"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 467: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 6 (TÂN MÙI, 1091)

Bắt đầu từ tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 6 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 10, mùa đông, ngày Bính Thìn, mùng một: Hộ bộ xin: “Những người nhận mua các trường vụ vốn do quan giám quản hoặc đã bị hư hỏng, tiền lợi tức không được chuyển đổi hoặc chiết khấu; nếu hết một năm mà không có người nhận mua, đã sai quan điều tra và giảm định tiền lợi tức ròng, thì từ tháng sau khi giảm định, tiền lợi tức cũng sẽ được miễn chuyển đổi hoặc chiết khấu theo tỷ lệ giảm.” Được chấp thuận.

[2] Chiếu lệnh tu sửa điện Thùy Củng, khi có lục tham và triều tham khởi cư, tạm thời ngồi ở điện Sùng Chính.

(Ngự tập.)

[3] Ngày Đinh Tỵ: Chiếu lệnh cung Thượng Thanh Trữ Tường đã hoàn thành, quan đề điểm, ký ở Tây Kinh Tả Tàng Khố, Dao Quận Thứ sử Trần Diễn được thăng một chức.

(Chính mục: Ngày 2, Hàn Trung Ngạn dâng tiền ở sở Đương Tiền. Việc này cần xem xét.)

[4] Lại bộ lang trung Tôn Lộ làm Thị giảng ở phủ Từ Vương.

(Ngày 25 đổi sang Lễ trung.)

[5] Ngày Mậu Ngọ: Hộ bộ xin: “Kêu gọi người dân nhập muối Giải, xin lấy giá mặt của châu Hi Hà Lộ làm chuẩn, do tỉnh bộ xem xét, tùy tình hình tăng giảm chiết khấu; và ở các châu Thiền, Hoài, Hoạt, Dương Vũ chưa có giá định, cho phép khách nhân nhập muối ở trường vụ Đô Diêm Hà Dương, giá tiền mỗi tịch định là 8 quan 200 đồng.” Được chấp thuận.

(Tân tước.)

[6] Ngày Kỷ Mùi: Tam tỉnh dâng 175 sách ngự bút của Thần Tông hoàng đế, triệu tập tể thần, chấp chính quan và biên tu quan của tam tỉnh đến ngồi, ban trà.

[7] Chiếu lệnh Tả triều phụng đại phu, đề điểm hình ngục Lưỡng Chiết Ngô Lập Lễ làm Điện trung thị ngự sử. Lập Lễ là con của Trung Phục, được tiến cử bởi Hàn lâm học sĩ Phạm Bách Lộc.

[8] Lại chiếu lệnh Tây tác phường sứ Mao Chính có chiến công hiển hách, được ban thêm đất chiếm dụng làm phần mộ, tổng cộng một khoảnh đất.

[9] Ngày Canh Thân, Xu mật viện tâu: “Giặc Hạ phạm vào đất thuận, tuy đã lệnh cho các nơi kéo đến ứng cứu, nhưng vừa rồi đợi đến khi các ty sứ gửi văn thư đến, các lộ mới bắt đầu hội hợp. Xét theo chế độ cũ, các lộ lân cận đặt phong hỏa ngang, thông báo cho nhau, rất thuận tiện, nên khôi phục lại.” Chiếu rằng: “Các lộ Kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông xem xét, nếu đặt phong hỏa ngang thật sự thuận tiện, thì lập tức tu sửa lại.”

[10] Lại tâu: “Lộ Kinh Nguyên thám báo rằng Lương Ất Bô gần đây xâm phạm địa giới châu Lân, phủ, bị người giết chết Lương A Cách, Ất Bô bị nước Hạ xử tử.” Chiếu rằng: “Các lộ Kinh lược ty, nếu thám báo được Ất Bô vẫn còn nắm quyền, nên nhân cơ hội dùng kế ly gián, để mưu đồ tiêu diệt. Vẫn phải cẩn thận chọn người có thể dùng được, ban thưởng hậu hĩ vàng lụa, ưu đãi phong chức tước, bí mật lập kế hoạch, thi hành xong, tâu trình đầy đủ.”

(Cựu lục chép: “Lúc đó Ất Bô dẫn quân xâm phạm ba châu Lân, Phủ, Hà Ngoại, giết hại rất nhiều người, không ai dám chống cự, mà bọn gian thần lại nói rằng hắn đã bị xử tử, lừa dối quá đáng.” Tân lục bỏ đi, nay theo Tân lục. Ngày 14 tháng 8 năm thứ hai, có chiếu tuyển người giết Ất Bô, xem ra đến lúc này Ất Bô vẫn còn sống, ngày 19 có thể gộp vào đây.)

[11] Kinh lược sứ Tần Phượng lộ Lữ Đại Trung tâu: “Nước Hạ từ khi anh em họ Lương nắm quyền, ngược đãi dân chúng, người tráng niên vất vả vì việc binh dịch, người già yếu khốn khổ vì việc đóng góp, đến nỗi kẻ gian tà chiếm giữ địa vị không xứng, tàn hại trung thần lương tướng, trên dưới đều oán hận, ai cũng muốn ăn thịt chúng, chỉ là chưa bộc phát mà thôi. Gần đây nghe tin Ất Bô, A Cách đều bị giết, người tộc Ngôi Danh muốn tham gia việc nước, lại chọn người cùng dòng họ để lập làm chủ. Người Khương vốn thường xuyên cướp phá các lộ, lo sợ triều đình nhân lúc nguy nghi này mà có hành động, bèn sai sứ đến xin hòa, để dò xét tình hình ta. Đây chính là thời cơ có thể mưu tính, chi bằng nhân đó chỉ huy Phu Diên lộ, chỉ làm theo ý của Kinh lược ty, gửi thư hỏi nước Hạ: ‘Nay Ất Bô, A Cách đã chết, (dù chưa chết, cũng có thể kích động lòng dân, khiến chúng phản loạn.) Người tộc Ngôi Danh lại tham gia việc nước, người được lập làm chủ, mọi người đều suy phục, từ nay một lòng cung thuận, không dám có yêu cầu gì khác, mong sớm hồi âm, để tâu lên triều đình, xin ban sách phong.’ (Biến cố của Ất Bô, nước ấy vốn coi là điều cấm kỵ, nay nói rõ ra, để làm suy yếu khí thế của chúng.) Như vậy, bè đảng trung thành sẽ yên ổn, mãi mãi mang ơn đức, đây là lợi ích lớn lao của biên phòng, mong bệ hạ quyết đoán thực hiện, thiên hạ may mắn biết bao.”

(Theo tấu nghị của Lữ Đại Trung, đây thực là đáp lại mật tráp ngày 22 tháng 9 năm thứ 7, nhưng nội dung không liên quan gì đến các điều khoản trong mật tráp, thực lục cũng không chép mật tráp này, e rằng tấu nghị biên soạn nhầm. Lữ Đại Trung bàn về việc Ất Bô đã chết, nên phụ chép vào ngày 5 tháng 10 năm thứ 6.)

[12] Ngày Tân Dậu, tam tỉnh tâu: “Hữu triều phụng lang, quản câu Hồng Khánh cung Vương Củng cung khai việc mà đề hình Hoài Nam Chung Tuấn điều tra, đều là sự thật.” Chiếu chỉ Vương Củng đặc cách cách chức.

(Ngày 28 tháng nhuận 8, hạ lệnh cho Tào ty Hoài Nam xét việc Mã Thủ Trân, nay nói đề hình điều tra, có lẽ là theo chỉ huy ngày 22 tháng 5. Ngày 16 tháng 9, chính mục chép: Chu Quang Đình nộp văn tự của Vương Củng. Nên xem xét cùng lúc.)

[13] Giám sát ngự sử An Đỉnh tâu: “Xin đặt cơ quan ở kinh đô để xét việc công, khi vụ án xong, cho Lại bộ cử một viên triều thần đến ghi chép hỏi cung.” Vua nghe theo.

[14] Xuống chiếu cho các lộ Kinh lược sứ Thiểm Tây, Hà Đông thường xuyên dò xét trong vòng 200 dặm đối diện với giặc phía tây, nơi quân giặc đóng quân và các bộ tộc ở đâu, nếu có cơ hội, liền phái tướng tá cẩn trọng có mưu lược cùng quân mã dũng cảm thi hành kế hoạch đánh nhanh rút gọn, ra tay tiêu diệt, và lệnh cho quân mã các lộ thay nhau xuất quân và luân phiên về, khiến giặc chạy không kịp, sớm khiến chúng suy yếu. Vì Xu mật viện tâu rằng giặc Hạ quấy nhiễu biên giới chưa dứt, bình thường chúng ỷ vào đông người đánh úp ta bất ngờ.

(Kế sách đánh nông các lộ, bắt đầu từ đây.)

[15] Ngày Quý Hợi, xuống chiếu cho Lục sự tham quân Duyện châu Quách Trực Khanh kiêm chức Giám Quốc tử giám thư khố, không được lấy làm lệ.

(Quách Trực Khanh là ai.)

[16] Xuống chiếu cho quân soái Lưu Xương Tộ, Diêu Lân cùng các lộ An phủ sứ, Tổng quản Hà Đông, Thiểm Tây, Kiềm hạt lộ Tần Phượng, các tri châu Lan, Dân, Hà, Hoàn, tri quân Trấn Nhung, Đức Thuận, Kiềm hạt các lộ Hà Đông, Phu Diên, mỗi người tiến cử 2 đến 5 viên Đại sứ thần có tài võ mưu lược hoặc từng lập chiến công dũng cảm khi đối địch, có thể chỉ huy quân ra vào.

