Các tướng lĩnh chuẩn bị và tướng bộ đội còn lại đều bị giáng chức và kéo dài thời hạn, lại lệnh cho các suý ty lộ Thiểm Tây, Hà Đông thông báo răn dạy các tướng.”
[76] Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Dân tâu: “An phủ ty duyên biên Lan Châu báo rằng có mấy chục giặc nước từ giới Tây vượt sông, bắn bị thương người phục kích, sau đó giao chiến, bắt sống được chín người.” Chiếu lệnh kinh lược ty đưa những người bắt được sai người áp giải đến kinh lược ty lộ Phu Diên, lệnh quân Bảo An gửi văn thư đến châu Hựu, và sai người đưa đến giới thủ giao nộp xong rồi tâu lên.
[77] Chiếu cho Diên Phúc cung sứ, giáng làm Tuyên Châu quan sát sứ, đề cử Minh Đạo cung là Lý Hiến làm Hữu Vũ vệ Thượng tướng quân về hưu, theo lời thỉnh cầu của ông. Trung thư xá nhân Tôn Thăng tâu: “Hiến đang bị tội trách, lại được ban ân lễ, cho về hưu tự tiện. Thần e rằng mở đầu việc này, sau này những kẻ có tội bị lưu đày đều xin về hưu vì bệnh, như vậy thì pháp luật của Vua không thi hành được với kẻ có tội, lấy gì để trị nước?” Vì thế, chiếu trước bị bãi bỏ.
(Lời tâu của Thăng vào ngày 28, nay ghi chung lại.)
[78] Hình bộ tâu: “Các quan đương nhiệm không được ở nơi công sở tại nông thôn, và kho công sứ không được xuống nông thôn, chỉ được phép mua củi, than, thức ăn uống phục vụ bản thân, và các quan tại nhiệm không được ép buộc người buôn bán ra khỏi địa giới huyện để mua bán. Hoặc tạm thời ra lệnh dệt vải để cung ứng, cũng theo quy định này. Những người không thuộc ngành nghề đó mà bán hàng rồi tạm thời bị bắt buộc nhận định ngành nghề, sẽ bị đánh một trăm trượng.” Đều được chấp thuận.
[79] Hôm đó, ba tỉnh và Xu mật viện tâu việc, Tô Triệt nói: “Gần đây Lan Châu lấy danh nghĩa do thám xa, đã xâm nhập sâu vào biên giới phía tây, giết hơn mười người. Các quan biên thần tham công sinh sự, không đủ để thể hiện uy nghiêm, chỉ làm hỏng việc mà thôi. Xin hãy tra hỏi hoặc răn đe.” Vương Nham Tẩu nói: “Quân giặc đang ở biên giới, nếu không do thám xa, làm sao biết được tình hình? Nếu để mất cơ hội, há chẳng phải là hỏng việc sao!” Lã Đại Phòng nói: “Nay vì Lý Nghi và Hứa Hưng vô cớ xâm nhập biên giới, dẫn đến bị tiêu diệt, lại không ban ân huệ, mà truyền lệnh khắp các nơi, cũng đủ để răn đe rồi.” Xu mật viện trước hạ lệnh rồi lại tâu lên. Phùng Đại Phòng và Lưu Chí nói với Hàn Trung Ngạn: “Đã có chỉ dụ lệnh răn đe.” Vương Nham Tẩu lại tâu, nhân đó tiến lời: “Việc răn đe, xin bệ hạ xem xét lại xem có chỗ nào chưa ổn.” Thái hoàng thái hậu nói: “Vừa rồi ba tỉnh muốn răn đe.” Vương Nham Tẩu nói: “Quan điểm có phần thiên lệch, lời tâu chưa đủ lý lẽ. Từ trước đến nay, triều đình thường chỉ thị cho các nơi biên giới phải rõ ràng trong việc do thám, nhưng lại không được phép sai người xâm nhập sâu, như vậy là không hiểu việc.” Lại nói: “Quân giặc đang ở biên giới, nếu để mất cơ hội, biết làm sao?” Thái hoàng thái hậu nói: “Như vậy thì khó mà trách họ được.” Vương Nham Tẩu nói: “Các quan biên thần hoàn toàn dựa vào chủ trương của triều đình.” Hàn Trung Ngạn nói: “Nếu sinh sự cũng không tiện.”
