VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 465: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 6 (TÂN MÙI, 1091)
Từ tháng 8 nhuận năm Nguyên Hựu thứ 6 đời Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 8 nhuận, ngày Canh Thân, Tri châu Hàng Châu là Lâm Hi tâu: “Nước hồ Thái Hồ tích tụ chưa rút, gây họa lớn cho Tô Châu và Hồ Châu. Xin đặc cử Giám ty đến tận nơi gần biển để xem xét chỗ xả nước, tính toán khai thông, mong rằng nước tích tụ dần rút, ruộng dân lại xuất hiện, dân lưu tán trở về làm ăn.” Chiếu cho Tả triều phụng lang Thiệu Quang cùng Giám ty bản lộ dẫn nước tích tụ.
[2] Ngày Tân Dậu, Hình bộ tâu: “Khi cướp nổi lên, mà quan ty tại chỗ không phát hiện, để sự việc xảy ra nơi khác, hoặc Giám ty tố cáo, thì sau khi mãn nhiệm, ngoài việc đã từng phát hiện trong nhiệm kỳ, công tội bù trừ, mỗi vụ giáng cấp từ một tháng đến ba quý. Quan bắt cướp ngoài việc giáng cấp, năm vụ đánh 60 trượng, mười vụ hoặc năm vụ hung ác thì phải tâu xin xử lý. Những quan không do Lại bộ bổ nhiệm, căn cứ số tháng giáng cấp mà kéo dài thời gian khảo hạch, và không được ân xá.” Được chấp thuận.
[3] Ngày Nhâm Tuất, Giám sát ngự sử An Đỉnh tâu: “Thần thấy trong lễ tế Xuân Thu, tế Cửu cung Thái nhất dùng dê và lợn, còn Thái nhất thập thần đều không dùng sinh, chỉ dùng đồ chay và rượu. Thần xét kỹ, Thập thần Thái nhất và Cửu cung Thái nhất vốn là một thần, không khác. Nay dâng lễ khác nhau, e rằng không hợp lễ, cũng sợ thần linh chưa chắc đã hưởng máu tế.” Chiếu cho Lễ bộ và Thái thường tự xem xét định đoạt rồi tâu lên.
[4] Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ trình bày lên Môn hạ tỉnh rằng:
[5] Theo lục bạch của Xu mật viện, Hoàng thành sứ, Thứ sử Quả châu, Kiềm hạt lộ Tử Quỳ, Quản câu An phủ ty duyên biên Lô Nam, kiêm Tri châu Lô châu là Trương Khắc Minh, đến ngày 27 tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ 3 đã mãn nhiệm kỳ tái nhiệm. Gần đây, Vương Khắc Bình được bổ nhiệm thay thế nhưng chưa nhậm chức. Tả tàng khố sứ, Kiềm hạt lộ Thành Đô phủ và Lợi châu lộ là Vương Duy Thuần, ngày 14 tháng 8 nhận chỉ của triều đình, được bổ nhiệm làm Kiềm hạt lộ Tử Quỳ, Quản câu An phủ ty Lô Nam, kiêm Tri châu Lô châu, thay thế Trương Khắc Minh đã mãn nhiệm. Xét lại, Kiềm hạt ty lộ Tử Quỳ nguyên đặt tại Toại châu. Vào thời Nguyên Phong, do giặc man Khất Đệ gây loạn, triều đình dùng binh đánh dẹp, lần đầu dời Kiềm hạt ty đến Tư châu, sau lại dời đến Lô châu, đều là để ứng phó tạm thời cho thuận tiện, không phải là chế độ lâu dài. Sau này, việc man di yên ổn, nhưng vẫn giữ nguyên đến nay chưa thay đổi.
[6] Xét kỹ, thời tổ tông, Kiềm hạt ty đặt tại Toại châu, vốn dùng thế hình để khống chế hai Xuyên, không chỉ vì việc biên giới Nhung và Lô. Kiềm hạt ty lộ Tử Quỳ và Chuyển vận sứ cũng được quản lý chung, khác với Kiềm hạt ty Thành Đô phủ và Lợi châu lộ. Từ khi đặt Kiềm hạt ty tại Lô châu, binh quyền hai lộ giao cho một võ thần, các quận biên giới ngược lại kiểm soát hàng chục châu, ngọn lớn gốc nhỏ, biên châu quá nặng, việc này không hợp lý. Lấy ví dụ từ phía tây bắc, như Hùng châu ở Cao Dương, An Túc quân ở Định châu, Trấn Nhung quân ở Vị châu, Hoàn châu ở Khánh châu, đều có súy phủ ở trong, biên châu ở ngoài. Nay Lô châu thuộc Đông Xuyên lộ, nếu so với Hùng châu, An Túc, Trấn Nhung quân, Hoàn châu, cũng phải thuộc súy phủ, sao có thể để một võ thần chuyên quyền, lại không có người cùng quản lý? Huống chi việc biên giới Nhung và Lô rất nhỏ, sao có thể so sánh với phía tây bắc được!
[7] Và xét lại việc tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ nhất, do các quan viên dâng lời xin, yêu cầu theo lệ cũ dời cơ quan Kiềm hạt ty về Tuy Châu. Triều đình hạ lệnh cho Kiềm hạt ty lộ Tử Quỳ và các cơ quan Chuyển vận ty lộ Tử Châu cùng bàn bạc. Chuyển vận ty và Đề hình ty sau đó đã trình bày kết quả bàn bạc, Kiềm hạt ty lộ Tử Quỳ vẫn nên trở về Tuy Châu, việc này thực sự có lợi lâu dài. Xu mật viện vâng theo thánh chỉ, lệnh cho Kiềm hạt ty tạm thời vẫn ở Lô Châu, đợi thêm ba đến năm năm nữa khi biên sự hoàn toàn ổn định, sẽ tâu xin chỉ thị. Từ khi ban thánh chỉ đến nay đã gần sáu năm, không còn biên sự gì, đã hoàn toàn ổn định. Nay nhân việc Trương Khắc Minh thay đổi, xin xét lại chỉ thị trước đây, quan mới được bổ nhiệm không nên kiêm chức Kiềm hạt ty lộ Tử Quỳ, nếu Lô Châu cần lưu lại quân đồn thủ, chỉ giữ lại một cơ quan An phủ dọc biên giới. Kiềm hạt ty lộ Tử Quỳ vẫn dời về Tuy Châu để xử lý các sự việc, theo đúng lệ cũ thời tổ tông, nhằm đảm bảo sự yên ổn lâu dài ở phía tây nam. Môn hạ tỉnh ghi chép và gửi đến Xu mật viện, sau đó nhận được phê chuẩn của Xu mật viện: “Những người được bổ nhiệm như Vương Duy Thuần đã nhận thánh chỉ, việc dời Kiềm hạt ty Lô Châu về Tuy Châu sẽ được xem xét và thi hành riêng.”
[8] Tổ Vũ tấu: “Thần thấy rằng ở Hà Bắc, Thiểm Tây, chỉ có An phủ Kinh lược ty giao phó cho các quan tướng, còn về Mã bộ quân Thống tổng quản thì có Phó tổng quản, ở Thành Đô phủ và Lợi Châu hai lộ Kiềm hạt cũng có hai Kiềm hạt làm phó. Nay ở Tử Quỳ lộ Kiềm hạt và Duyên biên An phủ hai chức đều giao cho một võ quan, vừa không thuộc Súy phủ, lại không có quan khác cùng quản lý, lúc dùng binh có thể tùy nghi, nhưng lúc không có việc thì quyền lực quá lớn. Thần xét thấy từ thời tổ tiên đặt Kiềm hạt ty ở Toại Châu, vì vùng Tây Nam xa xôi, ngoài tiếp giáp với man di, trong thì có quân lính, dân địa phương và dân từ nơi khác đến sống lẫn lộn, có khi kẻ gian nhòm ngó, giặc lớn nổi lên, như từng xảy ra vào các năm Thuần Hóa, Hàm Bình. Vì vậy hai xuyên đều đặt Binh mã Kiềm hạt ty để trấn giữ, kiềm chế lẫn nhau, ứng phó kịp thời với việc man di, xa gần đều thuận tiện.
Lại xét chế độ cũ của Tử Quỳ lộ Kiềm hạt ty, việc tuyển chọn ngựa man, biên chế tội nhân, đều do Chuyển vận ty cùng quản lý. Chỉ có việc man di ở Nhung, Lô thì dẫn theo tờ chiếu của Xu mật viện năm Hoàng Hựu thứ 4, lệnh cho Chuyển vận ty xem xét tình hình, gửi văn thư cho Kiềm hạt đem quân đi đánh dẹp, ngoài ra các việc quân mã khác, Kiềm hạt ty xem xét rồi tự quyết định. Đến năm Hi Ninh thứ 7, Sát phỏng Hùng Bản tấu xin tất cả việc man di ở Nhung, Lô đều do Chuyển vận sứ Tử Châu lộ và Tử Quỳ lộ Kiềm hạt ty cùng quản lý. Thần xét thấy chế độ đặt Tử Quỳ lộ Kiềm hạt ty thời trước khác với Thành Đô phủ và Lợi Châu lộ, Đông Xuyên vốn không phải là Súy phủ, mà Kiềm hạt lại phải ở Toại Châu, nên quyền lực hơi nhẹ, người quản lý không thống nhất. Nay lấy Lô Châu kiểm soát hai lộ, giao cho một võ quan đảm nhiệm hai ty, các châu biên giới các lộ chưa từng có như vậy.
Huống chi giặc man ở Lô Nam nổi loạn, vốn do người Di La Cẩu tranh chấp không đền giá xương, việc rất nhỏ. Đô giám Vương Tuyên hổ thẹn vì không được dự lễ thề, bèn đem quân đánh Khất Đệ để lập công, dẫn đến thất bại. Triều đình dùng binh trừng phạt, hai châu vì thế mà náo động. Từ khi Lâm Quảng dẹp yên sào huyệt, các man di đều sợ hãi, một mực yên ổn, Tử Quỳ Kiềm hạt nên khôi phục chế độ cũ. Thần xin xét lại thánh chỉ ban xuống tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ nhất, sớm thi hành, việc Chuyển vận ty quản lý chung, hoặc theo phép cũ năm Hoàng Hựu, hoặc theo chế độ gần đây năm Hi Ninh, xin triều đình xem xét kỹ lưỡng. Còn Lô Châu chỉ giữ lại Duyên biên An phủ ty, Chuyển vận ty Tử Châu lộ nên thường đặt một Phó sứ, Tri châu Toại Châu được chọn bổ và khi mãn nhiệm được thăng chức, đều theo lệ cũ thời tổ tiên. Như vậy binh quyền không giao nhẹ, Tây Nam được yên ổn lâu dài. Xin giao xuống Tam tỉnh, Xu mật viện, xét lại các tấu chương của các quan trước đây và tấu chương của thần để thi hành.”
[9] Dán tờ thiếp hoàng: “Thần nghe nói từ khi Lộ Châu đặt ty Kiềm hạt, các quan viên sứ thần được ban thưởng và cung cấp đều rất hậu hĩ. Các quan võ làm tri châu vốn không có kỷ cương, nên quan lại ở châu ấy chỉ sợ ty Kiềm hạt lại dời về Toại Châu. Tra xét hồ sơ năm Nguyên Hựu thứ nhất, triều đình đã giao cho ty Chuyển vận Tử Quỳ Lộ cùng xem xét, ty Chuyển vận và ty Đề hình đã bàn bạc, xin dời ty Kiềm hạt về Toại Châu như cũ, thật là tiện lợi lâu dài. Thần cho rằng việc này rõ ràng không còn nghi ngờ gì, xin triều đình không cần giao xuống cho lộ này bàn bạc nữa, mà cứ theo cách sắp xếp của triều đình. Nếu Lộ Châu giữ lại một ty An phủ dọc biên giới, nay thuộc ty Kiềm hạt, lại không giảm bớt quân đồn trú, cũng đủ để phòng ngừa giặc cướp, không phải là không có phòng bị.”
[10] Chiếu cho ty Kiềm hạt Tử Quỳ Lộ và ty Chuyển vận, Đề hình Tử Châu Lộ bàn bạc, Lộ Châu, thành Lạc Cộng cử đại sứ thần làm tri thành, không kiêm chức Lộ phân đô giám, cử một viên đô giám Tử Quỳ Lộ làm tri Lộ Châu, kiêm quản công việc ty An phủ Lộ Nam. Dời ty Kiềm hạt Tử Quỳ Lộ về Toại Châu, cùng Toại Châu quản lý quân mã ty Kiềm hạt, lại cùng bàn bạc việc biên giới Nhung Châu và Lộ Châu. Những việc cần thay đổi, đều phải trình bày rõ ràng để tâu lên.