[17] Xuống chiếu cho các lộ Kinh lược sứ Thiểm Tây, Hà Đông: “Nếu gặp giặc phía tây xâm phạm một lộ, nhưng quân giặc đông, binh lực bản bộ thực khó đối phó, cần nhờ các lộ khác kìm chế ứng cứu, liền báo cáo với lộ lân cận để kìm chế. Không được vì mệnh lệnh này mà không xem xét tình hình giặc, tự tiện lợi dụng một lộ, thông báo khắp các lộ, làm hao tổn quân mã, khiến các lộ vô cớ suy yếu. Và đề phòng giặc giả vờ xâm phạm một lộ, lại phục binh nặng ở lộ khác, đợi ta xuất quân kìm chế, liền phục kích đánh úp, hoặc thừa cơ hội xâm phạm lộ khác, khiến ta rơi vào kế của chúng.”

(Ngày 26 tháng 9, Phạm Thuần Túy nói, có thể khảo cứu.)

[18] Hữu triều thỉnh đại phu Vương Tông Vọng làm Tư nông thiếu khanh. Tả triều tán lang, Tập hiền hiệu lý Triệu Đĩnh Chi làm Quốc tử tư nghiệp. Tả trung tán đại phu, Từ bộ lang trung Vương Thuyết làm Tri châu Tương Châu. (Ngày 21 tháng 3 năm thứ 8 làm Thái phủ thiếu khanh.) Tả triều tán lang, Tri châu Tương Châu Dương Khang Quốc làm Từ bộ lang trung, Tri châu Kỳ Châu, Từ Quân Bình làm Kinh Đông lộ chuyển vận phán quan, Khang Quốc sau đó đổi làm Kinh Đông lộ chuyển vận phó sứ.

(Ngày 26 tháng 3, Dương Khang Quốc ra làm Thủ châu Vệ Châu, sau đó đổi làm Tri châu Tương Châu, Từ Quân Bình ra làm Thủ châu Kỳ Châu[1]. Khang Quốc vì làm Gián quan bàn luận về Tô Triệt, Quân Bình vì làm Đài quan bàn luận về Vương Nham Tẩu, nay đều được thăng chức. Triệt lúc đó đang làm Thượng thư tả thừa, mà Khang Quốc lại được bổ nhiệm làm Từ bộ, lý nên tránh, ngày 3 tháng 11, bèn đổi làm Kinh Đông vận phó, nay ghi chung. Lưu Đường Lão cùng Khang Quốc, Quân Bình cùng ra làm Thủ châu, Đường Lão được châu Giáng, ngày 6 tháng 8, lại lấy Vương Bành làm Tri châu Giáng, Đường Lão đến ngày 3 tháng 11 đổi làm Tần Phượng Hiến.)

[19] Tả triều thỉnh lang, Thái thường thừa Lữ Hi Thuần được bổ làm Tri châu Kỳ Châu, sau đó lại được lưu lại làm Bí thư thừa. (Lữ Hi Thuần mãn tang cha, được bổ làm Thái thường thừa vào ngày 22 tháng 5 năm nay; được phục chức làm Bí thư thừa vào ngày 16 tháng 11.)

Khi Lữ Hi Thuần còn ở Thái thường, trong các buổi tế lễ ở tông miếu, mỗi lần tế đều dâng một chén rượu chung cho cả hoàng đế và hoàng hậu. Lữ Hi Thuần dâng tấu rằng: “Xét theo 《Khai Nguyên Lễ》 và 《Khai Bảo Thông Lễ》, mỗi khi tế lễ ở các miếu thất, hoàng đế và hoàng hậu đều dâng riêng một chén rượu, chén rượu của hoàng hậu gọi là phó tước. Triều ta từ thời Thái Tổ đã thực hiện như vậy hơn 120 năm, đến cuối thời Nguyên Phong, có quan viên dâng tấu cho rằng, khi dâng lễ thì cùng một bàn, khi đọc chúc văn thì cùng một lời, khi dâng thức ăn thì cùng một mâm, nhưng lại dâng riêng phó tước, điều này không hợp lý. Từ đó, mỗi miếu thất chỉ dâng một chén rượu, hoàng đế và hoàng hậu cùng dùng chung. Thần xét lời bàn của các quan viên, nếu thực sự xuất phát từ chính văn của kinh lễ, thì đời sau còn khó tuân theo, huống chi đều là ý kiến riêng, không có căn cứ rõ ràng. Hiện nay ở Thái miếu, hoàng đế và hoàng hậu dùng bàn riêng, khác với lời bàn của các quan viên. Thần nghĩ rằng chúc văn đương nhiên nên viết chung một sách, thức ăn cũng có thể dùng chung một mâm, nhưng rượu thì không thể dùng chung một chén. Ví như ở miếu thất của Hi Tổ và Tuyên Tổ, một hoàng đế và một hoàng hậu dâng chung một chén rượu, đã là lầm lẫn khi áp dụng lễ hợp cẩn trong hôn lễ để thờ tổ tiên. Đến như miếu thất của Thái Tông và Chân Tông, mỗi vị đều có bốn hoàng hậu, tức là một hoàng đế và bốn hoàng hậu dùng chung một chén rượu, sự bất kính với thần linh và vi phạm lễ nghi, không gì nghiêm trọng hơn. Nếu không kịp thời sửa đổi, mà mong thần linh hưởng lễ, ắt không thể được. Xin theo lệ cũ của các triều đại trước và triều ta, mỗi khi tế lễ, mỗi lần dâng lễ, hoàng đế và hoàng hậu đều dâng riêng một chén rượu, để thể hiện ý nghĩa ‘thờ người đã khuất như thờ người còn sống’ của bệ hạ.”

(Đoạn này được thêm vào theo gia truyền của Lữ Hi Thuần, việc có được chấp thuận hay không cần xem xét thêm. Theo 《Chính Mục》: ngày mồng 8, hoàng đế ngự giá thị học, các quan giảng học được ban áo mặc; lại có việc Hàn Chẩn làm Nguyên soái Thái Nguyên. Hai việc này cần xem xét thêm. Theo 《Thực Lục》, việc ban áo cho các quan giảng học diễn ra vào ngày 15, còn việc Hàn Chẩn làm Nguyên soái Thái Nguyên diễn ra vào ngày mồng 8 tháng 11.)

[20] Ngày Bính Dần, ở điện Nhĩ Anh đọc sách 《Bảo Huấn》 đến phần tiết kiệm chi phí, Lã Đại Phòng tâu rằng: “Chi phí phù phiếm đương nhiên nên tiết kiệm, nhưng việc nuôi quân để phòng ngừa họa loạn mà dân không khổ cực thì chi phí nuôi quân không thể tiết kiệm.” Vương Nham Tẩu nói: “Phàm việc tiết kiệm chi tiêu, không phải chỉ tiết kiệm một việc là có thể thành công. Phải lấy sự tiết kiệm làm ý chính trong mọi việc, thì tích lũy ngày tháng, quốc dụng tự nhiên sẽ dư dật.” Vua nói: “Đúng vậy.”

(Sách 《Tân Lục》 và 《Cựu Lục》 đều không ghi chép việc này, dựa theo 《Vương Nham Tẩu Hệ Niên Lục》 và lời bàn triều đình mà thêm vào. 《Chính Mục》 ghi: Ngày 11 tâu việc biên soạn 《Thực Lục》 hoàn thành, đem bản thảo dâng lên Vua và các quan đề soạn. Việc này cần xem xét thêm.)

[21] Ngày Đinh Mão, Điện trung thị ngự sử Dương Úy tâu rằng: “Gần đây có kẻ bạch y là Tiết Hồng Tiệm và Lâm Minh Phát dâng lên văn tự yêu ngụy, chiếu đưa về hai lộ Chiết Giang, Phúc Kiến chuyển vận ty xét trị. Thần nghe rằng đạo giáo của Hồng Tiệm vốn từ vùng biển ngoại quốc truyền vào Trung Quốc đã mấy chục năm, gần đây càng thịnh hành, nên bọn gian hùng mới dám dâng thư để mong được phô trương. Xin chiếu cho các lộ giám ty nghiêm cấm, trình bày phương lược xử lý lên triều đình, để họ hết lòng làm việc, chỉnh đốn phong tục.” Vua nghe theo.

[22] Chiếu cho Lại bộ, việc tuyển chọn tướng phó đều chọn từ những người đang chờ bổ nhiệm, chuyển bổ các chức đại sứ thần. Người đã qua một nhiệm kỳ dù chưa từng nhậm chức, nhưng phải từng trải qua sai phái ở vùng biên giới, hoặc có chiến công, từng làm quan dân, thì trình lên Xu mật viện để dẫn nghiệm. Những người do triều đình bổ nhiệm thì không theo quy định này.

[23] Cùng ngày, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng tâu: “Xin chia số tiền cấp cho nước Hạ bị tạm giữ để cấp thêm cho các Kinh lược ty Hà Đông, Thiểm Tây làm phần thưởng công cho quân Hán và quân Phiên, nhằm khích lệ sĩ khí.” Thái hoàng thái hậu nói: “Rất tốt.”

(Theo 《Vương Nham Tẩu Nhật Lục》. Lại ghi: Nham Tẩu lui ra, Hàn Trung Ngạn nói: “Lời nói trong rèm rất hùng hồn”, ý mỉa mai. Cần xem xét thêm.)

[24] Ngày Canh Ngọ, triều hiến ở cung Cảnh Linh, rồi đến Quốc Tử Giám, đến điện Chí Thánh Văn Tuyên Vương làm lễ Thích Điện, dâng một tuần rượu và lạy hai lạy. Đến Thái Học, ngự ở đường Đôn Hóa, triệu tập tể tướng, chấp chính quan, thân vương, tòng thần ban cho ngồi, các quan Lại bộ, Thái thường tự, Quốc Tử Giám từ chức Thừa vụ lang trở lên đứng hầu, từ Thừa vụ lang trở xuống và tam học sinh ngồi ở hai dãy nhà đông tây, thị giảng Ngô An Thi cầm kinh, Quốc Tử Tế tửu Phong Tắc giảng thiên “Vô Dật” trong sách 《Thượng Thư》 đến hết, lại sai từ tể thần trở xuống đến tam học sinh ngồi uống trà. Quốc Tử Giám dâng sách gồm 17 bộ, Vua sai để lại mỗi bộ 《Luận Ngữ》 và 《Mạnh Tử》. Rồi đến miếu Chiêu Liệt Vũ Thành Vương, dâng rượu và vái chào, lễ xong trở về cung. Hôm ấy, ban cho Phong Tắc áo tam phẩm, các quan Quốc Tử Giám và học quan đều được ban lụa theo thứ bậc.

