VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 474: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 7 (NHÂM THÂN, 1092)
Từ tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 7 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 6, ngày Quý Sửu (mùng 1), xuống chiếu rằng: “Nghe nói vùng Hoài, Chiết nợ thuế tích lũy nhiều nhất, nhiều năm liền gặp thiên tai, dân chúng lưu lạc liên tục. Nay Hoài Nam mới thu được một vụ lúa mạch, còn Chiết Tây chưa chắc đã bảo đảm thu hoạch[1]. Vì vậy, các khoản nợ thuế ở Hoài Nam Đông Tây và hai lộ Chiết, không kể cũ hay mới, có hay không vốn quan, đều tạm ngừng thu trong một năm. Những khoản đã có hạn khoan hồng trước đó thì theo chỉ dụ cũ.” Chiếu này là theo lời tâu của Tô Thức.
(Tô Thức ở Dương Châu, viết thư cho Lã Đại Phòng rằng: “Những điều bàn về nợ thuế trước đây, được chỉ dụ đã có quyết định, điều này hầu như rửa sạch vết thương cho thiên hạ.” 《Cựu lục》 chép việc này rất sơ lược, 《Tân lục》 lại không tra cứu kỹ, nay đặc biệt ghi lại. Lời chiếu giống hệt với tấu chương của Tô Thức, chắc chắn là theo lời xin của ông. Trong 《Ngự tập》 có bản chiếu gốc, 《Cựu lục》 đã chỉnh sửa nhiều, nay giữ nguyên văn bản.)
[2] Xuống chiếu ban tên “Linh Văn Chi Miếu” cho miếu thần La Trì, thứ sử Liễu Châu đời Đường, vì người trong quận nói rằng thần đã ứng nghiệm trong việc cầu mưa.
[3] Ngày Ất Mão (mùng 3), xuống chiếu: “Các lộ thuế trà đều giao cho Đề hình ty chuyên quản việc thu thuế, không được dùng tiền thuế trà đổi thành các loại thuế khác để thu. Lệnh cho thông phán của châu đó cùng Phát vận, Chuyển vận, Đề hình ty giám sát, đồng thời cho phép người dân tố cáo. Quan giám và người thu thuế phạm tội vi chế, phân biệt cố ý hay sơ suất để định tội. Nếu việc do quan giám mà người thu thuế tự tố cáo thì được miễn tội, ngoài ra thưởng 300 quan tiền, lấy từ tiền bán rượu.”
[4] Ngày Tân Dậu, Tả chính nghị đại phu, Thủ thượng thư tả bộc xạ kiêm Môn hạ thị lang Lã Đại Phòng được thăng làm Hữu quang lộc đại phu. (Theo《Chính mục》: Lã Đại Phòng chuyển chức vào ngày mồng 7.) Hữu quang lộc đại phu, Thủ thượng thư tả thừa Tô Tụng được thăng làm Tả quang lộc đại phu, Thủ thượng thư hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang. (Theo bản truyện: Tô Tụng từ thời Chí Hòa vào làm quan, ở kinh sư, người trong ngõ hẻm đều biết tiếng ông. Đến lúc này được trọng dụng, triều đình và dân chúng đều vui mừng. Hôm sau, Vua Triết Tông nói với các quan chấp chính rằng: “Tô Tụng rất làm thỏa lòng người.” Tằng Triệu trong phần chí mộ cũng không ghi chép việc này. Theo《Chính mục》: Tô Tụng làm Trung thư tướng vào ngày mồng 7.) Trung đại phu, Thủ thượng thư hữu thừa Tô Triệt được thăng làm Đại trung đại phu, Thủ Môn hạ thị lang. Trung đại phu, Đồng tri Xu mật viện sự Hàn Trung Ngạn được thăng làm Đại trung đại phu, Tri Xu mật viện sự. Hàn lâm học sĩ, Đại trung đại phu Phạm Bách Lộc giữ chức Thủ Trung thư thị lang. Hàn lâm học sĩ, Tả triều tán đại phu Lương Đào được thăng làm Trung đại phu, Thủ Thượng thư tả thừa. Đại trung đại phu, Thủ Ngự sử trung thừa Trịnh Ung được thăng làm Thượng thư hữu thừa. Tả triều thỉnh đại phu, Bảo Văn các đãi chế, Quyền Hộ bộ thượng thư Lưu Phụng Thế được thăng làm Xu mật trực học sĩ, Thiêm thư Xu mật viện sự.
[5] Lương Đào từ chối chức Thượng thư Tả thừa, nguyện ở nơi xa xôi với các bậc cựu thần đức cao, mong được dùng người già dặn, chọn lựa người tài giỏi, để giúp việc phụ tá được người xứng đáng, triều đình thêm phần trọng vọng. Tấu chương dâng lên nhiều lần, Vua sai trung sứ đến thúc giục nhận chức. Lương Đào khéo léo từ chối, Thái hoàng thái hậu nói: “Đây hoàn toàn là ý của quan gia.” Lương Đào lại tạ ơn, Thái hoàng thái hậu nói: “Quan gia đức lớn ngày càng thành tựu, cần có các khanh phụ tá.” Lương Đào đáp: “Thần bất tài, được sủng ái giao trọng trách, không dám không hết lòng trung thành. Như Phạm Thuần Nhân, Hàn Duy và những người khác ở ngoài còn nhiều hiền đức, mong bệ hạ lưu ý.” Thái hoàng thái hậu hỏi: “Gần đây triều đình có gì thiếu sót?” Lương Đào đáp: “Hiện nay chính sự thánh triều ngày càng mới mẻ, thiên hạ yên ổn. Như việc biên phòng, nạn lụt sông, trong ngoài đều bàn bạc, cần hỏi rộng những người am hiểu việc đó, so sánh lợi hại mà làm. Như việc biên cương cần hỏi người phương Tây, việc sông ngòi cần hỏi người Hà Bắc để tham khảo.” Lại dâng sớ nói: “Phạm Tổ Vũ, Lưu An Thế đã lâu ở chức thị tòng, nên đặt bên cạnh, để giúp quyết định việc nước.” Lại nói: “Ngày nay việc biên cương là cấp bách, Phạm Dục trị biên có công, nên dùng trước.” Lại nói: “An Đào, Hứa Tướng đều là người cũ có thể tin cậy.”
Một hôm, bàn việc bổ nhiệm chức vụ, các quan chấp chính bất đồng không quyết. Lã Đại Phòng nhìn Lương Đào, hỏi ai có thể, Lương Đào nói: “Tướng công lâu ở triều đình, nuôi dưỡng nhân tài vốn nhiều, hẳn có người. Chỉ cần không vì yêu ghét mà nghe lệch, lấy việc triều đình có người tài làm trách nhiệm của mình, đó là điều mong mỏi ở ngài.” Lã Đại Phòng nói: “Khổ nỗi thiếu người tài.” Lương Đào nói: “Thiên hạ đâu thiếu người tài, chỉ là người tốt không tự tiến thân, cần triều đình biết chọn, thì sẽ có người đến. Dùng người hiền không cố định, không lo thiếu người.” Lã Đại Phòng nói: “Cần phải phân biệt rõ ràng.” Lương Đào nói: “Ngài sinh ra sáng suốt, thì phân biệt tự nhiên rõ ràng.”
(Theo《Lương Đào hành trạng》. Lại chép: Thái hoàng thái hậu hỏi còn việc gì khác, Lương Đào từ tốn nói: “Thái Xác bị đày đã lâu, mong dời vào nội địa. Nơi mới là chốn chướng khí độc ác, một ngày Thái Xác chết trước, sẽ làm tổn thương nhân chính của bệ hạ.” Xét Lương Đào ban đầu đả kích Thái Xác rất mạnh, nay mới làm chấp chính, lại nói như vậy, e rằng《Hành trạng》tô vẽ. Phụ chép để tham khảo.)