(Sách cũ nhầm Phạm Tổ Vũ là Phạm Bách Lộc, lại chép tóm tắt tờ tấu quá sơ lược. Nay theo tập của Tổ Vũ chép đầy đủ, còn lời chiếu thì theo sách cũ. Xét: Chiếu này giao cho ty Kiềm hạt Tử Quỳ Lộ và ty Tào, Hiến Tử Châu Lộ cùng bàn bạc kỹ. Sau đó ty Kiềm hạt rốt cuộc không về Toại Châu, thành Lạc Cộng và Lộ Châu cũng không có gì thay đổi, có lẽ là các ty bàn bạc không cho lời tâu của Phạm Tổ Vũ là đúng. Thực lục không chép, tìm trong hồ sơ Lộ Nam cũng không có, tạm chú thích ở đây, đợi sau xem xét kỹ hơn.)
[11] Xu mật viện tâu: “Nhiều lần nhận được tin báo từ các lộ dọc biên giới, thủ lĩnh nước Hạ là Lương Ất Bô sẽ thống lĩnh quân mã Hà Nam, Hà Bắc, ngấm ngầm mưu tính xâm phạm biên giới.” Chiếu cho các lộ Thiểm Tây, Hà Đông nghiêm chỉnh phòng bị, nhưng không được tự ý khoe khoang, mong được thưởng công, gây ra sự việc.
[12] Hữu Triều thỉnh đại phu Lý Mậu Trực làm Binh bộ lang trung.
[13] Tả Triều thỉnh lang, Tập Anh điện Tập Hiền hiệu lí Thôi Công Độ làm Tri Nhuận châu.
(Ngày 26 tháng giêng năm thứ 7, được triệu làm Tả sử, nhưng không đến.)
[14] Ngày Quý Hợi, Chính nghị đại phu, nguyên Tri Xu mật viện sự An Đào được bổ làm Hữu Chính nghị đại phu, Quan Văn điện học sĩ, Tri Vận châu. An Đào vừa mãn tang, các quan chấp chính kiểm cử tiến trình, Lã Đại Phòng nói: “Theo lẽ nên khôi phục chức cũ.” Nhưng vì có hai tờ tấu của Triệu Quân Tích và Giả Dịch luận bàn, Thái hoàng thái hậu cảm thấy khó xử. Vương Nham Tẩu nói: “Nếu khôi phục chức cũ, ắt sẽ dẫn đến lời bàn tán.” Thái hoàng thái hậu liền nói: “Ắt sẽ dẫn đến lời bàn tán.” Lã Đại Phòng bèn xin bổ làm Tri Vận châu. Chiếu chỉ đồng ý. An Đào sau đó lấy cớ cha già từ chối nhận chức, được đổi làm Tri Trịnh châu.
(Ngày 4 tháng 9, đổi làm Tri Trịnh châu. Tờ tấu của Triệu Quân Tích và Giả Dịch vào ngày 1 tháng 8, nay mới được tiến trình. Theo《Lưu Chí nhật ký》.)
[15] Ngày Giáp Tý, Long Đồ các đãi chế, Tri Vận châu Thái Kinh được bổ nhiệm làm Tri Vĩnh Hưng quân. Ban đầu, các quan chấp chính bàn dùng Lương Đào giữ chức Tri Vận châu, điều Thái Kinh làm tướng ở Vị, thay thế Lưu Thuấn Khanh, và triệu Thuấn Khanh về kinh làm túc vệ. Vương Nham Tẩu nói: “Thái Kinh tuy đã ba lần làm tướng, nhưng vốn không am hiểu việc phương Tây, không nên giao phó cho Bình Lương. Hiện nay người phương Tây đang mạnh, thường xuyên ra vào, Thuấn Khanh cũng chưa thể điều động. Hoặc thử dùng Thái Kinh ở Khánh Dương, triệu Chương Tiết về, cho quyền làm Thị lang các bộ.” Lưu Chí không muốn đặt nhiều chức quyền Thị lang, Lã Đại Phòng xin điều Thái Kinh giữ chức Ung. Triều đình đồng ý.
(Đoạn này dựa vào 《Lưu Chí nhật ký》 và 《Vương Nham Tẩu hệ niên lục》 để bổ sung. 《Lương Đào hành trạng》 chép: “Làm Ngự sử trung thừa, lại luận Thái Kinh là kẻ khinh bạc, tham lam, ở Vận châu tham ô, không còn liêm sỉ, không nên làm Tri Thành Đô phủ. Chưa được trả lời. Lại luận Thái Kinh tài năng gian trá, hành vi ô uế, nay giao cho trấn giữ xa, sao có thể làm gương cho phong tục! Thái Kinh trong đảng Thái Xác, nổi tiếng hung hãn, âm hiểm, dùng lợi dụ dỗ kẻ tiểu nhân, giúp họ tạo thanh thế hão, lòng dạ gian trá, dám làm việc phi nghĩa, không kiêng sợ gì, đến nơi ắt khoe khoang tài năng để che lấp người đi trước, tự cho mình thông minh, ắt không chịu tuân theo lẽ phải, dân chúng phương xa ắt không được hưởng ân huệ của triều đình.” Xét: Thái Kinh vào ngày 22 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ nhất, từ Khai Phong phủ được đổi làm Tri Thành Đức. Ngày 14 tháng 12 năm thứ hai, từ Thành Đức đổi làm Tri Doanh châu. Ngày 18 tháng 6 năm thứ tư, từ Doanh châu được bổ làm Tri Thành Đô, đến ngày 24 lại đổi làm Phát vận sứ. Ngày 28 tháng 7, lại đổi làm Tri Dương châu. Ngày 2 tháng 5 năm thứ năm, từ Dương châu đổi làm Tri Dĩnh Xương. Ngày 26 tháng 6, lại đổi làm Tri Vận châu. Ngày 6 tháng 8 nhuận năm thứ sáu, từ Vận châu đổi làm Tri Vĩnh Hưng. Ngày 1 tháng 4 năm thứ bảy, từ Vĩnh Hưng đổi làm Tri Thành Đô. 《Chính mục》 ghi vào ngày 28 tháng 3. Xét: Lương Đào lần đầu luận tội Thái Kinh vào ngày 28 tháng 6 năm thứ tư, lúc đó Đào làm Gián nghị đại phu, chưa làm Trung thừa, Thái Kinh cũng chưa từng làm Tri Vận châu.
Việc Thái Kinh từ Vĩnh Hưng đổi làm Tri Thành Đô là vào ngày 1 tháng 4 năm thứ bảy. Lúc đó Đào đã làm Học sĩ, không còn làm Trung thừa nữa. E rằng 《Hành trạng》 có chữ sai, đã chú thích vào ngày 28 tháng 6 năm thứ tư khi Thái Kinh từ Doanh châu được bổ làm Tri Thành Đô, nay lại chú thêm ở đây, cần xem xét kỹ hơn.)
[16] Long Đồ các đãi chế Vương Chấn được bổ nhiệm làm Tri châu Thiểm Châu. Vương Chấn vừa mãn tang, nên có mệnh lệnh này.
[17] Thái Bộc tự tâu: “Chó ngựa không hợp thổ nhưỡng thì không nuôi được. Các triều đại trước đều đặt trại chăn nuôi ở vùng Tây Bắc, nhờ khí hậu mát mẻ nơi đó. Nay đặt trại ở Đơn Trấn, Nguyên Vũ, đều là nơi nóng bức, ngựa mất đi bản tính. Đã so sánh tỷ lệ chết và sinh sản của trại Lạc Dương, đều hơn hẳn hai trại Đơn Trấn và Nguyên Vũ.” Chiếu chỉ đổi trại Đơn Trấn thành trại nuôi chó ngựa tạp, chăn nuôi và huấn luyện 1.500 con. Số ngựa hiện có, ngoài việc giữ lại tại trại, còn lại tùy theo lượng cỏ ở Lạc Dương và Nguyên Vũ mà phân bổ về các trại. Các trại tạp ở Hữu sương và ngựa mua từ Ty Mãi Mã, hàng năm điều 1.000 con đến Đơn Trấn chăn thả, đổi lấy 1.000 con ngựa đã huấn luyện đưa về kinh.
(Sách 《Tân Lục》 bỏ phần “chăn nuôi huấn luyện” trở xuống, nay khôi phục lại.)
[18] Ty Chuyển vận, Đề hình và Ty Binh mã Kiềm hạt Lộ Quỳ Châu tâu: “Từ nay về sau, các hộ dân ở hai huyện Thanh Giang và Kiến Thủy, Châu Thi, khi đến lượt đi phòng thủ các trại, nếu quan lại và tướng hiệu trong trại dám tùy tiện sai khiến, sẽ bị xử tội vi chế, dù có được ân xá hay đã thôi chức cũng không được miễn, cho phép người bị sai khiến tố cáo. Nếu cần tu sửa thành trại, phải xin chỉ đạo từ Ty Chuyển vận.” Theo đó.
[19] Ty Kiềm hạt Lộ Giang Nam Đông tâu: “Lộ này trước đây có hai viên Lộ phân đô giám đóng tại Trì Châu và Giang Ninh phủ. Viên tại Giang Ninh phủ, từ thời Nguyên Phong, sai Đinh Hải kiêm chức Đông Nam đệ ngũ tướng, sau khi thôi chức, chỉ bổ nhiệm tướng quan, đến nay không có Lộ phân đô giám. Vì Ty này thống lĩnh quân chính Giang Đông, xin theo chế độ cũ, bổ nhiệm một viên Lộ phân đô giám.” Chiếu chỉ cho Đông Nam đệ ngũ tướng Vũ Đoan Dân kiêm quyền.
[20] Hôm đó, các quan chấp chính họp tại đô đường, Lã Đại Phòng và Lưu Chí muốn đề cử Lý Thanh Thần làm Lại bộ thượng thư. Vương Nham Tẩu nói: “Việc này không thuộc phạm vi của Mật viện, nhưng chắc chắn sẽ có tranh luận.” Lưu Chí nói: “Cựu chấp chính làm thượng thư vốn không có gì quá đáng, chỉ sợ công luận không chấp nhận mà thôi.” Sau đó, tấu chương được phê chuẩn. Vương Nham Tẩu nói với đồng liêu: “Chắc chắn sẽ bị người ta bàn tán.” Lã Đại Phòng cũng cho là đúng. Lục hoàng được chuyển qua Môn hạ tỉnh, Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ phong hoàn lại và tiến trình, nhưng không được chấp thuận. Phạm Tổ Vũ vẫn kiên trì tấu chương như lần đầu.
(Hai tấu chương của Phạm Tổ Vũ được ghi chép ở phần sau.)
[21] Trước đó, Lữ Đại Phòng nói với Lữ Trí: “Nếu muốn yên ổn, cần triệu Tịch Bái đến để khuyên bảo mới được.” Đại Phòng nói: “Đợi đến ngày mai.” Lữ Trí nói: “Đợi đến ngày mai thì không kịp nữa.” Khi mệnh lệnh được ban xuống, Tả Chánh ngôn Diêu Miễn lại bàn luận việc này không đúng. (Tấu chương của Miễn cũng ở phía sau, đều được gộp vào đây, hoặc theo ngày mà ghi riêng.)
Lưu Nham Tẩu hỏi Tô Triệt: “Bang Trực thế nào?” Triệt đáp: “Cấp sự trung đã hai lần phản đối, gián quan cũng có lời bàn. Nay lại muốn dùng Bồ Tông Mạnh làm Binh bộ thượng thư, làm sao có thể yên ổn được.” Nham Tẩu nói: “Tử Do nên cố gắng tranh luận.” Triệt nói: “Ngạn Lâm sao không giúp một tay?” Nham Tẩu đồng ý. Đến khi họp bàn, Nham Tẩu nói với Đại Phòng: “Một người bàn luận chưa xong, lại có thể tiến cử thêm một người nữa không?” Đại Phòng nói: “Tông Mạnh thì không có việc gì khác.” Nham Tẩu nói: “Nhưng cũng không phải là việc công luận đồng ý.” Triệt nói: “Hãy đợi mệnh lệnh của Bang Trực được ban xuống, rồi sau đó bàn việc này thế nào?” Mọi người đều không trả lời. Triệt muốn trình bày trước rèm, Nham Tẩu nói: “Đó là điều mong đợi.”
Khi đến trước rèm, Đại Phòng tâu xin các bộ đã lâu không có thượng thư, người hiện tại đều còn non kém, không thể dùng được, lại không thể để khuyết chức, nên phải dùng các cựu chấp chính. Thượng hoàng có ý miễn cưỡng đồng ý. Triệt liền nói: “Hôm trước bổ nhiệm Lý Thanh Thần, các quan gián nghị tranh cãi chưa ngã ngũ. Nay lại dùng Tông Mạnh, e rằng không tiện.” Thái hoàng thái hậu nói: “Nhưng khuyết chức thì sao?” Triệt đáp: “Thượng thư khuyết chức đã mấy năm, có khi nào thiếu việc! Nay dùng hai người này, chẳng khác gì năm ngoái dùng Đặng Ôn Bá. Ba người này, không phải là kẻ xấu, nhưng cùng với Vương Khuê, Thái Xác cùng tiến cử, ý tứ không hợp với chính sách hiện nay. Hiện nay thượng thư còn khuyết bốn người, nếu cùng dùng những người như vậy, khiến họ cùng tiến cử đảng phái, khí thế hợp lại, không chỉ bọn thần không làm gì được, mà triều đình cũng khó xử lý. Hơn nữa, triều đình chỉ quý sự yên ổn, dùng người như vậy, đài gián sao không lên tiếng? Thần e rằng từ đây sẽ náo loạn!” Thái hoàng thái hậu nói: “Đúng vậy. Chi bằng hãy tạm yên lặng.” Liền cuộn tờ mệnh lệnh lại. Triệt lại nói: “Thần năm ngoái mới làm trung thừa, đầu tiên bàn việc này, ý thánh dường như đồng ý với lời thần. Nay chưa đầy một năm, đã ở vị trí này, nếu không nói, thực sự e rằng bệ hạ sẽ trách thần trước sau không nhất quán.” Thượng hoàng nói: “Đúng vậy.” Rồi lui ra.