[25] Trước đó, Phạm Bách Lộc dâng lời xin Vua đến thăm trường học, nên mới có việc này. Có người hỏi Lã Đại Phòng rằng: “Tổ tông đến thăm trường học, nếu không có ban tước thì cũng có ban vàng lụa, nay đều không có, là sao?” Đại Phòng đáp: “Xưa thiên tử đến thăm trường học vốn là việc thường, ý đức ở đó, ân huệ nhỏ nào đáng kể? Ta vốn muốn thiên tử thỉnh thoảng đến một lần, ban tước vàng, ngày sau sao có thể tiếp tục được? Chỉ sợ tiếc của mà thôi!” Người nghe đều phục.

(Theo 《Hành trạng》 của Đại Phòng.)

[26] Ngày Nhâm Thân, Lại bộ tâu: “Quan viên đang tại nhiệm nếu cần tránh thân tình, nguyện được đổi chỗ, cho phép người cần tránh không hạn chế số lượng, chỉ định chỗ đổi đến là nơi lân cận trong bản lộ hoặc chỗ hợp lệ có khuyết, trình lên chuyển vận ty xem xét không có trở ngại, rồi trình lên Thượng thư Lại bộ, ưu tiên sai đi. Nếu không có khuyết, chỉ định nơi lân cận trong các lộ có khuyết hợp lệ, trình lên bản lộ gửi công văn đến lộ được chỉ định, chuyển vận ty theo pháp trên thi hành. Nếu không có, đều trình lên Lại bộ để đổi chỗ theo cách này. Nếu nguyện được miễn nhiệm hoặc không có chỗ để đổi, đều được miễn nhiệm, theo pháp tỉnh viên. Quan viên tại nhiệm cần tránh thân tình, đã đổi chỗ nhưng chưa đến nơi, mà người cần tránh đã được thay thế, đều trở về chỗ cũ. Nếu chưa nhậm chức đã được miễn nhiệm, nếu chưa được bổ nhiệm chức vụ khác, chỗ cũ lại không có chính quan, nguyện trở về chỗ cũ, cũng được chấp thuận. Nếu chưa nhậm chức, qua châu tại chỗ trình đơn chỉ định chức vụ hợp lệ, lại cho phép đổi chỗ với người đang chờ khuyết.” Theo lời tâu.

(Bản mới bỏ đi.)

[27] Ngày Quý Dậu, Ngự sử trung thừa Trịnh Ung và Điện trung thị ngự sử Dương Úy đối đáp rất lâu, bàn luận về Hữu bộc xạ Lưu Chí và Hữu thừa Tô Triệt.

(Thiệu Bá Ôn nói: Dương Úy công kích Lưu Chí và Tô Tụng, đều là vì Tô Triệt. Xét ra, Triệt và Chí thực sự cùng bị hặc tội, Chí bị đuổi còn Triệt được ở lại, có lẽ vì Chí có việc riêng giao thiệp với Chương Đôn. Lời của Bá Ôn e rằng không đáng tin. Ngày 5 tháng 6 năm Thiệu Thánh nguyên niên, Thượng Quan Quân có tấu chương nói rằng…, Bá Ôn căn cứ vào đây, chắc hẳn lúc đó có lời đồn như vậy.)

Trịnh Ung nói về Lưu Chí đại ý rằng: “Chí lâu nay nắm giữ chức vụ quan trọng, trải qua khắp ba tỉnh, ban đầu nhờ việc tấu chương mà được thăng tiến, liền cùng những người hợp ý mình tiến cử hoặc cách chức người khác.”

Lại nói: “Chí làm chấp chính, dưới quyền ông ta nhiều người được dẫn vào các chức vụ quan trọng, hoặc làm thuộc quan ở hai tỉnh, hoặc ở các cơ quan giám sát. Những người Chí không ưa thì Xá nhân, Cấp sự từ chối phê chuẩn, các cơ quan giám sát đàn hặc.”

Lại nói: “Chí tiến cử Triệu Quân Tích làm Trung thừa, Chí chán khách khứa, Quân Tích ra lệnh cấm tiếp khách, trong triều có người nói Quân Tích làm chấp chính chỉ tiếp khách có chọn lọc. Lại tiến cử Diệp Thân làm quan Ngự sử để hợp ý Chí. Âm thầm kết giao với Cổ Dịch, những người Chí không ưa thì ra sức bài xích.” Lại nói: “Diệp Thân từng làm quan ở Đài bạ, do Chí tiến cử, chưa bao lâu được bổ làm Vận phán hai Chiết, rồi thăng Vận phó, triệu về làm Lang trung ở Bộ. Triệu Quân Tích tiến cử Thân làm Ngự sử, Thân không nhận, liền được bổ làm Tả ty, rồi làm Vận phó Hà Bắc.” Lại nói: “Lâm Tự làm Giáo thụ ở Vận châu, tự nói bị người Vận châu là Lưu Phỏng cướp mất chức, Phỏng quen biết với con trai Chí, trước khi mệnh lệnh bổ nhiệm chưa ban ra, Phỏng đã tự nói mình được làm Giáo thụ.”

Lại nói: “Con trai của Triệu Ngạn Nhược là Nhân Thứ tự ý lấy của cải đầy đủ, chưa đợi xét xử, đã xin chỉ dụ tha bổng. Ngạn Nhược là thân gia của Chí[2].”

Lại nói: “Vương Củng không kiểm tra việc, khi chưa xét xong, đã được bổ làm Tri châu Mật châu, khi xét xong, bãi chức Tri châu Mật châu, không có chỉ dụ thay thế. Triệu Quân Tích và Trang Công Nhạc chiều theo ý trên, Tân thông phán Mật châu là Nhậm Lâm Tích không dám xét xử[3], Tạ Cảnh Ôn vu cáo Củng không có tội, vì con trai Chí lấy con gái Củng.”

Lại nói: “Chưa tiến cử Ngự sử, vì trong triều nhiều người là môn hạ của Chí. Chí khéo léo lôi kéo sĩ nhân, không phân biệt tốt xấu, dù là người từng phạm tội tham nhũng bị bãi chức lâu ngày, cũng dùng lời ngon ngọt dụ dỗ. Như Cung Nguyên, Vương Duyễn Chi, Chiêm Thích, Tôn Ngạc, đều được xóa tội danh. Cùng Lữ Ôn Khanh từ Hồ châu thăng lên Minh châu[4], tiếp đãi con trai Chương Đôn là Viện, thân thiết như ruột thịt, gửi thư từ cho Hình Thứ.” Lại liệt kê tên những người trong bè đảng của Chí: Vương Nham Tẩu, Lưu An Thế, Hàn Xuyên, Chu Quang Đình, Triệu Quân Tích, Lương Đào, Tôn Thăng, Vương Địch, Tằng Triệu, Cổ Dịch, Dương Khang Quốc, An Đỉnh, Trương Thuấn Dân, Điền Tử Lượng, Diệp Thân, Triệu Đĩnh Chi, Thịnh Đào, Cung Nguyên, Lưu Khái, Dương Quốc Bảo, Đỗ Thuần, Đỗ Hoành, Chiêm Thích, Tôn Ngạc, Chu Kinh, Mã Truyền Khánh, Tiền Thế Hùng, Tôn Lộ, Vương Tử Thiều, Ngô Lập Lễ, tổng cộng ba mươi người.

(Đoạn này căn cứ vào việc biên soạn các chương sớ mà thêm vào, Chiêm Thích ngày mồng 8 tháng này được bổ làm Thường bác, Lữ Ôn Khanh ở Minh châu, việc này ghi trong 《Chính mục》 ngày 18 tháng giêng.)

[28] Tả Chánh ngôn Diêu Miễn vào tâu, cùng nói Chí kết bè đảng không công bằng. (Biên loại chương sớ chỉ có đoạn này.) Hữu Chánh ngôn Ngu Sách tâu bốn lần, nói rằng thân thích của Chí là Triệu Nhân Thứ, Vương Củng phạm pháp, xử lý không đúng. (Ngày 20 tháng 10.) Lại nói Chí giữ tâm không công bằng, làm quan làm rối phép nước, ngầm kết bè đảng, âm mưu mưu lợi riêng. Ai theo mình thì vượt cấp cho chức, ai không theo thì đè nén không thăng tiến. (Ngày 12 tháng 12.) Lại nói Chí đối với thân thích phạm pháp, không xử lý công minh, có việc kéo dài ba năm mà tội nhân vẫn chưa chịu nhận tội. (Ngày 23 tháng 10.) Lại nói Chí giữ chức tể tướng, vì tư lợi làm hỏng phép nước, thu phục ân huệ để lập bè đảng.

(Ngày 24 tháng 10.)

