"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 468 NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 6 (TÂN MÙI, 1091)

Từ tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 6 đời Vua Triết Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 11, ngày Ất Dậu mùng một, Thái trung đại phu, Thượng thư Hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang Lưu Chí được bổ nhiệm làm Quan văn điện học sĩ, tri châu Vận. Chiếu chỉ lấy lý do thuận theo lời thỉnh cầu của Chí.

[2] Công bộ tâu: “Khi xây dựng, nếu có vật liệu thừa cần nộp lại, quan chức phải đo đạc chiều dài, rộng, đường kính và độ dày. Người giám tu hoặc chủ quản phải bắt quân lính trong vòng 5 ngày chuyển đến nơi tiếp nhận. Sau khi nộp xong, phải cấp biên lai trong ngày hôm sau, đồng thời báo cáo số lượng vật phẩm đã nhận lên cấp giám sát. Người phụ trách sổ sách phải hoàn tất việc ghi chép trong vòng một ngày. Nếu vi phạm, sẽ bị xử phạt theo luật chậm trễ xử lý văn thư quan phương, nặng nhất thì người giám tu bị giáng chức và điều đi nơi khó khăn, người chủ quản bị giáng một bậc, còn quan giám đương hoặc giám tu nếu cuối kỳ không phát hiện, ba lần liên tiếp sẽ bị coi là thiếu sót.” Được chấp thuận.

(Phần mới bị cắt bỏ.)

[3] Hộ bộ tâu: “Xin cho các lộ Quảng Nam Đông và Quảng Nam Tây sử dụng thuyền lớn để buôn bán muối trái phép. Nếu bị bắt, dù là tội nhẹ nhất cũng không được cho thuê hoặc vận chuyển, thuyền sẽ bị tịch thu, sau đó định giá lại và bán đi.”

[4] Ngày Đinh Hợi, Tả triều tán lang, Từ bộ lang trung Dương Khang Quốc được bổ nhiệm làm Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Đông. Tả thừa nghị lang, Bí các hiệu lý, tri châu Giáng Lưu Đường Lão được bổ nhiệm làm Đề điểm hình ngục các lộ Tần Phượng. (Đường Lão trước đây cùng Dương Khang Quốc và Từ Quân Bình đều bị cách chức ngôn quan, nay cùng Khang Quốc đều được bổ nhiệm làm giám ty. Cần xem xét thêm.) Tả thừa nghị lang, Đề điểm hình ngục các lộ Tần Phượng Du Sư Hùng được bổ nhiệm làm Từ bộ viên ngoại lang. Tả triều thỉnh lang, Chuyển vận phó sứ lộ Hà Bắc Tần Trung được bổ nhiệm làm Kim bộ viên ngoại lang.

[5] Ngày Mậu Tý, Hàn lâm học sĩ Phạm Bách Lộc tâu: “Thần vào ngày 29 tháng trước vâng lệnh triệu vào bệ kiến, được nghe thánh dụ rằng Hữu bộc xạ Lưu Chí nhiều lần xin ra ngoài, nên phong làm Quan văn điện học sĩ, nhậm chức Tri Vận châu. Đã chuẩn y tuyên cáo bạch ma, đến nay đã bảy ngày[1], thần nghe nói chưa từng ban xuống cáo mệnh. Vì thần ban đầu không có tấu trình, nay dám không hết lòng ngu muội. Thần nghĩ rằng từ xưa các bậc thánh minh, khi tiến thoái đại thần, chưa từng không đối xử hậu hĩ với lễ nghĩa liêm sỉ, để tỏ rõ sự tôn trọng của bậc quân chủ, giữ trọn vẹn sự xuất xử của đại thần. Điều này không có gì khác, chính là để tôn trọng uy nghiêm triều đình, khiến quốc gia có quy củ, triều đình có lý thế, tôn trọng mà không xâm phạm.

Triều đình ban đầu cho rằng Chí là người hiền triết, công trung, xứng đáng làm phụ tá, nên trao cho chức vị, giao phó chính sự. Đến khi có người bàn rằng đạo đức của ông đã thay đổi, không thể giữ được đến cuối cùng, việc gì đó đủ để gọi là lỗi lầm, xét thấy không nên làm phụ tá, thì chức vị đã trao, chính sự đã giao, thu hồi lại là được. Như việc ông xin từ chức mà cho ra ngoài, Giả Nghị từng nói: ‘Vì quý trọng đại thần nên định tội rồi[2], vẫn chưa thẳng thừng trách mắng, còn tìm cách che giấu cho họ.’ Nay minh chiếu cho thần biết Chí nhiều lần xin ra ngoài nên có mệnh lệnh này, thần lúc đó kính cẩn nghe lời đức âm, không dám tấu trình gì thêm, chính là vì thế. Sau đó nghe nói Cấp sự trung phong hoàn ma chế, mọi người xôn xao, truyền nhau rằng trong chế từ không nêu rõ lỗi lầm của ông, nên xin giữ lại. Thần cho rằng bệ hạ ban đầu cho là hiền mà dùng làm tướng, nay nghe thấy sai lầm mà cách chức, không muốn nêu rõ lỗi lầm, là để giữ thể diện cho người hiền, cũng là để tôn trọng uy nghiêm triều đình, tăng thêm sự cao quý không xâm phạm, đó là quy phạm lớn trong việc tiến thoái đại thần.

Nếu nhất định phải nêu rõ lỗi lầm, để bốn phương nghe biết, thì đó là việc dùng tướng có sai lầm, mà thể thống triều đình không được tôn trọng, há phải là cách để tôn trọng uy nghiêm triều đình, tăng thêm sự cao quý không xâm phạm sao? Thần nghĩ rằng những người bàn tội ông, thì hận không thể thi hành hình phạt lưu đày, những người muốn giữ ông lại, thì hận không thể tìm cách níu kéo. Kính nghĩ minh chiếu, xử lý rất đúng đắn mà không có gì nghi ngờ. Nay có người nói rằng, nếu có lỗi lầm thì không nên phong làm học sĩ, đó đều là lời nói vu vơ, không đủ để giúp ích quốc sự và làm rộng đức lớn của bệ hạ. Việc bổ nhiệm hay cách chức tể tướng, chỉ liên quan đến việc triều đình dùng hay không dùng mà thôi, há lấy chức danh và chữ lớn làm nặng nhẹ sao? Đó chỉ là văn từ lễ mệnh, chứ không phải là để thể hiện sự khen chê. Kính mong bệ hạ thấu hiểu thể thống đúng đắn, kiên quyết thi hành mệnh lệnh đã ban, sáng như mặt trời mặt trăng, công bằng như trời đất, xét theo điển cố, không có gì đáng nghi ngờ. Kính mong bệ hạ quyết đoán mà thi hành, thiên hạ may mắn biết bao!”

[6] Ngày Nhâm Thìn, Cấp sự trung Chu Quang Đình được bổ nhiệm làm Tri châu Bạc. Trước đó, Lưu Chí bị cách chức tể tướng, chiếu chỉ phế truất qua cửa Môn hạ, Quang Đình đã niêm phong trả lại, nói rằng Chí là người trung nghĩa, tự mình phấn đấu, ra sức phân biệt tà chính, có công với triều đình, được đề bạt lên địa vị cao, một sớm một chiều vì nghi ngờ mà bị cách chức, thiên hạ không thấy ông có lỗi lầm gì, nếu người nói cho rằng thần là kẻ phe đảng, thần nguyện bị trục xuất mà không từ chối. Ngự sử trung thừa Trịnh Ung nói Quang Đình là phe đảng, xin trị tội ông. Điện trung thị ngự sử Dương Úy lại nói Chí có nhiều phe đảng, ắt sẽ tương cứu, xin đừng nghe theo. Do đó, Quang Đình và Chí lần lượt bị cách chức. (Trịnh Ung trong cựu truyện nói: “Tể tướng Lưu Chí nắm quyền lâu ngày, phe đảng bên trong chia rẽ, Ung nhân đó hặc tội Chí tự ý lộng quyền, kẻ sĩ trong thiên hạ tranh nhau theo về cửa ông, nên cách chức để thu hồi quyền bính. Tấu chương dâng lên không được trả lời.” Không rõ cựu truyện nói phe đảng bên trong chia rẽ là chỉ những ai. Cần xét lại. Tân truyện của Ung chỉ nói: “Hặc tội Chí tự ý lộng quyền, nên cách chức để thu hồi quyền bính. Lại tâu danh sách 30 người như Vương Nham Tẩu là phe đảng của Chí.” Không rõ Ung nói 30 người phe đảng của Chí là những ai, đã ghi kèm ngày 18 tháng 10. Cựu truyện không có chi tiết này, tân truyện có lẽ dựa vào 《Nguyên Hựu biên loại chương sớ》.) Khi Quang Đình niêm phong trả lại chiếu chỉ, Lã Đại Phòng từng triệu ông để truyền chỉ, nhưng Quang Đình không đến, nên chỉ bị cách chức với nguyên chức vụ.

(Điều này căn cứ vào 《Vương Nham Tẩu nhật lục》: “Chu Quang Đình lại được bổ làm Tri châu Bạc, Lã Đại Phòng vì ông được triệu mà không đến, lại không hài lòng việc ông niêm phong trả lại chiếu chỉ, nên chỉ cách chức với nguyên chức vụ. Trong cung màn không hề tức giận.” Cần xét lại. Tôn Thăng trong chế từ bổ nhiệm Quang Đình làm Tri châu Bạc viết: “Kẻ sĩ tự tin, kiên định, không hổ thẹn với trời đất, hành xử theo chí hướng của mình. Còn như giữ chức vụ, cũng chỉ là tuân theo pháp luật và đạo lý mà thôi. Ngươi tuy kiên định tự tin, nhưng chiếu chỉ từ trong cung ban ra, mệnh lệnh công bố ngoài triều, ngươi khinh suất phản đối, đó là điều pháp luật không cho phép, triệu ngươi đến bàn luận, ngươi lại từ chối không đến. Giữ chí kiên định độc lập, nhưng quên mất việc tuân thủ pháp luật và đạo lý. Nên trả lại chức vụ, ra ngoài giữ chức cũ. Hãy thể hiện lòng khoan dung của ta, rèn luyện tiết tháo của ngươi.”)

[7] Bảo Văn các đãi chế, Tri Bạc Châu Diệp Khang Trực được bổ nhiệm làm Binh bộ Thị lang. Bảo Văn các Trực học sĩ, Tri Dương Châu Tạ Cảnh Ôn được bổ nhiệm làm Tri Thọ Châu. Cảnh Ôn bị khiển trách vì tiến cử cựu Thông phán Vương Củng và biện minh rằng ông ta khi tại chức không có lỗi lầm gì.

(Theo bản truyện của Cảnh Ôn. Bản truyện cũ chép: “Lại làm Tri Dương Châu, Thông phán Vương Củng là thân thích của Tể tướng Lưu Chí, kết bè với Tô Triệt làm việc gian tà, khi về triều được bổ làm Tri Túc Châu, nhưng vì bị người ta tố cáo từng tham nhũng khi ở Dương Châu nên bị cách chức. Củng tự biện hộ, được bổ làm Tri Mật Châu, lại bị người ta tố cáo nên lại bị cách chức. Cảnh Ôn tiến cử ông ta có tài trị chính, lại biện minh rằng ông ta không có tội khi ở Dương Châu, vì thế bị giáng làm Tri Thọ Châu.” Nay theo bản mới.)

[8] Chiếu rằng Hoàng thành sứ, Gia Châu Phòng ngự sứ, Quản câu Lân Phủ lộ quân mã Trương Nhược Nột, Hoàng thành sứ, Thái Nguyên phủ lộ Đô giám, Tri Lân Châu Tôn Hàm Ninh, Hoàng thành sứ, Tượng Châu Phòng ngự sứ, Tri Phủ Châu Chiết Khắc Hành, vì không rõ ràng trong việc tuần tra và không chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch “thanh dã”, khiến giặc Tây tự do cướp bóc như vào chỗ không người. Trương Nhược Nột bị giáng một cấp, sung làm Phu Diên lộ Binh mã Kiềm hạt; Tôn Hàm Ninh bị giáng hai cấp, cách chức; Chiết Khắc Hành bị phạt 20 cân vàng. Sau đó, Ngự sử trung thừa Trịnh Ung tâu: “Ở khu vực Lân Châu và các thành trì, giặc giết hại dân chúng, cướp bóc gia súc, đốt phá nhà cửa không ít. Nhược Nột và những người khác bị trách phạt quá nhẹ, thần e rằng các quan biên giới sẽ càng thêm lơ là. Mong rằng xét theo quân pháp, răn đe rõ ràng để an ủi dân chúng và làm gương cho các quan biên giới.” Chiếu rằng Hàm Ninh bị giáng làm Giám đương sai khiển, Nhược Nột bị giáng làm Phu Diên lộ Binh mã Đô giám, Khắc Hành bị giáng một cấp.

(Ngày 29 tháng 9, lại đến ngày 25 tháng 5 năm sau, và ngày 27 tháng 1 năm Thiệu Thánh thứ 3.)

[9] Chiếu rằng lịch mới lấy tên là “Nguyên Hựu Quan Thiên lịch”, sai Công bộ Thị lang Vương Khâm Thần soạn lời tựa.

[10] Ngày Quý Tỵ, Quan văn điện đại học sĩ, Hữu quang lộc đại phu, Tri Hà Nam phủ Hàn Chẩn được bổ làm Vũ An quân Tiết độ sứ, Tri Thái Nguyên phủ. (Chính mục ghi ngày mồng 8 tháng 10.) Quan văn điện đại học sĩ, Thái trung đại phu, Tri Thái Nguyên phủ Phạm Thuần Nhân được bổ làm Tri Hà Nam phủ.

(Chính mục ghi tương tự. Ngày Nhâm Ngọ tháng nhuận tháng 8 cần xem xét.)

