"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 479: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 7 (NHÂM THÂN, 1092)

Từ tháng 12 năm Nguyên Hựu thứ 7 đời Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 12, ngày Canh Tuất, ty Quân đầu dẫn ba người là Cung phụng quan Tô Tá chạy về từ Giao Chỉ vào yết kiến. Tô Tá được đặc cách bổ làm Tây Kinh Tả tàng khố sứ; Tào Hoành vì cả nhà bị hại, nhưng cùng mẹ trở về Trung Quốc, được đặc cách bổ làm Tam ban sai sứ, thêm chức Chỉ huy sứ quân châu lộ Hà Bắc; Tôn Diên Thái được bổ làm Châu tán giáo luyện sứ. Mỗi tháng cấp 2.000 tiền, 1 thạch gạo, ban cho áo bào, đai lưng theo thứ bậc.

(Ngày 24 tháng 8 nên xem cùng sự việc này.)

[2] Tập hiền điện Tu soạn, Tri Tương Châu Dương Cấp, Tri Hà Dương Chương Hoành, cùng được bổ làm Tập hiền viện Học sĩ.

(Ngày Giáp Ngọ 22 tháng giêng năm Thiệu Thánh nguyên niên, chiếu cho Chương Hoành được phục chức Tập hiền viện Học sĩ, vì Bộ Hình tâu rằng đã hết ba kỳ, nên được phục chức. Không rõ vì sao sách này chép việc này, có lẽ nhầm. Dương Cấp từ ngày 24 tháng 11 đã từ Tương Châu chuyển sang Việt rồi, nên xem xét thêm. Sách 《Chính mục》 ngày 2 tháng 12 cũng chép việc Chương Hoành, Dương Cấp cùng được bổ làm Tập hiền viện Học sĩ[1].)

[3] Trung thư xá nhân Kiều Chấp Trung tâu: “Phòng Hình gửi đến Bộ Hình việc xét lại từ đầu phục chức một quan cho Hình Thứ. Xét Thứ chạy theo quyền thế, xúi giục kích động, kết giao với Thái Xác, mong Xác được trọng dụng. May nhờ triều đình giáng chức làm Giám đương, nay nếu lại phục chức, e trong ngoài nghi ngờ, từ đầu khó soạn thảo.” Chiếu cho Hình Thứ đợi thêm một kỳ nữa rồi xin chỉ.

[4] Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu: “Người đứng đầu từ biên giới phía tây đầu hàng là Y Lãng Tăng Ngạc cùng người đi theo là Tuy Di, nhận ra Y Lãng Tăng Ngạc là Chính Kiềm hạt của biên giới phía tây, xin đặc cách ban cho chức Phó sứ của các ty, cấp bổng lộc Tuần kiểm. Người đi theo là Tuy Di, từng được cử đi do thám, đánh nhau bị thương nặng.” Chiếu rằng: Y Lãng Tăng Ngạc được ban chức Nội điện thừa chế, cấp giấy dịch trạm, sai đến ty Quân mã lộ Lân Phủ để sử dụng. Đợi khi lập được công lao khác, ty Quân mã sẽ bảo cử tâu lên, sẽ ban ơn. Tuy Di vì do thám bị thương nặng, được ban chức Phó Binh mã sứ.

[5] Điện trung thị ngự sử Ngô Lập Lễ được ban cho một người con làm quan, vì đi sứ Liêu chết trên đường.

(Sự việc ngày 2 tháng 12 trong 《Chính mục》[2].)

[6] Ngày Tân Hợi, thủ lĩnh Tây Phiên Mạc Xuyên là Tiết độ sứ quân Hà Tây A Lý Cốt được phong chức Đặc tiến, cùng với An Nam đô hộ, Nam Bình vương Lý Càn Đức đều được tăng thực ấp thực phong.