[29] Ngày Giáp Tuất, Lưu Chí và Tô Triệt vì Vương Củng phạm tội, Chí là thông gia với Củng, Triệt tiến cử Củng, đều tự hặc tội, xin chịu hình phạt, chiếu đáp không cho phép. Triệt tâu: “Thần trước đây vì Trịnh Ung và Dương Úy nói thần tiến cử Vương Củng không đúng, tấu xin nhanh chóng chịu hình phạt để dẹp bỏ lời bàn tán. Sau lại thấy Gián quan Ngu Sách và Đài quan An Đỉnh cũng bàn việc này, trong đó lời của Ngu Sách không khác mấy so với Trịnh Ung và Dương Úy, chỉ có An Đỉnh nói thần lừa dối, xảo quyệt, nếu không trách phạt nhanh, sợ thần sẽ lôi kéo bè đảng, ngày càng lộng hành. Nếu đúng như lời Đỉnh, thì thần chết cũng không hết tội, còn mặt mũi nào ở lại triều đình. Nay thần đã vì tiến cử quan không đúng, xin chịu hình phạt, không dám tranh biện phải trái với Đỉnh. Nhưng Đỉnh trước đây cùng Triệu Quân Tích, Giả Dịch đồng tạo lời đồn, vu cáo anh thần là Tô Thức tội ác nghịch, từng cùng Quân Tích lên điện tâu đối, nhờ ơn Thánh thượng soi xét, biết họ cố tình vu khống, Quân Tích và Dịch liền bị giáng chức. Đỉnh nay ở ngạch gián quan, nên ra sức công kích thần, không từ thủ đoạn. Triều đình nếu không đuổi thần, Đỉnh ắt không chịu thôi, xin Thánh thượng thương thần cô lập không ai giúp, sớm ban chỉ trách phạt, để Đỉnh thỏa ý riêng, không làm phiền Thánh thượng nữa, thì thần dù sống chết cũng may mắn.” Thiếp hoàng nói: “Thần vốn định đợi ngày 22 tấu việc, trình bày ý ở nhà chờ tội, nhưng vì Đỉnh công kích thần gấp, nếu không sớm tự tránh, sợ lại bị lời ác nhắm vào, xin Thánh thượng soi xét.”

(Biểu xin từ chức của Chí, sách “Biện báng lục” của con ông là Xí có ghi, biểu đều là lời lẽ lễ nghi, không cần chép vào, có ba trát tử, nay đầy đủ ở sau.)

[30] Xu mật viện tâu: “Thủ lĩnh nước Hạ là Nhân Đa Bảo Trung, con của (Khẩu Lăng) Đinh ngày trước, từ lâu chiếm cứ các bộ lạc phía tây nam, vốn là kẻ kiệt hiệt, lại thân thiết với thủ lĩnh Mạc Xuyên là Ôn Khê Tâm ở vùng lân cận. Đã từng lệnh cho Ôn Khê Tâm khéo léo dụ dỗ chiêu mộ, hứa phong chức Tiết độ sứ, cho giữ đất cũ, tự thành một phiên. Sau vì Lương Ất Bô chuyên quyền, nghi kỵ Bảo Trung, từ đó việc này bị gián đoạn, không bàn đến nữa. Gần đây theo các lộ tâu báo, nhiều người nói Lương Ất Bô đã chết, Bảo Trung nhiều lần đến biên giới, e rằng các thủ lĩnh nước Hạ đều có lòng ly khai, có thể nhân cơ hội này chiêu dụ. Xưa nay dùng cách này thu được lợi rất nhiều, như Thái Tông diệt Đột Quyết, cũng nhờ trước họ quy phụ, thế lực bị chia cắt, sau đó Lý Tĩnh mới thi thố được kế sách, là minh chứng rõ ràng nhất.” Chiếu cho Phạm Dục, Lưu Thuấn Khanh nhân cơ hội này, khéo léo xử trí. Nhưng sau cùng vẫn không thể chiêu dụ được.

(“Sau cùng vẫn không thể chiêu dụ được”, đây là lời trong Cựu lục, Tân lục đã bỏ đi. Nay khôi phục lại, cần xem xét. Ngày 5 tháng 10 có thể kết hợp với việc này.)

[31] Ngày Ất Hợi, chiếu bãi bỏ việc tu sửa thuyền rồng ở Kim Minh Trì.

(Ngự tập có ghi việc này, Chính mục chép: Bãi bỏ việc mua gỗ đóng thuyền rồng.)

[32] Ngày Bính Tý, Xu mật viện tâu: “Việc chiêu mộ quân lính đều giao cho Đề hình ty thúc giục, bắt giữ và xét xử. Khi đi tuần, căn cứ vào số người mới chiêu mộ được, kiểm tra từng người và bảo đảm để thưởng công. Trong số cấm quân, ai không đạt tiêu chuẩn ban đầu thì đổi sang làm lính các loại quân khác; ai không thể mang vũ khí thì sung vào sương quân; ai có tay nghề thì thử nghiệm, đổi sang làm thợ, không được cấp vật dụng theo lệ. Những người không thể tham gia chiến dịch, cả sương quân và cấm quân đều được cấp giấy chứng nhận, cho phép tự do. Cuối mỗi năm, các ty tập hợp số người chiêu mộ được trong khu vực mình quản lý, báo cáo lên cơ quan cấp trên. Số quân cấm quân thiếu, giao cho Đô tổng quản, An phủ, Kiềm hạt ty chọn quan lại, cùng với quan chức tại chức, tuyển chọn những người dưới 40 tuổi trong sương quân, bổ sung theo tiêu chuẩn, nhưng phải hoàn thành việc tuyển chọn trước cuối năm. Những người từng phạm tội bị xử phạt, hoặc từng bị xăm chữ đào ngũ, hoặc hiện đang là thập tướng trở lên hoặc thợ, hoặc nguyên là quan lại, tướng hiệu, người dân tộc thiểu số, người ở vùng biên giới, hoặc từng phạm tội liên quan đến bí mật quốc gia, tà thuật, phao tin đồn nhảm, hoặc bị đày vì không tham gia cướp bóc hoặc cướp của, đều không được tuyển chọn. Nếu quan lại che giấu, giữ lại người đáng lẽ phải được tuyển chọn, thì bị phạt tù hai năm.”

(Đoạn này bị cắt bỏ.)

[33] Lại tâu: “Kinh lược ty lộ Hà Đông xin rằng tất cả đất đai của quan lại và người dân tộc thiểu số ở vùng biên giới, nếu là do nhà nước cấp, thì không được phép chuyển nhượng, bán lại. Đất đai của người dân tộc thiểu số đã định cư lâu đời, do tổ tiên hoặc bản thân họ làm chủ, thì cho phép họ tự do chuyển nhượng, bán lại.” Đều được chấp thuận.

[34] Ngày Đinh Sửu, Hữu chánh ngôn Ngu Sách tâu: “Gần đây, các châu huyện ở các lộ có việc bắt người đi phu mua vật phẩm, hoặc bắt người làm việc không phải nhiệm vụ của họ, xin lệnh cho các Giám ty ở các lộ điều tra, xử lý.” Chiếu cho Hộ bộ ban hành rõ ràng.

(Có thể tham khảo ngày 29 tháng giêng năm thứ 7.)

[35] Chiếu rằng từ nay về sau, kỳ thi Hội bỏ chức Tham tường quan, chỉ bổ nhiệm 4 quan Tri cử. Theo đề nghị của Hàn lâm học sĩ Phạm Bách Lộc.

[36] Cùng ngày, Lưu Chí và Tô Triệt đều được triệu vào chầu, đã được đưa đến Đô đường, nhưng cả hai đều xin từ chức, đang chờ mệnh lệnh ở chùa.

[37] Ngày Mậu Dần, ban chiếu định từ phía đông thành Tây Thành đến giữa lũy Long Nặc, và từ phía tây thành Tây Thành đến giữa đồng Lý Nặc, hai bên đều xây dựng một lũy thủ ngự và hai lũy nhỏ để bảo vệ.

(Theo tấu chương của Phạm Dục ngày 28 tháng 2 năm thứ 7, so sánh việc xây dựng lũy của Du Sư Hùng, có thêm vào.)

[38] Ngày Canh Thìn, Thượng thư tỉnh tâu: “Người nào tư lợi sử dụng kỳ hộ trưởng, tráng đinh, bảo trưởng, bảo đinh, thì bị đánh một trăm trượng; nếu kéo dài cả ngày, thì bị phạt tù hai năm. Người nào sai khiến kỳ trưởng, tráng đinh, bảo chính, bảo trưởng, đinh phòng hộ hoặc bưng bê hành lý, và người được sai khiến, đều bị phạt tù hai năm.” Được chấp thuận.

(Bản mới đã bỏ.)

[39] Quý phi họ Miêu của Nhân Tông qua đời, được truy tặng thụy hiệu là “Chiêu Tiết”.

(Bà sinh ra Tần Quốc Trang Lý Đại Trưởng Công Chúa và Điệu Mục Đường Vương. Theo Chính mục: ngày 2 tháng 11, xa giá đến viếng.)

[40] Thị giảng Tôn Lộ của Từ Vương phủ và Viên ngoại lang Lễ bộ Dương Kiệt, đổi chức vụ cho nhau.

(Tôn Lộ sau đó được đổi làm Lại trung, bàn về việc Hi Hà, xem thêm ngày 13 tháng giêng năm Thiệu Thánh thứ 2.)

[41] Hàn lâm học sĩ Phạm Bách Lộc tâu: “Xin ban lệnh cho Đại Tông Chính và các quan giáo thụ ở các cung viện, mỗi người phải tuân thủ chức nghiệp, chăm chỉ giáo đạo. Lệnh cho các con cháu trong cung viện, từ 10 tuổi trở lên, đều phải nghe giảng và học tập hàng ngày, định rõ khóa trình. Và theo chiếu chỉ Hi Ninh, Đại Tông Chính ty xây dựng tiểu học bên cạnh sảnh tôn trưởng của mỗi viện, từ 8 tuổi trở lên đến 14 tuổi, mỗi năm đầu tiên kiểm tra và nhập học, mỗi ngày đọc 20 chữ.” Chiếu cho Lễ bộ thi hành.

(Theo Tân kỷ: Ngày Canh Thìn, lệnh cho các cung viện xây dựng tiểu học. Xét theo thực lục, tiểu học đã được xây dựng rồi. Cần xem xét thêm.)