[11] Chiếu miễn tiến phụng cho Tây Kinh.

(Chính mục ghi việc ngày 9, phụ lục ở đây.)

[12] Ngày Kỷ Hợi, Lại bộ tâu: “Võ thần có tang, cho nghỉ 100 ngày, nhưng không được rời nhiệm sở. Nếu hợp lệ được nghỉ 100 ngày mà muốn về chịu tang hoặc hộ tang, trong thời gian nghỉ có thể trở lại nhiệm sở, thì cho phép, vẫn tính là thời gian tại nhiệm.” Theo đó.

(Cựu lục ghi chi tiết. Nay theo Tân lục.)

[13] Ngày Canh Tý, Tả triều thỉnh lang, Giám sát ngự sử An Đỉnh được bổ làm Tri Giang Châu, theo lời thỉnh cầu của ông. Đỉnh đã hặc tội Tô Triệt không đúng, nên bị điều ra ngoài. (Tháng 3 năm thứ 7, Đỉnh bị khiển trách làm Tri Cao Bưu quân, có thể tham khảo.) Tả phụng nghị lang, Bí thư thừa, Tập hiền hiệu lí Trương Lỗi được bổ làm Quốc sử viện Kiểm thảo quan.

(Ngày 21 làm Đại trước.)

[14] Tam tỉnh và Xu mật viện tâu: “Năm Nguyên Hựu thứ 6, mùa thu có 170 người nhập lưu, năm thứ 6 so với năm thứ 5 ít hơn 46 người. Lại đem số người được tiến cử, chuyển quan, hoán thụ trong các khoa trường đại lễ trước đó, chia 3 năm thành 12 quý[3], mỗi quý khoảng 154 người, cộng với số nhập lưu mùa thu năm Nguyên Hựu thứ 6, tổng cộng 278 người. Trừ những người đã mất, về hưu, bị cách chức, có tang, tìm thầy thuốc, phụng dưỡng, phân ty hết hạn nghỉ, bị xóa tên khỏi sổ rồi được phục chức, mãn tang, tìm thầy thuốc hết hạn, thì số nhập lưu thiếu 135 người.”

[15] Kinh lược ty Tần Phượng lộ tâu: “Xin cho phép tùy nghi xử lý các việc quyền biên, để tránh bị trở ngại khi có việc khẩn cấp.” Theo đó. Các kinh lược ty Thiểm Tây, Hà Đông cũng áp dụng tương tự.

[16] Ngày Tân Sửu, Hộ bộ tâu: “Các châu hiện có những người đầu danh nha tiền đang làm việc, đã trải qua những nhiệm vụ khó khăn, nên được chi trả bằng tiền mặt. Họ nguyện để lại tiền tại quan để chỉ định mua các trường vụ, trừ những người đang mua phác có thể tiếp tục mua lại, còn lại đều theo đơn xin mà chỉ định mua theo số tiền quy định. Nếu họ nguyện hai ba người cùng đơn xin mua chung cũng được chấp thuận. Khi hạn chót đến, ưu tiên cấp cho nha tiền. Những trường vụ đã giảm giá, gọi người vào thêm tiền, khi hạn chót đến sẽ cấp cho người trả giá cao nhất. Nếu nha tiền và dân thường trả giá ngang nhau, cũng ưu tiên cấp cho nha tiền. Nếu số tiền đã trải qua nhiệm vụ khó khăn chưa đủ số quy định, nhưng đạt được bảy phần, cũng cho phép chỉ định mua. Số tiền còn thiếu sẽ chia làm bốn kỳ nộp, cho phép người nhà quản lý, không ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính của họ. Nếu họ nguyện bán lại cho người khác, không kể số tiền nhiều hay ít, đều cho phép nha tiền thu làm lợi nhuận.” Được chấp thuận.

[17] Trung đại phu, Thủ trung thư thị lang Phó Nghiêu Dũ qua đời. Thái hoàng thái hậu nói với các quan chấp chính: “Nghiêu Dũ là người thanh liêm, chính trực.” Lại nói: “Người như vàng ngọc, tiếc là không làm đến chức tể tướng.” Các quan đáp: “Nghiêu Dũ từ thời Nhân Tông đến nay, luôn giữ vững tiết tháo, có đức có tiếng, thật đáng tiếc cho triều đình.” Vua ngừng triều để đến viếng, truy tặng Hữu ngân thanh quang lộc đại phu, thụy là Hiến Giản. Tư Mã Quang từng nói với Thiệu Ung: “Ba đức tính thanh liêm, chính trực, dũng cảm, người ta khó mà có đủ cả, ta đối với Khâm Chi (tức Nghiêu Dũ) rất kính nể.” Thiệu Ung nói: “Khâm Chi thanh liêm mà không khoe khoang, chính trực mà không cực đoan, dũng cảm mà ôn hòa, càng khó hơn nữa.” Thời đó đều cho lời của Thiệu Ung là đúng.

(Cựu truyền chép: “Nghiêu Dũ tại chức hai năm, chuyên dùng kẻ gian để bảo vệ bản thân.” Tân truyền đã bỏ đi.)

[18] Ngày Nhâm Dần, Tả triều thỉnh lang, Bí các hiệu lý, Thủ khởi cư xá nhân Trần Hiên, Tả thừa nghị lang, Tập hiền hiệu lý, Thủ khởi cư lang Khổng Vũ Trọng, đều được bổ nhiệm làm Trung thư xá nhân. Tả triều nghị đại phu, Tập hiền điện tu soạn Phạm Tử Kỳ được bổ làm Quyền Hộ bộ thị lang. (Ngày 8 tháng 2 năm thứ 8, vẫn giữ chức Tập hiền điện, coi việc ở Khánh.) Tả triều tán đại phu, Tập hiền điện tu soạn Hoàng Liêm được bổ làm Cấp sự trung. (Ngày 18 tháng 9 năm thứ 5, làm Thiểm Tây đô tào, nay được triệu vào, tháng giêng năm thứ 7 nhậm chức.) Tả triều thỉnh đại phu, Quyền Hộ bộ thị lang Mã Mặc được bổ làm Bảo văn các đãi chế, tri Thái châu. (Chính mục chép: “Mặc tri Từ châu[4]. Ngày 24, Khổng Vũ Trọng từ chối việc soạn chiếu cho Mặc.” Khác với thực lục. Cần xem xét thêm.) Long đồ các đãi chế, Giang Hoài Kinh Chiết đẳng lộ phát vận sứ Tiền Hiệp được bổ làm Công bộ thị lang. Công bộ thị lang Vương Khâm Thần được bổ làm Cấp sự trung. (Ngày 24, Khổng Vũ Trọng dâng tấu phản đối, có thể xem thêm.) Tả triều phụng lang, Trực long đồ các, Quyền quản câu Tây kinh lưu thủ ty Ngự sử đài Văn Cập được bổ làm Tập hiền điện tu soạn, tri Hà Dương. Tả triều phụng đại phu, Thành Đô phủ lộ chuyển vận phó sứ Lã Đào được bổ làm Tả ty lang trung. Triều tán đại phu, Tập hiền điện tu soạn, tri Từ châu Dương Cấp được bổ làm Giang Hoài Kinh Chiết đẳng lộ phát vận sứ.

[19] Tả triều thỉnh đại phu, Hữu ty lang trung Mục Diễn được quyền làm Thiểm Tây lộ chuyển vận sứ. Ban đầu, người Tây Hạ tự cắt đứt lễ vật hàng năm, im lặng không biết mưu đồ gì, các lộ đều nghiêm ngặt phòng bị, và được lệnh thừa cơ tấn công nhẹ, nhằm làm kế hoạch vây hãm giặc. Sau một thời gian dài, vẫn không có tin tức gì. Vương Nham Tẩu bàn việc cử sứ giả, các đồng liêu đều nói chưa cần cử. Nham Tẩu bí mật báo với Lã Đại Phòng rằng: “Việc hôm nay không thể coi thường, không biết các lộ phòng bị thế nào, triều đình nhất định phải biết rõ tình hình. Kẻ địch lớn đang ở trước mặt mà sớm cử một sứ giả, không phải là hành động quá đáng.” Đại Phòng cho là phải. Khi trình bày trước rèm, Nham Tẩu cũng đồng ý. Nghị quyết liền được quyết định. Ban đầu định cử riêng hai sứ giả, chia làm năm lộ. Diễn đã được bổ nhiệm, bèn bàn cử ngay người mang mệnh lệnh đến Kinh Nguyên, Tần Phượng, Hi Hà, lại cử chuyển vận phán quan Trương Cảnh Nguyên đi Phu Diên, Hoàn Khánh, xem xét thực tế rồi báo cáo. Phàm việc gì liên quan đến kinh lược ty, nếu kinh lược sứ có ý kiến riêng muốn trình bày trực tiếp, cũng được chờ Diễn về tâu lên. Sau đó, chiếu lệnh Diễn không cần đợi dọn nhà tiếp người, hãy lên đường trước, lại ban cho áo kim tử.

(Việc này căn cứ theo《Vương Nham Tẩu nhật lục》, nhân Mục Diễn tạ ơn, lệnh lên đường. Là việc ngày 26, nay ghi chung. Việc ban áo kim tử, căn cứ《Chính mục》là ngày 2 tháng 12, cũng ghi chung.)

[20] Đặt chức Lục tào chuẩn bị sai khiển quan.

(Việc ngày 18 theo《Chính mục》. Cần xem xét thêm.)

[21] Ngày Quý Mão, Hình bộ tâu: “Những người bị đày ra đảo Sa Môn, nếu là kẻ cướp đích thân ra tay hoặc đã giết người, phóng hỏa, tính tang vật đạt 50 quan, lại cưỡng hiếp, đích thân đánh người gây thương tích, hai lần phạm tội đến mức tử hình, hoặc tích lũy tang vật đủ 300 quan, tang vật trên 200 quan, mưu sát người chủ mưu hoặc tòng phạm dẫn đến chết, phạm tội thuộc Thập ác đến mức tử hình, chế tạo hoặc tàng trữ thuốc độc đã giết người, thì không được di chuyển nơi đày. Kẻ cướp có đồng bọn giết người, nguyên không cùng mưu, tang vật đủ 200 quan, nếu gặp ân xá thì di chuyển đến Quảng Nam, nếu vượt quá số lượng thì đày đến lao thành nơi xa xôi hiểm ác. Những tội phạm khác gặp ân xá, di chuyển đến các châu quân Kinh Hồ Nam Bắc, Phúc Kiến lộ, nếu vượt quá số lượng thì đày đến lao thành Quảng Nam. Người ở đảo Sa Môn gặp ân xá không thuộc diện được di chuyển, hoặc gặp ân xá nhưng không được về mà đã trên 60 tuổi, ở đảo 5 năm, thì di chuyển đến lao thành Quảng Nam; ở đảo 10 năm, thì theo quy định dành cho các tội phạm khác mà di chuyển. Người tàn tật hoặc trên 70 tuổi, ở đảo trên 3 năm, thì di chuyển đến lao thành các châu quân gần quê; người phạm tội thuộc diện phải di chuyển mà già yếu cũng xử như vậy. Những người vĩnh viễn không được tha về, thì thêm 2 năm rồi mới di chuyển.” Được chấp thuận.

(Bản mới cũng có, nhưng có thể bỏ.)

[22] Ngày Ất Tỵ, Lại bộ Thị lang Hàn Xuyên được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị lang. Lễ bộ Thị lang Bành Nhữ Lệ được bổ nhiệm làm Lại bộ Thị lang. (Nhữ Lệ vào ngày 3 tháng 9 từ Hình bộ đổi sang làm Lễ bộ Thị lang, ngày 18 tháng đó, Phạm Tổ Vũ lại làm Lễ bộ Thị lang, cùng với Nhữ Lệ đứng ngang hàng. Đến lúc này Nhữ Lệ đổi sang làm Lại bộ Thị lang, Hàn Xuyên lại làm Lễ bộ Thị lang, vẫn cùng với Tổ Vũ đứng ngang hàng. Ngày 12 tháng 6 năm sau Xuyên mới ra ngoài giữ chức. Sách 《Chính mục》 ghi Nhữ Lệ làm Lại bộ Thị lang vào ngày 6 tháng 11 năm sau.) Tả Phụng nghị lang, Bí thư Thừa, Tập Hiền Hiệu lý, Quốc sử viện Kiểm thảo Trương Lỗi được bổ nhiệm làm Trứ tác lang.

(Ngày 16 tháng 6, từ Tiểu trứ đổi sang Bí thư Thừa. Ngày 16 tháng 5 năm thứ 8, Hoàng Khánh Cơ nói.)

[23] Ngày Mậu Thân, Triều phụng lang, Quốc tử Tế tửu Phong Tắc kiêm Thị giảng.

[24] Quyền Cấp sự trung Khổng Vũ Trọng tâu: “Vương Khâm Thần được bổ làm Cấp sự trung, xét thấy Khâm Thần thiên tư nông cạn, đắm chìm trong danh lợi, cố chấp, đố kỵ, hiếu thắng, thay đổi tùy hứng. Chức Cấp sự trung là chức vụ hiến kế thay thế ở Đông đài, Khâm Thần sao có thể đảm nhận được?” Chiếu bãi bỏ mệnh lệnh trước.

(Khâm Thần ngày 18 được bổ từ Công bộ làm Cấp sự trung. Chính mục ngày 18 Mã Mặc nhận chức Tri Từ châu, ngày 24 Khổng Vũ Trọng dâng sớ phản đối Mã Mặc, thực lục đều không chép. Phụ lục cần xem xét.)