Tuy nhiên, Đại Phòng và Lữ Trí lại muốn Thanh Thần làm tri Dương châu, thay Vương Tồn, triệu Tồn về làm Lại bộ thượng thư. Nham Tẩu không đồng ý, vội nói với Lữ Trí, Trí nói: “Thiếu nhiều chức quan, thì lấy ai bổ sung?” Nham Tẩu nói: “Dùng người có ý tứ hợp với chính sự hiện nay.” Lữ Trí im lặng. Nham Tẩu lại nói với Lữ Trí: “Ông tiến cử những người này, giao cho họ chức vụ này, dám đảm bảo không?” Trí nói: “Đảm bảo thì không dám.” Nham Tẩu nói: “Ông nên không được lơ là.”
[22] Phạm Tổ Vũ dâng sớ xin thu hồi mệnh bổ nhiệm Lý Thanh Thần, tấu thứ nhất rằng: “Thần trộm nghĩ Lý Thanh Thần vốn có hành vi gian tà, điều này các sĩ đại phu đều biết, thần không dám nói đến những việc nhỏ nhặt, xin trình bày những việc lớn khi ông ta đứng trong triều để làm rõ. Vào niên hiệu Trị Bình, Thanh Thần được tiến cử làm Hiền lương Phương chính, lúc đó Hàn Kỳ đang nắm quyền. Thanh Thần là người thân của họ Hàn. Khi đối đáp trong kỳ thi chế khoa, ông ta nịnh bợ các đại thần, không dám chỉ ra những sai lầm trong chính sự đương thời, thiên hạ đều cho là không ngay thẳng. Vào niên hiệu Nguyên Phong, Hàn Kỳ đã mất, Thanh Thần với chức Hàn lâm học sĩ tu soạn quốc sử hai triều. Tiên đế khen ngợi Văn Ngạn Bác và những người khác về việc kiến nghị lập thái tử, giao việc này cho sử quan ghi chép, Thanh Thần liền đẩy công lao cho Ngạn Bác và những người khác, mà hạ thấp Hàn Kỳ.
Vào niên hiệu Hi Ninh, Hàn Giáng làm Tuyên phủ Thiểm Tây, tâu xin bổ nhiệm Thanh Thần làm Quản câu cơ mật văn tự. Giáng phát binh đánh Tây Hạ, đến khi quân Khánh Châu làm phản, triều đình hạ chiếu tự trách tội mình và rút quân, giáng chức Giáng làm Tri Đặng Châu. Thanh Thần mang văn thư của Tuyên phủ ty về kinh, muốn tự bảo toàn, đã nhiều lần nói xấu Giáng, để chứng minh mình không liên quan. Sau đó, Thị dịch ty tâu xin cử Lý Chương chỉ huy Trương Cát Phu làm Quản câu công sự, Cát Phu từ chối, vì Lý Chương đang bị giáng chức, nếu bỏ đi thì không hợp với đạo nghĩa. Tiên đế than rằng: ‘Mười nhà trong một ấp ắt có người trung tín. Cát Phu là kẻ tiểu nhân, nhưng nêu cao đạo nghĩa, hơn xa Lý Thanh Thần.’ Tiên đế coi thường ông ta như vậy.
Cuối niên hiệu Nguyên Phong, Thanh Thần giữ chức Chấp chính, ngày mồng 5 tháng 3 Tiên đế băng hà, ngày mồng 6, Bệ hạ lên ngôi, hạ chiếu xá tội, lệnh các vùng biên giới không được xâm phạm ngoại giới, phải giữ yên bờ cõi. Đến ngày 16, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng phụng chỉ, gửi văn thư xuống Thiểm Tây, Hà Đông, lại lệnh phải đánh dẹp mạnh mẽ, không cho giặc Tây ở gần biên giới được yên ổn cày cấy. Vả lại, Tiên đế băng hà mới được mười ngày, Bệ hạ đang trong thời kỳ để tang, chắc chưa kịp xem xét, thần không biết Tam tỉnh và Xu mật viện vì sao lại nhận được chỉ dụ này? Tháng 4, Lữ Huệ Khanh phát binh vào địa giới phía Tây để đánh dẹp[1].
Khi triều đình đang trong tình thế gấp rút, hạ chiếu xá tội mới được mười ngày, mà Chấp chính lại hạ lệnh nhiễu loạn việc cày cấy, để đáp ứng yêu cầu của Huệ Khanh, nên Huệ Khanh dám công khai vi phạm chiếu xá tội mà phát binh. Đại thần trong triều ứng phó, gian thần bên ngoài thi hành, nếu không phải là có lòng vô quân, sao lại đến mức này? Thần xem xét việc làm của Thanh Thần, Hàn Kỳ còn sống thì nịnh bợ, chết rồi thì phản bội; Hàn Giáng thành công thì theo, thất bại thì chê bai. Tiến thoái trái ngược, không gì không vì lợi. Bệ hạ lên ngôi mới mười ngày, đã vi phạm chiếu xá tội mà phát binh. Đại thần không việc gì không làm, triều đình đang muốn đề bạt người trung lương, xa lánh kẻ nịnh tà, nay Thanh Thần vốn là Chấp chính trước đây được bổ làm Lại bộ Thượng thư, tuy không phải là thăng chức, nhưng đã triệu về dùng, thì sẽ có xu hướng dùng lại, làm mất lòng thiên hạ. Kính mong Thánh từ cho Thanh Thần tạm giữ chức vụ bên ngoài, để hợp với công luận, cũng không mất sự phú quý. Tất cả lục hoàng chưa dám đọc và thi hành.” Chiếu y theo chỉ dụ trước mà thi hành.
(Biên loại chương sớ, ngày mồng 9 tháng Nhuận 8 tấu.)
[23] Tờ tấu thứ hai viết: “Thần trộm nghĩ rằng triều đình thăng một người, nên khiến cho những người hiền trong thiên hạ đều được khuyến khích; cách một người, nên khiến cho những kẻ tiểu nhân trong thiên hạ đều bị ngăn chặn. Như vậy, người ta sẽ biết điều gì là tốt, điều gì là xấu, không dám làm điều tà vạy. Lý Thanh Thần từ khi vào triều đến nay, chuyên làm điều gian tà, chưa từng có ích gì cho quốc gia, chỉ biết nhìn vào lợi lộc. Thần không biết Bệ hạ dựa vào điều gì mà dùng người ấy. Thần trước đây từng bàn về đại tiết của Thanh Thần, Bệ hạ không nghe, cho rằng việc xưa không nên truy cứu, chiếu chỉ phát binh không chỉ do Thanh Thần, mà các quan chấp chính triều trước không cần phải bãi bỏ hết, chỉ có Thanh Thần là nhu nhược dễ sai khiến nên lại được thu dụng. Thần ngu nghĩ rằng bề tôi không thể không có lỗi lầm, triều đình vốn nên che giấu khuyết điểm, bao dung mọi thứ. Nếu có điều thiếu sót, cũng có điều tốt, có điều được, cũng có điều mất, thì bỏ điều thiếu sót mà lấy điều tốt, bỏ điều mất mà lấy điều được, dùng như vậy cũng được. Còn như kẻ có bản tính gian tà, tâm địa không ngay thẳng, thì suốt đời không thay đổi, không kể thời gian dài ngắn, không thể dùng được. Thanh Thần làm người không ngay thẳng, ai cũng biết, thiên hạ truyền tụng đã gần ba mươi năm rồi.
Khi Tiên đế mới băng hà, Bệ hạ chưa xem xét chính sự, trong hàng ngũ chấp chính, nếu có một vị quan cứng cỏi chính trực, ắt không thể chỉ biết vâng dạ theo người, há lại đồng loạt hạ chiếu phát binh! Bệ hạ không trách cứ chấp chính về việc này, không biết còn chờ họ phạm tội lớn gì nữa mới trách cứ? Năm Nguyên Phong, Ngự sử Vương Tổ Đạo tâu rằng Thanh Thần đi sứ phương Bắc trở về, đem theo lụa là, trị giá hàng trăm ngàn, tặng cho viên lại trong Trung thư là Bạch Tùy. Sĩ luận xôn xao, người hiểu biết đều chê cười. Thanh Thần làm Hàn lâm học sĩ, lại dùng hối lộ để kết thân với viên lại trong triều[2], xin trừng trị nặng để làm gương. Việc này đã ghi trong 《Thời chính ký》, chép vào sử sách, thần đâu dám bịa đặt! Nếu chỉ vì hắn nhu nhược dễ sai khiến, thì điều này thần lại càng không hiểu.
Sách viết ‘Khó dùng người’, lại viết ‘Trừ kẻ gian không do dự’, Khổng Tử nói ‘Xa kẻ nịnh’, lại nói ‘Kẻ nịnh nguy hiểm’. Những kẻ làm sụp đổ quốc gia xưa nay, không hẳn là bề tôi quyền thế, ban đầu đều là kẻ nịnh thần. Khi gặp lợi hại thì thay đổi, nên phản bội Vua cha, nguy hại quốc gia mà không màng, vì thế thánh nhân răn dạy không được dùng kẻ nịnh. Nay Thanh Thần từng làm chấp chính, ra ngoài không phải là thất chức, lại được triệu về đặt vào chỗ đợi dùng, thiên hạ ắt sẽ nói ‘Kẻ nịnh vào triều rồi’. Như vậy thì triều đình sao còn uy nghiêm, chính sự còn trông cậy vào đâu? Tờ lục hoàng này thần không dám đọc để thi hành.” Đều không được nghe theo.
(Biên soạn các tờ tấu, ngày 12 tháng 8 nhuận tâu.)
[24] Tả chánh ngôn Diêu Miễn tấu rằng: (Biên loại chương sớ vào ngày 16 tháng 8 nhuận năm thứ 6.) “Thần nghe Lý Thanh Thần được bổ nhiệm làm Lại bộ Thượng thư, dư luận chưa cho là thỏa đáng. Thần nghe Thanh Thần từng giữ chức chấp chính, trước đây ở triều đình a dua theo tể tướng đương thời, làm việc theo tà đạo, không có tiết tháo của bậc đại thần, các quan lại trước sau đều từng luận bàn. Nay ông ta đã lâu ở ngoại nhiệm, bệ hạ bỗng nhiên triệu về, ông ta cho rằng bệ hạ sẽ dùng lại, thế lực không chỉ dừng ở Lại bộ Thượng thư. Vì Lại bộ Thượng thư là chức vụ gần kề Xu mật, lại từng là chấp chính cũ, ngày sau nếu có khuyết chức chấp chính, bệ hạ muốn bỏ Thanh Thần mà dùng người khác, thì e rằng không hợp lẽ, lại khiến đại thần thất vọng, lòng họ không yên, không thể vô cớ mà triệu về. Nếu bệ hạ tạm dùng lại, thì việc làm của người ấy chưa thể biết được. Đó là điều thần lo lắng cho bệ hạ. Nay hai thánh lâm triều, giao phó thành công cho hai ba đại thần, điều quý là hợp mưu đồng lực, một lòng không ngăn cách, để làm sáng tỏ chính sự, thì bệ hạ sẽ được nhàn nhã, thanh tịnh, cung kính mà trị vì. Nếu đặt người không xứng, thì thể chế khác nhau, hướng đi khác biệt, bàn luận trái ngược, như băng với than cùng một chỗ, tất sẽ làm phiền thánh lự. Thần mong bệ hạ xét kỹ cơ sự, tạm bổ ông ta làm đại phiên, đối với Thanh Thần chưa phải là thất sở, chưa nên vội triệu về. Mạnh Tử nói: ‘Quốc quân tiến cử hiền tài như không thể không làm.’ Thần thiển cận, chỉ vì kế sách lâu dài của triều đình, cũng là để giữ trọn đạo tiến thoái của đại thần.” Lệnh bổ nhiệm Thanh Thần làm Lại bộ Thượng thư cuối cùng bị bãi bỏ.
(Lưu Chí nói: Năm ngoái có chiếu, Thượng thư cho phép dùng người từng làm chấp chính, hơi khác nghi thức, miễn tuần bạch xin triều yết, đặt riêng bổng lộc, tùy chức cấp phát, Thanh Thần thực sự bắt đầu được triệu dụng.)