[42] Hôm đó, Thiêm thư Xu mật viện sự Vương Nham Tẩu tấu: (Biên loại chương sớ vào ngày 25 tháng 10.) “Thần thấy Lưu Chí vì lời người ta mà tránh chức, đến nay đã nhiều ngày, dư luận trong ngoài đều hoang mang không yên. Thần nghĩ rằng Chí từ khi bệ hạ mới buông rèm chấp chính, đã đứng đầu đường ngôn luận, trình bày chính sự, bài trừ gian tà, không hề e ngại. Bệ hạ biết ông ấy trung thành, có công với thời cuộc, nên đã vượt cấp bổ dụng. Người trong thiên hạ đều cho là hợp lý. Nhưng kẻ gian ác lớn ở bên ngoài, chất chứa căm giận, muốn ăn thịt ông ấy đã không phải một ngày. Nay triều đình trong sáng, thiên hạ yên ổn, tuy là nhờ hai cung hư tâm cầu trị, mở lòng tiếp nhận lời can gián, nhưng trong số những bề tôi một lòng tận trung, Chí là người nổi bật nhất, thực sự là người đồng tâm nhất trí với bệ hạ, có thể bảo đảm trước sau không thay đổi. Nếu không phải tội trạng rõ ràng, mọi người không thể dung thứ, thì sao có thể vì một vài lời thiên lệch mà nhẹ dạ ruồng bỏ. Thần e rằng như vậy chỉ làm thỏa lòng bọn gian, mà đánh mất lòng người chính trực, không phải là cách tính toán cho quốc gia. Thần thường lo rằng trên triều đình, người hưởng tước cao lộc hậu của bệ hạ tuy nhiều, nhưng người đồng tâm hiệp ý với bệ hạ thì ít, nay trong số ít ỏi đó, lại còn đẩy bỏ, thần suy nghĩ đi nghĩ lại, thấy lo lắng.

Tô Triệt vốn có tiếng tăm, từ năm Nguyên Hựu đến nay, bài trừ tà ác, giúp đỡ chính nghĩa, cũng đã ra sức nhiều, nay nếu chỉ vì một lần cử quan không đúng, liền bãi chức đuổi đi, e rằng đối với thể diện tiến thoái đại thần của bệ hạ, có chỗ chưa thỏa đáng. Huống chi người nói ra còn có ý đồ riêng, không dễ đoán biết, thần không biết người đã dốc lòng phụng sự bệ hạ lâu ngày là đáng tin, hay kẻ mới bước vào đường ngôn luận, chưa hiểu rõ lòng dạ là đáng tin? Sao biết trong đó không có kẻ gian kết bè kết đảng, ngầm làm chỗ dựa cho bọn gian! Bệ hạ sao không tạm hoãn việc này, thử xem xét thêm, ắt sẽ thấy rõ, biết lời thần không phải là hão huyền. Người xưa có câu, thiên tử coi trọng đại thần, thì người ta sẽ hết sức; coi nhẹ việc bỏ đi, thì mọi vật sẽ không yên. Mong bệ hạ hết sức nhẫn nại, để giữ trọn tình nghĩa trước sau, và khiến tiểu nhân không thể dòm ngó bệ hạ. Thần được bệ hạ biết đến một cách đặc biệt, không giống với mọi người, đã thấy điều gì, không nỡ phụ ơn, im lặng giữ mình. Thần vốn định đợi ngày mai buông rèm để tâu mặt, nhưng vì việc sắp làm, phải nhận lời thề giới, nên không được vào chầu.”

Thiếp hoàng: “Thần đoán người nói ra muốn bịt miệng hết những người chính trực, chỉ đem tội kết bè kết đảng ra, trước hết làm mê hoặc ý thánh. Nhưng từ xưa kẻ gian muốn hãm hại người lương thiện, đều đưa ra lời nói vô hình này, để thỏa sức vu cáo. Bệ hạ đọc rộng sách vở, ắt sẽ thấu hiểu.”

Tấu dâng lên, không được trả lời. Thái hoàng thái hậu một mình sai trung sứ ban chiếu cho Tô Triệt, dụ bảo sớm vào tỉnh làm việc, Triệt lại tấu xin ra ngoài nhậm chức.

[43] Lưu Chí tâu: “Thần ngày 22 lại dâng tráp tử tâu xin được miễn chức vụ chính sự, bổ nhiệm một chức vụ ngoài triều. Đến nay chưa nhận được chỉ dụ, đêm ngày lo lắng, không biết phải làm sao. Thần nghĩ mình chiếm giữ chức vụ mà không có đóng góp gì, tội lỗi ngày càng tích tụ, dẫn đến lời bàn tán của người đời, đã làm tổn hại đến thể diện quốc gia. Dù được ơn trên thương xót, che chở cho tội lỗi, nhưng đối với nghĩa vụ tiến thoái của bậc phụ thần, thực sự không yên lòng. Nếu thần chưa rời đi, lời bàn tán ắt không ngừng. Kính mong Thánh từ xem xét lại lời tâu trước, nếu chưa bị giáng chức, xin sớm ban chỉ dụ, bổ nhiệm thần một chức vụ ngoài triều, để yên lòng công luận. Để thần có thể tự biết mình, tuân thủ chức trách, đền đáp ơn Vua.”

[44] Chí lại tâu: “Thần gần đây lại dâng tráp tử, xin được bổ nhiệm chức vụ ngoài triều, được Thánh từ sai trung sứ ban chiếu không chấp thuận, ơn đức chưa dứt, lòng thần vô cùng cảm kích. Thần nghĩ mình giữ chức vụ đã lâu, chẳng có công lao gì, trong lòng tự biết, nên bị người ta đàn hặc, dù có chỉ ra tội trạng[5], được Thánh minh soi xét. Nhưng bậc đại thần đã khiến người ta bàn tán, đã là gánh nặng cho nước, nếu lại yên nhiên không rời đi, thần thực sự không còn mặt mũi nào, nên không dám tham lam ân sủng của bề trên, chần chừ trong việc tiến thoái, để bị thiên hạ coi thường. Kính mong Hoàng đế bệ hạ, Thái hoàng thái hậu bệ hạ, xét thấy thần cô độc nguy nan, sớm ban ơn cho phép. Bổ nhiệm thần một chức vụ ngoài triều. Trên là để tỏ rõ sự công bằng của triều đình, dưới là để giữ trọn danh tiết của bề tôi.”

[45] Chí lại tâu: “Thần từ ngày 19 tháng này bị tội, và đã nhiều lần xin được ra ngoài nhậm chức, đến ngày 25 lại nhận được chiếu thư không chấp thuận, sau đó nhiều lần dâng trát, xúc phạm thiên uy, đến nay vẫn chưa nhận được lời dụ, bồn chồn lo sợ, lòng lo lắng không biết phải làm sao. Thần nghĩ mình tối tăm không thấu lý, lời nói phiền phức bộc phát, dù thánh ân sâu dày, soi xét đầu đuôi, vẫn còn được bảo vệ, nhưng thân phận cô độc nguy hiểm, tình thế sao có thể yên ổn. Chỉ mong bệ hạ cho phép thần sớm rút lui, để tránh bị đổ vỡ, đó là ân huệ lớn lao bệ hạ ban cho thần từ đầu đến cuối. Thần dám không thề chết để báo đáp một phần vạn.”

(Trát này của Chí hẳn là dâng sau ngày 25, nay xin phụ vào ngày 25.)

[46] Ngày Tân Tỵ (26 tháng 10), Vua dụ Lã Đại Phòng rằng: “Các lời bàn về Lưu Chí đã có 18 chương, ban đầu không phải vì việc Vương Củng. Chỉ là Hình Thứ đi qua kinh sư, Chí có thư từ qua lại. Lại tiếp đón con của Chương Đôn, lôi kéo để tính kế ngày sau. Đó là sao? Hãy đối xử với ít lễ số rồi cho đi.” Đại Phòng tâu: “Thư từ qua lại, e cũng là chuyện thường tình, lại không biết trong thư nói những gì.” Thái hoàng thái hậu nói: “Lời trong thư thì không biết, nhưng các quan ngôn sự hẳn phải biết.” Đại Phòng tâu: “Xin hậu nhật sẽ xin chỉ.” Thái hoàng thái hậu nói: “Tô Triệt chỉ vì tiến cử Vương Củng thôi, không có việc gì khác.”

[47] Ban đầu, Hình Thứ đang chịu tang, bị giáng làm Tri châu Vĩnh Châu, khi hết tang phải đến nơi bị giáng, đi thuyền qua kinh sư. Lưu Chí vốn thân thiết với Hình Thứ, nên viết thư từ biệt Chí. Chí trả lời thư, cuối thư viết: “Vì nước mà tự trọng, đợi ngày nghỉ ngơi phục hồi.” Người cầm thư hỏi Giám đông bài ngạn quan Như Đông Tế: “Thuyền của Thứ ở đâu?” Đông Tế là người xảo quyệt, nhiều lần cầu cạnh Chí không được, nên oán hận, liền lấy thư của Chí chép lại bản gốc, gửi cho Trịnh Ung và Dương Úy. Hai người này đang đàn hặc việc Chí kết thông gia với Vương Củng chưa xong, được thư này rất mừng, bèn giải thích lời trong thư và tâu lên. Họ cho rằng “hưu phục”“phục tử minh tịch” trong “phục”, cho rằng Chí khuyên Thứ đợi ngày Thái hoàng thái hậu phục vị. Lại nói Chí từng cho con trai Chương Đôn ở trong phủ đệ. Thái hoàng thái hậu nổi giận, trách mặt Chí là kẻ phản phúc, nói: “Khanh nên một lòng một dạ với triều đình, như Chương Đôn, dù cho chức Hữu bộc xạ cũng chưa chắc đã vui.” Chí hoảng sợ không dám đáp.