[25] Hình bộ tâu: “Quân nhân ngoại châu đào ngũ bị bắt ở kinh kỳ, tội lưu đày trở xuống, ghi chép đầy đủ lời khai tội trạng, căn cứ điều luật, gông cùm giải về nơi đóng quân hoặc nơi đang điều động, giao cho nơi đó quản lý và xử lý theo pháp luật; nếu không phạm tội khác, danh hiệu rõ ràng, hoặc tội đào ngũ không có chứng cứ, đều gửi văn thư về nơi đào ngũ để xét xử; quân ngoại châu đóng ở huyện thuộc kinh kỳ, tội trượng trở xuống đều theo quy định này. Nếu người cần gửi văn thư vào trong cổng kinh thành, người bắt được có đeo vòng làm giặc, hoặc nguyên là quân bị phối, cùng các tội lưu đày trở xuống, đều xử theo tội nhẹ hoặc nặng trước, rồi gửi văn thư về huyện thuộc kinh kỳ; giảm hai bậc so với bản tội, tội đồ trở xuống, vẫn không tính gộp. Những người chưa đến nơi quy định mà bỏ trốn, bị bắt trong kinh thành hoặc huyện thuộc kinh kỳ, tăng thêm hai bậc so với án cũ; trong huyện thuộc kinh kỳ, tối đa đánh một trăm trượng, vẫn ghi chép đầy đủ điều luật và gửi văn thư báo cáo.” Được chấp thuận.

(Mới bỏ.)

[26] Ngày Kỷ Dậu, Tả Triều thỉnh lang, Chuyển vận phán quan Tử Châu lộ Đổng Đôn Dật, Tả Triều thỉnh lang Hoàng Khánh Cơ cùng được bổ làm Giám sát ngự sử. Đôn Dật là người Vĩnh Phong. (Năm Nguyên Phù thứ 3 tháng 4 có truyện.) Khánh Cơ không rõ quê quán.

(Lữ Công Trước chép: “Hoàng Khánh Cơ, Thông phán Viên Châu, là em họ của Vương Kinh Công. Khi Kinh Công nắm quyền, rất muốn tiến cử, nhưng vì luận nghị không đổi, nên bị chìm lấp đến nay. Gần đây chưa có Thông phán nào sánh được với người này[5].” Lại chép: “Hồng lư thừa”, lại chép: “Khánh Cơ nhiều người biết đến.”)

[27] Thượng thư tỉnh tâu: “Kinh lược an phủ ty Quảng Nam Tây lộ tấu rằng, châu Nam Đan bắt được tặc cướp núi rừng là Phan Mỹ, Viên Tranh, xin theo quy định để được thưởng. Xin theo lệ của tổ tiên là Mạc Ngạn Thù, ban sắc cáo, tặng tử kim ngư đại cho thứ sử Mạc Thế Nhẫn.” Chiếu chuẩn.

[28] Đô giám Hoàn Khánh lộ là Trương Tồn, tướng thứ hai là Trương Thành, tướng thứ ba là Chiết Khả Thích đem quân vượt biên giới, đánh dẹp các tặc chúng ở vùng Lạt Vi Cương thuộc châu Vi, Xuyên Tiêu thuộc châu An, châu Bách và vùng Tổ Bô Lĩnh Bất Kinh Chưởng thuộc châu Diên, chém được 1.148 thủ cấp, bắt sống 2 người.

(Theo tấu nghị của Chương Tiết, việc xuất quân diễn ra vào ngày 25 tháng 11.)

[29] Ngày Tân Hợi, ban chiếu rằng: “Trẫm được kế thừa đức lớn của bậc chí tôn, đứng trên hàng vương công, nhờ sự dạy dỗ từ ái, trong nước được yên ổn. Kính nghĩ Thái hoàng thái hậu có đức thánh cao quý, ở ngôi tôn quý nhất thiên hạ, bảo hộ Trẫm, công lao đến tông miếu xã tắc, người thần đều quy phục, trời đất cùng thái hòa. Xét năm Giáp là năm tuần hoàn, đúng dịp khánh chúc ngày khởi đầu, kính chúc thọ khang, dâng lời thành kính. Xưa Thần Tông có lễ phụng dưỡng Quang Hiến hoàng hậu, từng nhiều lần khẩn thiết xin làm, nhưng lo hao tốn tiền của, nên đích thân dặn dẹp bỏ hết. Nay nghĩ đức lớn ấy biết lấy gì báo đáp, đang tìm cách tôn xưng, nếu không làm việc này, thì lấy gì để tỏ lòng hiếu kính với thiên hạ, và thấu đến thần minh?

Vậy lấy ngày đầu năm Nguyên Hựu thứ 7 là năm bản mệnh của Thái hoàng thái hậu, cho tăng ni, đạo sĩ, nữ quan trong kinh thành và các châu quân trong thiên hạ ăn chay một ngày. Trong kinh, tại sáu cung quán là Trung Thái Nhất, Thượng Thanh Trữ Tường, Tập Hi, Kiến Long, Lễ Tuyền, Vạn Thọ, và mười thiền viện ở chùa Đại Tướng Quốc, từ ngày mùng một Tết, mỗi nơi dùng tăng đạo mở đạo trường bảy ngày đêm, đến ngày giải tán cung quán thì thiết lễ cúng tế một đàn. Các châu quân ngoài kinh từ ngày mùng một Tết lo việc ăn uống và thiết ngục ba ngày, cùng chi tiền của tỉnh. Mong cùng thần dân chung tăng cát đảo, để trong ngoài đều được hưởng phúc lành.”

Trước đó, Thái hoàng thái hậu bảo các quan chấp chính: “Nay cùng hoàng đế nghe chính sự, không thể so với Quang Hiến, lại sợ hao tốn của quốc gia.” Lã Đại Phòng nói: “Chi phí cũng không nhiều.” Thái hoàng thái hậu nói: “Cũng đừng nói như vậy.” Hàn Trung Ngạn nói: “Bệ hạ khiêm tốn quá mức.” Vương Nham Tẩu nói: “Đây là việc thiện của hoàng đế, không cần quá từ chối.” Bèn ban chiếu này. Lời chiếu do học sĩ Lương Đào soạn.

Đào tấu: “Thần kính nghĩ ngày 23 tháng này, Học sĩ viện nhận được chỉ dụ từ Trung thư tỉnh, cho rằng năm tới là năm bản mệnh của Thái hoàng thái hậu, nên theo điển cố ban chiếu thi hành. Kính nghĩ hoàng đế bệ hạ, nhân từ sáng suốt, hiếu thảo sớm thành, lòng yêu kính, khẩn thiết như vậy. Chiếu thư ban xuống, bốn biển truyền đi, ắt khiến người xa gần đều vui mừng kính ngưỡng, bề tôi trung hiếu càng thêm cảm kích. Đây thật là việc lớn của bậc minh chủ. Thần mong thánh từ cầm chiếu thư, đích thân trình bày với Thái hoàng thái hậu, rồi mới ban ra ngoài. Lòng thành nhỏ mọn, mong được đóng góp chút ít. Mong bệ hạ xét cho, thật may mắn!” Đào soạn chiếu dâng lên, Vua phê thêm một hai câu vào trước chữ “bảo hộ”.

Thái hoàng thái hậu nói: “Đó là ý của bậc tôn quý.” Nay trong chiếu có câu “có đức thánh cao quý, ở ngôi tôn quý nhất thiên hạ”, chính là do Thái hoàng thái hậu thêm vào.

(Ngự tập chép lời chiếu, nói có chỗ thêm vào, nay phụ ở đây. Ngự phê: “Năm tới là năm bản mệnh Nhâm Thân của Thái hoàng thái hậu, theo điển cố của Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu, nên ban chiếu trước, tổ chức trai hội, đạo trường, thiết ngục… Đã nhiều lần tấu lên Thái hoàng thái hậu, kính theo ý chỉ, sợ hao tốn của quốc gia, nên dẹp bỏ hết. Nhưng nghĩ Thái hoàng thái hậu ở ngôi tôn quý nhất thiên hạ, lại bảo hộ Trẫm, công lao đến tông miếu xã tắc, đức lớn ấy biết lấy gì báo đáp? Huống chi có điển cố năm trước, nên theo điển cố của Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu, tổ chức thi hành.”

Học sĩ viện soạn chiếu rằng: “Trẫm được kế thừa đức lớn của bậc chí tôn, đứng trên hàng vương công, nhờ sự dạy dỗ từ ái, trong nước được yên ổn. Kính nghĩ Thái hoàng thái hậu bảo hộ Trẫm, công lao đến tông miếu xã tắc, người thần đều quy phục, trời đất cùng thái hòa. Xét năm Giáp là năm tuần hoàn, đúng dịp khánh chúc ngày khởi đầu, kính chúc thọ khang, dâng lời thành kính. Xưa Thần Tông có lễ phụng dưỡng Quang Hiến hoàng hậu, từng nhiều lần khẩn thiết xin làm, nhưng lo hao tốn tiền của, nên đích thân dặn dẹp bỏ hết. Nay nghĩ đức lớn ấy biết lấy gì báo đáp, đang tìm cách tôn xưng, nếu không làm việc này, thì lấy gì để tỏ lòng hiếu kính với thiên hạ, và thấu đến thần minh? Vậy lấy năm Nguyên Hựu thứ 7 là năm bản mệnh của Thái hoàng thái hậu, các việc cần làm trong ngoài, đều theo thể lệ chiếu thư ngày mùng một tháng giêng năm Hi Ninh thứ 9 mà thi hành.”

Ngự phê: “Chiếu bản dâng lên rất ổn, chỉ là ở phần nói về Thái hoàng thái hậu, trước chữ ‘bảo hộ’ hình như thiếu ý tôn quý, như ‘ở ngôi tôn quý nhất thiên hạ’, nên thêm vào một hai câu rồi dâng lên.” Ngày 25 tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 6, thêm câu: “có đức thánh cao quý, ở ngôi tôn quý nhất thiên hạ.”)

[30] Hộ bộ tâu: “Nếu có hai hộ trở lên cùng đứng tên mua trường vụ, trong đó có người thực sự không có khả năng, muốn xin rút lui và miễn trách nhiệm để tự mời người khác tiếp tục, thì trước hết phải đến quan trình báo, trong vòng mười ngày phải hỏi ý kiến những người cùng mua hiện đang kinh doanh, nếu họ đồng ý tiếp nhận, thì trong vòng một tháng phải cung cấp đủ tài sản thế chấp theo quy định; nếu họ không đồng ý hoặc hết hạn mà không cung cấp đủ tài sản thế chấp, thì cho phép người xin rút lui mời người khác đến quan để tiếp tục.” Được chấp thuận.

(Không có trong bản mới, có thể bỏ.)

[31] Tháng 12, ngày Ất Mão, mùng một, Lễ bộ Thị lang kiêm Thị giảng Phạm Tổ Vũ chuyển đối, trình bày bốn việc:

[32] Một là, từ khi tổ tiên dựng nước, dẹp bỏ phiên trấn, chia thiên hạ làm 18 lộ, mỗi lộ đặt chức Chuyển vận sứ phó[6] và Đề điểm hình ngục; có 300 châu, mỗi châu đặt chức Thủ, đều có thể trực tiếp tâu lên triều đình; có 1200 huyện, mỗi huyện đặt chức Lệnh, đều do thiên tử bổ nhiệm. Ban đầu, thu hết quyền của Hương trưởng, Trấn tướng về huyện; thu hết quyền của huyện về châu; thu hết quyền của châu về Giám ty; thu hết quyền của Giám ty về triều đình.

Giám ty là chức vụ tương đương với Châu mục, Liên suý thời xưa; Quận thủ là chức vụ tương đương với chư hầu công, hầu thời xưa; Huyện lệnh là chức vụ tương đương với chư hầu tử, nam, phụ dung thời xưa. Theo pháp chế của triều ta, trên dưới ràng buộc lẫn nhau, nặng nhẹ kiềm chế lẫn nhau, dân từ tội đồ trở lên, quan lại từ tội phạt tiền trở lên, đều do thiên tử quyết định.

Phiên trấn thủ thần thống lĩnh các thành, được giao phó mấy ngàn dặm đất, mười vạn quân, chỉ cần một sứ giả đi xe, một tờ chiếu, sáng triệu thì chiều đến, liền trở thành thường dân. Vì thế hơn 130 năm, trong nước yên ổn, không chỉ do ân đức của tổ tiên thấm sâu vào lòng dân, mà còn do việc thiết lập quận huyện rất đúng đạo, điều mà tiền triều chưa từng có.

Giám ty được giao phó một lộ, Thủ thần được giao phó một quận, Lệnh được giao phó một huyện, đều là người cùng thiên tử chia đất mà cai trị, há có thể không chọn người sao? Tình người là, người có năng lực không được trọng dụng, người không có năng lực lại được dung thứ, thì từ người bình thường trở xuống, mấy ai mà không lười biếng? Vì thế nhiều người bàn rằng chức vụ Giám ty không được thực hiện tốt.

Thời tổ tiên có phép khảo khóa, chuyên xét các Giám ty các lộ, đặt sổ sách ở Trung thư, phàm có tâu xin hay công tội đều ghi chép, tham khảo ý kiến mọi người, kiểm nghiệm bằng việc làm, cuối năm thì so sánh ưu liệt, chọn người có năng lực, cũng chọn người không có năng lực mà bãi chức, trong 18 lộ của thiên hạ chỉ có mấy chục Giám ty, muốn biết hết cũng không khó. Việc chọn Quận thủ trong thiên hạ là chức trách của đại thần, thời xưa thiên tử tự làm. Thái Tông hoàng đế triều ta từng nói với tể tướng: “Trẫm chọn quan lại tốt, đợi khi chọn được 300 người, thì thiên hạ lo gì không trị?” Thẩm quan viện dâng lên danh sách hơn 20 người được chọn làm Tri châu trong số các quan Kinh triều, Thái Tông tự tay viết ấn chỉ ban cho, đại ý rằng: “Yêu thương dân, tuân pháp trừ gian.” Thần Tông từng nói với chấp chính: “Trẫm nghĩ tổ tiên trăm trận mới được thiên hạ, nay giao một quận cho kẻ tầm thường, thật đau lòng.”