[7] Hàn lâm Thị độc học sĩ Phạm Tổ Vũ tâu: “Thần trộm thấy gần đây bệ hạ tế trời đất, tuyết ngừng gió thuận, cảnh vật trong lành, thần linh hưởng ứng, điềm lành đặc biệt thịnh vượng. Các quan tham dự lễ tế đều cho rằng trước nay chưa từng có, người dân kinh thành ngắm nhìn dung nhan bệ hạ, reo hò vui mừng, đều nói bệ hạ giống như Nhân Tông. Thần xem ý trời lòng người, thực là phúc lớn vô cùng của xã tắc. Tuy nhiên, thần ngu muội cho rằng bậc thánh nhân khi được phúc lại càng thận trọng, thì mới có thể hưởng phúc lâu dài; được khen ngợi mà làm cho xứng đáng, thì mới có thể giữ được tiếng tốt mãi. Chỉ có cần cù siêng năng, không tự cho phép mình nhàn rỗi, mới có thể đáp lại ân trời; theo ý muốn của dân chúng mà làm, mới có thể đáp ứng nguyện vọng của dân. Nếu có chút ý tự mãn, thì phúc hôm nay sẽ là cơ sở của nguy loạn ngày sau; không làm cho xứng đáng, thì tiếng khen hôm nay sẽ là mầm mống của oán giận ngày sau. Thần mong bệ hạ vừa được hưởng phúc trời, lại được tiếng khen của dân, càng thêm thận trọng, chỉ chăm lo tu đức. Tu đức thực chất là noi theo tổ tông. Kính nghĩ một tổ năm tông, kính trời yêu dân, con cháu đời sau đều nên noi theo. Chỉ có Nhân Tông tại vị lâu nhất, ân đức sâu dày, thấm nhuần thiên hạ, nên trăm họ nhớ mãi, đời đời không quên. Bệ hạ thực sự có thể trên thuận ý trời, dưới thuận lòng dân, chuyên tâm noi theo Nhân Tông, thì ngồi yên không làm gì mà thiên hạ yên ổn, sự thịnh trị như đời Thành Khang không khó đạt được. Thần đảm nhiệm chức sử quan, từng sưu tập chính sách thánh của Nhân Tông, được mấy trăm việc, muốn xin biên soạn thành sách dâng lên, để bệ hạ xem qua. Xem xét hiến pháp thành công, đều thi hành, đáp ứng nguyện vọng của muôn dân, thì thiên hạ may mắn biết bao!”

Tổ Vũ bèn sưu tập 317 việc chính sách thánh của Nhân Tông, biên soạn thành sách, tên là 《Nhân Hoàng Huấn Điển》, gồm 6 quyển, dâng lên.

(Việc này dâng lên ở Nhĩ Anh ngày 3 tháng 12, còn việc dâng 《Nhân Hoàng Huấn Điển》 là ngày 19 tháng giêng năm thứ 8, nay phụ chép vào đây.)

[8] Ngày Nhâm Tý, sứ Liêu Quốc chúc mừng lễ Hưng Long tiết là Phụng Quốc quân Tiết độ sứ Gia Luật Khả Cử, Phó sứ là Thái thường Thiếu khanh, Càn Văn các Đãi chế Trịnh Thạc vào triều kiến.

[9] Trực Tập hiền viện kiêm Thị giảng Ngô An Thi làm Bí thư thiếu giám, (Ngô An Thi ngày 12 tháng 10 đã được bổ làm Thị giảng Thiên Chương các, có chỗ ghi nhầm là “Đãi chế”, nên xem xét lại.) Tả Triều thỉnh đại phu Kha Thuật làm Quang lộc thiếu khanh.

[10] Chiếu rằng: Những người phạm tội chết trong ngục, cuối năm, giao cho Đề hình ty, ở kinh thành thì giao cho Ngự sử đài thu thập, ghi rõ họ tên, tội trạng báo lên Hình bộ, nếu số lượng nhiều thì tâu lên Thượng thư tỉnh.