Sau khi bãi bỏ lệnh răn đe, Tô Triệt hôm khác lại tâu: “Gần đây Lan Châu lấy danh nghĩa bảo vệ việc cắt cỏ, đã giết sáu bảy người ở biên giới phía tây, bắt sống chín người, đã lệnh trả lại chín người, việc này rất tốt. Các quan biên thần liều lĩnh vì thắng lợi nhỏ, không nghĩ đến đại cục, rất hại việc, nên lập tức răn đe.” Lã Đại Phòng không muốn, nói: “Lý Nghi và Hứa Hưng xâm nhập sâu rồi bị tiêu diệt, đã trách phạt những người liên quan, đủ để răn đe rồi.” Tô Triệt nói: “Lý Nghi xâm nhập sâu, vì hỏng việc mà bị trách phạt. Lan Châu xâm nhập sâu mà có công, nếu không răn đe, sẽ khiến người ta cho rằng triều đình giận vì họ hỏng việc, mà vui vì họ có công.” Thái hoàng thái hậu nói: “Đúng vậy.” Bèn thi hành lệnh răn đe.
(Đoạn này hợp từ 《Tô Triệt Khiển Lão Truyền》 và 《Vương Nham Tẩu Hệ Niên Lục》 biên soạn. Ngày tháng nay dùng theo sách của Vương Nham Tẩu, tham khảo trước sau, đều không có mâu thuẫn.)
[80] Giáp Dần, Tể tướng Lã Đại Phòng tâu: “Gần đây các quan Giảng Diên tâu xin biên soạn sách 《Nhĩ Anh Ký Chú》 như lệ thời Nhân Tông, đã có chỉ thi hành. Nay ở Sử viện có hơn mười quyển 《Nhĩ Anh Ký Chú》 và 《Diên Nghĩa Ký Chú》, ghi chép đầy đủ những cuộc thảo luận giữa Nhân Tông và các quan giảng đọc. Khi giảng đến câu trong 《Kinh Thi》 ‘Ai có thể nấu cá, rửa sạch nồi niêu’, Nhân Tông bảo Đinh Độ rằng: ‘Lão Tử nói: “Người trị thiên hạ giống như nấu cá nhỏ“, chính là ý này. 《Học Ký》 viết: “Biết loại suy thông đạt, gọi là đại thành“. Nhân Tông quả là người giỏi suy luận loại suy.’ Thần từng dâng lên những sự tích về việc học của Nhân Tông chưa đầy đủ, muốn sao chép một bản 《Nhĩ Anh Ký Chú》 và 《Diên Nghĩa Ký Chú》 để tiến lên, phụng sự ngự lãm.” Vua đồng ý. Sau đó, Vua hạ chiếu cho Quốc sử viện sao chép hai bản tiến lên, và sao thêm một bản gửi đến Tư Thiện Đường.
[81] Thiêm thư Xu mật viện sự Vương Nham Tẩu tâu: “Khí trời thu đã mát mẻ, trong lúc nhàn rỗi, bệ hạ có thể lưu tâm đến kinh sử. Vua Thuấn dậy lúc gà gáy, Vua Đại Vũ quý từng tấc bóng, xin bệ hạ lấy Thuấn, Vũ làm gương.” Vua nói: “Trẫm ở trong cung, thường xem sách không ngừng.” Vua hỏi Nham Tẩu học với ai, ông đáp: “Thần học với tiên sinh Ninh Trí ở Hà Đông, người ấy thông hiểu kinh điển, tu dưỡng đạo đức. Sau đó, thần theo làm quan khắp nơi, không có thầy cố định, hễ gặp điều hay thì học theo.” Vua nói: “Như vậy thì thầy nhiều lắm.” Vua hỏi: “Vì sao ngươi quen biết Hàn Kỳ?” Ông đáp: “Thần theo hầu khi ông ấy nhàn cư ở Bắc Môn, từ đó quen biết, rồi được tiến cử làm học quan, lại được mời vào mạc phủ, rồi theo ông ấy ở tướng phủ ba năm, đến khi ông ấy mất mới rời đi. Thần hiểu rõ về Hàn Kỳ, ông ấy cũng rất quý mến thần, từng dạy thần đạo thờ Vua: trước không cầu sủng ái, sau không sợ chết, bên trái bên phải không né tránh, ở giữa chỉ có thành ý mà thôi. Thần ghi nhớ suốt đời.” Vua khen ngợi mãi.