Nay hai Thánh thượng ngồi yên, giao hết việc chính sự cho đại thần, vậy thì việc chọn Quận thủ ngày nay là chức trách của đại thần. Từ quan Kinh triều trở lên, công tội tốt xấu, không ai biết rõ bằng Lại bộ[7]. Thần ngu muội xin trước hết giao cho Thượng thư Lại bộ chọn những người đáng làm Tri châu, ghi rõ công tội, người tiến cử, rồi chọn người có thể đảm nhiệm để bảo đảm, tâu lên Tam tỉnh, Tam tỉnh triệu đến xét hỏi. Phàm người được triệu, bảo họ nói hai việc trở lên, như phép chuyển đối, hoặc lợi hại khi làm quan trước, hoặc được mất của triều đình, nếu lời nói có thể thực hiện, và có công trạng, cùng với người tiến cử là nhiều danh nhân, thì dùng không ngần ngại. Người không đạt, thì lần lượt bổ nhiệm. Người kém, thì cho làm Thông phán ở Kinh phủ hoặc Phiên quận. Người già yếu không đảm nhiệm được thì cho làm quan ở cung quán. Người có tội thì theo phép cũ giáng làm Giám đương quan. Đã định xong thứ bậc, rồi sai Ngự sử đài xét những người không xứng, đến chức thì giao cho Giám ty khảo khóa, mỗi năm một lần, thì báo cáo ưu liệt để thăng giáng. Như thế tuy chưa hoàn toàn tốt, nhưng được người tất nhiều.

Chưa có Giám ty, Quận thủ được người, mà Huyện lệnh có thể dung túng kẻ tham tàn hôn ám. Vì thế thiên tử giao việc cho tể tướng, tể tướng xét Giám ty là đủ. Giám ty xét Quận thủ, Quận thủ xét Huyện lệnh, triều đình căn cứ vào việc xét mà thưởng phạt, việc đó há khó sao! Có khảo khóa mà không thăng giáng, thì cũng như không khảo khóa. Nay Lại bộ tuy chia làm thượng, trung, hạ, nhưng chỉ là hình thức, không có thưởng phạt, khiến người ta khuyến khích và ngăn cản. Thần mong bệ hạ rõ bảo đại thần, bảo họ cẩn thận chọn Giám ty mà chuyên khảo, bảo đại thần thay bệ hạ chọn Quận thủ, việc khảo khóa Giám ty, Quận thủ tất phải thưởng phạt. Bảo Giám ty, Quận thủ chuyên xét Huyện lệnh, mong rằng quan lại trong thiên hạ dần dần được nhiều người tốt, rồi mới có thể bàn đến việc trị nước.

[33] Thứ hai, thần thấy gần đây có chế độ cử người làm Điện trung thị ngự sử, Giám sát ngự sử, phải là người đã qua chức Thông phán, có thực lịch một năm trở lên. Thần từng nhận chiếu cùng hai chế cử người, hội nghị cả ngày, không có ai đủ tư cách để chọn, có một người đủ điều kiện[8], nhưng mọi người đều cho là không thỏa đáng. Vì việc đặt ra tư cách, vốn là do trước kia nhiều người không theo tư cách, nên lập ra pháp này, sửa sai quá mức. Thần ngu muốn xin tham khảo các điều chế trước sau để xử lý, trong đó người được cử làm Giám sát ngự sử, lấy người đã qua chức Tri huyện lần thứ hai trở lên, Điện trung thị ngự sử, lấy người đã qua chức Thông phán lần đầu trở lên, không hạn chế thực lịch một năm, chức ký lộc đều từ Phụng nghị lang trở lên. Như vậy dễ tìm được người đủ điều kiện, cũng là pháp lâu dài.

Thứ ba, thần thấy triều đình thường lo không có người tài làm tướng súy. Thời Nhân Tông, mỗi khi khuyết chức súy thần, thường chọn từ cấm cận, thử ở biên giới, rồi mới trọng dụng. Ngoài thì Đô chuyển vận sứ, Đãi chế, Tạp học sĩ, thường có vài người có thể dùng, chưa từng nói thiếu người tài, vì triều đình đã nuôi dưỡng từ trước. Việc chọn tướng súy, phần nhiều từ Giám ty, trước từ xa, dần thăng đến Kinh Đông Tây, Hoài Nam, người có tư vọng sâu, tích hiệu rõ, thì thăng làm Thiểm Tây, Hà Đông, Hà Bắc ba lộ và Thành Đô lộ, từ ba lộ và Thành Đô triệu làm Tam ty phó sứ; người chưa thể điều động, thì cho tư cách phó sứ, từ phó sứ ra làm Đô chuyển vận sứ. Từ khi làm Giám ty đến ba lộ và Tam ty phó sứ[9], người đó đã có nhiều năm công lao, tư lịch nhiều, biết rõ núi sông, đường sá, binh giáp, tiền lương ở biên giới, nên khi khuyết chức súy thần, có thể dùng ngay, người tài trung bình cũng có thể đảm đương.

Từ khi Vương An Thạch dùng người tư cách nông cạn làm Giám ty, để thi hành tân pháp, nên người tài và không tài đều hỏng, mà tư cách không dùng nữa. Từ khi hai thánh lên ngôi, lại không lấy xa gần làm tư cách, mỗi khi khuyết chức biên súy, không biết dùng ai, vì triều đình không nuôi dưỡng từ trước. Thần ngu muốn xin khôi phục pháp dùng Giám ty thời tổ tông, khi khuyết chức biên thần, chọn từ đó, thì người có thể dùng sẽ nhiều. Nay Giám ty có người mới bổ nhiệm, liền cho làm ở gần và ba lộ, từ ba lộ lại điều đi xa, nên người ta không vui. Ở ba lộ, có người lâu không thăng, tài năng tư vọng lại không đủ làm biên súy, nên thường thiếu người tài. Nay nếu khôi phục pháp tổ tông, chức Đề điểm hình ngục, Chuyển vận phán quan, cũng chọn người tài năng để các lộ thay đổi nhau, khiến người qua lại ba lộ nhiều, thì người biết việc biên giới sẽ đông.

[34] Thứ tư, thần nghe nói từ xưa đến nay, việc coi trọng pháp luật để ngăn chặn trộm cướp, không ai bằng Hán Cao Tổ thời Ngũ Đại. Năm ông lên ngôi, lo lắng vì bốn phương trộm cướp nhiều, ra lệnh rằng kẻ trộm cướp, không kể tang vật nhiều hay ít, đều xử tử, lại sai sứ giả đi bắt. Tể tướng Tô Phùng Cát soạn chiếu chỉ, ý rằng: “Phàm kẻ trộm cướp, cả nhà và bốn hàng xóm cùng bảo lãnh, đều xử trảm cả họ.” Mọi người cho rằng trộm cướp còn không thể giết cả họ, huống chi là hàng xóm? Phùng Cát cố tranh cãi không thôi, chỉ bỏ đi hai chữ “toàn tộc”. Do đó, sứ giả bắt trộm cướp ở Vận Châu là Trương Lệnh Nhu giết mười bảy dân làng huyện Bình Âm. Pháp luật như vậy có thể nói là nghiêm khắc, nhưng trộm cướp không vì thế mà giảm bớt. Đến thời Chu Thái Tổ, kẻ trộm cắp tang vật đủ ba tấm vải vẫn bị xử tử. Thái Tổ hoàng đế thay đổi sự tàn bạo bằng khoan dung, giảm nhẹ pháp luật về trộm cướp, các bậc thánh nhân nhân hậu tiếp nối, lần lượt giảm nhẹ hình phạt, nên kẻ trộm cắp không còn bị xử tử. Tuy nhiên, pháp luật quy định tang vật trộm cướp vẫn nặng gấp ba lần luật thường, há có thể tăng nặng thêm được sao?

Thần thấy vào năm Hi Ninh thứ tư, quan Kiểm chính Trung thư tấu xin các huyện Đông Minh, Khảo Thành, Trường Viên thuộc phủ Khai Phong, cùng các châu Hoạt ở phía tây kinh thành, châu Túc ở Hoài Nam, châu Thiền ở Hà Bắc, phủ Ứng Thiên cùng các châu Bộc, Tề, Từ, Tế, Đơn, Duyễn, Vận, Nghi ở phía đông kinh thành, cùng quân Hoài Dương, đặt riêng luật nặng về trộm cướp. Sau đó lại có các châu khác tấu xin được áp dụng luật nặng như các nơi Đông Minh. Trời đất bao la, ai chẳng là dân của ta, nay lại chỉ coi các châu huyện này như người man di. Từ khi thi hành luật này hơn hai mươi năm, không nghe nói trộm cướp giảm bớt, chỉ nghe nói ngày càng nhiều hơn. Xưa kia, mở nguồn y thực, đặt quan giáo hóa, trước hết là tiết kiệm, sau là thể hiện sự thuần phác, có kẻ gian tà rồi mới dùng hình phạt. Há có thể không trị gốc, chỉ chuyên ngăn ngọn?

Hơn nữa, những nơi áp dụng luật nặng, đều cử tri huyện phải chọn quan lại cường tráng, tuân theo pháp luật trừ trộm cướp, coi dân như kẻ thù, mọi việc đều lấy sự quyết đoán làm xứng chức, đây há phải là việc nên làm trong thời bình sao? Thần ngu muội xin bãi bỏ hết luật nặng, đổi các khu vực áp dụng luật nặng thành khu vực cử tri huyện. Tri huyện trong thiên hạ không thể không chọn, chỉ riêng các huyện này đã cử quan lại trước, thì không thể bỏ, dân nhiều kẻ gian xảo, càng cần quan lại tốt để trị. Chọn quan lại để nuôi dân, không sai quan lại để đối địch với dân. Nay nhân tình bốn phương tạm yên, đổi luật nghiêm khắc thành luật bình thường, mong có thể biến tục xấu thành tục tốt, chỉ dùng điển lệ thường, đủ để ngăn chặn kẻ gian. Chỉ mong bệ hạ đừng coi giáo hóa là việc không gấp, đừng coi luật nghiêm khắc là đủ để dựa vào, thì dân đều có thể khiến họ làm điều thiện.

[35] Hộ bộ xin đem thuế ruộng hạ thu và thuế vườn tược, rượu ở các huyện thuộc kinh thành, cùng các khoản lợi cần thu, việc so sánh thúc đẩy, đều giao cho Ty đề điểm phụ trách. Được chấp thuận.

[36] Công bộ tâu: “Quy chế khen thưởng của bộ này, các tiểu sứ thần khi mãn nhiệm làm giám quan trường vật liệu ở cửa Lạc sông Hoàng Hà, được miễn sai phái ngắn hạn, thăng thứ tự ba mùa. Nay xem xét, việc khen thưởng ngang nhau cho những nơi hướng dòng và lùi dòng, rõ ràng là không công bằng, xin cho những nơi hướng dòng được khen thưởng theo pháp, còn những nơi lùi dòng chỉ được miễn sai phái ngắn hạn.” Được chấp thuận.

(Mới bỏ.)

[37] Thái tử Thái bảo về hưu Trương Phương Bình mất. Vua ngừng triều hai ngày, mặc tang phục trong vườn, truy tặng Tư không. Phương Bình dặn con cháu đừng xin thụy hiệu, Thượng thư Hữu thừa Tô Triệt xin giúp, bèn ban thụy hiệu Văn Định

(Chính mục: Ngày hai ban cho em Hàn Gia Ngạn, Mục Diễn áo vàng đai tía. Việc ban cho Diễn đã ghi ngày 18 tháng 11, Gia Ngạn cần tra cứu.)

[38] Ngày Đinh Tỵ, chiếu cho các nha môn Tam tỉnh, Xu mật viện cùng Lục tào, Ngự sử đài, Khai Phong phủ, Đại Lý tự, cho phép theo phép cũ ba năm một lần thi xử án, lần lượt ban ơn.

[39] Hữu Chánh ngôn Diêu Miễn tâu: “Thần thấy Lễ bộ Lang trung Diệp Tổ Hợp tham lam đê tiện, không giữ tiết tháo, trước đây từ Hoài Nam thay chức về kinh, dọc đường buôn bán, lại đặt nhiều bạt lau gửi vật quan ở trường than và chất đống bán ở chùa. Lại giao thiệp với sư chùa Khai Bảo, tiền của không rõ. Mượn ngựa hơn năm, mỗi tháng đổi lúa kho lấy bột mì, lại bảo thuyền phu mua mười cây gỗ, trả tiền thiếu giá, lại mua ba thùng đồ vàng bạc đồng lậu thuế đem vào kinh bán.” Chiếu cho Thượng thư Hộ bộ Lưu Phụng Thế xét việc gửi bạt, mượn ngựa, đổi lúa đều có thực. Chiếu cho Tổ Hợp trình bày rõ để tâu.

(Năm sau ngày 6 tháng 2[10], Tổ Hợp làm Tri châu Hải Châu.)

[40] Hữu Tuyên đức lang, quyền phát khiển Lưỡng Chiết lộ đề hình Mã Thành tâu: “Theo tờ trình của Lại bộ, Đô tỉnh phê giáng chỉ huy, xét thấy hiện có người đang ở Lưỡng Chiết, cha đã già yếu, nhưng con lại dùng pháp chỉ xạ gia tiện để nhận chức sai khiển ở Quảng Nam, là ai? Xin ghi rõ chức vụ, tên họ trình lên Thượng thư tỉnh. Thành nay xét được là Hữu Thông trực lang[11], tân sai quyền tri Liên châu Từ Trù, có cha là Sư Dân, giữ chức Trung tán đại phu trí sĩ, hiện đang cư trú tại Tô châu thuộc bản lộ, còn Từ Trù đã từ tháng 8 năm nay khởi hành đến Liên châu nhậm chức.” Chiếu cho Từ Trù lệnh Lại bộ chỉ huy bãi nhiệm để về phụng dưỡng cha, lệnh cho tiến tấu quan thông báo khắp nơi thi hành.