(Ngày 5 tháng 2 năm thứ 8 có thể tham khảo.)

[11] Ngày Ất Mão, Long đồ các trực học sĩ, Đại trung đại phu, Đề cử Động Tiêu cung Lô Bỉnh mất.

[12] Ngày Giáp Tý, Nội thị tỉnh Tả ban phó đô tri, Câu đương Ngự trù Triệu Thế Trưởng được lệnh tái nhiệm.

[13] Chiếu rằng: Từ nay sau khi lễ Nam Giao kết thúc, yến ẩm phúc đều bãi bỏ.

[14] Chiếu rằng: “Thái hoàng thái hậu, tằng tổ tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, truy phong Ngô vương Quỳnh cải phong Hàn vương, tằng tổ mẫu tặng Bân quốc Thái phu nhân Lý thị cải Duyễn quốc, tặng Trần quốc Thái phu nhân Lý thị cải Việt quốc. Tổ tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, truy phong Duyễn vương Kế Huân cải phong Tần vương, tổ mẫu tặng Sở quốc Thái phu nhân Khang thị cải Hán quốc, tặng Dương quốc Thái phu nhân Quách thị cải Yến quốc, tặng Thương quốc Thái phu nhân Vương thị cải Ung quốc. Phụ tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, truy phong Chu vương Tuân Phủ cải phong Trần vương, mẫu tặng Việt quốc Thái phu nhân Tào thị cải Trấn quốc, Kinh Ung quốc Thái phu nhân Lý thị truy phong Dự Trần quốc. Hoàng thái hậu, tằng tổ tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, truy phong Định vương Mẫn Trung cải phong Tần vương, tằng tổ mẫu tặng Kinh quốc Thái phu nhân Lương thị cải Hàn quốc, tặng Trần quốc Thái phu nhân Trương thị cải Việt quốc, tặng Dự quốc Thái phu nhân Tống thị cải Kinh quốc, tặng Đường quốc Thái phu nhân Vương thị cải Dương quốc. Tổ tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, truy phong Vệ vương Truyền Lượng cải phong Yến vương, tổ mẫu tặng Ngô quốc Thái phu nhân Ngô thị cải Lỗ quốc. Phụ tặng Thái sư, Khai phủ nghi đồng tam ty, truy phong Tần vương Kinh cải phong Kỳ vương, mẫu tặng Yến quốc Thái phu nhân Lý thị cải Chu quốc, tặng Hàn quốc Thái phu nhân Trương thị cải Trần quốc.

Hoàng hậu, tằng tổ tặng Thái sư Mạnh Nguyên truy phong Ôn quốc công, tằng tổ mẫu tặng Thư quốc Thái phu nhân Phạm thị cải Thái quốc. Tổ tặng Kiểm hiệu Thái phó, An Hóa quân Tiết độ sứ Mạnh Tùy cải Hoài Khang quân Tiết độ sứ, Khai phủ nghi đồng tam ty, tổ mẫu tặng Đàm quốc Thái phu nhân Trương thị cải Định quốc, tặng Tùy quốc Thái phu nhân Lưu thị cải Lộ quốc. Phụ Vinh châu Thứ sử, Đề cử Trung Thái nhất cung kiêm Tập Hi quan công sự Mạnh Tại gia Khinh xa đô úy, thực ấp năm trăm hộ, mẫu Vinh quốc Phu nhân Vương thị truy phong Khánh quốc Phu nhân. Hoàng thái phi, tằng tổ tặng Thái bảo Nhậm Bách Tường cải Thái phó, tằng tổ mẫu tặng Tần quốc Thái phu nhân Tôn thị cải Trần quốc. Tổ tặng Thái phó Nhậm Sĩ Thanh cải Thái sư, tổ mẫu tặng Vệ quốc Thái phu nhân Khang thị cải Sở quốc. Phụ tặng Thái sư Nhậm Diên Hòa truy phong Khang quốc công, mẫu tặng Lỗ quốc Thái phu nhân Khang thị cải Việt quốc, tặng Chu quốc Thái phu nhân Vương thị cải Ngô quốc, tặng Hán quốc Thái phu nhân Lộc thị cải Kỳ quốc, kế phụ tặng Lai châu Phòng ngự sứ Chu Sĩ An cải Thanh châu Quan sát sứ.” Đều là do lễ giao tế ban ơn đặc biệt.