[6] Chiếu rằng: “Giặc Hạ xâm phạm Hà Đông, quân số trên năm vạn khó chống đỡ, nên điều động các lộ khác để kiềm chế. Lộ Lân Phủ lệnh cho Phủ châu Quân mã ty, các châu Lam, Thạch lệnh cho Thạch châu Đô tuần kiểm ty, đốt lửa hiệu ngang truyền vào lộ Phu Diên, báo cho các lộ tiếp theo, đồng thời mỗi nơi đốt lửa hiệu ngang riêng, truyền đến phủ Thái Nguyên nạp hỏa. Lộ Lân Phủ vẫn cho phép Quân mã ty trực tiếp báo cho các lộ khác xuất binh kiềm chế. Lộ Hà Đông nhận được lửa hiệu ngang từ các lộ khác, ngoài việc báo cho Súy phủ, cũng phải dùng một lộ lửa hiệu ngang chuyển báo cho Phủ châu Quân mã ty nạp hỏa. Lại lệnh cho các lộ khi gặp giặc xâm nhập, cần kiềm chế và ứng cứu, ngoài việc gửi văn thư cho các lộ Kinh lược ty, còn phải trực tiếp báo cho Lộ Lân Phủ Quân mã ty để phối hợp. Các lộ nhận được lửa hiệu ngang từ Hà Đông, hoặc Quân mã ty Lân Phủ nhận được lửa hiệu ngang từ các lộ khác, đều phải tuyển chọn và huấn luyện quân mã, chuẩn bị sẵn sàng kiềm chế, nhanh chóng đến các trại bảo thuận tiện đóng quân, chưa được xuất giới, đợi khi nhận được báo cáo từ lộ bị giặc xâm nhập, xác minh đúng sự thật, có thể kiềm chế, thì theo các chiếu trước đây, tùy tình hình mà tiến quân.” Trước đó, Kinh lược ty Hà Đông tâu: “Phương pháp lửa hiệu ngang, lộ này so với các lộ Thiểm Tây[2], khó có thể áp dụng một quy tắc.” Vì thế có chiếu này.
[7] Ngày Quý Hợi, chiếu rằng: “Các lộ Thiểm Tây, Hà Đông, những nhân viên, tiết cấp trong cấm quân do phạm tội riêng bị giáng làm Lao thành chỉ huy, trong số đó chọn người dưới 50 tuổi, võ nghệ không suy giảm, có thể chiến đấu, tạm thời phân vào quân số ngoài ngạch của nguyên quân để quản lý, cấp lương theo quân Sương. Khi có việc cần, tùy quân sai phái, đợi khi có chiến công, tùy mức độ nặng nhẹ mà đặc cách sắp xếp vào cấm quân theo chức vụ cũ.” Theo đề nghị của Xu mật viện.
(Bản mới không có.)
[8] Ngày Giáp Tí, Lễ bộ Thị lang Hàn Xuyên được bổ nhiệm làm Long đồ các Đãi chế, Tri Dĩnh châu. (Việc Hàn Xuyên bị điều ra ngoài chắc có nguyên do, cần xem xét. Hàn Xuyên làm Lễ bộ Thị lang vào ngày 21 tháng 11 năm trước, lúc đó Phạm Tổ Vũ cũng làm Lễ bộ Thị lang.) Thiên chương các Đãi chế, Tri Đặng châu Hoàng Lí được bổ nhiệm làm Tri Ứng Thiên phủ, sau đó đổi làm Thanh châu. (Việc đổi làm Thanh châu vào ngày 16, nay ghi chung lại.) Tuyên chính sứ, Hòa châu Thứ sử, Nội thị Phó đô tri Triệu Thế Trưởng được lĩnh chức Trung châu Đoàn luyện sứ.
[9] Chiếu rằng: “Các lộ Sương quân nếu phải điều động binh sĩ đồn trú từ 30 người trở lên, thì nơi đó cử một viên quan cùng với chủ binh quan thân hành kiểm tra sổ sách để điều động.” Do Hà Đông lộ tâu rằng việc điều động binh lính nhiều khi không công bằng, dẫn đến việc binh sĩ đào ngũ.
[10] Tri Hoành châu Liễu Thiều được lệnh tại nhiệm thêm một nhiệm kỳ. Do Hồ Nam tâu rằng ông có thành tích làm việc xuất sắc.
[11] Đặt lại số lượng tuyển sinh của Quảng Văn Quán. (Sự việc ngày Giáp Tý trong 《Ngọc điệp》, nay căn cứ vào sách pháp ghi chép, ghi rõ sau đây.) Lễ bộ tâu: “Gần đây nhận được chỉ thị từ Đô tỉnh, xét thấy ở Khai Phong phủ, mỗi khi đến kỳ thi, thường có nhiều thí sinh từ khắp nơi mạo nhận hộ tịch các huyện thuộc kinh thành để dự thi, còn các sinh viên Thái học theo quy định phải học ít nhất một năm mới được dự thi, nhưng trong số đó có người chưa đủ một năm cũng không tránh khỏi việc mạo nhận hộ tịch để dự thi. Xét lại chế độ cũ, thí sinh Quốc Tử Giám trước tiên phải qua kỳ thi bổ sung tại Quảng Văn Quán để được cấp giấy chứng nhận dự thi. Nay muốn khôi phục lại việc tuyển sinh viên Quảng Văn Quán, xin giao Lễ bộ xem xét lập pháp, trình lên Thượng thư tỉnh.
Lễ bộ xét lại chiếu chỉ về khoa cử năm Nguyên Hựu, số lượng thí sinh tiến sĩ được tuyển ở Khai Phong phủ là 100 người, Quốc Tử Giám là 40 người, còn các khoa khác theo quy định cũ, Khai Phong phủ là 240 người. Bộ này trước đây đã từng xin giữ lại 40 người trong số các khoa khác ngoài số lượng tuyển, còn lại 200 người cùng với 100 tiến sĩ Khai Phong phủ và 40 sinh viên Quốc Tử Giám, tổng cộng 340 người được tuyển làm sinh viên Quảng Văn Quán. Nay xem xét lại, xin giữ nguyên số lượng 100 tiến sĩ Khai Phong phủ, còn 200 người các khoa khác và 40 sinh viên Quốc Tử Giám, tổng cộng 240 người, đều chuyển sang Quảng Văn Quán để bổ sung sinh viên, cứ 10 người thì tuyển 1 người. Nay đề xuất sửa đổi các điều khoản sau: Thí sinh Khai Phong phủ nộp hồ sơ dự thi, phải hoàn thành trước ngày khóa viện thi bổ sung Quảng Văn Quán, nếu vi phạm sẽ không được nhận. Nếu có việc tang chế hoặc lý do khác cản trở, đến ngày 1 tháng 8 mới nộp hồ sơ, cho phép người nhà hoặc thân thuộc nộp đơn, mời hai quan chức bảo lãnh, cũng được nhận.
Số lượng sinh viên Quảng Văn Quán được bổ sung là 2.400 người; số lượng tiến sĩ Khai Phong phủ là 100 người. Nếu số hồ sơ nộp không đủ 1.000 người, thì cứ 10 người chọn 1 người, Quảng Văn Quán 240 người để bổ sung sinh viên, cứ 10 người tuyển 1 người. Kỳ thi bổ sung Quảng Văn Quán được tổ chức vào ngày 5 tháng 6 năm có khoa thi, giao cho chủ ty ấn định ngày thi; sinh viên Quảng Văn Quán trước cuối tháng 7 năm mở khoa thi, phải mang giấy chứng nhận đã nhận đến Quốc Tử Giám để kiểm tra, đồng thời nộp giấy bảo lãnh và bài thi xin dự thi. Giấy chứng nhận sau khi đến sẽ bị hủy; nếu xin dự thi không đỗ, vẫn được phép thi bổ sung lại. Lại xét thấy các thí sinh từ khắp nơi đã được phép thi bổ sung Quảng Văn Quán với số lượng tuyển riêng. Lo ngại vẫn còn tình trạng mạo nhận hộ tịch Khai Phong phủ để dự thi, cũng như thí sinh Khai Phong phủ đổi tên để nộp hồ sơ ở cả hai nơi Quảng Văn Quán và Khai Phong phủ, nếu không có quy định nghiêm cấm riêng, sẽ không thể ngăn chặn được. Nay đề xuất lập điều khoản sau: Thí sinh nào mạo nhận hộ tịch Khai Phong phủ để dự thi, phạt 100 trượng; ai tố cáo được thưởng 50 quan tiền. Dù đã đỗ cũng bị hủy bỏ kết quả. Quan chức bảo lãnh, quan lại địa phương, kỳ lân, thư phố biết tình mà để mạo nhận hộ tịch, đều bị xử tội như nhau. Người cùng bảo lãnh bị đình chỉ hai khoa thi, thí sinh Khai Phong phủ đã nộp hồ sơ ở phủ này thì không được thi bổ sung Quảng Văn Quán, vi phạm sẽ bị xử theo luật thi ở hai nơi.” Đều được chấp thuận.