(Ghi chép sách ngày 3 tháng 12 theo thánh chỉ.)

[41] Ngày Mậu Ngọ, nước Liêu cử sứ là Bảo Tĩnh quân tiết độ sứ Tiêu Thích, phó sứ là Trung đại phu, thủ Thái thường thiếu khanh, Sử quán tu soạn Vương Sơ, đến chúc mừng lễ Hưng Long tiết.

[42] Hộ bộ và Công bộ tâu: “Các quan viên nhậm chức, ở Xuyên, Quảng, Phúc Kiến phải báo trước nửa năm, Kinh Hồ Nam lộ trước một quý, Kinh Hồ Bắc lộ và Giang Nam Tây lộ trước hai tháng, Giang Đông, Hoài Nam, Lưỡng Chiết lộ trước một tháng, còn các châu quân không quá nghìn dặm thì trước nửa tháng, đều coi là chức khuyết, cấp đủ số thuyền theo quy định. Nếu thuyền chở quan viên về kinh mà tự tiện gán ghép quan vật dưới danh nghĩa khác, gửi nộp ở các huyện thuộc phủ giới, hoặc gộp với thuyền khác, dù không có quan vật, đã đến khóa sông Biện Hà mà không do Đông bài ngạn ty ở kinh điều động, lại nhận sai phái từ cơ quan khác để về, đều bị phạt 100 trượng.” Được chấp thuận.

(Bản mới bỏ đi.)

[43] Hình bộ tâu: “Những người tự nhận là con của nhà khác, chưa từng sống chung, cha đã chết, không có hồ sơ và chứng cứ, thì không được thụ lý.” Được chấp thuận.

(Bản mới bỏ đi.)

[44] Ngày Canh Thân, Tả triều phụng lang, Tri Duyện Châu Trạch Tư được bổ nhiệm làm Quốc tử tư nghiệp. Quỳ Châu lộ chuyển vận phán quan Trình Chi Thiệu được bổ nhiệm làm Đô đại quản câu Thành Đô phủ, Lợi Châu lộ trà sự.

(Ngày 16 tháng 5 năm thứ 8, Hoàng Khánh Cơ nói…)

[45] Ngày Bính Dần, Tả triều tán đại phu, Thủ binh bộ thị lang Diệp Khang Trực qua đời.

[46] Ngày Mậu Thìn, chiếu phong ba người cháu gái thân cận của Hoàng thái hậu làm Quận quân.

[47] Hộ bộ tâu: “Xin từ nay về sau, các quan đã về hưu có chiến công, từng được thăng hai chức trở lên, đều cho phép hưởng nguyên lương.” Được chấp thuận.

[48] Xu mật trực học sĩ, Triều thỉnh đại phu, Tri Dương Châu Lý Thừa Chi qua đời.

[49] Đêm đó, phủ Khai Phong xảy ra hỏa hoạn, công đường bị thiêu rụi hoàn toàn, Tri phủ sự Lý Chi Thuần may mắn thoát thân. Hôm sau, các chấp chính tâu lên trong buổi giảng kinh: “Hỏa hoạn suốt đêm, tin tức truyền đi chắc chắn gây xôn xao.” Hoàng đế nói: “Gần với nguyên miếu, thật đáng lo sợ.” Các chấp chính lui ra, cùng nhau than thở: “Lời nói tao nhã, rất có phong cách của Dụ Lăng.”

(Theo《Vương Nham Tẩu nhật lục》.)

[50] Ngày Kỷ Tỵ, chiếu rằng từ nay về sau, những người quy minh xin tìm thầy thuốc, phụng dưỡng, về hưu, v.v., đều phải tâu lên để nghe chỉ dụ.

[51] Ngày Canh Ngọ, chiếu phong Lễ tân phó sứ Dương Quang Chấn làm Sùng nghi phó sứ, Hữu ban điện trực Dương Quang Vinh làm Tả ban điện trực, Tam ban tá chức Vi Quang Trạch làm Tam ban phụng chức; các thủ lĩnh cấp dưới như Dương Quý Thăng, v.v., đều theo lời tâu của Lộ Nam an phủ ty, được bổ nhiệm từ chức tá chức đến chức tuần át tướng. Lộ Nam duyên biên an phủ sứ Trương Khắc Minh được phong làm Gia Châu đoàn luyện sứ, do công lao bắt sống giặc (Khuyển sào).

[52] Ngự sử trung thừa Trịnh Ung tâu: “Mưa tuyết ít, việc nông không thuận, xin hãy ra lệnh trong ngoài, thúc giục việc hình ngục để dẫn dắt khí hòa.” Chiếu rằng: “Ở kinh thành, giao cho Lang trung Hình bộ và một viên Ngự sử, phủ Khai Phong lệnh cho Đề điểm hình ngục, các lộ châu quân lệnh cho Giám ty thúc giục kết án những tội nhân đang bị giam, những việc nhẹ và có liên quan đến án từ, cho xử trước rồi tâu lên. Trong phủ, những tội nhân bị tội đồ trở xuống, tội trạng rõ ràng không thuộc loại phải biên chế, hoặc việc công tâu lên có chút thiếu sót nhưng không ảnh hưởng đến đại cục, đều cho phép xử xong rồi tâu lên.”

[53] Ngự phê: “Đêm 28 tháng 11, Thái sử cục và các nơi tâu có sao khách mới xuất hiện ở độ sao Sâm. Sao Sâm thuộc phân dã Tấn, nay là đất Hà Đông. Ta lo rằng mùa hè vừa qua, giặc cướp đánh phá lộ Lân Phủ, giết hại dân chúng, bắt người và gia súc không ít. Triều đình tuy đã cứu tế, nhưng cũng lo việc cứu tế chưa thực sự chu đáo, và sợ rằng lương thực ở lộ này sẽ thiếu hụt. Tam tỉnh và Xu mật viện hãy bàn xem nên làm thế nào, đây cũng là một việc ứng với thiên ý. Nếu có việc cần làm, hãy làm theo cách thông thường, việc biến động của sao này không cần tâu lên nữa.” Ngày đó (16 tháng 12), Tam tỉnh và Xu mật viện cùng tâu lên, nhưng việc này bị bãi bỏ.

(Theo 《Ngự tập》 thêm vào. Ngày 18, sai Lưu Thầm đi thể lượng an phủ, có lẽ việc 《Ngự tập》 nói “bãi bỏ” là sai. Cuối tháng 12, Lương Đào có nói, có thể tham khảo.)

[54] Chiếu cho Lữ Huệ Khanh làm Quang lộc khanh, phân ty. Quyền Cấp sự trung Diêu Miễn phong hoàn. Bãi chức.

(Chính mục ngày 16 chép Huệ Khanh làm Quang lộc khanh, phân ty. Ngày 22 chép Diêu Miễn dâng trả từ chức của Huệ Khanh. Thực lục không ghi chép việc này. Xét gia truyền của Huệ Khanh cũng không ghi chép việc này, lại nói “Tháng 11 năm thứ 6, cho phép tùy ý cư trú”. Nay tạm theo Chính mục ghi chép ngày 16, cần xem xét kỹ. Tháng 9 năm thứ 3, từ Kiến Ninh chuyển đến Tuyên Châu. Ngày 16 tháng 12 năm thứ 8, phục chức Trung đại phu, Sùng Phúc cung[12].)

[55] Ngày Tân Mùi, Ngự sử trung thừa Trịnh Ung tâu: “Xin từ nay về sau, các cơ quan án sát nếu tấu trình không đúng, chỉ căn cứ theo pháp lệnh, Hình bộ trình bày nguyên nhân để xin chỉ dụ, triều đình xem xét những trường hợp quá đáng để trừng phạt.” Theo lời tâu.

[56] Ngày Nhâm Thân, Trực Long đồ các, Tri Phượng Tường phủ Tạ Lân được quyền làm Tri Vị châu. Trực Long đồ các, Thái phủ khanh Lưu Thầm làm Lân Phủ lộ Thể lượng an phủ. Trước đó, Tam tỉnh, Xu mật viện tâu việc, Thái hoàng thái hậu nói đến việc Khai Phong bị cháy gần cảnh linh, may không có gió, Lý Chi Thuần suýt không thoát, đã sai người đến hỏi. Lã Đại Phòng nhân đó nói: “Nghe nói có sao khách ở giữa sao Mão và sao Tất, thần không dám gọi nhật quan hỏi, không biết đã lui chưa?” Thái hoàng thái hậu nói: “Chưa lui.” Đại Phòng nói: “Sao Tất chủ về quân địch, e rằng nay có việc ở phía tây, ứng hiện trên trời. Xem đó, việc nhân sự không thể không cẩn thận.” Tô Tụng nói: “Sao Tất chủ về đất Triệu, e rằng việc ở biên giới phía bắc, cũng không thể biết.” Thái hoàng thái hậu nói: “Đã làm đạo trường ở Thượng Thanh để cầu đảo.” Vương Nham Tẩu nói: “Thiên đạo xa, không thể biết biến hiện rốt cuộc là việc gì. Nhưng triều đình mỗi việc đều tu tỉnh, thiên đạo sẽ thuận ứng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Thiên đạo đâu dám coi thường, còn ở việc các đại thần chấp chính cùng tu chính sự.” Đại Phòng nói: “Tất cả ở việc tu chính, thần không dám không dùng tâm.”

Ban đầu, Hà Bắc bị giặc cướp, Nham Tẩu nhiều lần nói cần phải cử sứ giả, mới có thể hiểu rõ sự tình, Hàn Trung Ngạn không cho là phải, Đại Phòng chỉ ậm ừ, còn người khác đều không có ý kiến. Đến ngày Canh Ngọ, ngự phê ra, Trung Ngạn nói trước: “Cần phải cử sứ giả.” Hôm sau họp bàn, Đại Phòng viết ba việc trong lệnh Nguyên Hựu về việc chết đuối được cấp tiền chôn cất, nói: “Văn bản hôm qua, làm việc này là được.” Nham Tẩu không đáp, từ từ nói: “Cần phải cử sứ giả mới được.” Mọi người đáp: “Cử sứ giả cũng được.” Nham Tẩu nói: “Chi bằng bàn định ngay ai có thể đi, ngày mai tiến trình.” Bèn xin cử Lưu Thầm. Nham Tẩu lại nói: “Cử sứ giả thì có thể tỏ ý ân của triều đình, hiểu rõ sự thực ở biên giới.” Theo lời ấy.

(Năm sau, ngày 26 tháng 5, Tôn Hàm Ninh bị khiển trách.)

[57] Quan văn điện đại học sĩ, Thái trung đại phu, Tri Hà Nam phủ Phạm Thuần Nhân tâu: “Trước đây vì sai lầm trong việc phòng thủ biên giới, đã nhiều lần dâng sớ chịu tội, được ơn trên miễn chức Nguyên soái, điều làm Tri Hà Nam phủ, nhưng sợ chưa thoả lòng công luận, mong được giáng chức thêm nữa.” Chiếu giáng Phạm Thuần Nhân làm Trung đại phu. Ban đầu bàn việc cách chức, thấy quá nặng, muốn chỉ giáng chức quan, lại theo lệ cũ, Tể tướng phải mang chức Gián nghị đại phu, theo chế độ quan lại là Thái trung đại phu, nay giáng làm Trung đại phu, có người nghi ngờ. Sau vì Thuần Nhân đang giữ chức ngoài triều, nên có chiếu này.

[58] Ty Đề hình lộ Hà Bắc đông tâu: “Xin từ nay về sau, quân nhân ở các đê sông nếu phạm tội cướp, trộm, giết người, phóng hoả, cướp ngục, hoặc chứa chấp, giúp đỡ bọn giặc, chỉ đường, cung cấp vũ khí, hoặc nghe lén bí mật bắt giặc, nếu thuộc loại phải xăm mặt và đày đi, thì đều theo khoảng cách xa gần mà đày đến các châu quân lao thành, nếu vi phạm phải đày, thì theo luật trọng dịch bắt sung vào quân ngũ dưới quyền chỉ huy đó[13].” Theo lời tâu.

(Sách mới không chép. Sách Chính mục ngày 18 có việc điều tra vụ cháy ở Khai Phong phủ, nay phụ chép. Cần xem xét thêm.)

[59] Ngày Ất Hợi, nước Phất Lâm sai sứ sang cống.

[60] Bộ Công tâu: “Từ nay về sau, ba lộ Hà Bắc, Kinh Tây, Phủ giới mua vật liệu hàng năm để đắp đê, nếu quan được sai chỉ mua đến một vạn bó, thì cho phép chi tiền ăn và giấy đi đường.” Theo lời tâu.

[61] Ngày Bính Tý, Hộ bộ Thị lang Hàn Tông Đạo được làm Bảo văn các Đãi chế, Quyền Tri Khai Phong phủ. Bảo văn các Trực học sĩ, Quyền Khai Phong Lý Chi Thuần làm Binh bộ Thị lang.

(Việc Tông Đạo làm Tri Khai Phong, sách Chính mục chép ngày 18.)

[62] Ngự sử trung thừa Trịnh Ung tâu: “Thần thấy Lại bộ có nhiều người nhưng thiếu chỗ bổ nhiệm, việc thăng chuyển ở đường trừ quá nhiều, nhanh chậm không đều, không phải là phép thường hành. Xin từ nay về sau, những người do Lại bộ bổ nhiệm làm tri châu[14], thông phán, đều theo lệ cũ, lấy hai năm rưỡi làm một nhiệm kỳ; các quan lang ở Lục tào, trừ những người hợp lệ được thăng tiến không theo thứ tự, đều thực sự lấy ba năm làm một nhiệm kỳ. Nếu vì người nhiều mà chỗ bổ nhiệm ít, xin giảm bớt thời gian, hoặc nếu việc bổ nhiệm khó định, thì cho kéo dài thêm thời gian, mỗi khi có chỗ trống, tùy tài mà bổ nhiệm, không cần phải thăng chuyển theo thứ tự. Nếu hết nhiệm kỳ, triều đình khảo sát thấy rõ có tài năng, hiệu quả, dù không thăng tiến theo thứ tự, cũng đủ để khuyến khích người tại chức. Còn những người do đường trừ bổ nhiệm làm tri châu và giám ty, nếu không phải do triều đình cần triệu tập thăng chuyển, đều không được bổ nhiệm, thay đổi vô cớ.” Chiếu rằng các tri châu, thông phán ở nội địa, trừ những người do đường trừ bổ nhiệm, đều theo pháp lệnh ngày 4 tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ nhất mà bổ nhiệm.