[15] Ngày Đinh Mão, Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ là Chương Tiết tâu: “Theo tờ trát của Xu mật viện: ‘Cần xem xét việc ngày 12 tháng 10, giặc Tây sang xâm phạm biên giới, vào thời điểm nào trong ngày đó báo về Súy phủ, vào thời điểm nào trong ngày đó sai Tổng quản Lý Hạo thống lĩnh binh mã, lệnh đi đến nơi nào để chiếu ứng, xác định vào ngày giờ nào rời Súy phủ, nếu không lập tức xuất phát, có lý do cụ thể gì. Tuy nhiều lần theo tấu của Kinh lược ty, Lý Hạo ngày 16 giờ Thân đến trại Cố phủ, ngày 17 giờ Mùi đến trấn Mộc Ba, ngày 18 giờ Mùi đến châu Hoàn. Xét lại quân đuổi đánh, trong ba ngày đi tổng cộng 175 dặm; lại ngày 18 chính là lúc giặc Tây quay đầu, ngày đó tướng quan Chiết Khả Thích ở ngoài trại Hồng Đức đã xuất quân đón đánh, Hạo lại chỉ ở châu Hoàn, không thừa thế thống suất quân lính, tăng thêm thanh thế, đi chiếu ứng. Mãi đến ngày 19, giặc đã ra khỏi biên giới, mới thống lĩnh quân mã rời châu Hoàn đi, nói là đuổi theo quân giặc, chưa rõ có lý do gì khác, cần phải chỉ đạo. Yêu cầu Kinh lược ty Hoàn Khánh lộ xem xét kỹ các việc trên, nhanh chóng trình bày sự việc cụ thể, gửi nhanh về tâu lên.’

Bản ty đã xem xét, Lý Hạo từ giờ Tỵ ngày 16 rời châu Khánh, đến giờ Ngọ ngày 17 đến Mộc Ba, tính một ngày hai canh giờ, dẫn quân giáp binh ngày đêm đi 140 dặm. Đến Mộc Ba, quân giặc Tây đông đúc ở phía trước, chỉ hạ trại ở Đoan Chính Bình. Đến ngày 18, quân giặc Tây rời trại đi, tìm cách di chuyển quân, đến giờ Mùi đến châu Hoàn. Lúc đó Hạo chưa biết Chiết Khả Thích thực sự đang hành quân ở đâu, thêm nữa ba trại Hồng Đức, Túc Viễn, Ô Lan cách châu Hoàn chỉ 40 dặm, phía bắc Ô Lan toàn là nơi quân giặc Tây đóng quân, thế giặc rất mạnh, đường đi không thông, không thể không đề phòng giặc quay lại đánh úp. Hạo bèn cho quân lính dưới quyền nghỉ ngơi, cho ngựa ăn, chỉnh đốn đội ngũ, chờ sáng mai quyết chiến với giặc. Hơn nữa quân giặc Tây có mấy chục vạn người, mà quân của Lý Hạo thống lĩnh bốn tướng ở châu Khánh không đầy hai vạn, ngày đêm đi gấp, đã mệt mỏi. Nếu giặc biết được thực hư quân ta, điều động mấy vạn quân quay lại đánh úp, ắt sẽ thất bại. Lý Hạo biết quân ít không địch nổi quân nhiều, có thể giữ vững uy thế, tăng thêm thanh thế, trước hết chọn tinh binh Hán, Phiên nhẹ đuổi đánh, còn Lý Hạo dẫn quân nặng tiếp ứng. Quân giặc Tây đến Hồng Đức, tuy bị Chiết Khả Thích đón đánh tan tác, cũng nhờ Lý Hạo thống lĩnh quân nặng ở phía sau, lại sai Trương Thành dẫn quân nhẹ Hán, Phiên đuổi đánh. Giặc sợ bị đánh cả trước lẫn sau, nên quân giặc hoảng loạn bỏ chạy xa, đều là sự thật.”