[25] Vương Nham Tẩu lại nói với các quan chấp chính: “Nghe các huyện báo rằng, gần đây pháp lệnh năm năm mười kỳ hạn đã bị xáo trộn, dân tình rất không vui.” Các đồng liêu đều thờ ơ không biết vì sao. Nham Tẩu nói: “Do Hộ bộ tâu, nên đã thay đổi.” Lã Đại Phòng nói: “Hộ bộ keo kiệt, nên phá bỏ lời nói trước.” Lưu Chí nói: “Chí thật không biết, chắc là đã phê duyệt tờ tâu của Hộ bộ.” Nham Tẩu nói: “Hoặc có thể đuổi theo.” Đại Phòng, Chí và Triệt đều muốn thu hồi chỉ thị trước đây. Nham Tẩu nói: “Việc này lợi hại liên quan đến thiên hạ, nếu tin Hộ bộ, không có cách nào thực hiện được, phải chủ trương ổn định mới được. Tuy nói mười kỳ hạn thu thì ít, nhưng chắc chắn phải nộp. Không làm theo kỳ hạn, thúc giục lung tung ắt sẽ trì hoãn. Không nộp chưa chắc là kế hay.” Lui về lại viết thư khuyên Chí và Triệt, trả lời rằng: “Đô tỉnh phê tờ tâu của Hộ bộ, có sự hạn chế, đã đuổi bỏ tờ phê, tất cả theo sắc lệnh ban đầu.” Ban đầu, lo ngại các khoản nợ tích tụ trong thiên hạ nhiều, pháp lệnh không thống nhất, công tư khó thi hành, Nham Tẩu ở Khai Phong từng xin theo cấp bậc lập ra pháp lệnh thúc giục. Lệnh huyện Trâu, châu Duyễn là Trương Văn Trọng tìm cách tâu lên Đô tỉnh, trình bày sự bất tiện, xin cải cách, nên lập ra pháp lệnh năm năm mười kỳ hạn.
(Việc ngày mồng 8 tháng 8 nhuận. Chiếu ngày 25 tháng 5 năm thứ 5 cần xem xét. Tô Thức ngày 16 tháng 5 năm thứ 7 bàn về khoản nợ thứ sáu nói: “Thánh chỉ ngày 26 tháng 5 năm Nguyên Hựu thứ 6, các hộ dân trong phủ giới và các lộ hiện còn nợ các khoản nợ, lấy mười phần làm tỷ lệ, mỗi năm theo kỳ hạn hạ thu nộp một phần. Tất cả các chỉ thị thúc giục nộp nợ trước đây đều không thi hành nữa.” Sách pháp lệnh là thánh chỉ ngày 25 tháng 5 năm thứ 5, ngày mồng 3 tháng 8 Thượng thư tỉnh phê tờ tâu của Hộ bộ theo lời tâu thi hành: “Bản bộ xem xét, các hộ dân hiện đang bị thúc giục nộp các khoản thuế tô phú hạ thu, tang thưởng khóa lợi[3], tiền vật bị tịch thu của quan phòng, nếu không phải do thiên tai, cho phép chia kỳ hạn nộp, tự không thuộc điều khoản trên[4].”)
[26] Hôm đó, Thượng thư Hình bộ Phạm Thuần Lễ và Bành Nhữ Lệ đến Đô đường bàn luận về các vụ án hình sự. Lưu Chí nói: “Gần đây, các án lệnh xử tội được gửi xuống Hình bộ, liên tục ba vụ án đều xin giảm nhẹ hình phạt. Phàm các vụ án đã được triều đình phê chuẩn, thì mức độ nặng nhẹ đều do triều đình quyết định. Các cơ quan có thể bàn luận về pháp luật, nhưng không thể làm trái chỉ dụ đặc biệt. Từ trước đến nay chưa từng có việc trì hoãn mệnh lệnh của triều đình để cố tình xin giảm nhẹ hình phạt. Thuần Lễ và Nhữ Lệ thực sự là người đầu tiên làm việc này. Việc này làm hỏng pháp luật, dung túng kẻ gian, không còn gì để bàn cãi.”
(Đoạn này dựa theo ghi chép của Lưu Chí vào ngày mồng 8 tháng nhuận, tiếc là không ghi rõ ba vụ án xin giảm nhẹ là những vụ gì. Ngày 26 Nhâm Ngọ, Nhữ Lệ có nói gì đó, có thể tham khảo thêm.)
[27] Ngày Ất Sửu, Hộ bộ tâu: “Các quan giám sát tại các trường than ở kinh thành, nếu đến cuối nhiệm kỳ mà số lượng than thu nạp không đủ 80 vạn xứng, nhưng đã làm đủ hai năm trở lên, thì được tính như một nhiệm kỳ; nếu chưa đủ, thì vẫn tính theo thứ tự khi mới đến bộ.” Triều đình đồng ý.
[28] Ngày Đinh Mão, Thái bộc tự tâu: “Số lạc đà trong các phường lạc đà, mỗi năm trừ đi số bị điều đi hoặc chết, cũng như số ngày ở kinh thành và ở đồng cỏ, thì tính số ngày thực tế ở phường để quy đổi số lượng lạc đà được nuôi dưỡng, lấy mười phần làm chuẩn để so sánh.” Triều đình đồng ý.
[29] Ngày Mậu Thìn, có chiếu rằng: “Các thủ lĩnh lớn của Tây Phiền A Lý Cốt đến tiến cống, 30 người được phong làm Phó quân chủ; các thủ lĩnh nhỏ đã có chức danh thì được thăng một bậc; chưa có chức danh thì được phong làm Đô ngu hậu. Các thủ lĩnh nhỏ dưới quyền Ôn Khê Tâm cũng được ban ân theo cách này.”
[30] Đại Lý tự tâu: “Quân nhân đào ngũ sau đó phạm tội cướp bóc, phóng hỏa, mưu sát, nếu cầm vũ khí trộm cắp đủ hai quan tiền bị bắt giữ, thì phải đi đày xa nghìn dặm. Nếu vì tội cướp bóc, mưu sát mà bị đi đày sung quân rồi lại phạm tội, thì không kể trước hay sau khi được ân xá, tội đồ đều phải đi đày Quảng Nam, tội lưu phải đi đày đảo Sa Môn. Người ở khu vực áp dụng luật nghiêm khắc mà chứa chấp kẻ cướp bóc ở khu vực áp dụng luật nghiêm khắc, tội đáng chết, thì phải đi đày nơi xa xôi hiểm ác, tái phạm thì phải đi đày đảo Sa Môn. Kẻ trộm cắp tình tiết nặng, người chứa chấp phải xử trảm. Tội trộm cắp đáng bị đồ hoặc lưu thì phải đi đày năm trăm dặm, tái phạm thì phải đi đày hai nghìn dặm, và cho phép người khác bắt giữ, thưởng một nửa số tiền thưởng cho người chứa chấp. Biết rõ ý định phạm tội cướp bóc hoặc cầm vũ khí trộm cắp mà cung cấp thức ăn để kẻ đó phạm tội, hoặc đã phạm tội mà giúp che giấu, thì tội trộm cắp đáng bị đi đày ở bản châu, tội trộm cắp đáng bị đi đày thì phải đi đày ở bản thành. Nếu tội cướp bóc thuộc loại nặng đáng chết thì phải đi đày nơi xa xôi hiểm ác, tái phạm thì không kể trước hay sau khi được ân xá, phải đi đày đảo Sa Môn.” Được chấp thuận.
[31] Hình bộ tâu: “Ruộng mộ và cây cối, đất đá trong ruộng không được phép cầm cố, bán và phá hủy bừa bãi, nếu vi phạm thì bị đánh một trăm trượng, không được tính vào ân xá, và phải sửa chữa lại.” Được chấp thuận.
[32] Cho con trai của Điền Trung Mãnh ở châu Khê Động Phụng Hóa là Hồng Vạn làm Ngân Thanh Quang Lộc Đại Phu, Kiểm Hiệu Quốc Tử Tế Tửu, Tri châu Khê Động Phụng Hóa, kiêm Giám Sát Ngự Sử, Vũ Kỵ Úy.
[33] Ngày Kỷ Tỵ, Binh bộ tâu: “Các quân chỉ huy đều lập sổ sách, ghi rõ họ tên, nhiệm vụ, số lần được ưu đãi của tướng hiệu và quân nhân. Khi có nhiệm vụ, giao cho quan chức phụ trách trực tiếp đối chiếu sổ sách để kiểm tra, đảm bảo phân bổ công việc đồng đều. Những người vì bệnh tật tạm thời được miễn, phải báo trước ngày để sắp xếp. Nếu đến hạn phải thay thế, phải kiểm tra và đề cử trước. Nếu thiếu người, phải báo lên Chuyển Vận Ty để điều động từ châu khác. Nếu không kiểm tra và đề cử người, hoặc giữ lại người đáng lẽ phải thay thế, hoặc giả mạo danh nghĩa để giữ người, hoặc quá hạn sáu mươi ngày không bố trí người, thì mỗi trường hợp phải chịu tội đồ hai năm. Mỗi quý, châu phải cử quan chức kiểm tra, báo cáo có hay không việc bất hợp lý, trình lên Giám Ty của châu. Khi tuần tra, nếu phát hiện sai sót, phải xử lý. Đối với cấm quân, thì Tri châu và Thông phán cùng kiểm tra.” Được chấp thuận.
[34] Ngày Canh Ngọ, Cao Tuân Huệ, nguyên là Tiền triều Phụng lang, Trực Long đồ các, được giữ nguyên chức vụ cũ làm Thái bộc Thiếu khanh. Tuân Huệ vừa mãn tang, nên có mệnh lệnh này, kiêm thay đổi làm Hồng lư Khanh. (Việc thay đổi làm Hồng lư Khanh vào ngày 18.) Đỗ Thường, nguyên là Tả triều phụng đại phu, Tập hiền hiệu lý, Thái bộc Khanh, được bổ làm Hà Bắc lộ Chuyển vận sứ. Đỗ Thuần, nguyên là Hồng lư Khanh, được đổi làm Quang lộc Khanh. Triệu Lệnh Thước, nguyên là Tướng tác Giám, được bổ làm Hồng lư Khanh, sau đó đổi làm Vệ úy Khanh. (Việc đổi làm Vệ úy Khanh vào ngày 18.) Lý Cảo Khanh, nguyên là Vệ úy Khanh, được đổi làm Thái bộc Khanh. (Việc này cũng xảy ra vào ngày 18, nay ghi chung vào đây.) Vương Căng, nguyên là Tư nông Thiếu khanh, được bổ làm Tướng tác Giám.
(Theo 《Chính mục》: Ngày 22 tháng 6 năm thứ 5, làm Tư nông Thiếu khanh; ngày 4 tháng 3 năm thứ 8, Vương Căng làm Kinh Tây sứ.)
[35] Ngự sử Trung thừa Trịnh Ung tâu: “Theo lệ cũ, khi Ngự sử có khuyết, chiếu cho bản ty tiến cử thuộc quan để chính danh cử chức. Từ khi quan chế mới thi hành, Ngự sử Trung thừa cùng hai tỉnh hợp cử[5]. Xét nay các quan thuộc hai tỉnh, Môn hạ, Trung thư tham dự chính sự, việc hỗ tương tiến cử vốn không phải lệ cũ, lại càng dễ gây hiềm khích. Xin chỉ theo lệ bản đài tâu cử, nếu có hành vi tư túi, sẽ bị trừng phạt nặng.” Chiếu rằng: “Ngự sử Trung thừa tiến cử hai viên Điện trung Thị ngự sử, Hàn lâm học sĩ, Trung thư xá nhân cùng tiến cử hai viên Giám sát Ngự sử, Cấp sự trung tiến cử hai viên Giám sát Ngự sử để tâu lên.”
[36] Ung lại tâu: “Thần cho rằng chức vụ phong hiến, trách nhiệm chuyên trách, nếu để quan thuộc phần nhiều do các ty khác tiến cử, e rằng không phải ý định ban đầu của triều đình. Nếu chưa cho phép bản đài chuyên cử, xin tạm theo lệ cũ, chuyên cử một lần. Nếu số lượng Ngự sử còn ít, thì dùng pháp hỗ tương tiến cử hai lần.” Chiếu lệnh Ngự sử Trung thừa tiến cử thêm hai viên Giám sát Ngự sử để tâu lên.
(Việc tiến cử thêm hai viên là chiếu ngày 22, nay ghi chung vào đây.)
[37] Chiếu rằng: “Từ nay về sau, các sứ thần quản câu Ngự dược viện, Nội đông môn ty, nếu đủ năm hạn được thăng chuyển chức quan mà chưa thuộc hàng Hoàng thành sứ, nếu không có chỉ đặc biệt thì không được cải chuyển sang chức Dao quận.”