[63] Hộ bộ tâu: “Những người mua trường vụ, hết hạn mà còn nợ, sau khi đã truy xét tài sản riêng của người mua và tài sản thế chấp của người bảo lãnh nộp quan, nếu còn số nợ mà người mua thực sự không có gì để nộp, nếu không có tình tiết gian lận, huyện, châu, giám ty lần lượt xác minh, miễn trừ xong, báo lên bộ. Nếu đã miễn trừ mà trường vụ vẫn không có người mua, thì tạm thời đóng cửa, kêu gọi người khác mua.” Triều đình nghe theo.

[64] Công bộ tâu: “Kẻ nào trộm phá bờ gỗ đê Hoàng Hà, xử theo tội trộm cắp có vũ khí, nếu ở chỗ khuất thì giảm một bậc, nếu là tội đồ trở lên mà theo pháp không bị đày, thì cũng đày sang châu lân cận. Mỗi khi bắt được một người, tội trượng thưởng 10 quan tiền, tội đồ 15 quan, tội lưu 20 quan. Quân nhân tuần phòng không phát hiện được trộm mỗi lần, sứ thần ba lần, đều phạt 60 trượng.” Triều đình nghe theo.

[65] Ngày Mậu Dần, Xu mật viện tâu: “Từ khi quân đội nguyên phong khởi binh đến nay, các mệnh lệnh quan trọng về xử trí biên phòng ở Thiểm Tây, Hà Đông do triều đình ban xuống đều giao trực tiếp cho các quan biên thần tự mình giữ. Chúng thần lo ngại sau này khi thay đổi chức vụ sẽ mất căn cứ.” Vua xuống chiếu yêu cầu các tướng soái tự mình thu nhận và tuân hành, không được giao xuống cấp dưới, mỗi khi thay đổi chức vụ phải tự mình bàn giao.

(Ngày 8 tháng 2 năm thứ 7, chương tiết có ghi chép rõ.)

[66] Ngày Kỷ Mão, nước Liêu cử sứ giả là Ninh Xương quân Tiết độ sứ Gia Luật Địch, Thái châu Quan sát sứ Tiêu Trọng Kỳ, Phó sứ Trung tán đại phu, Thủ Thái thường Thiếu khanh, sung Càn Văn các Đãi chế Cao Đoan Lễ, Đông thượng các môn sứ, Quảng châu Phòng ngự sứ Lưu Ngạn Quốc sang chúc mừng ngày chính đán.

[67] Ngày Canh Thìn, Vua xuống chiếu cho Đô thủy sứ giả Ngô An Trì tiếp tục giữ chức.

(Ngày 18 tháng 11 năm thứ 3 được bổ nhiệm, ngày 28 tháng 6 năm thứ 8 đổi làm Thái bộc.)

[68] Trước đó, các quan chấp chính tâu việc ở điện Diên Hòa, bàn đến việc lập hoàng hậu, Thái hoàng thái hậu nói: “Đã chọn hơn mười nhà, đều không được.” Lã Đại Phòng nói: “Nếu môn phiệt không xứng, dù có nhan sắc cũng khó lấy.” Vương Nham Tẩu nói: “Phải là nhà có công đức mới có thể làm lòng người trong thiên hạ kính phục. Nếu nhà Thái hoàng thái hậu có người, chính hợp lòng mong đợi của thiên hạ, không cần lấy cớ nhỏ để từ chối.” Thái hoàng thái hậu nói: “Sao biết được điều này?” Đại Phòng nói: “Bên ngoài cũng nghe đồn.” Thái hoàng thái hậu nói: “Chỉ vì không xứng, nhà họ Cao làm sao có phúc này?” Đại Phòng xin triệu Đô tri, Áp ban đến trong các tử để hỏi, Thái hoàng thái hậu đồng ý. Một lát sau, gặp Phùng Tông Đạo, Lương Duy Giản ở cửa Nội Đông, lệnh tâu năm mệnh của con gái Cao Công Kỷ[15], xin ban xuống. (Theo 《Vương Nham Tẩu nhật lục》, việc trên là ngày 18.) Hôm đó (ngày 26), các quan chấp chính họp ở cửa điện Sùng Chính, Tông Đạo, Duy Giản đến truyền ý chỉ rằng: “Triều ta chưa từng có một nhà hai hoàng hậu, e rằng quá thịnh, lại sợ nhân vật không hợp ý trên, sẽ thành khó xử.” Sau khi vào chầu, Đại Phòng trình bày đầy đủ, Thái hoàng thái hậu nói: “Không xứng.” Lại bí mật xem xét thấy điều kiêng kỵ rất nặng, do đó cửa nhà họ Cao bị chặn. Đại Phòng lại nói: “Các nhà vương gia có người, nghe con gái của Thục quốc trưởng chủ trước bị bệnh, nay đã không sao.” Thái hoàng thái hậu nói: “Chưa được.” Lại nói: “Vương Sân không tốt[16], chỉ là con của trưởng chủ mà thôi.”

(Theo 《Vương Nham Tẩu nhật lục》, việc này là ngày 26.)

[69] Ngày Tân Tỵ, Kinh lược sứ Phạm Thuần Túy của Phu Diên lộ tâu: “Thần trộm thấy triều đình giao cho các lộ suý thần thỉnh thoảng xuất binh nhẹ, làm kế hoạch tấn công nông. Gần đây do Hoàn Khánh, Kinh Nguyên, Hi Hà đều từng xuất quân, người Tây Hạ đều biết rõ ý này. Nay thám thính được rằng giới Tây Hạ ở ngoài trăm dặm đối diện các vùng biên giới, đều bố trí quân mã, đông tây liên kết với nhau. Ý muốn mỗi khi quân Hán tiến vào đánh, thì quân mã các đầu mối bên trái phải hợp lại tập trung, đủ để kháng chiến. Tính theo địa lý, không quá một hai ngày, binh lực họ tập hợp chắc chắn không dưới ba năm vạn, đó là họ đã có sẵn kế hoạch đối phó với ta. Thần trộm tính rằng quân Hán tiến vào đánh, một lộ quân mã không quá một vạn, đã vào địa giặc không dưới một hai trăm dặm, họ là chủ ta là khách, số lượng chênh lệch xa, nếu không dùng mưu kế phân tán binh lực của họ, thì quân Hán thường ít, gặp giặc thường nhiều, e rằng không phải là đạo toàn thắng. Thần trộm nghĩ rằng quân Hán tiến vào đánh, các lộ lân cận không biết nhau, thanh thế xa cách, giống như Tần, Việt. Họ có thể hợp binh kháng chiến, mà ta không thể hiệp lực phá giặc, thì đảo ngược phương lược, không gì lớn hơn điều này.

Thần mong triều đình bí mật răn dạy các biên thần các lộ, phàm có kế hoạch gì, đợi khi bàn bạc đã định, có ngày tiến vào đánh, thì lệnh cho suý thần trước kỳ hạn viết thư tay, thay cho văn hịch, báo cáo chi tiết cho bốn phía lân cận, (ví dụ như Hoàn Khánh muốn xuất quân, thì phía đông báo cho Phu Diên, Hà Đông, phía tây báo cho Kinh Nguyên, Tần Phượng.) không có lộ lân cận, thì căn cứ theo báo cáo, (ví dụ như Hà Đông muốn xuất quân, thì báo cho Hoàn Khánh. Phu Diên muốn xuất quân, thì phía đông báo cho Hà Đông, phía tây báo cho Khánh, Vị.) thông báo ngày quyết định tiến vào. Các lộ được báo cáo, suý thần phải lập tức sai chọn binh tướng, vào ngày đã định dẫn đến biên giới, làm ra thế mạnh mẽ tiến sâu. (Các lộ bình thường đã thám thính được đối diện địa giới mình có quân mã nhân hộ hay không, nếu cũng có lợi thế để lợi dụng, thì phải vào ngày đã định tiến binh sâu vào, nếu tình cờ không có lợi thế để lấy, hoặc gần biên giới có quân mã đóng trại, không thể tiến vào, cũng phải nghiêm khắc đốc thúc binh tướng, vào ngày đó ra khỏi biên giới, làm ra thanh thế hư trương, không cần tiến sâu.) Cốt sao kéo dài được quân giặc đối diện không dám bỏ chỗ này sang chỗ kia, gặp quân giặc, không có nỗi lo hợp lực kháng chiến. Thế thì sự trợ giúp của bốn phía lân cận, há nhỏ sao? Thần ngu dốt nghĩ đến điều này, kính xin Thánh từ xem xét, nên thi hành thế nào, xin nhanh chóng ban ý chỉ của triều đình, xuống cho các lộ tuân theo.”

(Thuần Túy tấu vào ngày 27 tháng 12.)

[70] Hàn lâm học sĩ Lương Đào tâu:

“Thần được ơn thánh thúc đẩy, may mắn được hầu bên cạnh, trực tiếp nghe lời dạy đức độ: “Cần giữ cho yên ổn không xáo trộn, an toàn không nguy hiểm, trong ban ơn cho Trung Quốc, ngoài vỗ yên bốn phương.” Bệ hạ khiêm tốn rộng hỏi, không gì là không liên quan đến được mất của chính sự. Thần cùng thiên hạ mừng rỡ vì bệ hạ thông minh, có thể nói là đã biết cốt yếu. Nếu quân thần cùng một lòng, cùng thực hiện đạo này, trong vài năm tất sẽ thấy lại thời thịnh trị như thời Nhân Tông. Gần đây xem việc triều đình, dường như chưa phù hợp với ý tốt đẹp ban đầu của bệ hạ, thần rất nghi ngờ. Phải chăng đại thần không thể phát huy đức sáng, truyền bá ơn huệ thánh minh, để mở rộng kế sách lâu dài yên ổn cho tông miếu xã tắc? Hay là ý thánh hơi lơ là, kẻ gian thừa cơ dâng lời tà thuyết làm mê hoặc trí tuệ? Thần sớm được biết đến, được cất nhắc vào chức vụ can gián, muốn dâng lời trung thành để báo đáp, khó lòng giống như mọi người, không nỡ không nói một lời với bệ hạ. Mong bệ hạ xét chí hướng của thần, hãy lắng nghe một chút.

Thần nghe người bàn luận nói: “Làm cho thiên hạ được trị thì khó, giữ được sự trị của thiên hạ thì dễ.” Thần lại cho rằng: “Làm cho được trị thì dễ, mà giữ được sự trị thì khó. Bởi từ xưa, khi các bậc Vua chúa mới mưu đồ trị nước, không ai là không gấp rút tìm người hiền, khát khao nghe lời can gián, được một điều thiện thì chỉ sợ chưa làm được, thấy một điều xấu thì chỉ sợ chưa bỏ được[17], chuyên tâm vào những việc nhỏ nhặt vô hình, để ý đến những điều mà mọi người không nghĩ tới, cẩn thận siêng năng, không dám lơ là, cuối cùng đạt đến cảnh thái bình vô sự. Đó là lý do khiến việc làm cho thiên hạ được trị trở nên dễ dàng. Nhưng khi đã trị rồi, có khi buông lỏng tâm trí, khí chất ngày càng kiêu căng, chí hướng ngày càng lười biếng, cho rằng người hiền đã có đủ nên không cần tìm kiếm, cho rằng lời hay đã nghe hết nên chán nghe, cho rằng việc nhỏ không đáng lo, cho rằng mối họa tiềm ẩn không cần phòng bị, gian tà nảy sinh mà không phát hiện, tai họa manh nha mà không tỉnh ngộ, nên cuối cùng dẫn đến bại loạn mà không cứu vãn được. Đó là lý do khiến việc giữ được sự trị của thiên hạ trở nên khó khăn. Kinh Dịch nói: “Người quân tử an ổn mà không quên nguy hiểm, trị yên mà không quên loạn lạc.” Lại nữa, tượng quẻ Ký Tế nói: “Người quân tử nghĩ đến họa hoạn mà phòng ngừa trước.” Bởi an ổn có lý do dẫn đến nguy hiểm, trị yên có cơ hội dẫn đến loạn lạc, đã thành công mà vẫn nghĩ đến họa hoạn tiềm ẩn, đó đều là lời răn dạy của thánh nhân trong thời kỳ trị an không có họa hoạn vậy.

Kính nghĩ Bệ hạ lên ngôi đến nay đã bảy năm, tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ nịnh, hợp với lẽ công của thiên hạ, dấy lên điều lợi, trừ bỏ điều hại, cùng với nguyện vọng của trăm họ, hình phạt trong sạch công bằng, thuế má đều đặn tiết chế, kẻ gian đã tiêu tan, việc binh đao cũng tạm ngừng, mùa màng bội thu, sức dân được thư thả, có thể nói là đã có dấu hiệu của sự trị bình. Giữ vững mà không để mất, đạo trị nước có thể thành tựu, đây chính là lúc hai cung giữ gìn đến mức khó khăn nhất. Kính nghĩ Hoàng đế Bệ hạ, học hành không mệt mỏi, xử lý chính sự không sơ suất, không ham thích cung thất, không đam mê thanh nhạc, không mê hoặc bởi Phật Lão, không che lấp bởi việc dùng vũ lực. Những điều để giữ gìn đều có đạo lý.