[12] Lễ bộ tâu: “Xét theo quy định, số lượng học sinh Quốc tử giám được quy định là 200 người, số lượng người được cử đi thi là 40 người. Theo quy định từ trước, nếu số người dự thi đủ 100 người thì sẽ cử đi thi theo số lượng quy định; nếu không đủ 100 người thì sẽ thi chung với các tiến sĩ của Quốc học. Lần trước, số người dự thi gần 2000 người, số lượng người được cử đi thi của Thái học là 476 người, số người dự thi lần trước tổng cộng là 1985 người, số người được cử đi thi là 396 người, bao gồm cả những người tránh thân phận, và theo tình hình của Quốc tử giám, số học sinh Thái học gồm: Thượng xá 100 người, Nội xá 300 người, Ngoại xá 2000 người. Năm Nguyên Hựu thứ 5, số người được cử đi thi của Quốc học là cứ 5 người thì 4 li 2 hào 1 hốt được cử 1 người[3].” (Ngày 12 tháng 6, ba tỉnh cùng phụng chiếu.) Chiếu theo lời tâu của Lễ bộ, từ nay về sau, việc cử người đi thi của Thái học và Quốc tử sinh sẽ áp dụng theo tỷ lệ lấy người được cử đi thi năm Nguyên Hựu thứ 5.
[13] Lại bộ tâu: “Xét theo lệnh tiến cử năm Nguyên Hựu, các lộ cử quan mạc chức châu huyện đổi chức, lấy một phần ba cử làm quan mạc chức, nếu không đủ ba người và có số dư, cho tùy tiện. (Ví như hợp cử năm người, cử hai người đổi chức, một người làm quan mạc chức. Số dư hai người, đổi chức hoặc làm mạc chức, tùy ý.) Nếu cử người lưu ngoại làm lệnh, lục hoặc đổi làm sứ thần, đều tính vào số người đổi chức, xét thấy số người cử không đủ ba người và có số dư, vì điều này có văn bản cho phép tùy tiện. Không phân biệt số người cử đổi chức hay làm mạc chức, vì thế mà ưu tiên, đều cho phép đổi chức, khiến hiện nay số người đợi đổi chức ở Lại bộ hơi nhiều. Muốn sửa lại số dư cho phép tùy tiện trong điều trên, tạm thời đổi thành tấu cử quan mạc chức, nếu không đủ ba người, thì tính chung số người hợp cử trong ba năm, lấy một phần ba cử làm quan mạc chức. (Ví như cử hai người, năm trước cử hai người đổi chức, số dư hai người, mỗi người cử một người đổi chức và một người làm mạc chức. Hợp cử một người, hai năm trước mỗi năm cử một người đổi chức, số dư một người cử làm mạc chức, tổng ba người.) Vẫn lấy ngày mùng một tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ tám làm mốc. Đợi khi số người đợi đổi chức thưa thớt, Lại bộ tâu lên Thượng thư tỉnh.” Được chấp thuận.
(Theo sách biên lục, ngày 12 tháng 6 năm thứ 7, thánh chỉ thêm vào.)
[14] Ngày Ất Sửu, chiếu: “Các quan châu huyện và quan giám địch thường bình hộc đấu, trong một nhiệm kỳ mua được hộc đấu, nếu không lãng phí tiền quan, có thể lưu lại biến đổi, giao cho châu đó bảo minh, quan giám địch theo số lượng mua lương thảo mà thưởng bậc, quan châu huyện giảm một bậc so với quan giám.”
[15] Ngày Bính Dần, Ký thất tham quân của Từ vương phủ là Cung Nguyên được thêm chức Bí các Hiệu lý.
(Theo chỉ triều đình ngày 15 tháng 6 năm thứ 7.)
[16] Tả triều phụng đại phu, quyền lưỡng Chiết lộ chuyển vận phó sứ Mao Tiệm tâu: “Từ khi nhậm chức đến nay, đi tuần các châu huyện, lấy được sổ sách ghi chép về việc sai dịch của các hộ thuộc đẳng thứ ba trở lên ở các hương, kiểm tra các loại dịch vụ được phân công, nhiều nơi đều nói chưa từng lập sổ, chỉ có sổ ghi chép về đinh và tài sản của các hạng năm đẳng trong từng hương. Vì sổ đinh và tài sản của các hương khó có thể thấy được việc sai dịch có bất hợp lý hay không, chỉ có sổ tổng hợp theo thứ tự mới dễ kiểm tra. Tuy đã ra lệnh cho 14 châu thuộc Hàng, Việt dưới quyền, chỉ đạo các huyện lập sổ tổng hợp, sắp xếp các hộ thuộc đẳng thứ ba trở lên theo thứ tự dựa trên mức tài sản và số đinh, ghi chép rõ ràng các loại dịch vụ được phân công, thời hạn, ngày tháng thay thế, và có chữ ký của quan viên để tiện kiểm tra, nhưng vì trong luật dịch chưa có quy định rõ ràng, e rằng các huyện không thể tuân thủ, nên phải xin chỉ thị, mong triều đình xem xét kỹ lưỡng, ban hành luật lệ rõ ràng để mọi người có thể tuân theo.” Hộ bộ xem xét, việc lập sổ đinh và tài sản, nên dựa trên việc kỳ trưởng, hộ trưởng khai báo tài sản và thuế của các hộ so sánh với sổ cũ, sắp xếp theo thứ tự và ghi chép rõ ràng trong sổ, khi phân công dịch vụ, ghi rõ loại dịch vụ, ngày tháng, và tên người thay thế, để quan lại không thể tùy tiện thay đổi. Nay theo đề nghị của quan viên trên, e rằng các lộ thi hành không thống nhất, nên xin ban hành chỉ thị cho các lộ làm theo. Nếu chưa đến kỳ lập sổ mới, thì căn cứ vào thứ tự đã sắp xếp, ghi chép vào sổ đinh và tài sản hiện có. Đô tỉnh phê chuẩn gửi Hộ bộ, làm theo đề nghị.
[17] Ngày Mậu Thìn, Thiên Chương các đãi chế, Lại bộ Thị lang Cố Lâm, Lễ bộ Thị lang Phạm Tổ Vũ, cùng được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ. Tổ Vũ vì Bách Lộc đang nắm quyền chính, xin tránh hiềm nghi và được bổ nhiệm ra ngoài, nhưng không được chấp thuận.
(Tổ Vũ được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị lang vào ngày 18 tháng 9 năm ngoái, lúc đó Bành Nhữ Lệ đã giữ chức Lễ bộ Thị lang trước đó, đến ngày 21 tháng 11, Nhữ Lệ được điều sang Lại bộ, Hàn Xuyên lại được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị lang, cùng với Tổ Vũ. Ngày 12 tháng 6 năm nay, Hàn Xuyên được điều ra làm Tri châu Dĩnh, ngày 16 Tổ Vũ được thăng làm Nội hàn, ngày 18 Tăng Triệu được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị lang, từ đó Lễ bộ Thị lang chỉ còn một người.)
[18] Long Đồ các đãi chế, Tri Thanh châu Tiền Hiệp được quyền làm Hộ bộ Thượng thư, Bảo Văn các Trực học sĩ, Binh bộ Thị lang Lý Chi Thuần được bổ nhiệm làm Ngự sử Trung thừa, Binh bộ Viên ngoại lang Lữ Hi Triết được bổ nhiệm làm Sùng Chính điện Thuyết thư. Đây là theo lời đề nghị của Phạm Tổ Vũ.
[19] Trung thư Xá nhân Tôn Thăng được bổ nhiệm làm Thiên Chương các đãi chế, Tri ứng Thiên phủ. Giám sát Ngự sử Đổng Đôn Dật tâu rằng: “Thăng văn từ sơ suất, không phải là tài năng để thay mặt Vua phát ngôn, lại còn mang tà ý, ẩn chứa tư tình, có lời lẽ châm chích, nay lại được thăng chức tốt, lại giao phó trọng trách ở vùng gần kinh đô, không khác gì người được thăng chức một cách tốt đẹp, xin hãy giáng chức.” Giám sát Ngự sử Hoàng Khánh Cơ tâu rằng: “Thăng khi soạn cáo từ cho Lương Đào, Trịnh Ung, có câu ‘Đừng lo việc dùng người không đến cùng’. Thăng giữ chức thay mặt Vua phát ngôn, lại nhân việc soạn cáo từ mà châm chích triều đình. Xin hãy xem xét tình hình thực tế, đặc biệt ban lệnh quyết đoán, để hợp với công luận.” Chiếu chỉ bãi chức Thiên Chương các đãi chế của Tôn Thăng, giáng làm Tập Hiền điện Tu soạn, quyền Tri ứng Thiên phủ.
(Việc đổi làm Tu soạn vào ngày 22, nay ghi chép kèm theo. Cáo từ của Lương Đào, Trịnh Ung, nên tìm bản đầy đủ.)