[48] Ngày Nhâm Ngọ, Lưu Chí dâng tấu rằng: “Thần nghe rằng bề tôi thờ Vua, như con thờ cha mẹ, dù bị đánh đập, mắng chửi, đuổi đi cũng không oán hận. Nhưng đối với những việc khó phân biệt đúng sai, lẽ nào lại giấu giếm tình thực mà không tự minh oan? Gần đây, thần vì việc các quan ngự sử đàn hặc Vương Củng mà bị giáng chức, đang chờ tội. Khi được triệu vào đối đáp, nghe lời dạy bảo của bệ hạ, mới biết ngoài việc Vương Củng, còn bị tố cáo về tội kết bè kéo cánh với Chương Đôn, Hình Thứ. Dù bệ hạ đã rõ thần vô tội, nhưng thần nghĩ, dù vô tội, đã bị đàn hạch thì nên xin từ chức, nên đã dâng sớ xin ra ngoài làm quan. Nay đang chờ chỉ dụ, thần lại nghĩ đi nghĩ lại, kẻ tố cáo đưa ra việc Chương Đôn, Hình Thứ, chắc là muốn dùng chuyện này để lay động lòng bệ hạ. Thần tuy không rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng chắc họ cho rằng khi thần còn làm quan ngự sử, từng đàn hặc tội ác gian tà của Thái Xác, Chương Đôn, khiến họ bị biếm trục, mà nay lại có ý kết bè với họ, rồi suy diễn thêm để tạo thành tội lớn cho thần. Họ còn chỉ ra rằng thần từng tiếp kiến con em Chương Đôn, và có thư từ qua lại với Hình Thứ. Hình Thứ là đồ đảng của Thái Xác, Chương Đôn cũng vì thần từng đàn hạch tội họ mà dâng thư xin giết thần. Thần với Chương Đôn, Hình Thứ không hề thân thiết, điều đó rõ ràng. Việc thư từ qua lại, tiếp kiến con em họ chỉ là lễ nghi thông thường, thần dù ngu muội cũng biết lễ nghi thông thường ấy không thể hóa giải mối thù sâu nặng.

Nhưng vì thần ngu, không đề phòng những việc dễ gây hiểu lầm, để xảy ra chuyện thư từ qua lại, tiếp kiến con em họ, khiến kẻ tố cáo có cớ thêm thắt, khiến bệ hạ nghi ngờ, tăng thêm tội cho thần. Họ chắc cũng nghĩ rằng việc thật hay giả tùy thuộc vào việc bệ hạ có tin hay không, khiến thần không thể tự biện minh, mà lời họ đến tai bệ hạ, thần cũng không dám chắc bệ hạ sẽ không tin. Thần từ chức nhỏ, từ đầu năm Nguyên Hựu đã làm quan ngự sử, chỉ một năm sau được bệ hạ đề bạt làm chấp chính, rồi lên đến chức tể tướng. Được bệ hạ tin dùng, thực sự hơn người khác, thần chỉ mong báo đáp, dù chết cũng cam lòng. Lẽ nào lại khúm núm với Chương Đôn, Hình Thứ để mong cầu gì? Thần tuy hiểu biết nông cạn, nhưng từ khi chịu tội đến nay, không dám tranh biện với kẻ tố cáo, nhưng nếu không tự nói ra, ai sẽ biện minh cho thần? Nếu thần thực sự có ý đó, thì đó là tội lớn, sao dám im lặng để trốn tránh trách nhiệm; nếu không có ý đó, mong bệ hạ soi xét tấm lòng thần, bảo vệ thần đến cùng. Thần đã chờ mệnh nhiều ngày, lời lẽ đã cùng, xin bệ hạ sớm phán xét.”

Thiếp hoàng: “Thần vốn quen biết con em Chương Đôn, trước đây họ đến cảm tạ vì đỗ đạt, được bổ nhiệm, thần cũng theo mọi người tiếp kiến. Hình Thứ gần đây đi qua ngoài thành, có một lần thư từ qua lại, chỉ là hỏi thăm sức khỏe. Trời đất cha mẹ, thần không dám dối trá. Trước đây thần đã từng tâu trình sự việc, về ý kết bè kéo cánh, thực sự không có, cũng đã được bệ hạ răn dạy, soi xét là không có. Nay đoán kẻ tố cáo chuyên dùng việc này để hãm hại thần, không ngừng đàn hạch, thần không dám không trình bày rõ ràng, làm phiền bệ hạ.”

Lại nói: “Thần dâng chương này không phải để mưu tính giữ chức, cũng không phải để tranh biện với kẻ tố cáo, chỉ vì việc bị vu cáo, không dám không trình bày hết trước mặt bệ hạ. Kính mong bệ hạ xem xét kỹ, sớm cho thần ra ngoài làm quan.” Lại nói: “Thần ngu muội, ở ngôi lâu năm, thực có tội lỗi, thần không dám tự bảo vệ mình. Nhưng những lời tố cáo hiện nay quá xa rời sự thật, ngoài sự suy nghĩ của thần. Ý họ chắc là muốn lay động lòng bệ hạ, dựng lên những việc khó phân biệt đúng sai, coi đó là kế hay. Họ cũng biết đại thần bị tố cáo, ít có lý do để biện luận, chỉ có thể xin từ chức, để họ đạt được mục đích. Kính mong bệ hạ xem xét việc thần từ trước đến nay phụng sự đất nước, rồi xem xét lời tố cáo hiện nay, đặc biệt soi xét kỹ.” Tấu chương dâng lên, không được trả lời.

(Đoạn này tham khảo 《Vương Nham Tẩu nhật lục》, 《Lưu Chí hành thực》, 《Lưu Xí biện báng lục》 và 《Thiệu Bá Ôn biện vu》, cần xem xét thêm. Lưu Chí tự biện trong chương nói: “Cũng đã được bệ hạ dạy bảo, soi xét là không có.” Lại nói “Lấy Hữu bộc xạ cùng Chương Đôn”, e rằng không phải lời của thái hậu. 《Tể tướng bái bãi lục》 chép: “Kẻ tố cáo nói Lưu Chí gian trá, kéo bè kết đảng, làm bề tôi bất trung; cha chết ở Hoành, bỏ không chôn, làm con bất hiếu. Do đó Lưu Chí dâng sớ xin từ chức. Sau đó Lưu Chí tự viết 《Gia miếu ký》 để biện minh cho oan khuất lúc đó. Lưu An Thế viết lời tựa cho tập sách của ông.” Xét việc Lưu Chí bãi chức tể tướng, không phải vì tội bất hiếu, 《Tể tướng bái bãi lục》 chép sai. 《Gia miếu ký》 viết vào tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ 6 khi làm tri châu Vận, nay trong tập sách có. Cần tìm chương tấu của Trịnh Ung, Dương Úy để tham khảo thêm, xem rõ đầu đuôi việc Lưu Chí và Tô Triệt bị tố cáo. Ngày 11 tháng 4 nhuận năm Thiệu Thánh thứ 1, Tả ty gián Trạch Tư mới nói Lưu Chí không chôn cha. Khi bãi chức tể tướng, kẻ tố cáo chưa nói đến việc này. 《Thực lục》 truyện cũ và mới về Lưu Chí đều chép: Mùa đông năm Nguyên Hựu thứ 6[6], kẻ tố cáo nói Lưu Chí gian trá, kéo bè kết đảng, làm bề tôi bất trung; cha chết ở Hoành, bỏ không chôn, làm con bất hiếu, bãi chức tể tướng. Người làm bản cũ, tô vẽ lời lẽ thêu dệt cũng được, bản mới không biện minh gì, lẽ nào không biết Lưu Chí bãi chức tể tướng là vì tội khác?)

[49] Ngày Quý Mùi, ban chiếu cho quan biên tu ngự chế ngự tập của Thần Tông hoàng đế là Trịnh Ung, chức Trung đại phu, Ngự sử trung thừa, được thăng một chức. Bành Nhữ Lệ, chức Đại trung đại phu, Lễ bộ Thị lang, được ban thưởng mỗi thứ 50 tấm lụa và 50 lạng bạc.

[50] Ban chiếu cho các Ty đề hình ở Kinh Tây Nam và Kinh Bắc lộ, mỗi năm căn cứ vào giá trị thực tế của tiền, vật phẩm, lương thảo được phong trang của triều đình, tính toán tổng cộng 20 vạn quan để cấp xuống cho Ty chuyển vận chi phí phụng ứng lăng tẩm. Nếu còn dư, cho phép Ty chuyển vận sử dụng. Lệnh chỉ huy ban hành tháng 8 năm nay không được thi hành.

[51] Ban chiếu cứu trợ những dân thường bị giặc Tây xâm lược.

(Việc này ghi trong 《Chính mục》 ngày 28.)

[52] Hôm đó, sau khi Xu mật viện tâu việc xong, Vương Nham Tẩu nói: “Thần hôm qua có chút ý kiến đã trình bày, không biết đã được bệ hạ xem qua chưa? Thần tuy nhỏ mọn, nhưng không phải vì một Lưu Chí hay Tô Triệt, mà là vì bệ hạ tiếc những người tâm phúc mà thôi! Người tâm phúc khó kiếm, mất một người là thiếu một người.” Vua tuyên dụ rằng: “Lưu Chí lúc mới buông rèm nhiếp chính, bài trừ gian tà rất có công, Trẫm rất coi trọng. Nhưng nghe nói ông ta từng thông tin với Hình Thứ, và tiếp đón con em của Chương Đôn, khi Trẫm hỏi trực tiếp, quả nhiên là như vậy. Triều đình trách cứ người, mà lại lén lút thông tin, gửi lòng tốt, các khanh thử xem việc này có nên không?” Nham Tẩu nói: “Chương Đôn bảo Lưu Chí phân phó cho Hữu thừa tướng, cũng không thể khống chế được.” Vua đáp: “Xu mật viện nói đúng.” Nham Tẩu nói: “Bệ hạ đã thấy rõ, dù cho làm tể tướng cũng không thể khống chế, huống chi một tờ giấy bình thường sao có thể khống chế được?” Vua lại tuyên dụ: “Trẫm cũng không trách nặng Lưu Chí, vì ông ta lúc mới buông rèm có công, nhưng việc này không nên làm.” Nham Tẩu nói: “Điều này đúng là vậy, Lưu Chí thiếu suy nghĩ.” Hàn Trung Ngạn cũng nói: “Lưu Chí thật sự thiếu suy nghĩ, không có ý gì khác, lúc mới buông rèm quả thật có công.” Nham Tẩu nói: “Lưu Chí từ chức nhỏ, trong vài năm, bệ hạ đã đề bạt lên làm tể tướng, Lưu Chí quyết không phụ bệ hạ.” Vua đáp: “Vốn không trách nặng Lưu Chí.”

