VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 476: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 7 (NHÂM THÂN, 1992)
Từ tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 7 đời Vua Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 8, ngày mùng một Nhâm Tý, ban chiếu rằng các quân nhân đã tự làm thương tổn để tránh việc đi đánh trận, dù có tự thú cũng không được miễn tội.
[2] Trung thư xá nhân Khổng Vũ Trọng tâu: “Thần trộm thấy trước đây các cận thần đã tâu xin bãi bỏ việc chuyển đối của các quan thị tòng, mà chỉ chuyên trách vào hiệu quả của việc bàn luận suy nghĩ hàng ngày, triều đình đã sớm thi hành. Thần cho rằng việc bàn luận suy nghĩ là việc của các quan thị tòng, nhưng nếu không giữ được phép tắc, thì trách nhiệm sẽ không có chỗ quy về. Nói hay không nói, đều tùy theo ý mình, vậy hiệu quả của việc bàn luận suy nghĩ thực sự ở đâu? Xưa Đường Thái Tông nghe được lời can gián thẳng thắn thì khen thưởng, lâu không nghe ai tâu việc thì chê trách, phong khí ấy cảm hóa, khiến quần thần tự lực, nên suốt thời Trinh Quán, trong ngoài không có việc bị che lấp, triều đình không có bề tôi nịnh hót, chính sự tốt đẹp vượt xa thời cận đại.
Nhân Tông hoàng đế từng ngự ở cửa Nghênh Dương, thân chính sách quần thần; lại từng mở các Thiên Chương, triệu tám vị chấp chính ban ngồi, trao giấy bút, bảo họ trình bày những điều cốt yếu của chính sự. Từng nói với các phụ thần rằng: ‘Gần đây những người dâng sớ nói về được mất của chính sự sao ít thế, há chẳng phải do đường ngôn luận bị bế tắc sao!’ Anh Tông hoàng đế từng nói với Phạm Thuần Nhân rằng: ‘Gần đây phong tục đáng khen, quần thần hay đến tâu việc, như thế nhà Vua ngày càng có lợi.’ Nhân Tổ, Anh Tông hết lòng cầu lời nói như vậy, nên chính sự thời Chí Hòa, Gia Hựu, Trị Bình đến nay vẫn được ca ngợi. Hôm qua bệ hạ thân ngự kinh diên, các quan giảng đọc tiến đối, những người tham gia giảng đọc chỉ khoảng năm sáu người, bệ hạ nghe được lời khuyên răn cũng đã nhiều. Huống chi các quan thị tòng không chỉ năm sáu người, những người có thể nói việc thiên hạ vốn nhiều, chỉ lo chưa có cách để dẫn dắt họ mà thôi. Trộm mong bệ hạ noi theo ý nghĩa cầu lời nói của Đường Thái Tông và Nhân Tổ, Anh Tông, suy rộng ý nghĩa của việc kinh diên cho phép các quan thị thần tiến đối, luân phiên một quan thị tòng, lần lượt tiến đối, bảo họ trình bày những điều mình thấy, chọn lấy điều đúng để thi hành. Như thế phép chuyển đối tuy bãi bỏ, nhưng trách nhiệm bàn luận suy nghĩ vẫn còn.”
(Ngày 18 tháng 5, ngày 21 tháng giêng năm thứ 8.)
[3] Cho con trai của người Dao là Điền Trung Ổn là Hồng Chiếu làm Ngân thanh quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Quốc tử tế tửu, Tri Kinh Tứ châu.
[4] Ngày Quý Sửu, Đô thủy giám Nam ngoại thừa Lý Hiếu Bác tâu: “Bờ đê sông Hoàng Hà vào mùa hạ thu nước lên, do người qua lại trộm chặt cành cây, nên bị sụt lở. Nay xin mỗi bờ đê đặt hai chiếc thuyền hai trăm hộc để chở vật liệu tu sửa sông, ban đêm tuần tra dưới bờ đê.” Chiếu cho hai thừa Nam Bắc, nơi nào có bờ đê thì mỗi bờ đặt một chiếc thuyền, còn lại đều theo lời tâu.
(Sách 《Tân》 không chép.)
[5] Sai trung sứ ban trà thuốc đặc biệt cho quan binh tu sửa sông.
(Sách 《Chính mục》 chép việc ngày mùng 2.)
[6] Ngày Giáp Dần, Kinh lược ty lộ Tần Phượng tâu: “Người phòng thủ ở trại An Viễn, bảo Đạt Long thuộc châu Tần, Phượng đã đủ, xin bãi bỏ bảo giáp do huyện Lương Tuyền, châu Phượng điều đến.” Theo lời tâu.
[7] Quản câu sự trà các lộ Thành Đô phủ Diêm Lệnh tâu: “Châu Hi bắt được nhân hộ Triệu Thế Hanh làm giả trà núi hơn hai nghìn cân, xử tội nặng theo luật không đáng, chưa đủ răn đe. Xin rằng những kẻ làm trà giả ở khu vực cấm trà, cho phép người tố giác bắt, ngoài việc xử tội và thưởng theo luật trà thông thương đời Trị Bình, phạm nhân bị đưa đến châu lân cận khu vực cấm trà để quản thúc.” Theo lời tâu.
(Sách 《Tân》 không chép.)
[8] Ngày Ất Mão, Tri Đại Danh phủ, Tư chính điện học sĩ Trương Tảo được làm Tư chính điện đại học sĩ, Tri Dương châu.
[9] Lại bộ Thượng thư, Tư chính điện học sĩ Vương Tồn làm Tri Đại Danh phủ. Tồn từ Dương châu được triệu về làm Lại bộ Thượng thư mới được một năm, lúc đó trong triều luận bàn về bè phái ngày càng sôi nổi, Tồn tâu: “Bè phái của bề tôi thật không nên để phát triển, nhưng không xét kỹ sẽ làm hại người tốt, như vụ án đảng cố thời Đông Hán. Đời Khánh Lịch, có người chỉ trích Hàn Kỳ, Phú Bật, Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu là bè phái, nhờ Nhân Tông thánh minh không mê hoặc, nay nếu có ai dâng lời này, xin bệ hạ xét kỹ.” Do đó lại không hợp với người đương quyền, xin về hưu không được, xin ra ngoài. Sau khi được bổ nhiệm Đại Danh, từ chối, đổi làm Tri Hàng châu.
(Tồn đổi làm Tri Hàng châu ngày 12, nay chép chung. Lời bàn về bè phái của Tồn, theo bản truyền, là dựa vào bài minh trên mộ của Tăng Triệu.)
[10] Xu mật trực học sĩ Triệu Ngạn Nhược làm Tu soạn Quốc sử viện.
(Ngày 17 tháng 7 đã có mệnh lệnh tu sửa sử sách.)
[11] Triệu tập các phụ thần đến xem lúa ở vườn sau.
[12] Ngày Bính Thìn, ban chiếu: “Tông thất phạm tội buôn rượu lậu, người tôn trưởng phải nhận chỉ dụ, chỉ phạt người tôn trưởng cùng tổ trong bản vị. Nếu tôn trưởng tự phạm tội, thì phạt người tôn trưởng cùng tổ trong bản cung.”
(Khi Tô Triệt làm Trung thừa, từng có bàn luận về việc này.)