Kính nghĩ Thái hoàng Thái hậu Bệ hạ, nhân từ kính cẩn, sáng suốt thận trọng, thêm vào sự công bằng lớn lao, phân biệt kẻ gièm pha tà ác, kiềm chế kẻ may mắn, trong việc nghe xét, sự việc rõ ràng lý lẽ thấu đáo, dưới ánh sáng soi chiếu, không có gì che giấu, đây chính là tấm lòng của Nghiêu Thuấn. Mà thần nhỏ bé vẫn còn lo lắng, sợ rằng Bệ hạ lấy sự trị bình chưa thành làm sự trị bình lớn, lấy phong tục tiểu khang làm lâu dài, lo lắng về sự bền vững ngày càng lơ là trong lòng, sợ hãi về dây thừng mục nát không bằng trước, bởi tích lũy mà thành là rất khó, lơ là mà hỏng việc là rất dễ, lòng trung thành nhỏ bé của thần, đã từng trình bày trực tiếp. Kính mong Bệ hạ không cho lời thần là ngu muội, suy nghĩ cẩn thận và thực hiện đúng đắn. Thần nhiều lần được ơn thánh, ban chỉ mở lòng tiếp nhận, thần chưa dám lấy làm vui.

《Thượng thư》 nói: “Biết không khó, làm mới khó.” Lại nói: “Hãy cảnh giác! Cảnh giác không lo lắng.” Mong Bệ hạ nhất định làm theo lời có thể nghe, cảnh giác việc không lo lắng, kéo dài phúc lành vô biên. Thiên hạ may mắn biết bao!”

Dán tờ vàng: “Thần nghĩ rằng gốc của chính sự là ở việc dùng người, nhân tài trong triều đình thuần nhất, thì chính sự tự nhiên yên ổn. Nhưng quân tử ở trong, tiểu nhân ở ngoài, tức là đạo thái bình. Nếu quân tử và tiểu nhân lẫn lộn làm một, thì đạo thái bình làm sao thành được? Quân tử và tiểu nhân không thể dùng chung, như băng và lửa không thể cùng một chỗ, một thịnh một suy, là lẽ tự nhiên, điều này ở nơi nhà Vua thường chú ý tiến cử quân tử, loại bỏ tiểu nhân, thì đạo trị nước có thể thành tựu và thiên hạ được hưởng thái bình. Kính mong Thánh minh lưu ý điều này. Tiểu nhân mà không có tài tuy chưa đáng sợ, nhưng cũng không thể dùng. Tính cách của tiểu nhân, hay ghen ghét người lương thiện, kết bè đảng tà ác, là kẻ không có tài mà được dùng, ắt sẽ lại dẫn dắt tiểu nhân có tài để giúp việc gian ác, cuối cùng thành hại cho quốc gia. Điều này không thể dùng là quyết định rồi. Lý lẽ rất rõ ràng, mong Bệ hạ xem xét!

Nhân tài thuần nhất, thì chính sự yên ổn mà triều đình không có việc gì, Bệ hạ có thể không lo lắng không làm gì. Nhân tài hỗn tạp, thì chính sự rối ren, mà triều đình nhiều việc, Bệ hạ há có thể không lo lắng không nhọc nhằn sao? Phải khiến cho tà chính phân biệt rõ ràng mà nhân tài thuần nhất, thì trong ngoài yên ổn, triều đình trong sạch. Đây là yếu lĩnh của đạo trị nước. Thần nghĩ rằng đạo của bề tôi là ở chỗ hết lòng trung thành, chữ ‘Trung’ nghĩa là trong lòng một mực thì là trung, trong lòng hai lòng thì là ‘Hoạn’. Bề tôi có lòng yêu Vua lo nước, cùng trên đồng đức đồng tâm, mà có thể hăng hái gánh vác oán hận đẩy lùi khó khăn, không lo lắng thân mình gia đình, có thể nói là trong lòng một mực. Bệ hạ xem xét người có tấm lòng ấy, há chẳng phải là trung sao, có thể xa cách sao? Bề tôi bề ngoài tỏ ra yêu Vua lo nước, mà trong lòng không cùng trên đồng đức đồng tâm, không chịu gánh vác oán hận đẩy lùi khó khăn, chỉ lo thu phục ân tình mua chuộc danh tiếng, chăm chăm vào việc mưu lợi riêng, đó là trong lòng hai lòng. Bệ hạ xem xét người có tấm lòng ấy, há chẳng phải là hoạn sao, có thể thân cận sao? Đây là yếu lĩnh của việc dùng người, kính mong Bệ hạ lưu tâm sâu sắc!”

[71] Đào lại tâu rằng:

“Thần nghe rằng đức của bậc nhân chủ, không gì lớn hơn việc biết người; chính sự của triều đình, không gì quan trọng hơn việc trọng dụng người hiền. Đức lấy thông minh làm cao, mà chính sự lấy trung hậu làm gốc. Nếu có thể phân biệt được tà chính, quyết đoán không do dự, khiến kẻ hết lòng trung thành đều tận tiết, kẻ mang tà tâm không thể làm loạn chính đạo, như vậy mới có thể gọi là thông minh. Dùng người đúng chỗ, thì pháp độ đều đặn, quân tử được thân cận, tiểu nhân bị xa lánh, ân trạch ban xuống trăm họ, niềm vui lan tỏa khắp bốn biển, như vậy mới có thể gọi là trung hậu. Kính nghĩ Thái hoàng thái hậu bệ hạ, cực kỳ công bằng chính trực, sáng suốt mà quyết đoán. Hoàng đế bệ hạ, nhân từ hiếu thảo, trang nghiêm kính cẩn, tĩnh lặng sâu sắc mà thông suốt, xem xét việc thiên hạ ngày càng nhiều, tiến cử nhân tài thiên hạ ngày càng rộng, nghiên cứu thể chế trị quốc của tổ tông ngày càng thuần thục, thấu hiểu tình hình trong ngoài ngày càng chi tiết. Tuy nhiên, thông minh đôi khi còn có chỗ thiếu sót, mà trung hậu chưa đạt đến mức hoàn thiện, thần trộm nghĩ, có lẽ thánh tâm chưa chú ý đến việc nắm giữ điều cốt yếu chăng?

Ngày nay, điều cốt yếu của việc trị quốc, chính là phân biệt thực chất của tà chính. Lý Đức Dụ đời Đường từng nói: “Tà chính đấu đá nhau, làm mê hoặc tai nghe của bậc quân chủ. Người chính gọi kẻ tà là tà, mà kẻ tà cũng gọi người chính là tà, bậc quân chủ lấy gì để phân biệt?” Thần cho rằng điều đó nằm ở việc phân biệt thực chất của họ. Những năm đầu niên hiệu Nguyên Hựu, khoảng ba bốn năm, người chính đã bàn luận về tà chính với bệ hạ rất nhiều, bệ hạ phân biệt tà chính cũng đã rõ ràng, bệ hạ có thể giữ vững lập trường, lời nói khéo léo không thể lay chuyển, thì mưu đồ gian tà tự nhiên sẽ tan vỡ. Mưu đồ gian tà không thực hiện được, thì kẻ tà tự nhiên tiêu tan, kẻ tà đã tiêu tan, thì đạo của người chính được thực hiện, mà chính sự không đạt đến mức trung hậu, thần chưa từng nghe thấy. Điều này chỉ nằm ở sự tự cường của thánh công mà thôi!

Lý Đức Dụ từng nói với Đường Vũ Tông rằng: “Vua Thuấn có hai mươi công lao lớn, trừ bỏ bốn kẻ ác, dùng mười sáu người hiền tài, không nhất thiết phải dựa vào võ công.” Vũ Tông rất hài lòng. Vũ Tông có thể vui vẻ tiếp nhận lời trung ngôn của Đức Dụ, quả thật là bậc minh chủ thông minh. Bệ hạ có tấm lòng khoan dung khiêm tốn, nhưng e rằng chưa muốn vội vàng đạt được công lao lớn như Vua Thuấn, chỉ xét việc Vũ Tông vui vẻ tiếp nhận lời trung ngôn, thật sự không khó để noi theo. Thần xin vì bệ hạ trình bày sơ lược về việc phân biệt thực chất của người chính trực và kẻ gian tà.

Người chính trực thực sự là người có thể suy nghĩ công bằng, lấy việc yêu mến Vua và lo lắng cho đất nước làm mục tiêu, không a dua với kẻ dưới, không lừa dối người trên, vui vẻ tiến cử người hiền tài, yêu thương sinh linh, đối mặt với đại nghĩa mà quên thân mình, phụng sự hai cung với một lòng một dạ, luôn vì bệ hạ tìm kiếm kế sách lâu dài an định, suy nghĩ gần từ trong cung đình, lo xa đến tận biên cương hải đảo, đều mong muốn mọi người được vui vẻ yên ổn, trên dưới một lòng, cùng nhau giữ gìn sự bình yên. Công lao của họ như vậy, đó chính là người chính trực. Loại người này được tiến cử thì trí tuệ được mở mang, trong ngoài đều yên ổn, há chẳng phải là phúc lớn cho quốc gia sao? Loại người này mà bị loại bỏ thì chính sự sẽ hỗn loạn, không thể không phân biệt rõ.

Kẻ gian tà thực sự là người chậm chạp trong việc công mà vội vàng trong việc tư, trả thù báo oán, bên ngoài tỏ ra trung trực nhưng bên trong ẩn chứa sự gian trá, lời nói nghe có vẻ trung thành nhưng thực chất là lừa dối, khí chất có vẻ suy yếu nhưng thực chất là hung hiểm, tự cho mình là cương trực nhưng thực chất là kết bè kết đảng, tự xưng là thuần nhất nhưng thực chất là hai lòng. Tham lam bổng lộc, tranh giành địa vị, nhẫn tâm hãm hại người lương thiện, lại còn dựa dẫm vào quyền thế, ra sức làm tay sai, không ngại ngùng, không biết xấu hổ để thực hiện những hành vi độc ác, không quan tâm đến nguy cơ của đất nước, chỉ cố gắng thỏa mãn ý chí của mình, không sợ hậu họa từ trên, chỉ cố gắng thực hiện lời nói của mình. Những kẻ gây rối loạn nhiều mặt như vậy, đó chính là kẻ gian tà. Loại người này được tiến cử thì trí tuệ bị mê hoặc, trong ngoài đều lo sợ, há chẳng phải là mối họa lớn cho quốc gia sao? Loại người này mà bị loại bỏ thì sẽ không còn lo lắng nữa, không thể không phân biệt rõ.

Nay nghe lời nói của họ để tìm hiểu ý đồ sâu xa, xem hành động của họ để xét nguồn gốc của việc xử thế, sự khác biệt trong thái độ, sự khác nhau trong hành động, tuy chưa thể thấu hiểu hết nhưng cũng có thể thấy được đại khái. Bệ hạ đã phân biệt được kẻ gian tà thì nên nhanh chóng loại bỏ họ. Nếu chưa thể loại bỏ ngay, hãy dùng nhiều người chính trực. Người chính trực được dùng thì kẻ gian tà biết khó mà tự lui. Hoặc chúng sẽ liều lĩnh tấn công người chính trực, nhân đó mà loại bỏ chúng để thể hiện sự công bằng, hoặc chúng sẽ tự rút lui, nhân đó mà loại bỏ chúng để thể hiện ân huệ lớn. Hai cách này tùy theo hành động của chúng mà xử lý, không cần tốn sức quét dọn.

Lý Đức Dụ lại từng nói với Vũ Tông rằng: “Bệ hạ phân biệt tà chính, chuyên tâm giao phó nhiệm vụ, giữ vững lập trường, thì triều đình ắt sẽ được trị yên.” Đây thực là lời của một vị tể tướng chân chính. Bởi nếu ý chí của bậc quân chủ không kiên định, thì kẻ gian tà sẽ lợi dụng kẽ hở để tiến lên, làm rối loạn sự sáng suốt. Một khi ý chí bị lay động, thì loạn lạc sẽ nảy sinh, còn mong gì đạt được sự thịnh trị? Từ trước đến nay, bậc thánh chúa biết được ai là người chính trực vốn không nhiều, chỉ mong ghi nhớ những người tận tâm ra sức, bảo toàn từ đầu đến cuối, đừng để kẻ tiểu nhân lay chuyển. Nếu có lời gièm pha, phá hoại, vu cáo, thì đó chính là mưu kế làm lay động. Mong bệ hạ tin vào sự hiểu biết vốn có của mình, giữ vững lập trường, phân biệt rõ ràng những lời lẽ gian trá, quyết đoán không nghi ngờ, loại bỏ kẻ tà ác để yên lòng người chính trực. Người chính trực biết được chỗ nương tựa, sẽ không còn lo sợ, có thể dốc lòng trung thành, hết sức báo đáp, thì việc trị yên triều đình không khó đạt được. Thần vô cùng khẩn thiết dâng lời trung thành!””

Thiếp hoàng: “Thần trước đây ở chức vụ gián quan, được hầu bên cạnh bệ hạ, thấy bệ hạ soi xét mọi việc đều thấu đáo tình thực và giả dối, mà lòng rộng lượng bao dung; bàn luận chính sự thấu hiểu đạo lý, mà lời lẽ có thứ tự. Dù là bậc minh quân thời xưa cũng không hơn được. Thần đã nhiều lần tâu trình, cho rằng kẻ tà và người chính không thể dùng chung, bệ hạ rất tán thành, biết rằng tà chính ắt sẽ đối kháng nhau, nay lại dùng chung. Thần lại nói rằng nếu kẻ tà ở ngoài, người chính ở trong thì có thể trị yên, bệ hạ cũng cho là đúng, biết rằng kẻ tà ở trong sẽ hại chính sự, nay kẻ tà lại ở trong. Thần lại nói rằng nếu kẻ tà ít, người chính nhiều thì có thể trị yên, bệ hạ cũng cho là đúng, biết rằng kẻ tà nhiều sẽ kết bè kết đảng, làm tổn hại đạo lý của người chính, nay kẻ tà lại nhiều. Với số lượng kẻ tà đông đảo ở trong, cùng với số ít người chính được dùng chung, thế lực tự nhiên không địch nổi, làm sao có thể yên ổn lâu dài mà không lo lắng hối hận? Tại sao lại khác với ý chỉ thánh thiện trước đây? Ắt có kẻ gian làm lay động ý chỉ của bệ hạ. Nếu không tỉnh ngộ, thì kẻ gian tà sẽ lợi dụng kẽ hở liên tục dâng kế, cuối cùng gây thành họa loạn, đây là điều bậc thánh minh nên sớm phân biệt, đừng để lòng thanh khiết ngày sau phải hối hận.”