Nham Tẩu nói: “Quan ngôn sự chưa hẳn đều trung trực, thần nghe nói Dương Úy là người của Lữ Huệ Khanh, biết ý đồ của hắn là gì? Chỉ muốn loại bỏ người tâm phúc của bệ hạ, chính là mở đường cho gian tà! Bệ hạ có thấy gần đây các quan đài gián quá lắm không? Hôm nay hai người lên, ngày mai hai người lên.” Thái hoàng thái hậu cười nói: “Hôm nay lại hai người chưa lên.” Nham Tẩu nói: “Thần trước đây nói về Thái Xác, Chương Đôn, cũng không đến mức này. Nay Lưu Chí có việc gì mà lại bị truy đuổi như vậy? Mong bệ hạ xem xét kỹ hơn.”

( “Chương Đôn, nếu cho làm Hữu bộc xạ, chưa chắc đã vui.” Thiệu Bá Ôn cho rằng đây là lời Thái hoàng thái hậu trách Lưu Chí. Lại trong 《Vương Nham Tẩu nhật lục》 chép: “Thái Xác oán hận, bảo Lưu Chí phân phó cho Hữu bộc xạ, cũng không thể khống chế được.” Lời lẽ đều tương tự, lại Thái Xác đã từng làm Tả bộc xạ, không nên nói là phân phó cho Hữu bộc xạ, e rằng chỉ là chỉ Chương Đôn, Nham Tẩu chép nhầm, nay sửa lại. Lại e rằng lời này chỉ là do Nham Tẩu đối đáp với Thái hoàng thái hậu mà thôi, không phải Thái hoàng thái hậu trách Lưu Chí, vì không nên trong mấy ngày mà Vua tôi đều có lời như vậy. Nay tạm ghi cả hai, cần xem xét kỹ mới được. Lã Đại Phòng hôm đó tâu đối, ắt có ghi chép, tiếc là chưa tìm được. Thái hoàng thái hậu nói “Hôm nay lại hai người chưa lên”, không biết là ai, cần tra cứu.)

[53] Ngày Giáp Thân, Nham Tẩu lại tâu: “Hôm qua thần đã đối diện bàn luận việc của Lưu Chí, may được thánh thượng ban ân khoan dung, lòng thần cảm kích, thề chết không quên. Nhưng trong lúc vội vàng, mới nói được một phần, dám mạo phạm uy trời, xin nói hết những điều chưa nói. Thần cho rằng thiên hạ quốc gia, ắt phải nhờ vào bề tôi tâm phúc, mà bề tôi tâm phúc không thể có được trong một ngày, đã được rồi thì phải giữ gìn, đừng để kẻ gian tà ly gián, thì người trung với Vua sẽ biết khuyên răn. Bề tôi tâm phúc cũ còn không giữ được, thì người sau này sao có thể tin cậy?

Huống chi tâm phúc đã hư, tà khí bên ngoài có thể xâm nhập, đó là lẽ tất nhiên; điều thần lo lắng chính là ở đây. Chí và Hình Thứ thư từ qua lại, cùng tiếp kiến con cháu Chương Đôn, đó là tội do suy nghĩ không chu toàn, phòng bị không nghiêm. Nếu cho rằng đó là mưu tính cho ngày sau, thì xin bệ hạ xem xét thêm. Chí và Thái Xác không chỉ thù hận sâu sắc, mà còn không dùng lễ nhỏ để đối đãi với đảng của hắn, có thể uyển chuyển thu phục lòng Xác. Hơn nữa, thần thường thấy Chí cảm kích ân sủng, luôn có ý chí báo đáp quốc gia bằng cái chết, há lại dám phụ bệ hạ, đây thực là bề tôi tâm phúc của bệ hạ. Nay đại gian chưa chết, lòng người nghi ngờ, trên triều đình, kẻ đối địch với hắn, Chí đứng đầu. Một mai vì lỗi nhỏ mà bỏ rơi, người trong thiên hạ không biết nguyên do, ắt sẽ ngờ vực lòng bệ hạ có thay đổi, cho rằng bệ hạ đang báo thù cho đại gian.

Trước đây bệ hạ dùng Chí làm tể tướng, khí thế gian đảng tự nhiên tiêu tan, nay đợi tội nhiều ngày, bọn gian tà nhìn nhau, đã lại tăng khí thế. Sự tiến cử của Tô Triệt, đại để giống Chí, đều là người mà chính nhân trông cậy, còn gian đảng ngày ngày ghen ghét. Việc họ ở lại hay ra đi, há chẳng quan trọng sao? Nay phạm lỗi nhỏ, nhưng hệ trọng lớn, mong bệ hạ trong lúc cân nhắc nặng nhẹ, lại ban cho sự xem xét, thì bệ hạ sẽ được nhiều lợi ích.

Mưu gian khó phòng, từ xưa đã là mối lo chung, không ai không nhân lúc ý chúa động mà vội vàng đả kích, bệ hạ ở đây không thể không xem xét. Thần nghe nói ngự sử Dương Úy là môn nhân của Lữ Huệ Khanh, lại được Trương Tảo biết đến sâu sắc. Thư Thiện làm trung thừa, tiến cử làm đài quan, trước đây lại bổ nhiệm làm ngự sử, công luận sôi sục, dâng sớ bài xích, mệnh lệnh bèn không thi hành. Từ đó oán hận chính nhân, thường có chí báo thù. Sau lại nhân Triệu Quân Tích không có chủ kiến, bị người sai khiến, nhiều lần tiến cử, cuối cùng được bổ nhiệm chức này. Gián quan Ngu Sách cũng là người quen biết mặt của Trương Tảo, từng được Tảo hết lời tiến cử. Bệ hạ thử xem xét đầu đuôi việc này, còn có thể tin rằng họ không có ý đồ khác không?

Lòng thần khẩn thiết, thường sợ lời khéo làm bệ hạ sai lầm, nên không tránh phiền toái, kính cẩn tâu lên. Mong bệ hạ khi nghe lời nói, thêm ý xem xét, để họ không thể dùng tội nghi ngờ vu hại người lương thiện, mà ngầm tạo đất cho gian tà, thì thật là may mắn cho xã tắc thiên hạ. Vả lại, việc Chí, Triệt ở lại, không có lợi cho thần, mà lợi cho bệ hạ. Việc Chí, Triệt ra đi, không hại cho thần, mà hại cho quốc gia. Chỉ vì thần được liên kết gần phụ, lâu nay được ân sủng đặc biệt, thấy nghe được việc, không dám không hết lòng ngu muội. Mong bệ hạ tha thứ cho sự ngay thẳng điên cuồng của thần, xét lòng thành của thần, đặc biệt nghe theo, thật may mắn!”

Thiếp hoàng nói: “Thư Thiện cũng là đảng của Vương An Thạch, Huệ Khanh, sau vì phạm tội tham ô bị truy tước, bị phế ở nhà.” Lúc đó đã có chiếu khóa học sĩ viện thảo chế bãi chức Chí, nhưng Nham Tẩu chưa biết.

(Thiệu Bá Ôn biện bác rằng: Hình Thứ vì là đảng của Thái Xác, bị biếm làm giám tửu ở Vĩnh Châu, từ kinh sư lên thuyền đi nơi biếm. Lưu tướng ban đầu thân thiện với Thứ, không biết Thứ oán hận, đã gửi thư cho Thứ.

Người mang thư hỏi giám đông bài ngạn quan Như Đông Tế thuyền ở đâu. Đông Tế là kẻ hiểm độc, lấy thư, chép lại rồi trao lại. Đem bản chép nộp cho ngự sử Dương Úy, trước đây làm giáo thụ ở Vận Châu, từng khảo thí tiến sĩ Nam Kinh, Lưu tướng lúc đó làm thiêm phán Nam Kinh giám thí, thấy Úy yêu quý, Úy lại nhờ con rể Lữ tướng là Vương Đảng gặp Lữ tướng, Lữ tướng cũng yêu quý, bổ làm viên ngoại lang công bộ. Lưu tướng vì việc Thái Tân Châu không yên lòng, muốn đuổi cả Lữ tướng và Tô môn hạ, chỉ làm việc phục tịch để phòng hậu hoạn, biết Úy có mưu trí, bèn bảo trung thừa Triệu Quân Tích tiến cử Úy làm đài quan, muốn dùng hắn, bèn bổ làm giám sát ngự sử.

Úy trước xuất thân từ Lữ tướng, lại cùng Tô môn hạ là người cùng quê, lại xuất thân từ Lưu tướng, bèn đoán ân sủng của Lưu, Lữ hai người, biết Lưu không bằng Lữ, và biết Lưu tướng muốn dùng mình làm việc phục tịch, bèn luận Lưu tướng thông thư với Hình Thứ. Thư viết: “Vĩnh Châu là nơi tốt, cứ đi đợi ngày hưu phục.” Úy giải thích “hưu phục”“phục tử minh tịch”.