[13] Các quan tâu: “Thần thấy pháp tự xử án tử hình, nếu kết án sai một người thì bị phạt, nhưng nếu tha sai trăm người thì không bị tội. Xử án lưu đày, tội đồ, nếu kết án sai năm người thì bị trách phạt, nhưng nếu tha sai trăm người thì không bị ghi lỗi. Tình cảm thông thường của con người là biết tự chọn lợi hại, ai sẽ xuất phát từ công tâm để chính pháp cho triều đình. Nay xin thêm vào điều luật: nếu tha sai năm người tội chết, thì coi như kết án sai một người; nếu tha sai ba người tội lưu đày, tội đồ, thì coi như kết án sai một người.” Được chấp thuận.
(Nhớ rằng có người phản đối việc này, nên cần kiểm tra kèm theo.)
[14] Tô Thức tâu: “Theo chiếu chỉ ngày 24 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ ba[1], Thiểm Tây chuyển vận ty tâu: Theo văn bản tóm tắt của chiếu chỉ, tiền thưởng cho các quan giám và chuyên trách về việc tăng thêm lợi nhuận từ việc bán muối và thuế rượu sẽ không được chi trả nữa. Bản ty xem xét, muốn tạm thời vẫn chi trả theo quy định cũ, để khuyến khích mọi người nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ thu thuế. Hộ bộ trình bày, muốn theo đề nghị của bản ty, tất cả đều thi hành theo quy định thưởng của năm Nguyên Phong. Kiểm tra lại chiếu chỉ ngày 24 tháng 6 năm Nguyên Phong thứ bảy, các quan giám về việc bán muối và thu thuế, nếu cuối năm tăng thêm lợi nhuận, sẽ được thưởng 1% số tiền tăng thêm; các chuyên phó, xưng tử, chuyên lan về muối và thuế, nếu cuối năm tăng thêm lợi nhuận, sẽ được thưởng 0,5% số tiền tăng thêm; và kiểm tra lại quy định thưởng năm Nguyên Phong, các quan giám về thuế rượu, nếu cuối năm tăng thêm lợi nhuận, sẽ được thưởng 2% số tiền tăng thêm; các chuyên tượng về rượu, nếu cuối năm tăng thêm lợi nhuận, sẽ được thưởng 1% số tiền tăng thêm. Chi tiết như bên phải.
Thần nghe Quản Trọng nói: Lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn trụ cột của quốc gia, bốn trụ cột không vững, quốc gia sẽ diệt vong. Nay các quan giám về thuế muối và rượu[2], tuy là chức vụ thấp kém, nhưng các sĩ phu, công khanh, con cháu quý tộc đều từ đó mà tiến thân. Nếu để những người này không coi trọng liêm sỉ, phá hỏng bốn trụ cột, bóc lột, khắc nghiệt, cùng với chuyên lan, xưng tượng chia tiền, dân chúng sẽ nhìn vào đâu? Lợi ích thu được chỉ là nhỏ nhoi, nhưng làm hỏng phong tục thiên hạ, kỷ cương triều đình, đây là điều mà người có tri thức đều tiếc nuối. Thần đến Hoài Nam, điều tra thấy các cơ quan thuế vụ trong những năm gần đây ngày càng tàn bạo, thương nhân không dám đi lại, trong khi lợi nhuận thu thuế không những không thiếu mà còn tăng thêm, nhưng sự tàn bạo của quan lại không giảm. Xét kỹ nguyên nhân, không chỉ do tài chính khó khăn, chuyển vận ty thúc ép, mà còn do có quy định thưởng tiền cuối năm, nên ai nấy đều ra sức tàn bạo để mong được thưởng. Rõ ràng là lợi dụng pháp luật về thuế quan để tích trữ của cải riêng.
Nếu triều đình muốn cứu vãn phong tục, bảo toàn khí tiết của sĩ phu, xin hãy bãi bỏ hoàn toàn quy định thưởng cuối năm này. Đồng thời xin xem xét kỹ quy định này, việc thi hành ở các cơ quan thuế vụ đặc biệt nguy hại, xin hãy bãi bỏ trước. Hơn nữa, từ thời tổ tông đến nay, vốn không có quy định này, các quy định thưởng phạt về tăng giảm lợi nhuận đã rõ ràng, không cần thêm quy định này để khuyến khích. Thần thấy chiếu chỉ ngày 27 tháng 4 năm nay, bãi bỏ các trạm thuế địa phương do dân đấu thầu, lệnh ban ra, thiên hạ vui mừng, đến cả dân chúng vùng sâu vùng xa cũng thoát khỏi sự tàn hại. Thần đã nhận được chiếu chỉ, dựa vào ân đức của bề trên, suy rộng ý chỉ của thánh thượng, trình bày đầy đủ lợi hại, xin chờ quyết định.” Triều đình đồng ý.
(Ngày Tân Mão tháng 6 năm Nguyên Phong thứ bảy, lần đầu theo đề nghị của Tây Kinh tào ty, ban chiếu thưởng cuối năm cho việc tăng lợi nhuận thuế theo quy định thưởng về muối và rượu. Tô Thức tâu này được chấp thuận. Đến năm Thiệu Thánh lại sửa đổi. Theo tấu trạng của Tô Thức, trình lên ngày 5 tháng 8, lúc đó vẫn xưng là Tri Dương châu. Ngày 22 tháng 7, Tô Thức đã được bổ nhiệm làm Binh bộ Thượng thư[3], nhưng chưa nhận chức, nên vẫn lấy chức Tri Dương châu để bàn việc. Nay bỏ ba chữ “Tri Dương châu”.)
[15] Ngày Đinh Tỵ, Bí thư thừa Lữ Hi Thuần được bổ làm Trứ tác lang, sung chức Biên tu quan ở Quốc sử viện. Hi Thuần vì cha mình có danh tiếng, lại tham gia biên soạn quốc sử, mà Phạm Tổ Vũ là em rể của mình, nên từ chối. Triều đình ra chiếu cho ông giữ nguyên chức Bí thư thừa, sung chức Biên tu quan.
(Đoạn này được thêm vào từ 《Tê Mẫu Chí》.)
[16] Tả triều tán lang Hàn Trị được bổ làm Thái thường thừa, (ngày 16, Ngô Lập Lễ nói…). Thái thường thừa Tôn Ngạc được quyền làm Chuyển vận phán quan lộ Lợi Châu. (ngày 16, Ngô Lập Lễ nói…).
[17] Hi Hà Lan Dân Lộ Kinh lược sứ Phạm Dục tâu: “Việc sắp xếp lợi hại của các bộ tộc phía nam sông Hoàng Hà, Xu mật viện xem xét thấy còn có những điều chưa rõ. Thứ nhất, các bộ tộc phía nam sông Hoàng Hà xin quy thuận, có phải là những bộ tộc do Kết Ngõa Xước quản lý không, và Kết Ngõa Xước có muốn quy thuận nhà Hán hay không? Nếu người này đồng ý với A Lý Cốt, vốn không biết trong bộ tộc có âm mưu, thì nếu họ tự có binh mã, tất phải dùng binh đối địch, như vậy phía nam sông Hoàng Hà từ đó sẽ không được yên ổn. Không rõ có thể hay không thể trước hết dùng việc Hạt Dưỡng (Khẩu Ngột) để thuyết phục Kết Ngõa Xước, khiến họ hiểu rõ họa phúc, bảo họ quy thuận nhà Hán, không giúp A Lý Cốt, sau đó phía nam sông Hoàng Hà có thể không cần chiêu dụ mà tự định. Kết Ngõa Xước cha bị bắt, cuối cùng có ý oán hận nhà Hán, nếu không thể nghe theo, thì các bộ tộc phía nam sông Hoàng Hà làm sao có thể chiêu nạp được?