[38] Tả triều nghị đại phu, Quang lộc khanh Đỗ Hi được bổ làm Trực bí các, Đề cử Hồng Khánh cung. Tả triều phụng đại phu, Bí các hiệu lý, Thái thường thiếu khanh Thịnh Kiều được bổ làm Trực tập hiền viện, Tri Việt châu, đều theo lời xin của họ. Thịnh Kiều chẳng bao lâu thì mất, được tặng 100 tấm lụa.
(Việc tặng lụa căn cứ theo 《Chính mục》 ngày 22 tháng 9, nay phụ chép vào đây.)
[39] Ngày Tân Mùi, Đại Lý bình sự Lương Tử Kỳ tâu: “Quan viên phạm tội, nếu cần xét đến người tiến cử, xin từ nay về sau khi hội hỏi người có liên quan thì vẫn theo lệ cũ mà xét định. Lại nữa, nếu người phạm tội có liên quan đến người từng được Đại Lý tự tiến cử, xin cho các chức Thừa, Tư trực, Bình sự trong tự này theo quy định của 《Nguyên Hựu biên sắc》, nếu có điều hiềm nghi thì được phép xin hồi tị, tự trình bày, rồi cử quan khác xét định.” Được chấp thuận.
[40] Ngày Nhâm Thân, Tư chính điện học sĩ, Tri Vĩnh Hưng quân Lý Thanh Thần được bổ làm Tri Thành Đức quân. Bảo văn các trực học sĩ, Tri Thành Đức quân Tạ Cảnh Ôn được bổ làm Tri Dương châu. (Ngày 18 tháng 4 năm thứ 8, Thanh Thần lại được đổi làm Tri Thành Đức quân theo sắc chỉ của Lại bộ.) Tư chính điện học sĩ, Tri Dương châu Vương Tồn được bổ làm Lại bộ thượng thư.
(《Thực lục》 chép ngày 17, nay theo 《Chính mục》.)
[41] Ngự sử đài tâu: “Việc mượn dụng vật của quan, phải báo trước ngày tháng hoàn thành việc cho cơ quan cho mượn. Nếu mượn vật của quan quá số lượng quy định mà sau 5 ngày hoàn thành việc không trả lại, thì báo cho cơ quan thuộc quyền thu hồi.” Được chấp thuận.
(Bản mới bỏ đi.)
[42] Tả triều nghị đại phu, quyền Công bộ thị lang Lý Chu được bổ nhiệm làm Tập hiền viện học sĩ, tri Bân châu. Ban đầu, Chu từ chức Thiểm Tây vận sứ được triệu về làm Thái thường thiếu khanh, rồi quyền Công bộ thị lang. Có người dâng tấu luận tội Chu ở Thiểm Tây tự tiện thân đảng, Chu cũng tự xin bổ nhiệm ngoại châu, nên được bổ làm Tập hiền viện học sĩ, ra ngoài trấn thủ[6]. Tập hiền viện học sĩ từ khi thực hiện chế độ quan chế không còn bổ nhiệm, Chu là người đầu tiên được bổ. Sau đó, có chiếu rằng Tập hiền viện học sĩ nếu là người từng giữ chức quyền thị lang trở lên, thì thứ bậc xếp trên Thái trung đại phu.
(Chu quyền Công bộ thị lang vào ngày 18 tháng 12 năm trước, thứ bậc được quy định trong chiếu ngày 28 tháng nhuận, nay ghi chung lại. 《Cựu truyền》 về Lý Chu chép: “Chu thân thiết với Tôn Cố, khi Vua lên ngôi, Cố tham gia đại chính, chiếu bổ Chu làm Chức phương lang trung.” 《Tân lục》 biện rằng: “Đại thần tiến cử người cùng phe, là chức trách. Nếu người đó có thể dùng, dù là thân cận cũng không tránh. Nếu việc triệu Chu quả thật do Tôn Cố, sao biết Cố không phải là tiến cử nhân tài mà chỉ vì thân thiết? Nên xóa 11 chữ.” Xét: Chu được bổ Chức phương lang trung vào ngày 9 tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 8. 《Cựu truyền》 lại chép: “Vào chức quyền Công bộ thị lang, có người dâng tấu luận tội Chu ở Thiểm Tây tự tiện thân đảng, Chu cố xin ra ngoại châu, được bổ làm Tập hiền viện học sĩ, tri Bân châu. Từ đó, các ân điển đều ngang với đãi chế, bắt đầu từ Chu. Có người lại dâng tấu luận tội Chu nhờ cậy may mắn, làm rối loạn danh khí, nhưng triều đình không sửa đổi.” 《Tân lục》 biện rằng: “Theo
Thiệu Bá Ôn trong 《Biện vu》: ‘Chu từ quyền thị lang ra ngoài, triều đình không muốn cho đãi chế, nên bổ làm Tập hiền viện học sĩ. Tập hiền viện học sĩ từ khi thực hiện chế độ quan chế không còn bổ nhiệm, các ân điển tiến cử như tu soạn, nghi vật như quyền thị lang.’ Việc nói rằng các ân điển ngang với đãi chế, làm rối loạn danh khí, vốn không có, chỉ là ý kiến cá nhân để vu cáo, nên xóa 30 chữ.” 《Cựu lục》 lại chép: “Năm Thiệu Thánh thứ 4, vì liên quan đến phe đảng gian thần cùng nhau làm ác, bị truy giáng làm Đoàn luyện phó sứ Đường châu.” 《Tân lục》 biện rằng: “Gian đảng cùng làm ác, là lời vu cáo thông thường, nên xóa 6 chữ.” Thiệu Bá Ôn trong 《Biện vu》 chép: “Tể tướng Lã không lập đảng, môn hạ không được tiến dụng, thích Tần Quan nhưng không dám bổ chính quán chức, nên sáng lập chức Hiệu hoàng bản thư để dùng. Lý Chu từ thời Hi Ninh làm Giám ty, đến Nguyên Hựu làm Tỉnh lang, Thái phủ khanh, quyền thị lang, được bổ làm Thiểm Tây đô chuyển vận sứ, không dám cho đãi chế, nên bổ làm Tập hiền viện học sĩ. Tập hiền viện học sĩ từ khi thực hiện chế độ quan chế không còn bổ nhiệm, các ân điển tiến cử như tu soạn, nghi vật như quyền thị lang. Đầu thời Thiệu Thánh, Chương Đôn bị Thái Biện hặc tội, vì việc Tể tướng Lã bổ Lý Chu làm Tập hiền viện học sĩ, bổ Tần Quan làm Hiệu hoàng bản thư, nên bị trách phạt, chết nơi biên ải, thật đáng thương.” Xét: Lúc Lã Đại Phòng bị trách phạt, đâu chỉ hai việc này. Nhưng hai việc này cũng là do Chương Đôn và Thái Biện chỉ ra.)
[43] Thái tử Thái bảo trí sĩ Trương Phương Bình từ chối ân mệnh làm Tuyên huy sứ, dâng tới bốn chương. Chiếu chỉ chấp thuận.
(Ngày 6 tháng 7 bổ nhiệm chức sứ.)
[44] Kinh lược sứ Chương Tiết của Hoàn Khánh lộ tâu: “Kinh lược sứ trước là Phạm Thuần Túy tấu rằng, trại Hoa Trì của Khánh châu và trấn Hoa Trì nằm hai bên sông, hai thành cách nhau quá gần, lãng phí tiền của và nhân lực phòng thủ, xin bãi bỏ trại Hoa Trì, chỉ lấy trấn Hoa Trì làm trại. Thần thấy rằng việc bãi bỏ trại Hoa Trì tuy cách trấn Hoa Trì một con sông, khoảng cách hơi gần, nhưng lại là nơi khống chế con đường xâm nhập của quân Tây Nhung. Phía nam hai trại là một con sông lớn, chảy thẳng vào địa giới các châu Phu, Diên, Phường, Khánh, lo ngại rằng khi có biến, giặc Tây xâm phạm biên giới, có thể tiến sâu vào, gây hại không nhỏ. Xin giữ lại cả hai trại Hoa Trì, lệnh cho trại chủ ở trại, giám áp ở trấn, cùng quản lý, và chia làm trại Đông và trại Tây.” Triều đình đồng ý.
[45] Ngày Quý Dậu, ban chiếu: “Từ nay, việc huấn luyện mùa đông của bảo giáp ba lộ, các huyện có dưới 1.000 người và dưới 5 đô bảo, chia làm một tháng; huyện có 1.000 người trở lên, hoặc từ 6 đô bảo trở lên, chia làm hai tháng; huyện có 1.500 người trở lên, hoặc từ 10 đô bảo trở lên, chia làm hai tháng. Phải đảm bảo đủ cung nỏ, bãi tập và nhà cửa. Nếu không đủ, thì theo quy định cũ.” Trước đó, các Ty đề hình kiêm đề cử bảo giáp của các lộ xem xét, thấy việc gộp tháng để tập trung huấn luyện là thuận tiện, nên có chiếu này.
[46] Đại Lý tự tâu: “Quân phối không được phép đặc cách đổi chỗ. Những người đã đổi chỗ ở kinh thành, nếu phạm tội từ trượng trở lên, đều phải chịu hình phạt nặng hơn theo tội cũ. Nếu tự thú và đã đổi chỗ, sung làm thợ trong xưởng, mà phạm tội từ trượng trở lên, không phải tội trộm cắp hoặc các tội khác nặng, thì được miễn.” Triều đình đồng ý.
[47] Ngày Giáp Tuất, Thái bộc tự tâu: “Cùng với Tả sương xem xét lợi hại, Ngụy công Đán đề điểm các giám ty, Đoạn Xước tuân theo phỏng vấn ở Vận châu Đông Bình giám, xin tăng thêm chuồng trại, và đợi đến khi tăng thêm số ngựa sẽ tâu xin chỉ dụ.” Lại tâu: “Vệ châu Kỳ Thủy giám xin đổi thành Đệ nhất giám, nuôi dưỡng và sinh sản đàn ngựa. Lại đặt Đệ nhị giám[7], nuôi dưỡng và huấn luyện hai nghìn con ngựa tạp.” Đều được chấp thuận.
[48] Ngày Đinh Sửu, giáng chức Thừa nghị lang, Giám Vĩnh châu Diêm là Hình Thứ được gia hạn một kỳ xét lại.
(Hình Thứ bị khiển trách vào ngày 28 tháng 5 năm thứ 4. Việc này theo 《Chính mục》 thêm vào.)
[49] Ngày Mậu Dần, Hộ bộ tâu: “Các quan thân sự ở Lục tào, Tự, Giám, nếu là người chịu trách nhiệm đưa đón hoặc người canh gác ngục, do vi phạm mà bỏ trốn, hoặc đã bị cách chức, không được phép quay lại bản ty. Nếu tội trước không nghiêm trọng, sau một năm, được phép đến các ty khác xin nhận chức, tính từ ngày xét xử; nếu được ân xá đặc biệt mà được miễn tội, nhưng trước đó chưa từng xét xử, thì tính từ ngày được ân xá. Trong đơn phải ghi rõ lý do phạm tội trước, thời gian, triệu tập hai người bảo lãnh, xác minh với ty cũ, quan chức phụ trách xem xét rồi mới thu nhận. Nếu che giấu lỗi lầm, hoặc đổi tên họ, đến bản ty hoặc các ty khác xin nhận chức, sẽ bị đánh 60 trượng. Người bảo lãnh nếu biết tình, sẽ cùng chịu tội; không biết, giảm hai bậc. Cho phép người tố cáo, mỗi người được thưởng 10 quan tiền.” Được chấp thuận.
(Sách mới không có.)
[50] Ngày Kỷ Mão, Hình bộ tâu: “Xử án tử hình, nên phân loại theo tội danh, mỗi nửa năm vào mùa xuân và mùa thu báo lên. Vẫn ghi chép số lượng đến cuối năm, so sánh với số lượng xử án năm trước, theo quy định làm sổ sách, hạn đến mùa xuân năm sau dâng lên.” Vua đồng ý.
[51] Ngày Canh Thìn, xuống chiếu giáng chức Hoàng thành sứ, quản câu chùa Linh Tiên ở Thư Châu là Tống Dụng Thần, cho phục chức Thứ sử Trung Châu.
(Theo 《Chính mục》: Ngày 24, Tống Dụng Thần được phục chức Dao thích. Ngày mùng 4 tháng 9, Phạm Tổ Vũ dâng sớ xin thu hồi. Nay kèm theo tấu nghị của Tổ Vũ, lại ghi vào ngày 25.)