Lại luận Lưu tướng từng cho con Chương Đôn ở nhà. Thái hoàng thái hậu giận Lưu tướng phản phúc, trách Lưu tướng: “Nghe Hình Thứ đi biếm, tướng công từng thông thư, lại cho con Chương Đôn ở nhà. Tướng công nên một lòng với triều đình, Chương Đôn dù cho làm hữu bộc xạ, chưa chắc đã vui.” Lưu tướng không biết trả lời sao. Dương Úy cùng đảng là giám sát ngự sử Lai Chi Thiệu công kích không ngừng, bèn bổ làm quan văn điện học sĩ, tri Vận Châu. Úy lo ngại hữu thừa Lương Đào, thiêm thư xu mật viện Vương Nham Tẩu, xu mật đô thừa chỉ Lưu An Thế, thị ngự sử Chu Quang Đình cứu Lưu tướng, bèn tâu rằng Lưu Chí có đảng chết trong triều. Sau các quan quả nhiên đều dâng chương, thái hoàng thái hậu vì lời Úy đã vào trước, bèn bãi chức cả.

Xét chép của Bá Ôn, có nhiều chỗ mâu thuẫn, nay chọn lấy phần hợp lý. Lưu Chí bị bãi tháng 11 năm thứ 6, Lương Đào tháng 6 năm thứ 7 mới bổ làm hữu thừa. Lưu Chí bị bãi, Chu Quang Đình thực làm cấp sự trung, không làm thị ngự sử. Lai Chi Thiệu lúc đó cũng chưa vào đài. Đều là Bá Ôn nhớ nhầm. Lại nói Lưu Chí muốn dùng Dương Úy làm việc phục tịch, e rằng không hẳn thế. Nên xem xét.)

[54] Kinh lược sứ Hi Hà Lan Dân lộ Phạm Dục tâu: “Thần trộm xét đạo trị giặc của tiên vương, giặc đến thì chống cự, giặc đi thì không đuổi theo. Tuy gọi là đức sáng, nhưng cốt yếu là lấy nhàn đợi mệt, lấy tĩnh chế động. Thuật thắng giặc của nhà binh đời sau, cũng không ngoài điều đó. Giặc đến thì ta có chỗ giữ, nên có thể chống cự; giặc đi thì ta không tranh giành gì, nên không đuổi theo. Nay thần thống lĩnh từ Lan Châu đến thành Định Tây, từ Định Tây đến bảo Long Nặc của Tần Châu, trong khoảng ba trăm dặm chỉ có một thành, giặc cướp không bị ngăn cách, qua các thung lũng lớn có thể tiến thẳng vào.

Trước đây giặc thường đánh Lan Châu, lại đánh Định Tây, may mà chúng không tính kế đánh sâu, đóng quân dưới thành kiên cố, nên không có công mà rút lui. Nếu chúng đánh sâu, ta lấy gì chống cự? Nay triều đình ra chiếu xây thành Lý Nặc, lại sai bản lộ vẽ bản đồ từ Định Tây về phía đông đến các bảo Nột Mê, công trình này một khi hoàn thành, hoặc lại chiếm trước chỗ hiểm yếu Nhữ Già, thì trong khoảng ba trăm dặm từ đông sang tây, các thành lũy liên tiếp, vững chắc như thành vàng hào nước, điều quân đóng giữ, đủ để ngồi yên khống chế đường tiến của giặc. Lại nhờ những vùng đất màu mỡ bên cạnh, có thể đặt hơn vạn dân làm lính bắn cung, dựa núi giữ hiểm, đều là vách đá cheo leo, để tiện cày cấy thu hoạch, sinh lợi tài vật, thường đặt gần đồn, giặc đến ít thì tránh vào vách đá, đến nhiều thì vào giữ thành quách, đợi chúng mệt mỏi rút về, nhân lợi thế mà đánh úp, khiến giặc tiến không được gì, lui lại mất mát, chúng thường mệt mà động, ta thường nhàn mà tĩnh. Như thế thì sau này giặc đến có thể chống cự, giặc đi thì không đuổi theo, quân biên giới không mệt mỏi mà ngồi yên làm khốn đốn giặc Khương Di.

Lại đợi khi các bảo đã xây xong, cho quân nghỉ ngơi ít nhiều, chia một lượt quân tướng làm nhiều lượt, mỗi lượt chỉ khoảng ba đến năm nghìn người, đóng ở nơi hiểm yếu, theo dõi động tĩnh của giặc, theo chiếu chỉ triều đình hiện nay, làm kế hoạch quấy nhiễu. Mỗi năm chia làm hai lượt, xuân thu chỉ hai ba tháng, ba năm mới hết một vòng, quân lực không mệt mỏi, uy biên giới luôn vững mạnh. Khiến giặc muốn đánh thì quân ta không ra, muốn nghỉ thì quân ta bất ngờ đến. Xưa Ngô dùng ba đạo quân để làm mệt Sở, nói rằng ‘thường xuyên làm mệt chúng, dùng nhiều cách để đánh lừa chúng’, sau cùng đánh vào Dĩnh.

Hạ Nhược Bật đề ra kế đánh Trần rằng: ‘Chúng ra thì ta về, chúng về thì ta ra.’ Cuối cùng dùng kế đó diệt Trần. Kính mong triều đình trên xét hợp với đạo trị giặc của tiên vương là giặc đến thì chống cự, giặc đi thì không đuổi theo, sau đó mong cầu lấy nhàn đợi mệt, lấy tĩnh chế động, thường xuyên làm mệt giặc, thực hiện trong thời gian dài, bọn giặc nhỏ mọn kia, há có thể làm hao tổn nước nhà, mệt mỏi dân chúng, kéo dài ngày tháng, đối địch với Trung Quốc sao? Sẽ thấy chúng bó tay nghe theo mệnh lệnh mà thôi.”

(Ngày 27 tháng 7 năm thứ 6, Vương Nham Tẩu nói: “Phạm Dục nhiều lần dâng sớ muốn nhân cơ hội này tiến đánh, xây bảo trại từ Định Tây về phía đông đến Lũng Nặc, xây thành lớn Nhữ Già. Ngày 7 tháng 9, ra chiếu cho các tướng soái đều trình bày phương lược, kế hoạch phối hợp chế ngự. Lữ Đại Trung trình ba kế sách, Chương Tiết trình kế hoạch đánh nhử. Ngày 26 tháng 9, Phạm Thuần Túy xin các lộ thay nhau đóng giữ và xuất quân.

Ngày 25 tháng 10, ra chiếu cho các lộ đặt hỏa hiệu ngang. Lại ra chiếu bí mật vạch kế hoạch đối phó Ất Bô. Ngày 6 tháng 10, ra chiếu cho các lộ xuất quân, làm kế đến nhanh rút nhanh, và thay nhau xuất quân làm mệt giặc. Ngày 8 tháng 10, ra chiếu cho các lộ không được lạm dụng quân mã. Ngày 12 tháng 10, tạm dừng ban thưởng hàng năm, chia cho các lộ làm phần thưởng công lao. Ngày 19 tháng 10, ra chiếu cho Phạm Dục, Lưu Thuấn Khanh chiêu dụ Đa Bảo Trung. Ngày 23 tháng 10, chiếu chỉ triều đình từ thành Định Tây về phía đông đến giữa bảo Lũng Nặc, và từ thành Định Tây về phía tây đến giữa bình nguyên Lý Nặc, hai bên đều xây một bảo trại phòng thủ, và hai bảo nhỏ bảo vệ.”

Việc này căn cứ theo tấu trạng của Phạm Dục về việc Du Sư Hùng xây bảo trại có khác biệt. Tấu trạng đính kèm ngày 28 tháng 2 năm thứ 7. Nay nhân lấy kế sách làm mệt giặc mà Phạm Dục trình bày, đính kèm cuối tháng 10 năm thứ 6, cần xem xét kỹ hơn, để biết rõ chiếu lệnh cho các lộ đánh nhử thực sự là khi nào. Ngày 7 tháng 9 năm thứ 6, chỉ có nói về kế hoạch phối hợp chế ngự, chưa nói đến đánh nhử. Xem xét trước sau, thì ngày 6 tháng 10 mới ra chiếu chỉ về đánh nhử. Ngày 25 tháng 10, Trương Tồn, Trương Thành của Hoàn Khánh xuất quân ra khỏi biên giới, lại ngày 27 tháng 12 Phạm Thuần Túy nói có thể khảo cứu. Lý (Đức, chữ “Tâm” đổi thành “Thổ”) trong 《Thập Triều Cương Yếu》 nói: “Ngày đó, Cao Ly sai sứ Hoàng Tông Xác đến dâng 《Hoàng Đế Châm Kinh》.”)


  1. Từ Quân Bình ra làm Thủ châu Kỳ Châu: Xem quyển 456, ngày Ất Dậu tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 6 trong sách này: 'Từ Quân Bình quyền Tri châu Vận Châu.'
  2. Ngạn Nhược là thân gia của Chí, chữ 'Chí' nguyên bản viết 'Chính', căn cứ vào chú thích trong quyển 460, ngày Bính Thìn tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 6, quyển 461 ngày Kỷ Tỵ tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ 6 và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 99 phần Bè đảng mà sửa.
  3. Tân thông phán Mật châu là Nhậm Lâm Tích không dám xét xử, chữ 'Tân thông phán' nguyên bản viết 'Thân phán phá', căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 mà sửa.
  4. Cùng Lữ Ôn Khanh từ Hồ châu thăng lên Minh châu, chữ 'Thăng' nguyên bản thiếu, căn cứ vào sách trên mà bổ sung.
  5. chữ 'trần' nguyên là 'huy', theo các bản khác sửa lại
  6. 'Lục' nguyên bản chép là 'Nguyên', căn cứ 《Tống sử》 quyển 212 bảng tể tướng, quyển 340 truyện Lưu Chí sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.