Thứ hai, trong lãnh thổ của A Lý Cốt tuy nghe nói có sự chia rẽ, nhưng cuối cùng chưa có thực tế, nếu vội chiêu dụ các bộ tộc của họ, có phải là việc chưa ổn không? Thứ ba, giả sử không hỏi đến sự mạnh yếu của Kết Ngõa Xước, sự tồn vong của A Lý Cốt, liền xây thành chiêu nạp những người muốn quy thuận, nhưng vì giặc Hạ chưa quy thuận, nếu hai giặc hợp lại, quấy nhiễu Hi Hà, thì làm sao đối phó được? Thứ tư, các thủ lĩnh quy thuận nhà Hán đều nhờ Bao Thuận gửi thư đến, sau khi ổn định, bản thân họ chắc chắn mong muốn làm chủ vùng phía nam sông Hoàng Hà, tâu xin Bao Thuận làm đô thủ lĩnh. Hiện nay vùng phía nam sông Hoàng Hà, binh lực có thể hay không thể giao phó cho một người quản lý, và vùng phía nam sông Hoàng Hà hiện do Kết Ngõa Xước quản lý, nếu Kết Ngõa Xước thực sự muốn quy thuận nhà Hán, mà lại giao cho Bao Thuận, thì với Kết Ngõa Xước sẽ không ổn; hoặc chỉ để Kết Ngõa Xước tiếp tục quản lý như cũ, thì với Bao Thuận lại không tiện. Nên sắp xếp thế nào để có thể khích lệ Bao Thuận chuyên tâm làm việc, lại khiến Kết Ngõa Xước vui lòng phục vụ nhà Hán?
Thứ năm, ước tính chi phí hiện tại không quá ba mươi vạn quan, nhưng sau này ổn định các bộ tộc, từ thủ lĩnh trở xuống cần cấp phát khao thưởng, cùng với việc xây dựng thêm thành trại, binh tướng, các loại chi phí, so với việc cấp phát cho các bộ tộc ở Thông Viễn quân, Hi Dân các châu, mỗi năm ước tính tăng thêm bao nhiêu, vốn không có lợi tức từ giếng muối, mỏ quặng, lại không có đất doanh điền của dân binh, thì sau này kinh phí làm sao có thể ứng phó được? Thứ sáu, hiện nay chiêu dụ các bộ tộc phía nam sông Hoàng Hà, là để họ bày tỏ lòng thành quy thuận nhà Hán, việc xin xây thành chỉ là ở Đào châu và vùng phía đông, nếu như trong quá trình quy hoạch, ổn định tất cả, thì địa bàn sẽ rộng lớn hơn nhiều, không rõ tương lai sẽ lấy đâu làm ranh giới, bốn phía nhìn nhau, và cách các châu, thành, bảo, trại hiện nay khoảng bao nhiêu dặm, trong đó địa bàn Dân châu chắc chắn sẽ xa hơn. Không rõ có nên hay không nên xây thêm thành trại, để tiện quản lý và trấn áp? Thứ bảy, hiện nay phía nam sông Hoàng Hà thuộc về Tây Phiền, tổng cộng có bao nhiêu bộ tộc lớn nhỏ, Châu Vượng ở đâu, là bộ tộc nào đã từng gửi thư xin quy thuận, là bộ tộc nào chưa có ý quy thuận nhà Hán, hãy vẽ riêng từng bản đồ để tâu lên.”
(Cựu lục chép: Xu mật viện từ năm đầu lo liệu việc Tây Khương, nhặt nhạnh di tích của người trước, vạch kế hoạch, cuối cùng chỉ là lời nói suông, khiến việc này càng không thuận phục. Người Hạ càng thấy rõ sự hư văn của họ, nhiều lần xâm phạm biên giới, giết hại không thể kể xiết, cuối cùng thời Nguyên Hựu không thể định đoạt được. Tân lục biện rằng: Đoạn trên là Xu mật viện xem xét, Phạm Dục sắp xếp lợi hại của các bộ tộc phía nam sông Hoàng Hà, còn có những điều chưa rõ, nên đưa ra bảy câu hỏi. Việc này nhằm xem xét tình thế, chiêu nạp kẻ hàng phục. Nay sử thần đột nhiên chê bai như vậy, thật khó hiểu. Phạm Dục thời Thiệu Thánh, chỉ vì có công giữ biên thời Nguyên Hựu, không theo gian thần mà được thưởng. Sách này chép văn tự Xu mật viện xem xét, chắc chắn trong đó có những kế hoạch của Phạm Dục đã được thi hành, như nói “cuối cùng chỉ là lời nói suông, càng không thuận phục”, là Phạm Dục cũng có tội. Lời này vốn là của Xu mật viện, nhưng thực tế lại gán cho Phạm Dục, tự mâu thuẫn nhiều, nên xóa năm mươi hai chữ. Điều quan trọng là Phạm Dục trả lời bảy câu hỏi này, ngày mùng một tháng chín Phạm Dục nói, nhưng không phải là câu trả lời này. Ngày hai mươi tám Kỷ Mão, Dục lại trình bày sự việc, có thể tham khảo.)
[18] Ngày Kỷ Mùi, Đông thượng các môn sứ, Tri Lan Châu là Chủng Nghĩa được lĩnh chức Bảo Châu đoàn luyện sứ, tái nhiệm.
[19] Chiếu rằng: “Các lộ kinh lược ty phải bí mật dụ bảo các tướng, ngoài việc nghiêm ngặt phòng bị để đề phòng giặc cướp đến, còn phải chăm lo bảo vệ nhân dân, thu hoạch từ xa đến gần, cùng gắng sức. Nếu không có giặc Tây xâm phạm, không được tham lợi nhỏ mà dễ dàng xuất binh, khiến gây ra họa loạn, làm hư hại mùa màng.” Trước đó, có chiếu cho phép các lộ chọn thời cơ tấn công nhẹ, nhưng các tướng biên giới thường xuất quân đánh cướp, giết nhiều người già trẻ, lo rằng các lộ tham công gây họa, nên nhân dịp phòng thu, lại thêm điều ước.
[20] Thái thường tự tâu: “Việc tu sửa cung Quảng Thánh đã hoàn thành, tượng của Chân Tông hoàng đế cần làm lễ cáo tạ và đưa về điện.”
[21] Chiếu lấy Lễ bộ thị lang Tăng Triệu làm Lễ nghi sứ. (Ngày 18 tháng 6, Triệu làm Lễ thị. Ngày 22 tháng 7, Lễ thư Hồ Tông Dũ làm Lễ nghi sứ. Không rõ vì sao đổi sai, cần khảo cứu.) Nội khám nội thần Lê Nguyên Tá cùng các người khác, (việc ngày 8 trong 《Chính mục》, cần khảo cứu.) Bạch trát tử bát hoàn, phiếm sai quân mã thỉnh thụ.
(Việc ngày 8 trong 《Chính mục》, cần khảo cứu.)