Lại nói: “Thần thấy thánh ý muốn cho lòng bề tôi được thuần nhất, mà lo lắng vì sự phân vân chưa quyết định của họ. Thần cho rằng muốn làm cho quần thần được đồng lòng, không gì bằng dùng những bề tôi thuần nhất ở ngạch gián quan. Xin bệ hạ dùng những người chính trực mà bệ hạ từng biết, từng giữ chức gián quan, phong thái nghiêm nghị, được trong ngoài kính nể, đặt làm người đứng đầu ngạch gián quan. Lòng họ một dạ trung thành với hai cung, lời nói của họ công bằng với triều đình, khiến bốn phương ngưỡng vọng, thế nước thêm mạnh, bọn gian tà tiểu nhân nghe tiếng tự nhiên lánh xa, bề tôi lớn nhỏ đều nghiêm chỉnh giữ đạo chính, không ai là không thuần nhất, không làm phiền đến thánh lự. Xin bệ hạ sớm quyết định thánh ý, quyết tâm thực hiện, may ra có thể cứu được cái tệ của ngày nay, không gì hơn cách này, kính mong bệ hạ lưu tâm, đó là phúc của tông xã.”

Lại nói: “Từ khi Bệ hạ tự mình chấp chính đến nay, tuyển dụng những bề tôi đáng tin, có thể lấy lòng trung hiếu để báo đáp ân đức của Bệ hạ, hiện nay trong triều đình chỉ còn vài người; bọn tiểu nhân oán hận, ngấm ngầm kết bè kết đảng, ra sức mưu tính bài xích và hãm hại, không phải chỉ một người. Chúng muốn loại bỏ hết những người này, để mưu đồ gian trá có thể thực hiện, bọn đại gian ác có cơ hội quay lại. Những người này đang lo lắng vì thời thế khó giữ, sợ hãi vì đứng một mình khó yên ổn, nếu không phải Bệ hạ biết họ quên mình quên nhà, chịu oán trừ gian, có lòng yêu Vua lo nước, ra sức bảo vệ, thì làm sao họ có thể an toàn đến ngày nay? Trong tình thế hiện nay, càng khó đứng vững, chỉ mong nhờ vào sự bảo vệ của Thánh thượng từ đầu đến cuối. Những người này cũng không đáng tiếc lắm, nhưng chỉ sợ bọn tiểu nhân lại nổi lên, công kích càng nhiều, nếu chẳng may như vậy, thì sẽ là nỗi hối hận ngay lập tức của Thái hoàng thái hậu Bệ hạ, và là mối lo ngại trong tương lai của Hoàng đế Bệ hạ, đây là điều đáng sợ nhất. Mong Thánh thượng tập trung tinh thần, suy nghĩ sâu xa, để ngăn chặn từ từ, đợi khi sự việc xảy ra rồi mới xử lý, thì tất nhiên thế lực sẽ mạnh mẽ khó kiểm soát, dù cuối cùng có thể kiểm soát được, thì nỗi lo lắng vất vả cũng đã quá sâu sắc rồi.

Hiện nay trong triều đình, người chính trực ít, kẻ tà ác nhiều, ý chí không thống nhất, công đạo bị tổn hại. Thánh ý muốn dẹp bỏ bè đảng, nhưng bè đảng lại càng kết chặt; Thánh ý muốn diệt trừ tà tâm, nhưng tà tâm lại càng lan rộng. Đó là lý do chính sự rối ren, chưa thể yên ổn. Kính mong Thánh thượng mỗi khi tiến cử nhân tài, hãy cẩn thận tra hỏi, thận trọng mở rộng (chỗ này nguyên bản thiếu chữ), để dần dần giảm bớt tà tâm, bè đảng tự suy yếu, triều đình ngày càng có hy vọng yên ổn, thánh chính ngày càng có lợi ích thanh minh, đạo lý này một khi được thực hiện, có thể giảm bớt lo lắng. Lời gian trá của tiểu nhân rất khó phân biệt, vì chúng khéo léo tô vẽ giống như trung thành, hại người tốt giống như ngay thẳng, hung hăng giống như dũng cảm, vu khống giống như công bằng, nếu nhà Vua nghe lầm một lần, thì đức nghiệp đều bị tổn hại, nếu không sớm phân biệt, thì cuối cùng sẽ dẫn đến loạn lạc. Vì vậy thánh nhân nói: ‘Ghét kẻ lợi khẩu làm đổ nát quốc gia.’ Từ xưa các bậc quân vương đều lấy đó làm răn, điều này Thánh thượng không thể không xem xét kỹ.”

Lại nói: “Có những kẻ thuộc bè đảng gian tà trước đây đã được dùng, nay lại ở chỗ trọng yếu. Lại có những kẻ thuộc bè đảng gian tà mới tiến cử, nay đang ở chỗ nói năng. Lại có những kẻ tiểu nhân chạy chọt may mắn, tuy vốn không thuộc bè đảng gian tà, nhưng ngày nay cố ý cầu cạnh để giúp đỡ, nhằm thực hiện mưu đồ, làm kế tự tiến, ngầm thông đồng với nhau, biến trắng thành đen, biến phải thành trái, biến không thành có. Có kẻ chuyên mưu làm rối loạn sự sáng suốt, ly gián Vua tôi, hãm hại người trung lương. Điều này không thể không xem xét. Tâm địa của chúng cũng rất dễ thấy, bệ hạ từ trước đến nay cho rằng những người chính trực và có tiếng tăm, bọn tiểu nhân tất sẽ tìm cách hãm hại, bè đảng gian tà dần dần được dùng lại, mọi người trong triều đều biết, nhưng không một ai dám nói với bệ hạ. Đây là trung hay không trung? Là công hay tư? Là cong hay thẳng? Hãy lấy việc này mà xét, rất dễ phân biệt. Bệ hạ đã phân biệt được, cũng cần sớm xử lý, sắp xếp, như vậy thì chính sự sẽ dần trở lại trong sáng, có thể làm vui lòng trời, mà tai ương sẽ tiêu tan, phúc lành sẽ tụ về.”

Lại nói: “Đường lối ngôn luận phải chọn người quân tử giữ mình chính trực, thuần nhất, thì tâm công bằng mà lời nói thẳng thắn, phân biệt phải trái, có ích cho sự sáng suốt. Nếu dùng nhầm kẻ gian tà, tâm tư tà khúc, làm rối loạn thánh ý, chỉ muốn mưu đồ tư lợi. Điều này không thể không xem xét kỹ.”

(Hành trạng của Lương Đào chép: Năm thứ 7, có quan tâu rằng sao khách xuất hiện, Lý Đào bàn về việc này. Đại ý nói: “Sao khách mới biến đổi, lâu chưa lặn, khiến bệ hạ lo lắng, thành tâm kính sợ, ngồi nghiêng tu tỉnh. Lời cảnh cáo đến, ắt do việc, việc xảy ra, ắt từ người. Nay kẻ gian tà còn nhiều, người chính trực quá ít, bệ hạ nghe chưa chuyên, e rằng điềm báo không chỉ ở việc binh đao, đói kém, dịch bệnh mà thôi. Đức của bậc quân chủ, không gì lớn hơn biết người; chính sự triều đình, không gì cấp thiết hơn trọng dụng người hiền.” Vân vân. Xét lời bàn của Lý Đào về việc biết người và trọng dụng người hiền, chính là tờ tấu này, nhưng bản thảo tờ tấu lại không có câu nào về việc sao khách xuất hiện. Lại xét 《Ngự tập》, ngày 16 tháng 12, Tam tỉnh và Xu mật viện dâng tờ chiếu cứu tế ngày 28 tháng 11, trong đó có câu: “Ngày 28 tháng 11, Thái sử tâu về sao khách…” Lời tấu của Lý Đào nói về sao khách, ắt là do việc này. Nay gộp cả tờ tấu trước bàn về việc “Thánh ý hơi lơ là, kẻ gian thừa cơ tiến lời tà thuyết” và phụ lục cuối tháng 12 năm thứ 6. Tờ tấu viết: “Bệ hạ lên ngôi đã bảy năm.” Tính từ năm Nguyên Phong thứ 8 đến năm Nguyên Hựu thứ 6 thực là bảy năm, nếu là năm Nguyên Hựu thứ 7 thì không thể nói là bảy năm, hành trạng ghi phụ vào năm thứ 7 là sai. Ngày mùng một tháng 11 năm thứ 6, Lưu Chí bãi chức Tể tướng, ngày 28, Thái sử tâu về sao khách…, hai tờ tấu của Lý Đào chắc chắn là vào mùa đông năm thứ 6, trong đó nói “dùng cả người tà lẫn người chính, kẻ tà nhiều, kẻ tà ở trong, khác với thánh ý trước đây”, ắt là do Lưu Chí bị Dương Úy và những người khác công kích. Lại nói “đường ngôn luận nên dùng bề tôi thuần nhất”, chỉ vào Dương Úy và những người khác là chắc chắn không nghi ngờ. Cần xem xét kỹ thêm.

Đêm ngày 28 tháng 11, Thái sử tâu sao khách xuất hiện ở chòm sao Sâm, 《Cựu lục》 cũng chép cuối tháng 11 sao khách xuất hiện ở chòm sao Sâm, che lấp sao Xí. Đầu năm sau, cuối tháng giêng lại chép sao khách theo thiên vận hành, vào vùng tối không thấy, đến ngày Tân Hợi tháng 3, giữa chòm sao Khuê thì biến mất. 《Tân lục》 đều theo đó. Nay 《Lưỡng triều thiên văn chí》 chép: “Ngày Tân Hợi 28 tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 6, sao khách xuất hiện ở độ số chòm sao Sâm, xâm phạm che lấp sao Xí, chủ về binh đao bạo loạn, giá gạo đắt, vùng Tấn có tai họa binh đao. Ngày Nhâm Tý 29, xâm phạm sao Cửu Du. Ngày Quý Dậu 19 tháng 12, đi vào trong chòm sao Khuê, chủ về binh biên giới động. Đến ngày Tân Hợi tháng 3 năm thứ 7 thì mất.”)

[72] Năm đó, có 54 người trong hoàng tộc được ban tên và đổi chức quan. Trong thiên hạ, số hộ chính đăng ký với Hộ bộ là 1.242.711 hộ, với 28.750.455 đinh. Số hộ khách là 622.798 hộ, với 12.741.856 đinh. Số người bị xử tử hình là 4.801 người.


  1. Chữ 'nguyệt' dưới chữ 'kim' nguyên là chữ thừa, theo bản các bản khác mà bỏ.
  2. Chữ 'định' dưới có chữ 'hữu', có lẽ là đúng.
  3. Chữ 'dĩ' nguyên là 'tỷ', theo 《Tống hội yếu》 tuyển cử 24-13 sửa lại.
  4. Chữ 'tri' trong 'Mặc tri Từ châu' vốn bị thiếu, căn cứ vào các bản khác và chú thích trong sách này, quyển Mậu Thân, cùng truyện Mã Mặc trong 《Tống sử》 quyển 344 mà bổ sung.
  5. Gần đây chưa có Thông phán nào sánh được với người này, chữ 'Thông' nguyên là 'Vận', căn cứ theo văn trên sửa lại.
  6. 'sứ phó' hai chữ nguyên bản đảo ngược, căn cứ theo 《Phạm Thái Sử tập》 quyển 22, điều 'Chuyển đối thượng tứ sự trạng' sửa lại
  7. 'nhược' nguyên bản là 'sai', căn cứ theo sách trên sửa lại
  8. có một người đủ điều kiện 'có' nguyên là 'nghe', theo các bản và sách trên sửa.
  9. từ khi làm Giám ty đến ba lộ và Tam ty phó sứ 'ty' nguyên là 'lộ', theo sách trên sửa.
  10. Ngày 6 tháng 2 nguyên chép là 'ngày 2 tháng 6', căn cứ các bản và quyển 470 ngày Kỷ Mùi tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ 7, Tống hội yếu chức quan 67/6 sửa lại.
  11. Thành nay xét được là Hữu Thông trực lang, chữ 'nay' nguyên là 'lệnh', theo nghĩa văn sửa lại.
  12. Sùng Phúc cung 'cung' nguyên bản là 'quan', căn cứ theo 《Hoàng Tống thập triều cương yếu》 quyển 13 sửa lại
  13. Tức y trọng dịch pháp lặc sung bản chỉ huy danh hạ 'Pháp' tự nguyên thoát, cứ các bản bổ.
  14. 'Từ nay về sau' nguyên bản viết 'từ trước', căn cứ vào các bản, bản hoạt tự và 《Tống hội yếu》 tuyển cử 23/5 sửa lại.
  15. Lệnh tâu năm mệnh của con gái Cao Công Kỷ, chữ 'lệnh' nguyên là 'hợp', theo bản các sửa.
  16. Vương Sân không tốt, chữ 'tốt' nguyên là 'ở', theo bản các sửa.
  17. thấy một điều xấu thì chỉ sợ chưa bỏ được, chữ 'nhất' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Quốc triều chư thần tấu nghị》 quyển 20, Lương Đào dâng lên Vua Triết Tông bàn về việc giữ sự trị rất khó, bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.