[20] Thiên văn cụ Nguyên Hựu Hồn Thiên Nghi tượng hoàn thành, chiếu cho các quan Tam tỉnh và Xu mật viện đến xem xét.
[21] Ngày Canh Ngọ, Bảo Văn các đãi chế Tăng Triệu được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị lang. (Các ngày mùng 3, 18 tháng 9 năm trước, ngày 21 tháng 11, ngày 12, 16 tháng 6 năm nay, đều cần xem xét.) Lưỡng Chiết chuyển vận phó sứ Sầm Tượng Cầu được bổ làm Hộ bộ Lang trung, Hộ bộ Lang trung Phùng Như Hối được bổ làm Tập hiền hiệu lý, tri châu Tử Châu, Tả thừa nghị lang, Bí các hiệu lý Lưu Đường Lão được bổ làm Binh bộ Viên ngoại lang, Hữu triều phụng lang Trình Chi Nguyên được bổ làm Chủ khách Lang trung, Bảo Văn các trực học sĩ, tri châu Thọ Châu Tạ Cảnh Ôn được bổ làm tri châu Đặng Châu.
[22] Điện trung thị ngự sử Ngô Lập Lễ tâu: “Tri châu Dĩnh Châu Yến Tri Chỉ vừa được bổ làm tri châu Đặng Châu. Xét thấy Tri Chỉ là người nhu nhược bất tài, tham ô vô sỉ, trước đây khi làm chuyển vận sứ phủ Thành Đô, mỗi lần tuần tra các châu huyện, không hề quan tâm đến việc xem xét phong tục, giám sát quan lại, chỉ chuyên lo mưu lợi riêng, vơ vét không chán, đáng lẽ phải bãi chức để răn đe kẻ tham lam.” Chiếu chỉ cho Tri Chỉ làm tri châu Thọ Châu.
(Việc Tri Chỉ được bổ làm Đặng Châu vào ngày 12, nay ghi chép kèm theo đây.)
[23] Xu mật viện tâu: “Gần đây có người nói rằng các tộc phụ quan ở Lan Châu dùng người thân làm con tin, đưa vào sống trong thành. Từ khi thuộc về nhà Hán, họ đã yên ổn làm ăn, xin cho họ ở lại viện con tin, nếu ai muốn trở về với tộc của mình cũng được tùy ý.” Lúc đó, Chủng Nghị xem xét, nếu cho họ trở về với tộc của mình, vì cách sông với giặc, mỗi khi sông đóng băng lại phải đưa họ vào thành, e rằng sẽ gây nghi ngờ, xin mở rộng viện con tin và cho họ ở lại như cũ. Lại có tờ trình của thủ lĩnh Chuẩn Giác Tư rằng, viện con tin có nhà cửa tự xây, hàng ngày có khách người Hồ đến ở, nhờ đó mà tự nuôi sống, xin được tiếp tục ở lại viện con tin. Phạm Dục xem xét, muốn theo lời thỉnh cầu của Chuẩn Giác Tư. Lại nữa, việc xây dựng chợ người Hồ tốn nhiều công sức, trước đây lo ngại nước Hạ nghi ngờ, đợi khi biên sự yên ổn mới tiếp tục xây dựng, xét thấy hiện nay biên sự đang căng thẳng, việc xây dựng chợ người Hồ nên đợi khi yên ổn. Chiếu chỉ cho Phạm Dục cân nhắc kỹ lưỡng tình hình, tâu lên thực trạng.
[24] Ngày Nhâm Thân, Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ là Chương Tiết tâu: “Xét thấy giặc Tây (Tây Hạ) mùa thu trước vô cớ mang đại quân xâm phạm Lân châu, bắt giữ dân chúng, cướp bóc gia súc, khiến vùng ngoài sông tiêu điều. Triều đình coi trọng tính mạng con người, tiếc sức dân, chưa vội trừng trị tội, chỉ cắt bỏ việc triều cống. Bọn chó dê hung hãn không biết sợ hãi, từ mùa xuân năm nay lại nhiều lần cướp phá Tuy Đức, rồi dùng trọng binh áp sát biên giới Kinh Nguyên hơn 50 ngày, ra sức tàn hại, không chút kiêng sợ. Lại ở cửa hẻm Một Yên xây đồn lũy tự cố thủ, định lập căn cứ tại đây, nhiều lần sai kỵ binh tinh nhuệ dò xét kẽ hở biên giới, lòng tham cướp bóc không hề dứt. Đó là do Ất Bô chuyên quyền, lợi dụng việc gây sự để làm vốn liếng, ẩn giấu mưu họa, âm mưu chiếm cứ. Tuy triều đình thương dân yêu vật, không nỡ để sinh linh phải chết thảm, nhưng tình hình giặc biến trá, thừa lúc ta không đề phòng, liền đến xâm nhiễu, khiến triều đình dù chủ trương không giết mà thực tế không thể ngăn được việc giết chóc. Trước đây triều đình từng lệnh cho các lộ bàn kế hoạch tấn công nhỏ để kiềm chế, nhưng như lần trước giặc mang mấy chục vạn quân đối trận với Kinh Nguyên, mà các bộ tộc gần biên giới đều được điều động trước, tiến sâu vào Bình Hạ. Như vậy việc xuất quân kiềm chế cũng có lúc không thể áp dụng.
Tuy nhiên, kế sách vẫn có cách không giết mà khống chế được yết hầu giặc, không đánh mà phá được mưu đồ giặc, đó là chọn đất xây đồn lũy, áp sát Hoành Sơn, từ từ vây hãm, mới là thượng sách hiện nay. Đại để giặc này ngày thường dám ngang ngược phản phúc, tạm thời khuất phục rồi lại hăng, tạm thời phục tùng rồi càng kiêu, không có lý do gì khác, chỉ là nhờ lợi thế Hoành Sơn làm vốn, ỷ vào hiểm trở Hoành Sơn để cố thủ mà thôi. Nay nếu nhân lúc chúng xâm phạm, xây đồn lũy giữa hai biên giới, để tỏ ý nhất định chiếm Hoành Sơn. Chúng ắt hoảng sợ, lo lắng đất đai ngày càng thu hẹp. Chúng đã lo sợ thì việc ngừng chiến sẽ có kỳ hạn. Hơn nữa, sở trường của giặc là đánh ngoài đồng, sở lợi của Trung Quốc là dựa vào thành trì phòng thủ, dùng sở lợi của ta để đoạt vốn liếng của chúng, dùng sở trường của ta để phá thế cố thủ của chúng, lấy tĩnh chế động, lấy nhàn đợi mệt, lấy không giết để ngăn giết chóc, đạo quân của đế vương chỉ có vậy.”
Bèn xin tiến hành xây dựng đồn Bạch Mã Xuyên phía tây bắc Hồng Đức trại, địa danh là Hôi Gia Chuỷ, cùng tu bổ lại thành Đại Thuận và trại An Cương đã bỏ hoang. Đều không được chấp thuận.
(Đoạn này căn cứ theo tấu nghị của Chương Tiết tu chỉnh vào. Tấu nghị nói về việc xây dựng, nhưng không thể thực hiện được. Tấu nghị của Tiết rất chi tiết, nay ghi chú riêng ở đây, ngày 12 tháng 10 có thể tra cứu. Kiểm tra theo văn bản trích từ tờ chiếu của Xu mật viện ngày 24 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ 7, xét thấy vùng biên giới Thiểm Tây hiện có các con đường quan trọng kiểm soát ngựa giặc, từ trước đến nay do Hạ quốc giảng hòa nên chưa xây dựng pháo đài. Nay đã cắt đứt cống phẩm của họ, có thể nhân cơ hội này khảo sát địa hình để xây dựng. Theo thánh chỉ, lệnh cho Kinh lược ty của Hoàn Khánh lộ nhanh chóng chọn quan lại, dẫn theo quân lính cần thiết, tự mình đến khu vực Hán giới và vùng đất sinh giới gần biên giới, chọn những nơi có địa thế hiểm yếu, có thể xây dựng pháo đài phòng thủ. Trước tiên, chọn hai nơi quan trọng trong khu vực Hán và Phiên, ước tính quy mô thành trì, khoảng cách từ các pháo đài hiện có, thời gian hoàn thành, vẽ bản đồ chi tiết và tâu lên. Đồng thời chuẩn bị vật liệu như lầu canh, gỗ, và các vật dụng khác, ước tính chi phí tiền lương, sau khi có số liệu cụ thể thì tâu lên. Ngày bắt đầu công trình sẽ do triều đình quyết định.