[22] Ngày Canh Thân, Công bộ tâu: “Đô thủy giám tấu rằng, từ nay về sau, một năm huy động dân phu, một năm miễn trừ dân phu, các việc này, các bề tôi và các lộ giám ty đã bàn bạc, có người cho rằng xuất tiền miễn trừ dân phu là tiện lợi, hoặc có người cho rằng không tiện. Nay xin rằng những nơi cách xa nơi làm việc hơn 800 dặm thì không phải điều động, trong phạm vi 500 dặm thì phải huy động chính phu, trong phạm vi 800 dặm nếu không muốn làm dân phu, muốn nộp tiền miễn trừ thì cho phép. Vì thời hạn nộp tiền, một nửa là vào tháng giêng, một nửa là vào tháng sáu, xin cho dân căn cứ vào số tiền phải nộp một nửa vào tháng sáu[4], nộp cùng với thuế hạ, nếu quá hạn mà chưa nộp đủ số tiền, thì được miễn phạt gấp đôi; nếu năm đó phải làm dân phu, thì phải chính thân đi làm, không được nộp tiền để miễn trừ. Và Đô thủy giám xin rằng hàng năm định mức dân phu phòng chống lũ lụt là 15 vạn người, không kể dân phu đào kênh. Nay bàn bạc, ngoài số dân phu đào kênh của các lộ, xin định thêm số dân phu phòng chống lũ lụt là 12 vạn người, nếu công việc ít mà dân phu nhiều, thì chia đều giảm bớt ở các lộ. Nếu công việc khẩn cấp nhiều, phân bố không đủ, thì phải tăng thêm số lượng, lệnh cho các thừa trong và ngoài làm một tờ tấu, nêu rõ lợi hại thực tế, bảo đảm rõ ràng để tâu lên. Số dân phu đào kênh của các lộ, đều phân bố đều ở các châu huyện xa trong phạm vi quản hạt, các châu huyện gần thì dân phu phải đáp ứng việc sửa đê.”
Chiếu rằng ngoài số dân phu đào kênh của các lộ, số dân phu phòng chống lũ lụt mùa xuân hàng năm định mức là 10 vạn người, Hà Bắc lộ 4 vạn 3 nghìn người, Kinh Đông lộ[5] 3 vạn người, Kinh Tây lộ 2 vạn người, phủ giới 7 nghìn người. Nếu gặp các châu huyện của các lộ bị thiên tai trên 5 phần và phân bố không đủ, thì phải điều động ngoài 800 dặm, giao cho chuyển vận ty bảo đảm rõ ràng để tâu lên. Và bắt đầu từ việc điều động dân phu mùa xuân năm Nguyên Hựu thứ 8. Các việc khác đều theo đó.
(Bản mới lược bỏ phần quan trọng.)
[23] Ngày Nhâm Tuất, Kinh lược sứ Phạm Thuần Túy của Phu Diên lộ tâu rằng: “Xét thấy các quan người Phiên ở bản lộ, từ trước đến nay có người vì quy thuận hoặc lập được chiến công, triều đình đặc biệt ban cho họ tên họ Hán để tỏ lòng khen thưởng. Ví dụ như Uy Minh Thiện được đổi thành Triệu Hoài Thuận, Quân Lăng Lăng được đổi thành Chu Bảo Trung. Về sau, có những quan người Phiên không có lý do gì mà tự xin đổi tên họ, Kinh lược ty không ngăn cản, cứ theo đơn mà tâu lên, Bộ cũng không tra hỏi, nên đã đổi thành họ Hán, như Y Cách đổi thành Bạch Thủ Trung, Ngạc Khâm đổi thành La Tín. Lại có người không xin phép mà tự ý đổi thành họ Hán, như con của La Lăng đổi thành Chu Tuấn Minh. Hiện nay lại có quan người Phiên nương theo đó mà xin đổi họ, bởi vì từ trước chưa có quy định cấm, nên người Phiên tự tiện đổi họ Hán. Thần nghĩ rằng xưa kia việc ban họ đặt tên đều là do triều đình để đền đáp công lao, phân biệt trung thành. Nay để cho người ngoại tộc tự ý đổi họ, lẫn lộn với người Hán, nếu để lâu ngày thì nguồn gốc sẽ rối loạn, không còn tra cứu được, người Hán và người Phiên không phân biệt được, không phải là cách để tôn trọng Trung Quốc và phân biệt chủng tộc. Hơn nữa, người Phiên đã có thể tự đổi họ Hán, thì không còn coi việc được ban họ là trọng, ý khen thưởng của triều đình e rằng sẽ không còn hiệu lực. Vì vậy, thần xin tâu lên, xin lập pháp cấm chỉ, muốn rằng các tộc người Phiên ở các lộ, trừ những người được triều đình đặc biệt khen thưởng ban cho họ tên, thì không được phép xin đổi thành họ Hán. Những người trước đây không do triều đình ban họ, đều phải đổi lại, mỗi người phải giữ nguyên như cũ. Nếu được chấp thuận, chỉ xin triều đình xem xét lập pháp ban hành.” Triều đình nghe theo.
(Thuần Túy dâng tấu này vào ngày 11 tháng 8 năm thứ 7, ngày 23 được chấp thuận. Thực lục ngày 23 có ghi tóm tắt bản tấu này, nay chép đầy đủ. Vẫn ghi việc được chấp thuận và phụ lục ở đây.)
[24] Ngày Quý Hợi, Binh bộ tâu: “Xét theo chiếu chỉ về việc cống cử năm Nguyên Hựu, các quan trưởng và phó của Tự, Giám đều được phép tiến cử một người thi võ cử. Nay Ngự sử đài và các nơi khác gửi danh sách đến hai viên Thiếu giám của Bí thư tỉnh, tức là quan thuộc Bí thư tỉnh. Bộ này xét thấy, chữ ‘tỉnh’ đứng trên chữ ‘tự’ và ‘giám’, hơn nữa các quan này cũng là Thiếu giám. Nay xin xem xét để các quan trưởng và phó của Bí thư tỉnh đều được thông báo và cho phép tiến cử một người thi võ cử.” Triều đình đồng ý.
(Chiếu chỉ ngày 12 tháng 8 trong sách pháp.)
[25] Ngày Ất Sửu, Giang Tây Chuyển vận ty tâu: “Các Giám ty nhận chỉ triều đình, cử quan lập ty để xét xử, các quan được cử phải trực tiếp nhận mệnh và trở thành Chế sứ, lấy tên là ‘Chế khám’. Còn các Giám ty nhận chỉ triều đình, cử quan lập ty để xét xử công việc, nên lấy tên là ‘Suy khám viện’.” Triều đình đồng ý.
[26] Hộ bộ tấu: “Theo chiếu chỉ ngày 1 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 7, Hộ bộ tâu: Tử Châu lộ Chuyển vận ty tâu rằng, lộ này cần chuẩn bị tiền mua lụa và lĩnh cho năm Nguyên Hựu thứ 8, xin mượn tiền từ kho Thường bình. Được thánh chỉ cho mượn 3 vạn quan tiền Thường bình. Số lụa và lĩnh mua được, giao cho Đề hình ty quản lý, đợi khi Chuyển vận ty thu đủ tiền, sẽ đối chiếu và giao nộp, xin thực hiện theo chỉ thị. Bộ này xét theo lệnh của Hữu tào Hộ bộ, các ty khác mượn tiền vật, dù có chỉ triều đình cũng phải tâu lại. Nay việc mượn tiền Thường bình có trái với điều trên, xin đợi chỉ dụ.” Ngày 14 tháng 8, phụng chỉ: “Đặc chuẩn theo chỉ dụ trước.”