[16] Hoàng thiếp tử viết: “Binh có kỳ chính, dùng đều có chỗ thích hợp. Binh pháp nói: ‘Tránh chỗ thực, đánh chỗ hư.’ Chiết Khả Thích chiếm cứ nơi hiểm yếu, rình chỗ sơ hở, đạt được ý tránh thực đánh hư, xuất kỳ bất ý, đánh úp chỗ không phòng bị, nên có thể lấy ít đánh nhiều, chiến đấu dũng mãnh mà thành công. Đến như Lý Hạo, dùng hai vạn quân đánh úp mấy chục vạn quân địch. Lại nữa, giặc phương Tây từ trước đến nay khi hành quân, vào cõi ta thì tinh binh đi trước, ra khỏi cõi thì tinh binh đi sau, nếu hai bên quân số ngang nhau, nhưng thắng bại chưa chắc đã phân. Chúng dùng quân số gấp mấy chục lần, quân đi sau đều là kỵ binh thiết giáp, lại giấu kỵ binh nhẹ ở trong, khí thế có thể nuốt chửng quân ta, nếu may mắn đánh úp phía sau mà thắng, đó là đánh vào chỗ thực, há chẳng nguy hiểm sao? Quân ta đối địch với giặc lâu ngày, cũng đều có lý do. Bởi đường sá không thông, hai bên đều không biết hư thực. Nếu giặc phương Tây biết quân của Hạo không nhiều, đóng quân quyết chiến, thì chỉ như bẻ gãy cành khô. Nếu Lý Hạo biết Hồng Đức đã chặn được mũi nhọn của chúng, nhân lúc quân địch rối loạn, thì phân tướng tá đi các ngả đánh úp chỗ hư, ắt cũng có công. Lý Hạo dùng ít quân đánh úp nhiều quân, biết giữ vững không dễ giao chiến, phô trương thanh thế, giặc không biết quân ta nhiều ít, cũng hiểu được đạo lý tránh thực. Hai người đổi chỗ thì cũng thế. Việc qua rồi, thấy tình thế đã rõ, ai cũng có thể nói sao không đuổi đánh phía sau, ắt có lợi lớn. Đó là căn cứ vào việc đã rồi mà trách cứ lúc lợi hại chưa lộ, há chẳng quá đáng sao!

Nếu Hạo không lượng sức nhiều ít, không xét tình thế, dễ dàng đánh úp, may mắn thắng một trận, ắt có nguy cơ mất quân mất tướng, trên thì tổn hại uy linh quốc gia, dưới thì công khai vi phạm quân lệnh, Hạo chết cũng không hối hận. Hạo đã không vi phạm quân lệnh, phô trương thanh thế, đánh úp phía sau quân địch, khiến giặc không dám ở lại lâu, mà quân mình tổn thất rất ít, công lao cũng không nhỏ. Kính mong triều đình xét kỹ.