[82] Lại từng nhân lúc đối đáp bàn luận về việc tuyển chọn nhân tài, Vua hỏi: “Tuyển chọn nhân tài như thế nào?” Đáp rằng: “Thiên hạ không phải không có người tài, nhưng việc tuyển chọn không xa rộng, thu nạp không rộng rãi, những người được thăng chức chỉ là số ít người đã được dùng mà thôi. Vì vậy triều đình mới có nỗi lo thiếu người tài, sĩ đại phu mới có tiếng than bị chìm đắm. Hơn nữa, như các thái thú quận, huyện lệnh trong thiên hạ là những người gần gũi nhất với dân, có thể thấy rõ tình hình trị lý, mỗi năm nên sai Giám ty của bản đạo tiến cử một hai người có tính hạnh đoan chính, trị lý ưu tú, triều đình triệu về dùng, thì người ta sẽ tự phấn chấn, trong nước không còn người tài bị bỏ phí, công đạo sẽ thông suốt.” Vua nói: “Rất hay.” Vua hỏi: “Đạo trị nước nên lấy gì làm trước?” Đáp rằng: “Ở chỗ tình cảm trên dưới thông suốt mà không có nỗi lo bị che lấp[9], thì đạo trị nước tự nhiên thực hiện được. Tình cảm trên dưới thông suốt là do tiến cử người nhân đức mà dùng. Tấm lòng của người nhân đức, trên không nỡ lừa dối Vua[10], dưới không nỡ lừa dối dân. Vì vậy Vua có ân ý thì truyền xuống dưới, dân có khổ đau thì báo lên trên, không lấy việc tiện lợi cho bản thân làm tâm. Người không nhân đức thì không như vậy, ngồi nhìn nỗi khổ của người khác mà không báo lên trên, Vua có tấm lòng ban ơn cho vạn vật mà không truyền rộng xuống dưới. Nhà Vua dù muốn thực hiện đạo trị nước cũng không được.” Lại nói: “Pháp độ dù nghiêm, kỷ cương dù đủ, nhưng ở giữa nếu tình cảm không thông suốt thì cũng vô ích.” Vua hỏi: “Làm sao biết được người nhân đức mà tiến cử?” Đáp rằng: “Khéo nói, đẹp mặt thì ít có người nhân đức, cứng cỏi, chậm chạp thì gần với nhân đức.” Vua gật đầu.
(Đoạn này căn cứ vào 《Triều luận》 thêm vào.)
[83] Cơ quan Tường định biên tu cáp môn nghi chế tâu rằng: “Theo chế độ cũ, khi xa giá đi tuần, các quan văn từ chức Đãi chế trở lên đều đi theo hộ giá. Từ khi cải cách quan chế đến nay, vẫn theo lệ cũ, các quan thuộc hai chế (Hàn lâm viện và Trung thư tỉnh) đều phải đi theo. Xét các điển cố, các quan ở hai tỉnh (Trung thư và Môn hạ), Thường thị, Cấp xá, Gián nghị, vốn là những chức vụ cung phụng và dự bị cố vấn, lẽ ra phải đi theo. Nay xin đưa các chức vụ này vào quy chế mới về việc tùy giá.” Vua đồng ý.
[84] Ngày Ất Mão, xuống chiếu giáng hai cấp và cách chức Tướng thứ 10 của Kinh Nguyên lộ là Lý Phố, chức Tây nhiễm viện sứ, và Phó tướng Trương Uẩn, chức Như kinh phó sứ. Quyền Phó tướng Vương Bí vì đang chịu tang nên được miễn xét công trạng và thay thế. Do Giám áp trại Hoài Viễn là Cung phụng quan Lý Tốn bị giặc Tây Hạ vây đánh, còn Phố và Uẩn thì đứng nhìn không cứu, lại còn báo cáo sai sự thật. Lý Tốn được đặc cách thăng chức Cáp môn chi hậu, giữ chức Phó tướng thứ 10, vì đã dẫn đầu đánh giặc đến cùng.