[27] Giáng thụ chức Thông nghị đại phu, Chương Đôn làm Tri châu Hồ Châu. (Việc Đôn làm Tri châu Hồ Châu, căn cứ theo sách “Chính mục” ghi ngày 14. “Thực lục” không chép việc này. Ngày 18 tháng 8 năm [Nguyên Phù] thứ 6, Đôn được khôi phục chức Chính nghị đại phu, Chu Quang Đình dâng sớ xin thu hồi, chiếu chỉ chờ hết một kỳ sẽ xin chỉ dụ. Nay sắp hết một kỳ, vẫn chưa khôi phục chức quan, chỉ được bổ nhiệm làm Tri châu. Tháng 12 năm [Nguyên Phù] thứ 8, khôi phục chức vụ, ngày 21 tháng 4 năm sau, vẫn lấy chức Thông nghị đại phu bị giáng trước đó để khôi phục chức Tả Chính nghị đại phu, rồi lập tức được bái làm Tể tướng.) Sau đó, lại được phục chức Đề cử Động Tiêu cung.
(Việc này căn cứ theo “Hành trạng” của Đôn ghi chép thêm, không rõ thời gian cụ thể. “Hành trạng” chép: Hết tang, lại được bổ nhiệm làm Đề cử Động Tiêu cung, không ghi việc làm Tri châu Hồ Châu, có lẽ là Đôn từ chối chức Tri châu Hồ Châu, lại xin làm quan phụng từ, cần xem xét kỹ thêm. Ngày 16 tháng 12 năm [Nguyên Phù] thứ 8, khôi phục chức Tư chính.)
[28] Ngày đó, Vua xuống chiếu cho Thái miếu dùng lại đồ ăn đặt trên bàn ngà. Trước đây, mỗi khi hành lễ tế tự, ngoài các lễ vật còn bày một bàn ngà đồ ăn thường, đến năm Nguyên Phong thì bãi bỏ. Lữ Hi Thuần làm quan Lễ bộ, từng dâng sớ tâu rằng: “Thần trộm xét kinh Lễ, các Vua đời xưa khi tế tự đều chuẩn bị đồ ăn của thời thượng cổ, trung cổ và đời nay. Trịnh Khang Thành giải thích sách Lễ vận, cho rằng dâng huyết mao, để sống trên mâm là dâng đồ ăn thời thái cổ; nấu chín thịt, dâng đồ nướng là dâng đồ ăn thời trung cổ; ‘sau đó lui ra hợp nấu, xẻ thịt chó, lợn, bò, dê, đựng đầy phủ, quỹ, biên, đậu, canh hình’ là dâng đồ ăn đời nay. Lại nói: ‘Đồ ăn đời nay, hợp với đạo người vậy.’ Tuân Tử nói: ‘Khi hưởng tế thì dùng rượu ngon, khi tế thì nếm canh đạm mà no với các món ngon, quý gốc mà gần dùng vậy.’ Nhà Tống có thiên hạ, cách thời Thương Chu hơn nghìn năm, các đồ dùng ăn uống mà tiên đế, tiên hậu thường dùng đều đã khác xưa, thì việc tế tự ở tông miếu không thể chỉ dùng cổ chế, đã rõ rồi. Vậy nên các lễ vật cổ khí là đồ ăn thời thượng cổ, trung cổ, tức là điều Tuân Tử gọi là quý gốc. Đồ ăn thường trên bàn ngà là đồ ăn đời nay, tức là điều Tuân Tử gọi là gần dùng. Thế mà có người bàn rằng bàn ngà ở tông miếu bắt nguồn từ việc dâng đồ ăn ở lăng tẩm thời Tần Hán, không biết rằng từ thời Tam đại đã tự chuẩn bị đồ ăn xưa nay, mà Tuân Tử có lời quý gốc gần dùng.
Thần lo rằng có người lại cho rằng ở Cảnh Linh nguyên miếu vẫn dâng đồ ăn thường, thì việc tế tự ở tông miếu có thể chỉ dùng cổ lễ. Thần trộm nghĩ rằng quốc gia đã xây tông miếu, năm năm phụng thờ, ắt phải cầu tổ tông giáng hưởng, chứ không phải chỉ là hư văn. Huống chi như Hi Tổ cùng bốn hoàng hậu Hiếu Huệ, có khi chỉ tế ở Thái miếu mà không tế ở Cảnh Linh chăng? Quốc gia đối với việc tế tự ở tông miếu không phải là không tôn trọng. Sáu quan trăm ty chạy vạy lo việc, nhưng đồ dâng lên lại không phải là thứ người đời nay có thể ăn được. Như vậy thì mong tổ tiên giáng hưởng, con cháu được phúc, há chẳng khó sao? Thần xin từ nay về sau, mỗi khi hoàng đế thân hành tế tự, hoặc quan lại thay làm, đều theo cựu chế của tổ tông, ngoài lễ vật, mỗi thất dâng thêm một bàn ngà đồ ăn thường. Như vậy thì lễ nghĩa nhân tình đều được thỏa đáng.”
Từ đó mới theo lời tâu của Hi Thuần.
(Ngày 19 tháng 7 năm Nguyên Phong thứ nhất, bãi bỏ bàn ngà. Theo Hội yếu của Thái Thao, đến ngày 14 tháng 8 năm Nguyên Hựu thứ 7, mới theo lời tâu của Hi Thuần mà đặt lại. Nay ghi lại lời tâu của Hi Thuần, vẫn căn cứ vào sách Tê Mẫu Chí của Hi Thuần mà thêm vào.)
[29] Ngày Đinh Mão, lấy Quyền Binh bộ Lang trung Đỗ Thuần sung chức Hoàng đế hạ Liêu quốc sinh thần sứ, Lục trạch sứ Hác Duy Kỷ làm phó. Quyền Hình bộ Thị lang Vương Địch sung chức Thái hoàng thái hậu hạ sinh thần sứ, Hoàng thành sứ, Trung Châu Thứ sử Trương Tảo làm phó. Duy Kỷ đổi tên thành Duy Vi để tránh quốc húy. Điện trung Thị ngự sử Ngô Lập Lễ sung chức Hoàng đế hạ chánh đán sứ, Nội điện Thừa chế, Cáp môn Chi hậu Hướng Tể làm phó. Thái thường Thiếu khanh Vũ Văn Xương Linh sung chức Thái hoàng thái hậu hạ chánh đán sứ, Cung bị khố sứ Tào Độc làm phó. Thuần vì bệnh mắt từ chối, Quyền Hộ bộ Thị lang Phạm Tử Kỳ thay thế. (Ngày 22.) Tử Kỳ lại vì bệnh chân từ chối đi, Thái phủ khanh Lưu Thầm thay thế. (Ngày 26.) Sau đó đổi sai Thầm làm quán bạn sứ nhân Cao Ly, lấy Hình bộ Thị lang Phong Tắc thay thế.
(Ngày 2 tháng 9.)