Tiếp theo, theo tờ chiếu của Xu mật viện ngày 20 tháng 2, lo ngại rằng các quan được cử đi không đánh giá tình hình, dẫn đến việc xâm nhập sâu vào lãnh thổ giặc, dễ bị phục kích. Theo thánh chỉ, lệnh cho các Kinh lược ty chỉ được khảo sát gần biên giới Hán, không được tiến sâu vào lãnh thổ giặc. Kinh lược ty sau khi nhận chỉ thị, do quan sát tình hình giặc, chưa dám đề xuất, kéo dài đến nay. Lại nghe tin giặc Tây Hạ từ tháng 7 đã chuẩn bị tập hợp quân, có âm mưu, chưa có ý quy thuận. Nếu không chuẩn bị trước, e rằng sẽ mất cơ hội. Do đó, tại khu vực Hoàn Khánh châu, đã khảo sát và chọn được những nơi thuận lợi để xây dựng thành trì.
Chọn Chủng Kiến Trung, quyền Cán đương công sự, cùng Hoàng thành sứ, quyền Đệ nhị tướng Chiết Khả Thích, Cung uyển sứ, Binh mã đô giám của lộ, Đệ tam tướng Trương Thành, tự mình đến các địa điểm khảo sát địa hình, đánh giá khả năng phòng thủ. Theo báo cáo của các quan, các địa điểm đều có địa thế hiểm yếu, có thể xây dựng thành trì phòng thủ, ước tính quy mô thành trì, khoảng cách từ các pháo đài hiện có, vật liệu cần thiết và chi phí tiền lương như sau: Một nơi tại Bạch Mã Xuyên, phía tây bắc Hồng Đức trại, địa danh Hôi Gia Chuỷ, trong biên hào, thuộc khu vực sinh giới Hán, cách Bạch Ngư Phong 4 dặm về phía nam, cách Hồng Đức trại 20 dặm về phía đông, phía tây bắc gần biên hào, dựa núi hiểm trở, hai mặt là thiên tiệm, chắn ngang cửa Thanh Cương Hạp, kiểm soát ba con đường ngựa giặc từ Thanh Cương Hạp, Tương Tế Can Xuyên và Đồng Gia Xuyên. Nếu xây dựng thành trì ở đây, có thể khai khẩn được khoảng 1.000 khoảnh đất tốt, chiêu mộ dân Hán và Phiên làm cung thủ, tạo thành hàng rào phòng thủ. Không chỉ ngăn chặn giặc, mà trong thời bình, ngựa giặc thường từ Trung Nguyên Hạ Tử Nguyên xâm phạm Quy Đức châu, hoặc từ Ngưu Quyển Bát Mạt Khắc Ba Nguyên quấy nhiễu, cướp bóc, có thể kiểm soát được cả khu vực Phiên bộ. Hơn nữa, cách khu vực tập trung quân của Tây giới tại Thanh Viễn quân Câu Tỉnh Thủy Song khoảng 80 dặm, cách khu vực có nước và cỏ ở Ngưu Quyển khoảng 40 dặm, là nơi hiểm yếu, có thể xây dựng thành trì.
Một nơi khác tại An Cương trại, phía bắc Đại Thuận thành của Khánh châu, cách Đức Tĩnh trại của Bảo An quân 70 dặm về phía đông, cách Đông Cốc trại của Khánh châu 50 dặm về phía tây, cách Đại Thuận thành 35 dặm về phía nam, cách Bạch Báo trấn của Tây giới 35 dặm về phía bắc. Tuy đã được cấp làm thành trì, nhưng địa hình rất thuận lợi. Nếu ta chiếm được, thì Nhu Viễn trại, Đại Thuận thành, Lệ Nguyên bảo và cả khu vực biên giới sẽ nằm trong tầm kiểm soát, ngăn chặn được ngựa giặc từ Kim Thang và Bạch Báo, khiến các bộ tộc ở Long Vân không dám yên ổn. Nếu giặc chiếm được, thì Kim Thang và Bạch Báo sẽ che chắn được, từ Hoan Lạc phong nhìn xuống Hán Xuyên không quá 10 dặm, nếu giặc đột ngột tấn công, khó có thể chống đỡ. Giặc dựa vào đây làm căn cứ, thường xuyên xuất kỵ binh quấy nhiễu biên giới, khiến Nhu Viễn, Đại Thuận, Lệ Nguyên không dám mở cửa ban ngày. Do đó, vào năm Hi Ninh, giặc đã xây dựng đồn lũy ở đây. Ba trại của lộ này phải luôn cảnh giác, nếu giặc chiếm lại, thì phía đông bắc Khánh châu cách 100 dặm sẽ trở thành sào huyệt của giặc, không thể không lo lắng.)
Trại An Cương bị bỏ hoang, hai bên đều là khe lớn, nhờ địa thế hiểm trở mà xây thành, tốn ít công sức, giếng cũ trong thành vẫn còn, bốn phía ruộng tốt khoảng hai nghìn khoảnh. Trước khi bị bỏ hoang, từng nuôi dưỡng hơn một nghìn quân cung tiễn người Hán và người Phiên mà vẫn còn đất dư. Thành cũ tuy đã bị phá hủy[4], nhưng phần lớn chỗ xây thành không nhiều, thuận thì cho, nghịch thì lấy, đối với triều đình không có gì không thể.
Bên phải xin trình bày như trước, việc xây thành cần nhanh chóng, phải chuẩn bị vật liệu trước, các vật liệu cần thiết như lầu canh, cổng thành, kho tàng, nhà cửa đều phải hoàn thành, chỉ lệnh lấy danh nghĩa kiểm kế thành Đại Thuận châu Khánh, Lệ Nguyên, Nhu Viễn, Hồng Đức châu Hoàn, Túc Viễn, Ô Lan, quan xá lầu canh, chuyển đến các trại. Sau đó dò xét nếu giặc tập trung quân xâm phạm nơi khác, thì tùy tình hình mà phân binh kéo chế, lần lượt ra khỏi biên giới, hoặc ba mươi, năm mươi dặm, hoặc trong trăm dặm đóng quân. Một mặt xây thành, khoảng nửa tháng có thể hoàn thành. Đến khi giặc biết, thành lũy đã xong. Việc xin lần này, hoặc xây thành Hôi Gia Chuỷ, hoặc khôi phục trại An Cương, đều giao cho bản ty xem xét tình hình, nơi giặc tập trung xa gần, chọn chỗ thuận lợi mà khởi công, khiến chúng không kịp ứng phó. Sau khi công việc hoàn thành, cho phép chiêu mộ dân biên giới và quân cung tiễn gần đó, phân phối ruộng đất bốn phía để làm rào chắn. Tạm thời dùng một tướng quân phân phiên phòng thủ, đợi thành lũy vững chắc có thể cố thủ, dần dần rút quân. Quân tuần tra, thám thính cũng chỉ cần điều động từ trong ra ngoài, không bị thiếu hụt, xin triều đình xem xét kỹ. Nếu có thể thi hành, xin trước ba, năm tháng bí mật ra chỉ thị, để không bỏ lỡ kế hoạch. Nay vẽ hai bản đồ, dán kèm tờ vàng trước.
Xét Hôi Gia Chuỷ tuy mới xây, cũng không cần thêm nhiều quân phòng thủ, chỉ xin bản ty xem xét, tạm thời điều sáu trăm quân địa phương từ các tướng và trại, thêm ba trăm quân Đông binh, cùng phòng thủ. Đợi chiêu mộ được sáu, bảy trăm quân cung tiễn người Hán và người Phiên, thì dần dần giảm quân Đông binh, trả về nơi cũ, chi phí tiết kiệm, lợi ích lớn. Lại xét trại An Cương nếu khôi phục, thì biên giới đông tây sẽ tương ứng với trại Đức Tĩnh châu Phu Diên và trại Đông Cốc bản lộ. Quân cung tiễn cũ hiện nay tản mác ở bảo Lệ Nguyên, thành Đại Thuận, trại Nhu Viễn, bốn phía An Cương đất đai phì nhiêu, người dân ưa ở, chỉ cần cho họ khôi phục nghề cũ, người không còn thì chiêu mộ thêm, dễ dàng ổn định, quân chiến đấu và phòng thủ cũng tạm thời điều động như cũ. Phó tướng thứ ba dẫn quân cũ đóng đồn, điều ba trăm quân Đông binh phòng thủ. Quân Đông binh sau khi biên sự yên, sẽ điều quân địa phương thay thế về doanh. Quân chính binh và quân cung tiễn hiện nay phần lớn từng ở đó, quen thuộc địa lý và phong thổ, khác xa với nơi mới lập. Chi phí phòng thủ cũng tùy tình hình giặc, nay lấy sáu tướng quân làm chuẩn, nếu giặc không mạnh, chỉ cần ba tướng quân. Sau khi thành trại hoàn thành, tích trữ lương thực, chỉ cần điều động quân từ trong ra, không cần tính toán. Từ “Kiểm chuẩn” trở xuống đến đây, hoặc lược bớt phần chính yếu.