[85] Tri quân Trấn Nhung là Miêu Lí, chức Đông thượng cáp môn sứ, Cát châu phòng ngự sứ, được ban thưởng 100 lạng bạc và 100 tấm lụa, đồng thời được ban sắc khen ngợi. Các chủ trại và Tuần kiểm khác vì báo cáo không đúng sự thật, thám báo chậm trễ, đều bị xét công trạng và phạt tiền theo mức độ khác nhau.
[86] Giám sát ngự sử Ngu Sách tâu: “Các châu huyện bị thiên tai ở Lưỡng Chiết thu mua gạo, nhưng phần lớn bị các lái buôn và công lại thông đồng mua trước, sau đó mới đến lượt người khỏe mạnh. Những người đói yếu lại càng thêm khốn khổ, thậm chí bị chà đạp đến chết. Xin giao cho các cơ quan giám sát ở địa phương xem xét.” Vua xuống chiếu cho các ty Chuyển vận và Đề hình phân phối lương thực cứu đói, phải đảm bảo lợi ích thực sự cho dân đói. Những người buôn bán và người khỏe mạnh không được mua chung. Nếu quan lại xử lý sai trái, hoặc công nhân thiên vị, đều bị xử theo pháp luật.
(Việc này cần xem xét thêm.)
[87] Ba tỉnh tâu: “Các lộ về hộ khẩu và tài dụng, tuy hàng tháng bộ mỗi năm khảo hội tổng số, nhưng chưa có phép so sánh để tiến trình, lại không biết sức dân tăng giảm, tài dụng có đủ hay không. Nay lập định thức lệnh, các châu mỗi năm cung cấp đầy đủ, đến tháng giêng năm sau trình lên Chuyển vận ty, bản ty đến tháng giêng trình lên Hộ bộ, bộ này sau khi nhận được, trong nửa tháng phải trình lên Thượng thư tỉnh để tập hợp và tiến trình. Người nào vi phạm sẽ bị đánh một trăm trượng.” Vua nghe theo.
- Câu này khó hiểu, nghi ngờ có sai sót ↵
- Chữ 'nhiếp' trong 'quan chấp chính nhiếp Tư đồ' vốn thiếu, theo 《Thông khảo》 quyển 256, phần Đế hệ khảo bổ sung. ↵
- Chữ 'thần' trong 'vũ thần chính nhiệm thứ sử' vốn là 'sĩ', chữ 'nhiệm' vốn là 'sứ', theo sách trên sửa lại. ↵
- Nếu không phải do biên soạn sổ sách và quyết định thăng giáng đẳng cấp của hộ dân, 'tước' nguyên là 'thủ', theo 《Tống hội yếu》 Thực hóa 13-35 sửa. ↵
- Có một khoảnh ruộng nước, chính số là ba mươi tám khoảnh, theo ý văn, nghi ngờ chữ 'khoảnh' trên là sai, nên là chữ 'xử'. ↵
- Tức phối ngục đến các giám khác hoặc các châu có việc nặng nhọc khác, chữ 'tức' nguyên bản là 'kí', theo 《Tống Hội Yếu》 Hình Pháp 4-3 sửa lại. ↵
- Xin thêm vào điều khoản trên, dưới chữ 'đảo Sa Môn', chữ 'hạ' nguyên bản thiếu, theo sách trên bổ sung. ↵
- nói rằng khi Củng tại nhiệm không hề có việc vi phạm, chữ 'nhật' nguyên bản là 'dĩ', theo nghĩa văn mà sửa ↵
- Ở chỗ tình cảm trên dưới thông suốt mà không có nỗi lo bị che lấp, chữ 'thượng' nguyên là 'thiên', căn cứ vào văn dưới và 《Tống sử toàn văn》 quyển 13 hạ sửa lại. ↵
- Trên không nỡ lừa dối Vua, chữ 'kỳ' nguyên thiếu, căn cứ vào sách trên bổ sung. ↵