[30] Tả Phụng nghị lang, Tập hiền hiệu lý Trần Sát được bổ nhiệm làm Giang Đông lộ Chuyển vận phán quan. (Ngày 14 tháng 4 năm thứ 8, vì việc ngoài Hộ bộ.) Điện trung Thị ngự sử Ngô Lập Lễ tâu: “Thần trộm thấy con trai trưởng của Tri Xu mật viện Hàn Trung Ngạn là Hàn Trị, trước đây từ chức Tả Triều tán lang, Bí các Hiệu lý, vì tang mẹ nên xin nghỉ, sau khi mãn tang vào triều yết kiến, chưa được mấy ngày liền được bổ làm Thái thường thừa. Tam tỉnh vì là con của người đang nắm quyền, nên nhất định muốn chọn một chỗ tốt đẹp để bổ nhiệm, đặc biệt vì thế mà bãi chức Thái thường thừa đương nhiệm là Tôn Ngạc, đưa ra ngoài làm Lợi Châu lộ Chuyển vận phán quan, còn người trước đó được bổ nhiệm làm Chuyển vận phán quan của lộ này là Trần Sát, thì lại chỉ huy cho đi nhận chức khác. Lệnh bổ nhiệm vừa ban ra, dư luận sĩ phu xôn xao. Huống chi Thái thường là đứng đầu trong chín tự, chuyên lo việc bàn luận điển lễ, bình thường tuyển chọn nhân tài, là chức vụ rất quan trọng. Những kẻ sĩ nghèo hèn ở nơi xa xôi, khó lòng mà được bổ nhiệm. Nay Tôn Ngạc mới nhậm chức chưa được mấy tháng, không nghe nói tự xin ra ngoài, mà lại bị đuổi đi vô cớ; Trần Sát cũng là người đang giữ chức quán, chờ đợi việc này đã mấy tháng, sắp sửa lên đường nhậm chức thì lại bị bãi chức vô cớ. Bỏ hai kẻ sĩ nghèo hèn mà dùng một người nhà quyền thế, khiến các bậc sĩ phu không khỏi bất bình. Kính mong bãi bỏ mệnh lệnh mới bổ nhiệm Hàn Trị, đổi cho một chức vụ nhàn nhã, hoặc tạm thời cho ở lại quán làm việc, để tránh tình cảm thân thiết.”
(Thái thường thừa, Tập hiền hiệu lý Tôn Ngạc được quyền làm Lợi Châu lộ Chuyển vận phán quan, vào ngày 26 tháng 3. Tập hiền hiệu lý, Tả Phụng nghị lang Trần Sát được quyền làm Giang Đông lộ Chuyển vận phán quan, vào ngày 16 tháng 8. Hàn Trị được bổ làm Thái thường thừa, vào ngày 6 tháng 8.)
[31] Ngày Kỷ Tỵ, chiếu chỉ rằng từ nay về sau, các cung thủ ở Hà Đông, Thiểm Tây, nếu có việc thừa kế, thay thế, bổ nhiệm chức vụ, thì ngoại trừ chức Thập tướng trở xuống do Kinh lược ty tự cấp giấy tờ, còn lại đều phải qua Binh bộ xét duyệt, rồi trình lên Xu mật viện. Chức Đô ngu hậu trở lên thì ban tuyên chỉ, Chỉ huy sứ trở xuống thì ban triều chỉ, lệnh cho Kinh lược ty cấp giấy tờ.
[32] Nước Liêu sai Châu Trác gửi thư sang Châu Hùng nói rằng: “Vâng chỉ của chủ Liêu, sứ nước Hạ đến cầu xin viện trợ, nhưng vì hai triều Nam Bắc đã thông hiếu lâu năm, khó lòng thuận theo. Nay ủy thác Châu Trác gửi thư sang Châu Hùng để báo cho triều Nam biết, xem xét thi hành.” Triều đình ra chiếu cho Châu Hùng gửi thư trả lời Châu Trác, nêu rõ việc nước Hạ xâm phạm biên giới, để báo cho biết và thông báo.
[33] Ngày Nhâm Thân, Vua ngự tại Nhĩ Anh các, Thị độc Cố Lâm đọc 《Bảo huấn》. Đến đoạn Vương Duyên bàn về việc dẫn nước sông Chương để tưới tiêu, Vương Chẩn cho rằng không nên. Đọc xong, Vua hỏi Cố Lâm: “Lời bàn của Duyên và Chẩn, ai đúng hơn?” Lâm tâu giải thích ý kiến của Duyên và Chẩn. Vua hỏi: “Lời bàn nào có thể thi hành được?” Lâm đáp: “Lời bàn của Duyên có thể thi hành được.” Vua trong cung thường im lặng, chỉ khi giảng đọc mới đặt câu hỏi. Một hôm, Hữu bộc xạ Lã Đại Phòng tâu: “Thần nghe nói Cố Lâm đọc 《Bảo huấn》 về việc dẫn nước sông Chương để tưới tiêu. Thần cho rằng việc lợi hại của sông ngòi rất khó xác định, triều đình không thể không hiểu rõ đầu đuôi. Như sông Hoàng Hà của triều ta, người bàn luận có ba ý kiến: một là đưa dòng sông trở lại, hai là đắp đê ngăn sông, ba là chia dòng nước. Nay người bàn luận muốn dùng hai sông bốn đê để chia giảm thế nước, hai sông đắp bốn đê. Một sông dùng hai đê, tuy tốn ít công sức, nhưng sau này ắt sẽ vỡ đê. Hai sông bốn đê, tuy tốn nhiều công sức hơn, nhưng lâu dài sẽ không lo ngại. Như thời Hán Vũ Đế, sông vỡ ở Hồ Tử, đắp đê ngăn chặn, chỉ có thể chống đỡ được hơn bảy mươi năm. Triều ta trước đây có sông Nhị Cổ chia dòng nước, tạm tránh được nạn sông, sau vì bị bít lại, một dòng nhập vào, một dòng hợp lại, rồi đến nỗi vỡ đê. Lợi ích của việc chia dòng nước, từ đó có thể biết được. Nay làm bốn đê hai sông, chia giảm thế nước, thực là lợi lớn.
(Cựu lục chép: Tiên đế thuận theo tính nước, cho chảy theo dòng cũ về phía bắc. Đại Phòng chủ trương đưa dòng chảy về phía đông, nên mới có ý kiến về hai đê, bốn đê. Sai Ngô An Trì bãi bỏ sức dân ở Hà Bắc, tích trữ đất gỗ làm đê, năm năm mới xong, ngăn nước chảy về phía đông, chẳng bao lâu, cuối cùng lại vỡ đê chảy về phía bắc. Đại Phòng nhân dịp giảng kinh, buông lời bàn về việc sông ngòi và phép tiền giấy, tùy ý xuyên tạc, đều không có căn cứ, bởi vì không học không thuật, bừa bãi đề xuất, nên đưa ra ý kiến khác lạ, làm lung lay nền chính trị. Tân lục biện rằng: Đoạn trên bàn về ba ý kiến về sông, ý của Đại Phòng là dùng bốn đê để chia dòng nước, hai đê hợp lại để đưa dòng sông trở lại. Bốn đê là đúng, hai đê là sai. Nay sử thần cho rằng bốn đê, hai đê hợp lại để đưa dòng sông trở lại, lại thêm phép tiền giấy để chê bai, dường như không hợp lý, hơn nữa về sau các quan bàn về việc của Ngô An Trì, đã chép đầy đủ trong chương sớ, sách này chỉ chuyên chê trách Đại Phòng, nên hễ có đề xuất gì, ắt bị chê bai xấu xa, nhưng lời lẽ quá đáng, nên xóa chín mươi mốt chữ.)