[25] Ngày Quý Dậu, Quế Châu Quan sát sứ Thế Trí mất, được truy tặng Khai phủ Nghi đồng Tam ty, truy phong Thân Quốc công, thụy là Cung Lương.
[26] Ngày Giáp Tuất, Hình bộ Thị lang Phạm Thuần Lễ được bổ làm Lại bộ Thị lang, Bảo Văn các Đãi chế, Tri Hà Trung phủ Tưởng Chi Kì được bổ làm Hộ bộ Thị lang. Chi Kì kiến nghị xin tất cả vàng lúa trong thiên hạ đều thuộc về Hộ bộ, Hộ bộ và các đạo Chuyển vận ty có thể thông suốt công việc, thay đổi trách nhiệm. (Theo bản truyện của Chi Kì.) Quang lộc Khanh Đỗ Thuần được quyền làm Binh bộ Thị lang, Quốc tử Tế tửu Phong Tắc được quyền làm Hình bộ Thị lang, Điện trung Thị ngự sử Dương Úy được bổ làm Thị ngự sử.
(Thiệu Bá Ôn nói: “Lã Tướng không biết Lưu Tướng cũng thích Úy, thăng Úy làm Điện viện để thưởng cho lời nói của ông.” Xét: Lúc đầu bổ làm Điện viện, hai tướng thực sự cùng bàn, lúc đó Úy chưa từng nói gì. Nay từ Điện viện thăng làm Thị ngự, thì Lưu Tướng đã rời chức nửa năm rồi, nói thăng làm Thị ngự để thưởng cho lời nói của ông, Lưu Tướng thì có thể; còn nói thăng làm Điện viện để thưởng cho lời nói của ông, đó là lỗi của Bá Ôn.)
[27] Khởi cư Xá nhân Kiều Chấp Trung được bổ làm Khởi cư lang, (Chính mục: Ngày 28 tháng giêng, Thôi Công Độ được bổ làm Khởi cư lang; ngày 12 tháng 6, Công Độ được bổ làm Tri Nhuận châu. Chấp Trung thay thế Công Độ.) Tả Chánh ngôn Diêu Miễn được bổ làm Khởi cư Xá nhân, Hữu Chánh ngôn Ngu Sách được bổ làm Tả Ty gián. Sách đầu tiên bàn rằng các quan Đài gián không nên dùng thân thích và môn nhân của chấp chính, để tuân theo cựu chế của triều đình.
(Theo bản truyện của Sách, ghi thêm. Toàn bộ chương này cần xem xét, chắc chắn có ý chỉ gì.)
[28] Xu mật viện tâu: “Trước đây phụng chiếu, gặp việc khẩn cấp ở Hà Ngoại, cho phép điều động quân bị bắc, không được quá năm chỉ huy. Nay xin không kể có việc hay không, ủy thác cho Đô Tổng quản ty xem xét cử người thay thế, không được quá nửa năm, luân phiên đến Hà Ngoại và dọc sông phòng thủ, lại xin chiêu mộ thêm thổ binh ngoài định số.” Được chấp thuận.
[29] Kinh lược ty Hi Hà tâu rằng: “Các tộc Tẩy Nạp ở Tây Phiền phản bội A Lý Cốt, chạy sang Hạ quốc và Hồi Hột, qua lại giữa hai nước, mưu lập con trai của cháu Đổng Chiên là Khê Ba Ôn (tên là Đổng Cúc) làm chủ. Lại có ty An phủ dọc biên giới Lan châu dò biết được cháu Đổng Chiên là Hạt Dưỡng (tên là Khẩu Ngột) từ Tây Hải dẫn quân Thổ Phiền và Hồi Hột đến đóng quân cách thành Thanh Đường 200 dặm, có ba tộc Tẩy Nạp, Tâm Mâu và Lũng Bô quy phục. A Lý Cốt sai em là Phù Ma và cháu là Kết Sất (tên là Khẩu Ngột) dẫn quân đuổi bắt, bị Hạt Dưỡng đánh bại. Lại nghe nói Hạt Dưỡng được các tộc Tẩy Nạp, Tâm Mâu và Lũng Bô triệu tập, muốn lập làm người kế vị Đổng Chiên. A Lý Cốt từ khi kế vị đến nay, vốn không phải dòng dõi chính thống, nên các bộ tộc không phục. Lại theo tin dò biết như vậy, nhưng chưa rõ Hạt Dưỡng có quan hệ thân thuộc gì với Đổng Chiên? Các bộ tộc Thanh Đường có thực sự tin phục không? Nếu là thân thuộc của Đổng Chiên, được lòng dân hướng về, tự nhiên có thể dần dần chiêu tập những kẻ không thuận với A Lý Cốt, thế lực của A Lý Cốt tất phải kéo dài. Hơn nữa, gần đây Thanh Đường không thông hôn với Hạ quốc, rất sợ giặc Tây thừa cơ hội này hỗ trợ Hạt Dưỡng, rồi nhòm ngó Thanh Đường, như vậy sẽ bất lợi cho biên phòng. Nếu A Lý Cốt thế cô lực yếu, cầu viện nhà Hán, hoặc dẫn chúng quy phục, nếu cự tuyệt không tiếp nhận, vì là người được triều đình phong tước, lại sợ họ quay sang thuận theo Tây Hạ, cùng chống lại Trung Quốc, họa sẽ không nhỏ. Nếu tiếp nhận và viện trợ, thì Hạt Dưỡng vốn là dòng dõi Đổng Chiên, được các bộ tộc tin phục, về lý mà nói chưa thấy có thể được, chưa biết nên xử trí thế nào để không có hậu hoạn.” Chiếu cho Phạm Dục dò xét thực tình, suy tính kỹ lưỡng, dự liệu kế hoạch, bí mật trình bày phương lược lên triều đình.
(Khê Ba Ôn chính là Hạt Dưỡng. Theo《Lũng Hữu Lục》: Người được sai đi không dám gọi thẳng tên Khê Ba Ôn, nên gọi là Hạt Dưỡng. Kinh lược ty và ty An phủ dọc biên giới đều tâu, nên cách gọi khác nhau. 《Thanh Đường Lục》của Uông Tảo chép nhầm việc này vào tháng 6 năm thứ 6, nay không theo.)
[30] Dâng trình lịch mới.
(Chính mục: việc ngày 22, cần xem xét.)
[31] Ngày Bính Tý, chiếu rằng: “Các tông thất đánh trói người, ngoài việc xử tội còn phải xin chỉ để tước bổng lộc; những người đi tế lăng, không được mang theo đồ chơi giải trí.”
[32] Ngày Đinh Sửu, Lý Sân, Tả triều thỉnh đại phu, được bổ làm Quang lộc thiếu khanh; Đỗ Thường, Hà Đông lộ chuyển vận sứ, Tập hiền hiệu lý, được cử làm Đề cử Sùng Phúc cung.
[33] Ngày Mậu Dần, Tỉnh Lượng Thái, Độ chi viên ngoại lang, được quyền phát khiển làm Thiểm Tây lộ chuyển vận phó sứ; Tần Trung, Kim bộ viên ngoại lang, được quyền phát khiển làm Hà Đông lộ chuyển vận phó sứ; Trần Sư Tích, Tả phụng nghị lang, được bổ làm Hiệu thư lang.
[34] Thái thường tự tâu: “Năm nay hành lễ Nam Giao, xin trong mùa thu cùng tiến hành lễ triều hiến ở sáu điện của Cảnh Linh cung.” Chiếu rằng: “Tới mùa đông không bãi lễ triều hiến.”
[35] Tuyên Châu quan sát sứ, kiêm Đề cử Minh Đạo cung Lý Hiến mất.
(Năm Thiệu Thánh thứ nhất, được truy tặng Vũ Thái tiết độ sứ, thụy là Mẫn Khác. Năm thứ tư, đổi thành Trung Mẫn.