[52] Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ dâng sớ xin thu hồi chiếu thư, nói: “Thần trộm nghĩ Tống Dụng Thần mọi việc xây dựng đều là hại dân, đại hưng thổ mộc, không lúc nào ngừng nghỉ. Bệ hạ mới lên ngôi chưa đầy mười ngày, mọi việc Dụng Thần phụ trách đều bị đình chỉ, dân chúng kinh thành không ai không vui mừng. Dụng Thần sử dụng tài vật của triều đình, các cơ quan không thể tính được số lượng nhiều ít, việc tham ô mờ ám đều không thể biết, đây là kẻ đại tặc của quốc gia, kẻ đại đốc của dân chúng, nên đày ra nơi xa xôi để tạ lỗi với muôn dân. Bệ hạ ban đầu chỉ dùng hình phạt nhẹ, nay lại cho phục chức Dao quận Thứ sử, thì các chức Châu đoàn luyện, Phòng ngự sứ về sau đều sẽ lần lượt được phục chức theo thời gian, như vậy làm sao răn đe được kẻ gian ác! Thần mong Bệ hạ xét lại tội ác của hắn, vĩnh viễn không cho phục chức.” Chiếu chỉ cho Dụng Thần đợi khi mãn nhiệm kỳ hiện tại sẽ xin chỉ dụ.
[53] Trước đó, Lã Đại Phòng bàn với đồng liêu rằng cung điện Nam Đô không được tu sửa, có thể dùng 50.000 quan để sửa chữa, bèn điều Dụng Thần làm quản hạt cung Hồng Khánh, sai lo liệu việc này. Vương Nham Tẩu bí mật viết thư ngắn báo cho Đại Phòng và Lưu Chí rằng: “Nếu lại dùng Dụng Thần lo việc thổ mộc, chắc chắn sẽ dấy lên dư luận.” Chí rất tán thành, nhưng Đại Phòng không trả lời. Hơn nửa năm sau, Dụng Thần lại được phục chức, rồi bị bãi chức.
(Ngày mùng 4 tháng 9, thu hồi mệnh lệnh phục chức Thứ sử Trung Châu, nay ghi chép lại. Lã Đại Phòng muốn sai Dụng Thần sửa chữa Nam Kinh, theo ghi chép của Vương Nham Tẩu ngày 28 tháng 3. Ngày 22 tháng 8 năm thứ 7 có thể tham khảo. 《Cửu triều kỷ sự bản mạt》 chép: “Lã Đại Phòng, Lưu Chí là bè đảng.”)
[54] Hộ bộ tâu: “Những huyện bị thiên tai được miễn thuế đến bảy phần, nếu lương thực cứu tế không đủ, thì quan lại khuyên nhủ các nhà tích trữ, bán ra với giá giảm. Hoặc cho các hộ nghèo thiếu vay tiền, lương thực, tuy có lãi, nhưng khi mùa màng thuận lợi, quan sẽ xử lý. Nếu vẫn không đủ, thì phải báo trước số hiện có và số dự tính sử dụng lên triều đình.” Triều đình đồng ý.
[55] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu: “Từ nay các quan giám sứ tả hữu sương, theo lệ cũ của Ty Giám mục Hà Nam, Bắc, do quan đề điểm tiến cử.”
[56] Cùng ngày, quân Hạ với 15 vạn người xâm lược, bao vây châu Lân và các trại Thần Mộc, các tướng không dám giao chiến, dân Hán và Phiên bị giết hại, cướp bóc, nhà cửa bị đốt phá, gia súc bị bắt đi rất nhiều.
[57] Trước đó, Tri phủ Thái Nguyên Phạm Thuần Nhân nghe tin việc bàn bạc về việc phân chia địa giới ở Hi Hà đã lâu mà chưa quyết định, sợ rằng các quan biên giới không giữ đại tín, khiến cho rợ Di nghi ngờ, bèn dâng sớ tâu rằng: “Thần trộm thấy từ khi Bệ hạ lên ngôi đến nay, đã vỗ về nhu phục Tây Nhung, ân đức đầy đủ, đến việc sách phong, ban đất đều do Thánh ý quyết định, khiến cho trong nhiều năm, quân giặc không dám xâm phạm trại, dân Phiên, Hán được sống yên ổn vô số, đức hiếu sinh cảm đến trời cao. Vì thế mà mùa màng bội thu, bốn biển no đủ vui vẻ, đó là việc thịnh trị của đế vương, là gốc lớn của thái bình. Gần đây nghe đồn rằng các quan biên giới Hi Hà bàn việc phân chia địa giới, tiếc nuối những vùng đất trại đã bỏ hoang lâu ngày, cho là nơi hiểm yếu, chưa muốn ban cấp, khiến họ cứng đầu không nghe, dẫn đến việc chưa thể rút quân, việc biên giới khó giải quyết. Thần sợ rằng tích nghi sẽ hỏng mưu, việc lâu sẽ sinh biến, nếu chẳng may có kẻ gian gián dò xét, lại khiến họ trở nên ngang ngược. Nếu khoan dung thì tổn hại uy nước, nếu đánh dẹp thì bài học trước chưa xa. Binh lính liên tục không nghỉ, hao phí vô cùng. Nếu lại gặp nạn đói kém liên tiếp, quân dân thiếu lương, thì dù có bề tôi mưu trí cũng khó bề tính toán. Như vậy thì công lao thiếu một bước, bỏ hết ơn xưa. Thần mong Bệ hạ hãy lưu tâm sâu sắc, chuyên lo viễn đồ, đừng bỏ dễ làm khó, đừng vì nhỏ mà hại lớn, xét lại ước cũ, ban chỉ đặc biệt cho phép, tuân theo lời vui trời của Mạnh Tử, noi gương đức múa can của Vua Thuấn, thì thiên hạ may mắn biết bao. Thần được ơn sâu, chức vụ liên quan đến biên giới, lo nghĩ quá mức, không thể im lặng, chỉ mong Bệ hạ thương xét, rộng lượng thu nhận.”
[58] Lại nói: “Tư Mã Quang vì bệ hạ trình bày kế sách bỏ trại, cùng việc sau này đổi trao dân sống, và ban tặng sách phong, thần thực sự đều tham gia bàn bạc. Những kẻ mờ mắt vẫn còn nhiều người không cho là phải, đến khi triều đình ra sức thực hiện, lời bàn tán mới lắng xuống. Nay với Tây Hạ, thể chế quân thần đã định, chỉ còn việc phân chia địa giới, sự so đo không nhiều. Nếu cách thành trại hai mươi dặm trong, dù là di địch không biết chán, cũng có thể dùng lý lẽ để khuyên dụ, ắt họ sẽ nghe theo. Theo ý thần ngu muội, chỉ sợ tướng biên tham công sinh sự, không muốn ngừng binh, đem việc cách thành trại hai mươi dặm ngoài, thánh ân đã cho phép ban tặng, hoặc những nơi trước đây dùng binh chưa từng giữ được, chỉ ra là yếu hại, lại muốn xây thành chiếm giữ, thì làm tổn hại đại tín của triều đình, sai lầm kế hoạch trước của quốc gia, không thể không xem xét. Có người bàn rằng di địch không biết chán, cho họ, ắt sẽ còn đòi hỏi thêm. Thần nghĩ rằng thời tổ tông, binh thế quốc lực còn nhân Đức Minh quy thuận, ban cho mấy châu, Nguyên Hạo xưng thần, thêm hiệu quốc chủ. Đó là muốn yên dân ngừng chiến, không vì lợi nhỏ mà chơi binh. Sau này nước họ quả nhiên tự phục tùng, cũng chưa từng có xâm phạm, huống chi ngày nay sự tổn hại lợi ích rất nhỏ? Chỉ mong thánh minh suy nghĩ sâu xa. Xưa Phàn Khoái muốn đem mười vạn quân tung hoành trong Hung Nô, Quý Bố chỉ ra là lời nói dối. Lời nói của vũ phu biên tướng phần nhiều như thế, đã làm sai lầm không ít cho triều đình trước, nay có thể lấy làm gương.”
[59] Lại tâu rằng: “Thần gần đây dâng sớ, vì nước Hạ phân chia địa giới chưa xong, sợ tướng biên tham đất mất lòng tin, lại dẫn đến dùng binh. Những điều trình bày về lợi hại đã rõ ràng, chắc đã thấu đến tai bệ hạ. Gần đây thấy chỉ huy của Xu mật viện và các nơi báo cáo, người Tây thường điểm binh xâm phạm đất Hán, hoặc nghe rằng tướng biên cũng nhân đó mong lập công mà hành động trước, sợ đến mùa thu mát mẻ lại gây họa biên giới. Thần vì thế ngày đêm lo lắng, không thể im lặng. Thần thấy bệ hạ ban đầu cùng Tư Mã Quang bàn định kế lớn, nay lại vì lời bàn tham lam của tướng biên mà cản trở kế hoạch xa. Trước đây bỏ bốn trại đã thành, đổi lấy dân, để tỏ đức coi nhẹ đất đai yêu thương dân. Nay lại nghe đồn giữ lại hai đồn vốn không giữ, gây thêm sự cố, dẫn đến họa binh đao, làm mờ đi sự giáo hóa của thánh quân, tiến lên mưu tính lợi lộc, thì việc đúng sai nặng nhẹ không cần nói rõ. Bởi tướng biên tham đất ngày nay, phần nhiều là đồng đảng gây sự trước kia, triều đình nếu không sớm tỉnh ngộ, sợ lại đi theo vết xe cũ, khiến ân đức của thánh thượng không thấu đến dưới, uy trời không dùng nghĩa mà động, dân chúng chịu hại, tai họa sau này khó lường. Thần lo nghĩ, thực ở chỗ này.
Gần đến ngày Khôn Thành, người Hạ vào triều cống, nếu có thỉnh cầu gì, cũng không đến nỗi trái ngược. Mong bệ hạ từ bi, đặc biệt cho tiếp nhận, hoặc sai người áp giải tuyên dụ, việc phân chia địa giới sớm cho tiến hành, hoặc tướng biên chưa thông đạt, chiếu chỉ triều đình có chỗ chưa rõ, cho phép tâu trình, đợi triều đình xem xét chỉ huy. Sau đó nghiêm cấm tướng biên phân chia địa giới, đều theo chiếu chỉ đã ban, không được làm mất lòng tin lớn, gây thêm sự cố, thì việc dân yên bỏ vũ khí có thể mong đợi, thiên hạ may mắn lắm. Sớ trước đây của thần, xin xem xét lại, đặc biệt thu nhận. Từ triều Chân Tông giảng hòa với Khiết Đan, vỗ về có đạo, hai nước thông hiểu, kẻ tiểu nhân không dám gây sự gián điệp, đến nay gần trăm năm, dân chúng yên ổn, từ xưa hòa với rợ, chưa từng có. Nay nước Tây Hạ tuy nhỏ, cũng không thể coi thường. Huống chi từ khi dấy binh, ân tín chưa đủ, động thì sinh nghi ngờ. Thêm vào đó tướng biên quen được thưởng hậu, thích gây sự cầu công, phần nhiều tự mình gây ra, lại nói người Tây xâm phạm, gây họa biên giới, triều đình không biết, khiến tình hình di địch không thông đạt. Tệ này không trừ, khó được yên ổn. Mong triều đình thường xuyên xem xét.”
Dâng sớ nhiều lần không được trả lời. Đến lúc này, bèn nhận tội tự hặc, xin bị khiển trách. Lại dâng sớ nhiều lần, bèn điều đi Hà Nam.
(Ngày 9 tháng 11, điều đi Hà Nam. Ngày 18 tháng 12, giáng làm Trung đại phu. Hành trạng của Phạm Thuần Nhân chép: “Phân chia địa giới Hi Hà, tướng biên lấy hai vùng đất không canh tác làm nơi khống chế mà không cho, nên kéo dài không quyết. Ông bèn tâu rằng: ‘Thần cùng Tư Mã Quang bàn kế bỏ trại, vì bệ hạ bàn kế lớn về đất đai, để tỏ đức coi nhẹ đất yêu dân. Nay sẽ tích nghi bại mưu, lại giữ hai đồn, sẽ gây thêm sự cố, dẫn đến họa sau. Mong chiếu tướng biên sớm phân chia, đều theo chiếu chỉ đã ban.’ Ba lần dâng chương, và xin ghi lại cho tướng biên. Người Hạ xâm phạm Lân, Phủ, Thần Mộc trại không được gì mà rút, triều đình còn trách tướng lại. Ông không biện bạch gì, nhiều lần dâng sớ chịu tội. Vua nói: ‘Không được gì mà rút, có tội gì.’ Ông cứ xin mãi, nói: ‘Không phải tướng lại thất luật, mà là tội của thần. Vua thưởng phạt phải công minh, không thể vì lão thần mà khuất.’ Bất đắc dĩ, giáng ông một chức, điều đi Hà Nam phủ.” Ngày 27 tháng 1 năm Thiệu Thánh thứ 3, Xu mật viện tâu, cần xét lại.)