Xét thấy quân Phiên, Hán và Đông binh của bản lộ tổng cộng hơn năm vạn người, trừ những người già yếu, bệnh tật, đi công tác và phòng thủ các châu, huyện, thành, trại, trấn, bảo, thì số quân ra trận tổng cộng hai vạn sáu nghìn người, binh lực mỏng yếu, may mà giặc không biết hư thực. Trước khi giặc xâm phạm, đã gửi văn thư các nơi, nói rằng sai Tổng quản đem đại quân dẫn các tướng đi, đều là hư thanh, chỉ muốn an ủi lòng người, phô trương thanh thế mà thôi. Xét thực tế, Trương Tồn đem đi hơn năm nghìn người, sau đó quân Khánh Châu chỉ có hai nghìn người, phần lớn là quân bị loại sau khi tuyển chọn, thì sự mỏng yếu không cần nói cũng rõ. Lại nữa, quân giặc rút về, đều chọn tinh binh thiết kỵ làm quân đi sau, hàng ngũ vững chắc, thế rất hùng mạnh. Quân truy kích của ta, dọc đường nhiều lần bị kỵ binh thiết giáp bao vây, khó lòng đuổi theo. Quyền Tướng thứ tư Mã Tông, quan Phiên Bố Bối đuổi đánh, suýt nữa bị giặc bắt, nhờ quân sĩ đồng lòng gắng sức, nên mới thoát được. Quân số nhiều ít, thế mạnh yếu, chênh lệch gấp mấy lần, mà muốn bắt phải xông vào địch tử chiến, e rằng không phải là kế sách quyết thắng. Kính mong triều đình xét kỹ.

Lại xét thấy Chiết Khả Thích theo lệnh của bản ty, đi đường tắt từ An Tắc, Hồng Đức trại ngày 18 đánh úp quân trung quân và xe cộ lương thảo của giặc phương Tây, lúc đó Khả Thích vốn chưa nhận được lệnh thống lĩnh của Lý Hạo, Lý Hạo cũng không biết quân của Khả Thích ở đâu. Bản ty vào ngày 19, 27 tháng 10 nhận được tờ trình của các quan, Khả Thích nói ngày 19 mới nhận được văn thư tiết chế của Lý Hạo, kính mong xét rõ. Lại nữa, thần từ khi giặc vào cõi, điều động quân hai châu sáu tướng xong, tự xét không còn quân mạnh nào khác có thể phái đi, nên ngày 14 phái Lộ phân Đô giám Trương Tồn, qua hai ngày lại phái Tổng quản Lý Hạo đi, chỉ là phô trương thanh thế, tỏ ra có quân tiếp ứng đánh giặc, quả nhiên giặc sợ hãi, bèn bàn rút quân.”

[17] Ngày Canh Ngọ, Vua xuống chiếu cho các quan phụ chính đến các cung quán cầu tuyết.

[18] Lấy Thứ sử Ôn Châu, Đề cử Trung Thái Nhất cung kiêm Tập Hi quán sự là Tông Hồi làm Tri châu Trần Châu[3], theo lời thỉnh cầu của ông.

[19] Ngày Nhâm Thân, Khởi cư xá nhân Lã Đào tâu: “Thần trộm thấy ở Nhĩ Anh các, sau khi giảng đọc xong, các quan lui ra, có Cố Lâm và Lữ Hi Triết ở lại tâu việc, thần không được nghe. Thần nghĩ rằng chức vụ của Khởi cư xá nhân là ghi chép lời nói và hành động của nhà Vua, phàm các quan giảng đọc có tâu trình điều gì, hoặc bệ hạ tuyên đáp, hỏi han, đều phải ghi chép lại, tu sửa thành sử sách đáng tin. Nay thần lại không được nghe những điều Cố Lâm và Lữ Hi Triết tâu trình, sợ rằng việc này không hợp với chức phận. Thần mong bệ hạ ban chỉ đặc biệt, từ nay về sau, sau khi giảng đọc xong, nếu có quan lại ở lại tâu trình, xin cho phép quan ghi chép được đứng hầu, để họ có thể cầm bút ghi chép không thiếu sót.” Vua nghe theo.

[20] Hoàn Khánh lộ Đệ thất tướng, Hoàng thành sứ, Hạ Châu thứ sử Chiết Khả Thích, lĩnh Dao quận Đoàn luyện sứ, Đái ngự khí giới, Hoàn Khánh lộ Binh mã đô giám, vẫn kiêm Đệ thất tướng. Vì có công đánh bại quân Tây Hạ tại trại giữa.