Sách 《Cựu lục》 chép truyện Lý Hiến rằng: Mộc Chinh rút lui giữ vùng núi phía tây, thu nạp kẻ phản loạn, dần dần lập ra phép tắc, mọi người cho rằng có thể đánh úp mà chiếm được. Lý Hiến nói: “Chưa thể mưu tính được, phải đợi khi thế lực của chúng chia rẽ, quân chúng tan rã, thì có thể không cần đánh mà khuất phục được.” Bèn sai người đi chiêu dụ em của Mộc Chinh là Diên Chính đầu hàng. Cùng với Vương Thiều tiến đánh chiếm Hà Châu, chém được chín mươi thủ cấp, được thăng làm Đông Nhiễm viện sứ.
《Tân lục》 bác lại rằng: “Xét truyện Vương Thiều, đánh Mộc Chinh ở thành Quan Lăng, Mộc Chinh thua chạy, em là Kết Ngô Diên Chính đem cả tộc hơn hai nghìn người đầu hàng. Việc này không phải do Lý Hiến mưu tính sai người đi chiêu dụ, nay xóa bỏ.”
《Cựu lục》 chép: “Mộc Chinh xin hàng, có người dâng lời rằng: ‘Nghi ngờ quân ta.’ Lý Hiến liền cởi đai vàng sai sứ trao cho, Mộc Chinh liền đến dưới trướng. Tin thắng trận báo về, Vua ban chiếu khen ngợi, thăng làm Chiêu Tuyên sứ, Gia Châu phòng ngự sứ.” 《Tân lục》 bác lại rằng: “Xét việc Mộc Chinh đầu hàng, không giống với 《Thần Tông thực lục》, nay xóa bỏ, theo 《Thực lục》 sửa lại.” 《Cựu lục》 chép: “Mùa đông, Giao Châu làm phản, lấy Lý Hiến làm An Nam chiêu thảo, làm phó cho Triệu Tiết. Tể tướng Vương An Thạch nói: ‘Dùng hoạn quan làm giám quân, đó là chuyện thời Đường suy vi, không nên theo, bãi bỏ đi.'”
《Tân lục》 bác lại rằng: “Xét 《Thần Tông thực lục》, Lý Hiến bị bãi chức vì tranh cãi với Triệu Tiết, không phải do Vương An Thạch lấy cớ hoạn quan làm giám quân mà bãi, nay xóa bỏ, theo 《Thực lục》 sửa lại.”
《Cựu lục》 chép: “Năm Nguyên Phong thứ tư, có tin báo rằng nước Hạ có biến loạn bên trong, Vua xuống chiếu cho năm đạo quân xuất chinh hỏi tội. Lý Hiến thống lĩnh Hi Hà kiêm Tần Phượng, dựng cờ trống đại tướng để chỉ huy các quân, bắt chước phép kỳ chính của Lý Tĩnh trong trận Lục Hoa, quân Phiên và quân Hán mỗi bên một phép. Tiền quân gặp giặc, đánh bại chúng, chém được ba nghìn thủ cấp, bắt sống mười một thủ lĩnh, hai nghìn ngựa. Lại đánh tộc Khách Mộc, dẹp yên được.
Hôm sau tiến về phía bắc đến Lan Châu, ba ngày thì đến Xát Châu Xuyên[5], đánh hai thành Sở Lũng Tát và Bốc Tông, hạ được. Chém hơn nghìn thủ cấp, bắt sống mười ba thủ lĩnh, quân địch còn lại nhảy xuống nước chết, ba vạn bảy nghìn người đầu hàng. Lý Hiến cho rằng Lan Châu là đất Kim Thành xưa, đất đai phì nhiêu, nước ngọt cỏ tốt, sách 《Hán thư》 gọi là Cao Lan Hạ, là nơi hiểm yếu nhất của vùng Hà Hoàng, bèn tâu xin xây thành.
Việc xây thành vừa khởi công, người Khương lập trại bên kia sông, Lý Hiến mộ quân cảm tử vượt sông, đêm đến đánh úp doanh trại, sáng hôm sau quân địch rút lui. Lý Hiến nói với các tướng rằng: Giặc mang quân mạnh đến, không đánh mà rút, ắt có mưu kế. Chúng thấy ta chuẩn bị thuyền bè, nói là sẽ vượt sông, muốn tiến vào Lương Châu, ắt sẽ dẫn quân từ Hội Châu vượt sông Bàn Bạc, đặt phục binh ở núi Thiết Mao, định đánh úp quân ta. Nay ta cứ tiến quân, rơi vào kế của chúng, có thể lập được công.
Khi quân đến núi Nhữ Già, bắt được tù binh, hỏi ra quả nhiên đúng như vậy. Bèn ra lệnh cho Văn Uất thống lĩnh việc hành quân. Giặc dùng quân nhẹ ra nghênh chiến, ta bèn đặt phục binh trước ở phía bắc núi, vừa giao chiến, quân ta giả vờ thua chạy, giặc thúc kỵ binh đuổi theo, phục binh nổi dậy, tiêu diệt tiên phong của giặc, chém được hơn nghìn thủ cấp. Gặp lúc trời có sương mù dày đặc, quân Phiên và quân Hán lẫn lộn, đánh nhau mãi không phân thắng bại, lại đuổi theo chém được hơn hai nghìn thủ cấp. Dẫn quân thừa thắng tiến lên núi Thiên Đô, đuổi đến Nãi Ma Hội, đóng quân ở sông Hồ Lô, quân đi nghìn dặm, đánh nhau nhiều ngày, hạ được một châu hai thành, chém và bắt sống hàng vạn. Quân sĩ và ngựa mệt mỏi, sợ không thể trở về, bèn tâu xin rút quân. Lúc đó, bốn đạo quân xuất chinh đều không đạt được mục tiêu, các tướng không lập được công, lần lượt bị cách chức, chỉ có Lý Hiến được miễn tội. Lại dâng sách lược đánh và giữ, cùng kế hoạch xây dựng năm lợi ích.”
Bản mới biện rằng: “Xét đoạn về việc năm lộ xuất quân, khác với những gì được chép trong 《Thần Tông thực lục》. Nay xóa bỏ, sửa lại theo thực lục.”
Bản cũ lại chép: “Giặc vào Lan Châu, nhân băng mà vượt sông, tướng giữ thành là Văn Uất thúc ngựa đánh, băng vỡ, giặc chết đuối. Quân còn lại tức giận, đánh phá Tây Quan, giết quan binh tướng lại, giáng làm Tuyên Khánh sứ.” Bản mới biện rằng: “Xét đoạn giặc vào Lan Châu, khác với những gì được chép trong 《Thần Tông thực lục》, nay xóa bỏ hai mươi mốt chữ.”
Bản cũ lại chép: “Hiến biên chế năm đô phiên binh của bản lộ, mỗi đô làm một tướng, lấy quan Hán làm Đô Đồng Thống lĩnh, bộ khúc cờ hiệu, phân biệt theo họ tộc, đánh trống thúc quân, dũng cảm hay nhút nhát đều ứng phó. Báo cáo đầy đủ số lượng, chiếu lệnh ban hành thành quy định.” Bản mới biện rằng: “Chiếu lệnh ban hành thành quy định, không thấy trong thực lục, nay xóa bỏ sửa lại. Việc này cần xét lại.”
Bản cũ lại chép: “Triết Tông lên ngôi, gặp lúc đài quan hặc tội Hoàng Phủ Đán, án xong, Hiến vì tâu việc khác biệt nên bị bãi chức nội tỉnh, giáng làm Đô Tổng quản Vĩnh Hưng lộ. Trước đó, Thần Tông giao cho Hiến chiêu nạp Đổng Chiên, chặt cánh tay phải của người Hạ, Hiến sai Hoàng Phủ Đán đi sứ Chiên, Chiên do dự, lại báo cáo không đúng sự thật, nên bị liên lụy trách phạt, tự xin làm Đề cử Tây Kinh Tung Sơn Sùng Phúc cung. Người bàn tán không ngớt, giáng làm Tuyên Châu Quan sát sứ, Đề cử Bạc Châu Minh Đạo cung. Lại bổ làm Hữu Ngưu Vệ Tướng quân, phân ty Nam Kinh, ở tại Trần. Không lâu sau, lại phục chức Quan sát sứ, Đề cử Minh Đạo cung, mất, năm 51 tuổi.” Bản mới biện rằng: “Xét việc Hoàng Phủ Đán khác với những gì được chép trong 《Thần Tông thực lục》, nay sửa lại theo thực lục.”