[60] Ban đầu, ở Hình bộ có vụ án cướp giết người, Thị lang Bành Nhữ Lệ dẫn theo điển lệ, xin gia ân tha tội và đày đi. Các quan chấp chính không cho là phải theo lời Nhữ Lệ, bèn hạ chỉ đặc biệt xử tử cả. Nhữ Lệ cố chấp không nghe, trong một tờ tâu viết: “Thần xét kỹ, Hình bộ từ thời tổ tông đến nay vẫn kết hợp giữa pháp luật và điển lệ. Kẻ cướp giết người, không phân biệt thủ phạm hay tòng phạm, theo pháp đều phải chết. Kẻ cướp một lần và kẻ trộm giết người, nếu không phải là thủ phạm và trước đó không bàn bạc giết người, sau đó trong lúc hành động mới giết người, hoặc giết người mà không thấy, không nghe, không biết, hoặc từng có lời hối cải, theo điển lệ đều được tha, trước sau rất nhiều. Lại xét kỹ vụ Lưu Kiệm trước đây không phải là kẻ cướp, sau bị Dương Tông lôi kéo, cướp tài sản nhà Lưu Bảo đến nhà mình, đợi người ra. Lưu Kiệm vì đi bộ mệt, ngủ trên đất tại chỗ đó. Chủ nhà Lưu Đàm mở cửa ra, Dương Tông đâm Lưu Đàm bị thương, rồi vào trong nhà cướp phá, đâm Lưu Thanh, Lưu Bảo bị thương. Dương Tông trói Lưu Thanh lại, lúc đó Lưu Kiệm vừa tỉnh giấc vào trong nhà, Lưu Kiệm kêu lên: ‘Đừng làm hại người ta.’ Đều ứng với điển lệ trước đây về kẻ cướp một lần không phải thủ phạm, và không bàn bạc giết người, sau đó trong lúc hành động mới giết người, và lúc giết người không thấy, không nghe, không biết, cùng từng có lời hối cải, nên được tha. Hình bộ một lần trình bày nguyên do, xin chỉ thị, được phụng thánh chỉ xử theo. Sau đó lại xét kỹ trình bày nguyên do, tâu lên Đô tỉnh, xin xem xét lại chỉ thị và quan Hình bộ đến Đô đường trình bày. Thần cũng cùng với Phạm Thuần Lễ trong bộ đến chỗ Tể tướng trình bày, đều không được nghe. Thần đã hết lời, thần đã kiệt sức, không còn gì để nói nữa.
Vì nay Hình bộ tuy đã giao cho Khai Phong phủ thi hành, nhưng cần Ngự sử đài xem xét, mong bệ hạ thương xót, đặc biệt ban chỉ thị, hạ lệnh cho Ngự sử đài lấy các án từ trước đến nay và điển lệ, xem xét kỹ lưỡng, xin chỉ thi hành, để có thể thực hiện lòng thương xót của người xưa, giữ trọn đức hiếu sinh của hai bậc thánh, trên giữ được câu chuyện của tổ tông, dưới yên ổn với chức phận của các quan. Nếu triều đình cho rằng lời thần bàn là không đúng, dù bị lưu đày cũng không từ chối.”
[61] Tờ tấu thứ hai viết: “Thần xét thấy gần đây Khai Phong phủ tâu rằng quân nhân Trương Toàn vì giết chết A Tô, nên xử tử. Thần nghĩ rằng ân đức của tổ tông rộng lớn, pháp lệnh khoan hồng giản dị, phong hóa thấm sâu vào lòng người. Vì vậy, các cơ quan xem xét kỹ lưỡng hồ sơ, trên dưới đều lấy việc thương xót làm trọng. Mỗi khi có việc gì đáng nghi, bàn luận đi bàn luận lại, đến ba bốn lần, lời nói không lúc nào không hướng về sự khoan hồng. Đến như án tử hình, tất phải khi không còn cách nào khác mới dám thi hành. Sự thận trọng trong việc dùng hình phạt như vậy, thời trước chưa từng có. Nay triều đình một ngày vạn việc, không thể để ý đến những việc nhỏ, việc xét rõ tình thực tất không thể sâu sắc như các cơ quan, việc xem xét hồ sơ tất không thể kỹ lưỡng như các cơ quan, việc áp dụng điều lệ tất không thể thuần thục như các cơ quan. Nay các cơ quan đều cho rằng không nên giết, mà triều đình lại nhất định cho rằng nên giết, như vậy là triều đình dám giết người, mà không dám để người ta sống. Sự yêu ghét của triều đình, các cơ quan lấy làm khuôn mẫu; việc làm của triều đình, các cơ quan lấy làm tiền lệ. Trên có điều gì ưa thích, dưới tất sẽ làm quá hơn. Nay triều đình bàn luận hình phạt muốn nặng, thì các cơ quan đều sẽ lấy việc xử nặng làm trọng, tệ hại sẽ đến ngay. Việc làm của triều đình, các cơ quan sẽ lấy làm tiền lệ. Trước đây, kẻ cướp không tham gia mưu đồ thì được tha, nay giết; kẻ cướp giết người mà không biết thì được tha, nay giết. Từ đây, việc giết người sẽ không thể đếm xuể, làm tổn hại không nhỏ đến đức hiếu sinh của hai thánh, điều này không thể không thận trọng.
Thần kính nghĩ Thái hoàng thái hậu, Bệ hạ đại nhân bao la, bao trùm cả trời đất, dù một ngọn cỏ, con kiến còn muốn yêu thương bảo vệ, huống chi là con người! Thần mong Bệ hạ nếu có thể để người ta sống, thì có gì phải tiếc! Chấp chính nổi giận, hạ chỉ trách phạt quan lại Hình bộ, mà tha cho Nhữ Lệ không hỏi tội. Nhữ Lệ nói rằng mình ngu dốt, không quen việc hình danh, tham ân mạo muội, hành động thường sai lầm.
Thần xét kỹ theo lệnh công thức thời Nguyên Hựu, những việc đã tâu lên mà lý lẽ có chỗ bất tiện, phải nhanh chóng tâu rõ lợi hại. Thần thấy án của Hứa Vạn v.v. liên quan đến sinh tử, dù đã có chỉ, vẫn không dám quyết định, nên lại làm tờ tấu tâu lên Thượng thư tỉnh, xin được xem xét kỹ lưỡng hơn. Những bàn luận này phần nhiều do thần khởi xướng, nay các quan lang và lại viên đều bị trách phạt, chỉ riêng thần được miễn, thực không yên lòng, xin được chịu hình phạt nghiêm minh để răn đe kẻ bất cẩn. Thần hiện đang kiêm quyền Thị lang Lại bộ, không dám tiếp tục làm việc, xin về nhà chờ chỉ.”
[62] Lại tâu: “Thần vừa được ơn sai làm sứ đi chúc mừng sinh thần hoàng đế nước Bắc triều, đã nhận mệnh, nay thần vì bàn việc hình không đúng, đã tâu xin minh chính điển hình để trừng trị kẻ bất kính, xin chiếu cải sai quan khác đi thay.”
[63] Lại tâu: “Trung thư tỉnh tâu việc thỉnh cầu trên, chưa có thể lệ. Thần xét lại lệnh thức trước đây, nghĩ rằng việc thiên hạ dù thánh nhân cũng không thể không có sai lầm, sai mà có thể cứu được, thì dù sai cũng không phải là sai. Vì thế mệnh lệnh ban ra, Thượng thư tỉnh khám xét, Trung thư tỉnh xin chỉ, Môn hạ tỉnh phong bác. Nếu có điều bất tiện, các cơ quan được bàn luận, đó không phải là việc làm bừa. Hình phạt không gì nặng bằng giết người, nay giết người có nghi vấn mà không được bàn, đó là sai lầm lớn. Kẻ dưới dám tranh luận với kẻ trên, rất khó; kẻ trên có thể khiến kẻ dưới nói ra ý kiến, cũng rất khó. Nay triều đình nắm quyền thị phi, tự ý định họa phúc, đối với các cơ quan, thật đáng sợ, khiến họ phải tranh luận. Đến khi dùng uy quyền trách phạt, ai còn dám nói nữa? Nay các cơ quan tuân thủ pháp luật, đến khi có chỉ đặc biệt, thì không phải việc các cơ quan được quyết định. Nay giết người đã là việc lớn, nếu có việc lớn hơn giết người mà có sai lầm, các cơ quan há không được xin chỉ sao? Nay giết một tên cướp mà thôi, nếu giết nhiều người mà có sai lầm, các cơ quan há không được xin chỉ sao?”
[64] Lại nói: “Gần đây Hình bộ nhận được công văn từ tả tào của Hộ bộ, theo chiếu chỉ xử phạt quan lại. Thần đã dâng tấu trình bày rõ, xin giáng chức và đuổi đi, trừ một chức vụ ở phía đông nam đã hoàn tất. Vì các việc trình báo đều có lý do và tình tiết, cùng các điều lệ trước sau cần phải phân tích rõ từng việc. Trừ Hứa Vạn đã được triều đình tha tội và phối lưu, không cần phân tích thêm, còn Trương Toàn, Lưu Kiệm tuy có các tội danh, nhưng đều có tình tiết đáng thương, nay xin trình bày sơ lược đầu đuôi, để biết rằng việc các cơ quan trình báo không phải là vô căn cứ. Mẹ của Trương Toàn là A Khai, từ nhỏ bị cha bỏ rơi, A Khai không được nuôi dưỡng. Sau khi cha chết, mới được sống chung với mẹ mà không chia tách. A Tô đưa mẹ A Khai đến nhà Mã Bộc Xạ làm việc nấu ăn may vá, bị người ta chê bai, cho là nhục nhã. Đến khi A Tô xúi giục mẹ đòi chia tách, Toàn không chịu nổi, đã nhảy sông và tự tử nhưng không chết, sau đó vì thế mà giết chết A Tô. So với việc cố ý giết người, tình tiết này khác biệt. Hơn nữa, sau khi sự việc chưa bị phát giác, Toàn đã tự khai ra lý do giết người và tự nộp mình, tương tự như trường hợp Thi Mãn ở Hưng Hóa Quân mưu sát được tha tội và phối lưu. Lưu Kiệm nhận lời kết giá của Dương Tông, ban đầu không hề tính toán mưu sát, đuổi giặc đến cửa ngoài, vì ít người nên không dám dùng vũ lực, chỉ đứng ngoài cửa giữa đợi chủ nhà bị thương ra. Lưu Kiệm vì bị bệnh chân, nên đến đó ngủ quên không kịp. Khi chủ nhà mở cửa, Lưu Đàm và Dương Tông vào cửa giữa gây thương tích. Lưu Kiệm tỉnh dậy chạy vào cửa giữa, miệng nói ‘Đừng làm hại người khác’, chủ nhà bị thương cũng nghe thấy lời này. Từ trước đến nay, trong các vụ cướp không gặp chủ nhà bị thương, đều có lệ tha tội và phối lưu.”
Nhữ Lệ trước sau dâng tấu khoảng năm sáu lần, nhưng không được chấp thuận, vẫn có chiếu chỉ bảo Nhữ Lệ nhanh chóng về bộ nhận chức.
[65] Quý Mùi, (ngày 27 tháng 8 nhuận), Nhữ Lệ lại tâu: “Thần nhiều lần dâng sớ xin đặc biệt giáng chức và đuổi đi, không dám đến bộ nhận chức, chiếu chỉ bảo phải nhanh chóng đến bộ nhận chức. Thần kém cỏi, đã tự đánh mất chức vụ, lại dùng lòng thành ngu muội dám làm phiền đến ba bốn lần, run sợ, ăn ngủ đều bỏ. Thần nghĩ rằng bề thần nhìn Vua, sự tôn kính như trời đất, sự thân thiết như cha mẹ. Vạn vật không thể thoát khỏi sự che chở của trời đất, con người không thể một ngày xa rời cha mẹ. Nếu kẻ ngu muội không giữ được chức vụ, kẻ hèn kém làm hỏng việc, thì kẻ dưới không dám yên ổn, người trên cũng không dùng được nữa. Lại nghĩ thần là kẻ tội lỗi còn sống, thêm bệnh tật, dám nhận ân mà nhận chức, chắc chắn không thể làm nên việc. Chỉ mong hoàng đế, thái hoàng thái hậu như trời đất cha mẹ, thương xót mà ban cho chức vụ nhàn tản, để thần tự xét lại, giao chức vụ cho người hiền tài, giữ gìn pháp luật nước nhà, để xứng đáng với đức hiếu sinh của hai thánh. Thần dù bị bãi chức, vẫn còn có ích. Thần cuối cùng không dám đến bộ nhận chức, hiện ở nhà chờ chỉ dụ. Kính xin xem xét lại các sớ tấu trước mà thi hành.” Tờ thiếp vàng viết: “Thần trước vì tội lỗi bị điều đi làm tri châu Từ Châu, sau được ân chiếu trở về, đội trời đạp đất, chưa báo đáp được một phần vạn. Lại mất chức, lẽ ra phải tự hặc, nếu thần còn có thể ở lại, sao dám đến ba bốn lần, bất kính là tội. Thần cũng tự biết sẽ bị người đời nói xấu, lại làm ô uế pháp luật nước nhà, chỉ mong được thương xót, ban cho lời đồng ý.” Sáu ngày sau, chiếu cho Nhữ Lệ đổi làm Thị lang Lễ bộ.