(Ngày 12 tháng 10, Chương Tiết tấu nghị, ngày 28 tháng 10 năm thứ 7, bảo minh quân Tây Hạ xâm phạm Hoàn Châu, các tướng có công, xin ban ân điển, trong đó có một mục: Theo Hoàng thành sứ, Hoàn Khánh lộ Đệ thất tướng, quyền đồng quản cán Đệ nhị tướng công sự Chiết Khả Thích trình: “Theo chỉ huy của Kinh lược ty, thống lĩnh ba tướng quân Hán, Phiên tại Hoàn Châu, sai người do thám biết quân Tây Hạ toàn quốc xâm phạm. Khả Thích vào ngày mồng 8 tháng 10, điều động ba tướng quân Hoàn Châu, chọn địa hình, tại Bất Cần Cốc và các nơi khác, dựa vào hiểm địa tập hợp, chờ quân Tây Hạ cướp bóc, dùng quân nhẹ đánh úp đến Cố Trấn Phố, gặp quân Tây Hạ giao chiến, thu được ít chiến lợi phẩm. Bắt sống quân Phiên, tra hỏi tình hình chi tiết, sau đó để hậu cần ba tướng quân ở phía sau, dùng quân nhẹ chiếm Kim Thôn Bảo, theo đường tắt đến An Tắc Trại. Quân Tây Hạ đã tiến đến Mộc Ba, tiếp tục nhận tin báo quân Tây Hạ từ Mộc Ba đánh xuống Hoàn Châu, sắp rút về, theo đường Hồng Đức, Đại Xuyên. Khả Thích liền tại An Tắc Trại chỉnh đốn lại ba tướng quân, đợi đêm theo đường Đại Trùng Cốc đi lén đến Hồng Đức Hạ Trại, phân bổ Phiên quan Mộc Hóa dẫn quân đóng tại Túc Viễn Trại, lệnh do thám quân Tây Hạ rút về, dùng số lượng đuốc làm hiệu.

Đến sáng ngày 18, Túc Viễn đốt đuốc làm hiệu, quân Tây Hạ từ Hồng Đức, Đại Xuyên rút về, Khả Thích trước đó đã mai phục quân tại thành phía tây Hồng Đức, đến giờ Mão, quân Tây Hạ kéo qua trại, từ cửa nam xuất quân đánh úp. Khi chiến sự đang ác liệt, mở cửa tây, dùng quân mạnh tấn công, tên đá bắn ra, đánh tan quân trung quân Tây Hạ, hậu quân cũng tan vỡ. Hậu cần và gia súc hoảng loạn, đè lên nhau, rơi xuống khe, chết và bị thương rất nhiều. Từ giờ Mão đến giờ Tuất, chiến đấu ác liệt, sau đó điều động quân nghỉ ngơi, đến canh ba, lại xuất quân tấn công, quân Tây Hạ lập tức thua chạy, tản ra đồng bằng bỏ chạy. Vì trời tối gió mạnh, khó đuổi sâu, cùng với Phó tướng Đệ nhị tướng, Sùng Nghi sứ Kỳ Đức cũng chọn quân phòng thủ ra trận, cùng phá giặc. Tổng số ba tướng quân Hán, Phiên là 8.488 người, trừ số tử trận và chiến lợi phẩm, thu được 321 thủ cấp, 7 trai tráng Phiên.”