[34] Ngày Quý Dậu, Binh bộ Thượng thư, Long đồ các học sĩ Tô Thức kiêm chức Thị độc.
(Ngày 22 tháng 7 được bổ nhiệm làm Binh bộ Thượng thư[6], nay lại thêm chức Thị độc, không rõ đã vào triều chưa, cần xem xét.)
[35] Chiếu lệnh Ngự sử Trung thừa, Thị ngự sử, cùng Hàn lâm học sĩ, Trung thư xá nhân, mỗi người cùng tiến cử hai viên quan đài để tâu lên.
[36] Hộ bộ tâu: Ty trà sự các lộ Thành Đô phủ xin trước đây được chỉ dụ từ tiền của ty này cấp 2 triệu quan làm tiền vốn định ngạch, nhưng quá ít. Chiếu lệnh cấp 3 triệu quan, số tiền còn lại, trừ những khoản chi tiêu thường lệ cần thiết, còn lại đều dùng vàng bạc, tiền mặt, giao cho Ty đề hình của lộ này thu giữ và niêm phong, mỗi quý theo quy định làm sổ sách tâu lên.
[37] Kinh lược sứ lộ Phu Diên Phạm Thuần Túy tâu: “Tướng thứ ba, Hoàng thành sứ Giải Nguyên Trung dẫn quân đến Tinh Bố giao chiến với giặc, chém được hơn một thủ cấp, khi rút quân bị giặc đuổi theo. Quân sĩ tranh nhau chạy tán loạn, Nguyên Trung một mình cưỡi ngựa theo đường tắt về trại, đổ tội cho tù binh bắt được rồi chém đầu, không báo lên cơ quan chỉ huy. Lại chuyển đổi tiền công sứ, giả làm chi tiêu khao thưởng, và chia cho Vương Phổ trở xuống, dặn họ không được nói ra.” Chiếu lệnh Giải Nguyên Trung vì có nhiều chiến công nên được miễn điều tra, đặc cách giáng hai cấp và cách chức, nhưng được gia hạn thêm một kỳ.
[38] Ngày Ất Hợi, Tả ty Gián Ngu Sách xin chiếu dụ các quan chỉ huy biên giới bí mật răn dạy tướng quan, nuôi dưỡng quân sĩ, những khoản thu gom trong quân đội và các chi tiêu bừa bãi gây hại cho quân sĩ đều phải chấm dứt. Lại tâu: “Nếu giặc Tây Hạ đột nhiên đại quân xâm nhập, sức một lộ không đủ chống đỡ, mà các quan chỉ huy các lộ thế lực ngang nhau, không thể cứu viện lẫn nhau, mong nghiêm lệnh các quan chỉ huy, phối hợp ứng cứu các lộ khác. Đồng thời trước hết phải bàn kỹ phương lược tất thắng, dốc hết sức lực, cùng nhau hỗ trợ. Nếu thực sự có lợi ích trong việc phối hợp ứng cứu mà không thể suy tính kỹ lưỡng và dốc hết sức, tướng quan sẽ bị xử theo pháp luật, quan chỉ huy bị giáng chức.” Được chấp thuận.
[39] Quảng Tây Kinh lược ty tâu: “Nguyên là Đông đầu cung phụng quan, Giám áp trại Vĩnh Bình, châu Ung Tô Tá, từ Giao Chỉ cùng vợ của Tào Xuân Khanh, nguyên là Đô giám trú bạc châu Ung, Phó sứ kho Cung bị là Lý thị cùng 17 người, vượt biển trốn về.” Chiếu cho Tô Tá cùng gia quyến 9 người, lệnh cho Quảng Tây Kinh lược ty đợi khi tra hỏi xong, cấp giấy phép ngựa trạm, cấp thêm lộ phí, sai một viên Chỉ sứ đi cùng áp giải về kinh; 8 người còn lại lệnh cho ở lại nơi đó, ưu đãi chu cấp, đồng thời tâu lên cách an bài thích hợp.
(Ngày 2 tháng 12, Tô Tá và những người kia được bổ nhiệm chức quan, cần tra xét thời điểm bị bắt giữ trước đây.)
[40] Ngày Đinh Sửu, triệu Tiết độ sứ Hà Đông đã về hưu, tước Lộ quốc công Văn Ngạn Bác, Thái tử Thiếu sư, Tuyên huy Nam viện sứ đã về hưu Phùng Kinh, Thái tử Thiếu phó đã về hưu Hàn Duy vào kinh tham dự lễ tế giao.
[41] Ngày Mậu Dần, Lại bộ tâu: “Hiện có 11 chỗ khuyết Giáo thụ các cung viện, từ trước đến nay ít người ứng tuyển, dẫn đến việc bổ nhiệm không thực hiện được.” Chiếu lệnh từ nay các chỗ khuyết Giáo thụ cung viện đều do Trung thư tỉnh bổ nhiệm.
[42] Khai Phong phủ tâu: “Theo chiếu, gặp ngày đại hàn có gió tuyết, cấp tiền cho người ăn xin, đặc biệt đến các viện tế bần công tư để cấp phát. Nhờ vậy, nhiều người đói rét ốm yếu được cứu sống, nhưng quy định sắp xếp còn chưa đầy đủ. Nay xin từ tháng 10 trở đi, xuống lệnh cho các sương chép tên người để cấp thẻ, mỗi khi đến tháng cấp phát, xin hạ lệnh cho Lại bộ chọn trước 28 viên Tiểu sứ thần có kinh nghiệm, sẵn sàng cùng các sứ thần các sương phân chia khu vực. Khi đến tháng cấp phát, từ sáng sớm tự đến viện tế bần, lần lượt cấp phát, hạn chế đến trước giờ Ngọ Mùi phải xong. Nếu có người chết, hoặc số người tăng thêm theo thời gian, đều lập tức báo lên sứ thần bản sương để ghi tên vào sổ.” Theo lời tâu.
(Không có trong bản mới.)
[43] Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận đề hình ty tâu: “Sau khi điều tra, thấy rằng binh lính trong lộ này vì bị cắt giảm số lượng và tiền lương, nên phải làm việc liên tục, chịu đói rét; hoặc bị điều động sang lộ khác mà không được cấp lương; hoặc quan binh không làm tròn chức trách, khiến việc lao dịch không đều, dẫn đến bỏ trốn. Tuy có luật cấm, nhưng phần lớn không tuân theo.” Chiếu rằng các quân bị điều động nếu được cấp khẩu khoán hoặc phân chia lương, dù ở lộ khác, cũng phải xếp theo thứ tự ngày tháng để quan ty kịp thời cấp phát.