(Ngày 4 tháng 9 đổi làm Thị lang Lễ bộ, nay ghi chung. Tằng Triệu trong bài văn bia mộ Nhữ Lệ viết: “Từ Lễ bộ chuyển sang Hình bộ, gặp vụ án, chấp chính cho rằng nên giết, Nhữ Lệ cho rằng nên tha, nhưng chấp chính dùng đặc chỉ giết đi. Nhữ Lệ cố giữ không chịu, chấp chính nổi giận, bỏ qua Nhữ Lệ mà phạt thuộc hạ của ông. Nhữ Lệ nói, nhận chiếu chỉ mà có điều bất tiện, cho phép tâu lên, là phép tắc, hơn nữa không phải tội của thuộc hạ, tự hặc xin từ chức, dâng sớ bốn lần. Ngự sử cũng giúp lời, nên cả thuộc hạ đều được miễn phạt. Nhữ Lệ vẫn chưa ra khỏi, lại chuyển sang Lễ bộ, ban cáo về nhà.” Ngự sử giúp lời, cả thuộc hạ được miễn phạt, nên xem xét kỹ để thêm vào. Lưu Chí nói Nhữ Lệ, Thuần Lễ làm hỏng pháp luật, dung túng kẻ gian, có lẽ là chỉ việc này. Ngày Giáp Tý tháng 8 có thể tra cứu.)
[66] Ngày Giáp Thân, triều đình ra chiếu cho Ty Chuyển vận lộ Hoài Nam điều tra kỹ lưỡng việc Mã Thủ Trân thông đồng với Triệu Quân Tích và Vương Củng, rồi tâu lên. Việc này theo lời tấu của Hữu Chánh ngôn Diêu Miễn.
(Lời tấu của Diêu Miễn vào ngày 28 tháng 8 đã ghi đầy đủ trong sách. 《Thực lục》 đến ngày 28 tháng nhuận mới ghi tóm tắt, cùng với chỉ dụ giao cho Ty Chuyển vận Hoài Nam điều tra kỹ lưỡng. Nay sửa lại và vẫn giữ nguyên 《Thực lục》 ở phần sau, hoặc chuyển toàn bộ chương của Diêu Miễn vào đây, bỏ phần ghi ngày 28 tháng 8. Ngày 6 tháng 10, Vương Củng bị cách chức. Hữu Chánh ngôn Diêu Miễn tâu: “Triều phụng lang Vương Củng trước đây làm Thông phán châu Dương, lấy Mã Thủ Trân, một viên lại trong châu, làm tâm phúc. Sau đó, việc vượt quyền bị phát giác, triều đình giao cho lộ này điều tra. Lúc đó, Vương Củng sai Ngự sử trung thừa Triệu Quân Tích lấy danh nghĩa tuyển dụng, thu nhận Mã Thủ Trân làm viên lại Ngự sử đài. Thủ Trân liền xin nghỉ phép về Dương châu để giúp Vương Củng. Ngự sử đài là nơi căn bản kỷ cương của triều đình, chuyên trách việc sửa sai quan lại. Triệu Quân Tích giữ chức thị tòng, đảm nhiệm trách nhiệm chấp pháp, lấy việc đàn hạch làm nhiệm vụ, không nghĩ đến việc chính tâm phụng sự, lại thông đồng với Vương Củng làm việc gian trá, ngầm kết nối trong ngoài để lừa dối triều đình. Nếu không trừng trị, làm sao ngăn chặn được cửa tư lợi gian tà.” Triều đình ra chiếu cho Ty Chuyển vận lộ Hoài Nam điều tra kỹ lưỡng rồi tâu lên.)
[67] Đô Thủy giám tâu: “Xin cho các lộ dọc sông được tùy nghi sử dụng vật liệu đê điều theo mức độ khẩn cấp và số lượng nhiều ít.” Triều đình đồng ý.
[68] Ty Đề hình lộ Kinh Đông và Kinh Tây tâu: “Các châu quân trong các lộ, nếu các vật dụng trong công khố không phải do tiền ngạch năm mua sắm, trừ khi gặp thời điểm làm rượu hoặc giá cả rẻ mà thiếu tiền chi dùng, nếu không phải là giả mạo để chiếm dụng, thì cho phép cầm cố để ứng phó. Tri châu phải trong nhiệm kỳ thu hồi xong. Ngoài ra, không được cầm cố tiền vật với dân hoặc các kho cầm đồ. Nếu vi phạm, các quan lại liên quan sẽ bị xử phạt theo luật cầm cố văn thư quan.” Triều đình đồng ý.
(Phần mới bỏ.)
[69] Bí thư giám Vương Khâm Thần xin cử Chân Tĩnh đại sư Trần Cảnh Nguyên hiệu đính sách đạo Hoàng bản, mỗi tháng chi tiền 5.000 quan. Chiếu theo lời xin, lại lệnh Bí thư tỉnh soạn mục lục sách đạo giao cho Trần Cảnh Nguyên, căn cứ vào mục lục lấy sách từ Đạo tạng, trước hiệu đính thành bản, cung cấp cho Bí thư tỉnh, ủy quan trong tỉnh đối chiếu hiệu đính.
[70] Cấp sự trung Phạm Tổ Vũ tâu rằng: “Thần trộm nghĩ, tổ tông lập ra Tam Quán và Bí Các là để chiêu đãi hiền tài trong thiên hạ, các bậc công khanh, thị tòng đều từ đây mà ra, không phải chỉ để tích trữ sách vở. Việc đặt ra chức Hiệu lí, Hiệu khám cũng không phải chỉ để hiệu đính sách. Sách Lục Kinh không thể không tôn trọng, đạo của Khổng Tử không thể không làm sáng tỏ. Còn các sách của chư tử bách gia, thần tiên, đạo giáo, Phật giáo, chỉ là để bổ sung thêm sách vở, mở rộng kiến thức, thể hiện sự phong phú của thư viện, chứ không phải để có ích cho việc trị nước. Thời Gia Hựu, tăng thêm chức quan Biên hiệu, sao chép sách vào Hoàng bản, từ đó sách vở càng thêm nhiều, chất đầy bốn quán, mối mọt hoành hành, người trong quán cũng không thể đọc hết và hiệu đính toàn bộ. Nay lại sai đạo sĩ Trần Cảnh Nguyên hiệu đính sách đạo, thần thật không hiểu.
Có người bàn rằng: ‘Thời Hán Thành Đế, Lưu Hướng hiệu đính kinh truyện, chư tử, thơ phú, Hiệu úy Bộ binh Nhâm Hoành hiệu đính binh thư, Thái sử lệnh Doãn Hàm hiệu đính sách số thuật, Thị y Lý Trụ Quốc hiệu đính sách y thuật. Nay sai đạo sĩ hiệu đính sách đạo, cũng giống như vậy.’ Thần trộm nghĩ không phải vậy. Thời Hán, sách được viết trên thẻ tre, trong thiên hạ rất ít, nếu không phải là sách trong bí phủ thì không thể có đủ. Không như đời sau, sách được viết trên giấy, lưu truyền khắp thiên hạ, nơi nào cũng có. Lưu Hướng tổng hiệu đính sách, không phải một người có thể làm xong, nên mới dùng thêm Nhâm Hoành và hai người khác. Nhưng binh thư, số thuật, y thuật đều là những thứ có ích, không phải là dị đoan. Nhâm Hoành và những người kia cũng không phải là người theo dị giáo. Nay trong quán các tập hợp hiền tài trong thiên hạ, lẽ ra phải có những người học rộng biết nhiều, thông thạo sách vở, sao lại để Trần Cảnh Nguyên lấy sách trong đạo tạng, hiệu đính thành bản, giao cho quan trong Bí thư tỉnh đối chiếu, sách đều lấy Cảnh Nguyên làm chuẩn, như vậy chẳng phải là coi thường thể chế triều đình, làm nhục sĩ phu triều đình sao?
Hơn nữa, sách đạo, ngoài Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử đã được đưa vào học quan, còn lại đa phần là hư đản, không đáng tin, các nho gia không đề cập đến. Trong thiên hạ, các danh sơn, cung quán đều có đạo tạng, sách trong quán các chỉ cần có đủ số lượng là được, không cần phải để người ngoài đạo hiệu đính, làm tăng thêm dị đoan. Thời Hán Vũ Đế, Đổng Trọng Thư dâng sách, cho rằng những gì không thuộc Lục Nghệ, không phải đạo của Khổng Tử, đều nên bỏ đi, không để cùng tồn tại. Vũ Đế nghe theo, bãi bỏ trăm nhà, đề cao Lục Kinh. Nay sách trong quán các, từ tiểu thuyết, lời đồn đại, đến những lời truyền miệng, không thiếu thứ gì. Nếu đã để Cảnh Nguyên hiệu đính sách đạo, thì ngày sau sẽ có tăng hiệu đính sách Phật, y quan hiệu đính sách y, người âm dương bói toán hiệu đính sách kỹ thuật, còn lại mỗi người đều theo chuyên môn của mình, đều có thể lấy đây làm tiền lệ, như vậy há phải là ý của tổ tông khi lập ra quán các sao! Thánh vương làm việc, ắt phải phòng ngừa từ nhỏ, mệnh lệnh từ trên ban ra, không thể không thận trọng. Trước đây, thời Hi Ninh, Vương Thiều khai phá Hi Hà, Vương An Thạch sai tăng nhân là Trí Duyên đi theo Thiều[8], dụ dỗ Mộc Chinh, người đời gọi là ‘An phủ đại sư’. Nay ngoài chức quan trong quán, đã đặt thêm chức Hiệu Hoàng bản, lại còn có đạo sĩ hiệu đính sách, người trong thiên hạ ắt sẽ gọi là ‘Biên hiệu đại sư’. Việc tuy nhỏ, nhưng thực sự làm tổn hại thể chế quốc gia, xin đừng thi hành yêu cầu của Bí thư tỉnh.”
(Tổ Vũ tự chú, tờ sớ này dâng lên vào ngày mồng 8 tháng 8 nhuận. Nay phụ vào cuối tháng, việc theo hay không cần xem xét thêm.)
[71] Chiếu bãi việc Thiếu phủ giám chế tạo mũ lễ và đồ trang sức cho Hoàng hậu.
(Ngự tập: Ngày 28 tháng 8 nhuận.)
- Tháng 4 Lữ Huệ Khanh phát binh vào địa giới phía Tây để đánh dẹp, nguyên văn là 'ngày 4'. Xét: Văn trên nói rõ Thần Tông băng hà ngày mồng 5 tháng 3, ngày mồng 6 Triết Tông hạ chiếu xá tội, lệnh các vùng biên giới không được xâm phạm ngoại giới, ngày 16 Tam tỉnh và Xu mật viện cùng gửi văn thư xuống Thiểm Tây, Hà Đông, lại lệnh phải đánh dẹp mạnh mẽ, chỗ này nói ngày 4 phát binh vào địa giới phía Tây rõ ràng là sai. 《Tống sử》 quyển 17, kỷ Triết Tông, năm Nguyên Phong thứ 8, tháng 4 ngày Canh Thìn, Lữ Huệ Khanh sai quân vào địa giới phía Tây, phá sáu trại, chém hơn sáu trăm đầu. Chỗ này 'ngày 4' chắc là sai của 'tháng 4', theo đó mà sửa. ↵
- lại dùng hối lộ để kết thân với viên lại trong triều 'Lộ' nguyên là 'lộ', theo nghĩa văn mà sửa. ↵
- Chữ 'tang' trong 'tang thưởng khóa lợi' vốn thiếu, theo 《Tô Đông Pha tập tấu nghị tập》 quyển 11, mục bàn về sáu việc nợ và kiểm hội bốn việc ứng chiếu cùng thi hành ↵
- 'Tự không thuộc điều khoản trên' nguyên là 'không tu', theo sách trên sửa ↵
- Nguyên văn 'các' sửa thành 'hợp' theo 《Tống hội yếu》 chức quan 17-25. ↵
- 'Viện' nguyên bản viết là 'điện', căn cứ theo văn dưới và 《Tống sử》 quyển 344, Lý Chu truyền sửa lại ↵
- Đệ nhị giám nguyên là Đệ nhất giám. Xét: 《Tống hội yếu》 binh 21-5: 'Vệ châu Kỳ Thủy hai giám, thời Chu Hiển Đức đặt làm Mục mã giám, đầu niên hiệu Kiến Long tu sửa, lại đổi thành Đông Tây Mục long phường, tháng 7 năm Cảnh Đức thứ 2 đổi thành Kỳ Thủy giám, sau lại chia thành Đệ nhất, Đệ nhị giám, tháng 4 năm Hi Ninh thứ 7 hợp lại làm một.' Căn cứ vào đoạn trên 'Vệ châu Kỳ Thủy giám xin đổi thành Đệ nhất giám', chữ 'Nhất' ở đây rõ ràng là nhầm thành 'Nhị', nên sửa lại. ↵
- Vương An Thạch sai tăng nhân là Trí Duyên đi theo Thiều, 'Thiều' nguyên bản là 'Chiếu', theo văn trên mà sửa. ↵