Bản cũ lại chép: “Thần Tông với mưu lược anh minh hiếm có, vào lúc Trung Quốc thịnh trị, căm giận kẻ xa xôi ngang ngược, muốn trừng trị, lo ngại tướng súy thiếu nhân tài, thường thở dài trong bữa ăn. Hiến là người thân cận trong cung, nghe đủ mưu kế, được giao quyền ngoài biên, nên mở rộng bờ cõi, hàng phục thủ lĩnh. Bày trận hành quân, có phong thái danh tướng. Đến khi quyết thắng liệu địch, tuy do triều đình phê chuẩn, nhưng đều trúng cơ hội, chiếu thư còn đủ, tổng cộng ba trăm thiên. Hiến có bảy mươi quyển tấu nghị, ba mươi quyển kinh chế tài dụng, cất giữ tại nhà.” Bản mới biện rằng: “Hiến hao tổn dân lực, tổn hại tài lực để chiếm đất cằn cỗi, kỳ hạn Linh Vũ, viện binh Vĩnh Lạc[6], vì chần chừ mà hỏng việc, không bị giết đã là may, lại còn nói mở rộng bờ cõi, hàng phục thủ lĩnh, bày trận hành quân, có phong thái danh tướng, thật là lừa dối quá đáng, nay đều xóa bỏ sửa lại.”
Xét bản mới biện bản cũ tổng cộng bảy việc, việc thứ năm cần xét lại. Bản mới biện bỏ, nên tùy việc ghi theo năm tháng, thì đoạn này có thể bỏ.)
[36] Trước đó, quan coi thủy lợi tâu rằng sông Hoàng Hà đã xói lở đê thứ hai ở Nguyên Thành, xin đắp đê phía bắc Đại Danh để bảo vệ kinh thành. Triều đình sai Triều thỉnh lang Hoàng Tư đứng ra tổ chức việc này, đo đạc chiều dài hơn 17 dặm, có hơn 160 ngôi mộ dân nằm trên đường đắp đê[7], hơn 80 cây dâu và táo, 9 khu nhà và giếng, đều phải dỡ bỏ hết, đã định ngày thi công. Dân Ngụy kêu cứu với nha môn bên ngoài, chân nọ nối chân kia. Tuy mọi người đều biết việc này không đúng, nhưng không ai dám nói.
Phó sứ Chuyển vận là Triệu Xưng đến nhậm chức ngày hôm sau, liền dẫn các quan cùng đi xem đê Nguyên Thành, nói: “Việc này có gì đáng lo, chỉ là kẻ bàn luận phóng đại, hão huyền thôi.” Rồi mời các quan cùng bàn việc này, các quan nói: “Sông dâng tràn, đâu phải sức người có thể đoán trước, một ngày sơ suất, tội không nhỏ, sao lại muốn đảm bảo không có gì xảy ra?” Xưng nói: “Không đảm bảo thì lấy gì để triều đình tin tưởng.” Mọi người cười mà không đáp, Xưng thấy các quan không thể cùng bàn, bèn dâng sớ một mình, xin gia cố đê hiện tại, bỏ việc đắp đê bảo vệ kinh thành, và trình bày năm lý do tại sao đê hiện tại dễ củng cố: “Các đê nguy cấp thường do nước chảy trên mặt đất, nay đê này nước chảy dưới lòng đất, sâu hơn ba trượng, mà đê vẫn cao hơn hai trượng bốn thước, đó là một. Nước chảy dưới lòng đất[8], khi dâng lên thì tràn bờ, nay phía tây đê này có bãi rộng, trải dài trăm dặm, nước chỉ dâng vài thước đã chảy về phía tây, đó là hai. Năm ngoái bãi nổi lên phía tây, đẩy nước chảy về đông, từ mùa xuân năm nay đã bị xói mòn gần hết, đó là ba. Trước kia đê từng bị nước cuốn trôi, nhưng vẫn giữ được, nay lại được bồi đắp, thế đã ổn định, đó là bốn. Đê hiện tại ngày càng vững chắc, phòng bị đã đủ, tuyệt đối không lo gì, đó là năm.” Lại nêu tám điều có hại và vô ích, lập luận sắc bén, và tự xin chịu trách nhiệm nặng nề nhất.
Sớ dâng lên chưa được trả lời, quan thủy lợi đã hạ lệnh cho phủ huyện di dời mộ dân, những nơi chưa làm thì quan sẽ đứng ra dời giúp. Xưng lại dâng sớ bàn lợi hại, khẩn thiết xin bãi bỏ việc này, khi đó Hoàng Tư mới khởi công được hai ngày thì có chiếu bãi bỏ. Dân Ngụy nghe chiếu, vui mừng khôn xiết. Năm sau, đê thứ hai lại sụt lở, quan thủy lợi lại xin tu sửa đê bảo vệ kinh thành, mở rộng thêm 27 dặm. Triều đình ban độ điệp để chiêu mộ dân phu và điều binh lính, lại sai Hoàng Tư, định tháng năm khởi công.
Lúc đó, Xưng được lệnh đi thanh tra ngục tù, đến Triệu Châu, vừa nghe tin liền dâng sớ nói: “Thần từng xin bãi bỏ việc này, nhưng quan chức vì ý kiến đã đề ra trước, nhất định muốn thực hiện. Nay với yêu cầu của quan chức đã được chấp thuận, mệnh lệnh của triều đình lại được thi hành, thần dù có nói cũng chẳng ích gì? Thần tự nghĩ, may gặp thánh thượng sáng suốt, thương xót dân tình, chưa từng từ chối lời nói, há lại biết mà không nói, tự chuốc lấy tội lừa dối bất trung. Hơn nữa, phía đông Bắc Kinh trước kia là dòng chính của sông, sông Thiền Uyên từng chảy qua trong thành, đều chưa từng đắp đê bảo vệ, mà cuối cùng không có gì xảy ra, là do quan lại cẩn thận giữ gìn. Nay đê thứ hai ở Nguyên Thành, nước chảy êm đềm, dưới đê cũng có bãi nổi, thế tự nhiên vững chắc, dù quan chức muốn thực hiện yêu cầu đã đề ra, nhưng dân chúng có tội tình gì? Tổ tông quy định nghiêm ngặt về sông ngòi, hàng năm phải kết tội, những năm gần đây quan chức không muốn nhận trách nhiệm giữ gìn, chỉ vì tiện lợi cho mình. Quan lại trên dưới, lừa dối thành thói, lười biếng bỏ bê, không thương xót dân chúng, không có việc gì thì được thưởng, có việc gấp thì bàn bỏ. Họ tự mưu lợi cho mình thật khéo, nhưng không biết chức vụ được phân chia, cậy vào đâu? Xin dùng vạn dân phu, tăng cường tu sửa các đê, bãi bỏ đê bảo vệ kinh thành.” Khi đó dân Ngụy kêu cứu, sứ giả bàn qua sông tìm Xưng để báo việc, rồi Ty An phủ và Ty Chuyển vận cũng tâu việc này không nên làm, triều đình bèn bãi bỏ việc đắp đê.
(Đây là việc ghi trong chính mục ngày 7 tháng 6, Ty An phủ lộ Đại Danh phủ tâu, xin sai Hoàng Tư đứng ra tổ chức việc đắp đê bảo vệ kinh thành. Hành trạng của Triệu Xưng do Hộ bộ viên ngoại lang Trần Sát soạn tháng 8 năm Thiệu Thánh thứ 2, nên sửa chữa và thêm vào cuối tháng 6.)
- Chiết Tây chưa bảo đảm thu hoạch: chữ 'Tây' nguyên bản viết là 'Đông', căn cứ theo bản trong các sách và 《Hoàng triều biên niên cương mục bị yếu》 quyển 23, cùng 《Tô Đông Pha tập tấu nghị tập》 quyển 11, bài 'Tái luận tích khiếm lục sự tứ sự tráp tử' mà sửa lại. ↵
- Các lộ Thiểm Tây chữ 'chư' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- cứ 5 người thì 4 li 2 hào 1 hốt được cử 1 người, chữ 'li' nguyên bản là 'hào', chữ 'hào' nguyên bản là 'li', căn cứ theo bản trong các sách và 《Tống hội yếu》 chức quan 28-12 sửa lại. ↵
- Thành cũ tuy đã bị phá hủy, chữ 'thành' nguyên bản là 'đất', theo bản các và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- Ba ngày đến Xát Châu Xuyên, hai chữ 'Xát Châu' nguyên bản khuyết, chỗ khuyết có chú 'khuyết', theo bản khác bổ sung. ↵
- 'viện' nguyên là 'bạt', theo bản khác sửa. ↵
- 'Mộ' nguyên văn là 'nhà', theo bản khác và văn dưới sửa lại ↵
- 'Dưới' nguyên văn là 'trên', theo bản khác sửa lại ↵