[44] Ngày Kỷ Mão, Kinh lược ty đường Hi Hà Lan Dân tâu: “Nhận được trạng của Cung bị khố phó sứ bộ tộc Nam Tiên là Ngột Chinh Thanh Diên, nghe nói A Lý Cốt ghét Ôn Khê Sấm hướng về nhà Hán, đem đất Mạc Xuyên dâng cho nước Hạ, đang sai người triệu Ôn Khê Sấm đến Thanh Đường. Lại thêm A Lý Cốt nghi ngờ bộ tộc Tâm Mâu phản bội mình, giết ba người đại thủ lĩnh là Khê Luận Nhi, Lư Bưu. Triều đình cho rằng Ôn Khê Sấm và A Lý Cốt từ lâu đã không hòa hợp, bề ngoài tuy qua lại nhưng trong lòng thực sự nghi kỵ, thường nghi ngờ Ôn Khê Sấm làm gián điệp cho nhà Hán. Tin tức dò xét tuy chưa chắc chắn, nhưng Ôn Khê Sấm trước đã hứa đến chỗ A Lý Cốt, mà A Lý Cốt đang lo sợ nội loạn, muốn bí mật liên kết với giặc Hạ để tự củng cố, nếu chẳng may Ôn Khê Sấm bị A Lý Cốt dùng kế giam giữ, hoặc bị Lư Bưu âm mưu sát hại, giặc Hạ nhân cơ hội đánh chiếm Mạc Xuyên, thì giặc Tây sẽ mở rộng biên giới đến tận Hà Châu, từ đó dần dần nhòm ngó các bộ tộc Khương phía nam sông Hoàng Hà, e rằng sẽ gây họa không nhỏ.”
Chiếu cho Phạm Dục ước lượng, nếu Ôn Khê Sấm chưa đến Thanh Đường, thì lấy cớ lo việc khác, sai người đến chỗ Ôn Khê Sấm, lấy ý của quan tướng, bí mật ủy thác người được sai đi để mặt đối mặt khuyên Ôn Khê Sấm, bảo ông ta tự thận trọng phòng bị, không nên tùy tiện ra vào, để phòng bất trắc. Lại lệnh cho Phạm Dục xem xét, nếu giặc Hạ thực sự đánh Mạc Xuyên, cứu thì bị sông ngăn trở, không cứu thì Ôn Khê Sấm vốn trung thành với nhà Hán, khó lòng ngồi nhìn, không thể không ứng cứu. Lại mất Mạc Xuyên, càng thêm họa biên giới. Mong ông suy tính kỹ lưỡng, sớm lập kế sách, bí mật tâu lên. Phạm Dục lại tâu việc tu sửa thành trại ở Đao Châu, Thanh Tạng, chiêu nạp các bộ tộc phía nam sông Hoàng Hà chưa xong.
Xu mật viện tâu: “A Lý Cốt gần đây nhiều lần xin văn tự của nhà Hán cam kết lâu dài không xâm chiếm đất đai của người Phiên, Kinh lược ty đã khéo léo trả lời rằng: ‘Ngươi chỉ cần không quấy nhiễu biên giới nhà Hán, thì nhà Hán tự nhiên sẽ không sinh sự ở biên giới Phiên.’ Hiện Tây Hạ chưa thuần phục, ngày càng tăng cường phòng bị biên giới, nếu ta tự vi phạm ước trước, chiêu nạp các bộ tộc Khương phía nam sông Hoàng Hà, không chỉ mất lòng tin với nước ngoài, lại còn gây hiềm khích với Tây Phiên, chỉ khiến hai giặc dựa vào nhau hợp mưu, gây họa cả trước lẫn sau, rất bất tiện. Ngoài việc tu sửa thành trại ở Đao Châu, nên theo lời tâu của bản ty, đợi khi biên giới với Hạ quốc ổn định, các bộ tộc Tây Phiên yên ổn, sẽ bàn việc xây dựng sau. Chiếu cho Phạm Dục nhanh chóng răn dè các vùng biên giới, không được tùy tiện chiêu nạp các bộ tộc Tây Phiên, để tránh gây sự. Nếu có người bí mật tỏ lòng thành, thì nên đối đãi tử tế, dùng ý khéo léo ràng buộc, nhẹ nhàng đưa về, để họ yên ổn như cũ.” Phạm Dục liền sai sứ đến Mạc Xuyên, chưa đến nơi thì Ôn Khê Sấm và Khê Ba Ôn đã đến Thanh Đường, quả nhiên bị A Lý Cốt giam giữ.
(Sách 《Thanh Đường Lục》 chép việc này vào tháng 6 năm thứ 6, sai rồi. Nay sửa lại. 《Thanh Đường Lục》 chép: Sứ nhà Hán chưa đến Thanh Đường, Ôn Khê Sấm và Khê Ba Ôn đã bị A Lý Cốt giam giữ. Người Phạm Dục sai đi, chính là đến Mạc Xuyên khuyên Ôn Khê Sấm cha con đừng đến Thanh Đường. Nay sửa chữa chút ít, ghi vào ngày 6 tháng 8, Đinh Tỵ, bảy việc có thể tra cứu.)
[45] Chương Hành, Tri Tương châu, Tập Hiền điện Tu soạn, được bổ nhiệm làm Tri Hà Dương. (Ngày 28). Dương Cấp, Giang, Hoài, Kinh, Chiết đẳng lộ Phát vận sứ, được bổ nhiệm làm Tri Tương châu. (Ngày 24 tháng 11, đổi sang Tri Việt châu[7]). Tạ Khanh Tài, Thái bộc khanh, Trực Long đồ các, được bổ nhiệm làm Giang, Hoài, Kinh, Chiết đẳng lộ Phát vận sứ.
[46] Tháng này, có chiếu giáng chức Hoàng thành sứ, Quản câu Linh tiên quán Tống Dụng Thần, cho phục chức Dao quận Thứ sử, được tùy ý cư trú ở ngoại châu. Trung thư xá nhân Khổng Vũ Trọng từ chối phê duyệt chiếu chỉ, không thi hành.
(Theo Chính mục, ngày 22, Tống Dụng Thần được phục chức Dao quận, cư trú ở ngoại châu; ngày 24, Khổng Vũ Trọng từ chối phê duyệt chiếu chỉ của Dụng Thần. Xét truyện của Vũ Trọng và Dụng Thần đều không ghi chép việc này, nay tạm ghi lại sơ lược vào cuối tháng 8, cần tra cứu kỹ thêm. Năm thứ 6, tháng 8 nhuận ngày Canh Thìn, năm Thiệu Thánh thứ nhất, tháng 7 ngày Đinh Mão, cần tham khảo thêm.)
- Năm Nguyên Hựu thứ ba, chữ 'tam' trong 《Tô Đông Pha tập tấu nghị tập》 quyển 12, bài 'Khất bãi thuế vụ tuế chung thưởng cách trạng' viết là 'nhị'. ↵
- Chữ 'diêm' nguyên bản viết là 'giám', theo bản trong các kho và sách trên sửa lại. ↵
- Chữ 'nhị' trong 'Ngày 22 tháng 7 đã được bổ nhiệm làm Binh bộ Thượng thư' nguyên bản thiếu, theo sách này quyển 475, ngày Quý Mão tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ bảy bổ sung. Xét: Tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ bảy, ngày mùng một là Nhâm Ngọ, Quý Mão là ngày 22. ↵
- Xin cho dân căn cứ vào số tiền phải nộp một nửa vào tháng sáu, chữ 'lệnh' nguyên là 'kim', theo nghĩa văn mà sửa. ↵
- Kinh Đông lộ, chữ 'lộ' nguyên là 'Hà', theo nghĩa văn mà sửa. ↵
- Ngày 22 tháng 7 được bổ nhiệm làm Binh bộ Thượng thư, chữ 'Nhị' nguyên bản là 'Tam', căn cứ theo quyển 475, ngày Quý Mão tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ 7 trong sách này sửa lại. ↵
- Ngày 24 tháng 11 đổi sang Tri Việt châu, chữ 'Nhất' nguyên bản là 'Nhị', căn cứ theo các bản khác và quyển 478, ngày Quý Mão tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 7 sửa lại. ↵