Tiểu thiếp tử: “Chiết Khả Thích từ ngày 12 tháng 10, thống lĩnh ba tướng quân Hoàn Châu ra trận, điều động quân mã đến Mã Lĩnh, cùng ba tướng quân Khánh Châu đóng trại tại nơi hiểm yếu, kiểm soát địa hình. Khả Thích đến ngày 14, do thám biết quân Tây Hạ muốn rút lui, liền để lại quyền Đệ thất tướng Hứa Lương Quăng dẫn quân chậm chạp, ở lại tại chỗ. Lại chọn quân tinh nhuệ, dẫn Phó tướng Đệ lục Lưu Hành cùng quản cán Đệ lục tướng quân mã Đảng Vạn, quyền Phó tướng Đệ thất Trương Hi theo đường tắt chiếm Kim Thôn Bảo, vào An Tắc Trại nghỉ ngơi[4], phân bổ Phiên quan dẫn quân rải rác trong núi, đánh úp quân Tây Hạ.

Đến ngày 16, dẫn đầu Lưu Hành, Trương Hi, Đảng Vạn cùng các quan người Phiên là Mạnh Chân tiến vào trại Hồng Đức, lại chia quân sai các quan người Phiên là Ma Lặc Bác, Mộ Hóa bí mật vào trại Ô Lan, Túc Viễn để quan sát, mai phục, chia quân đánh chặn, và hẹn trước với Ma Lặc Bác, Mộ Hóa dùng số lượng đuốc làm hiệu lệnh bí mật.

Đến ngày 18, thấy số lượng đuốc, biết quân địch từ Hồng Đức ra khỏi biên giới, bèn chỉnh đốn quân mã, ẩn nấp, mai phục chờ quân địch đến, bên ngoài tỏ ra trại thành trống rỗng, giả vờ sợ hãi, cũng không dám đối đầu giao chiến. Khi thấy quân tiên phong của địch đã đi xa, quân trung trại mới đến, bèn bất ngờ sai quân mai phục đánh chặn trung trại, chặn đường rút lui. Từ giờ Thìn đến giờ Mùi, quân địch là Thiết Dao Tử mấy vạn người áp sát trại Hồng Đức, định vây đánh thành, các tướng lĩnh dẫn quân Phiên, Hán giao chiến ác liệt với địch[5].

Đúng lúc đó, trên đường đến rải nhiều gai sắt, trong thành bố trí cung thủ, thần tý cung bắn đan xen, nhưng quân địch vẫn xông lên không ngừng, bèn lại đặt hổ cứ yết ngoài thành, yết thạch cùng cung cứng, thần tý cung và gai sắt gây thương vong nhiều người ngựa, lạc đà của quân Tây Hạ, khiến chúng tan rã. Quân ta thừa thắng xông lên, quân địch đành phải leo núi trốn tránh. Thấy quân ta đuổi theo, chúng hoảng loạn, giẫm đạp lên nhau, rơi xuống vực, ngựa, lạc đà, quân sĩ chồng chất, số người chết không đếm xuể. Quân địch thường dùng kỵ binh thiết giáp bao vây, và dùng màn xanh che chắn đường rút lui, nay sai tướng lĩnh xông lên giao chiến, khiến quân địch rút lui, đều là mưu kế của Chiết Khả Thích. Đảng Vạn cùng quân chủ người Phiên là Diệp Ngạch dẫn quân chiếm cứ nơi hiểm yếu, chặn đường đến, công lao lớn nhất. Trương Hi, Lưu Hành, quan người Phiên Mạnh Chân chiến đấu dũng cảm, công lao cũng rất lớn.

Các sứ thần người Hán là Lý Thành, Vương Hoán, Tôn Thiên Giác, Trương Khang Quốc, Trương Vạn Mộ, Tần Cát, Vương Thường, Hác Hanh, các quan người Phiên là Uy Lăng Cán, Bạch Trung, Mai Hoài Đức, Diệp Ngạch, tổng cộng 12 người, đều dũng cảm chiến đấu, hợp lực đánh giặc. Mộ Hóa, Ma Lặc Bác ở Túc Viễn đối đầu với quân tiên phong địch, chém được 77 thủ cấp, cùng Chiết Khả Thích phối hợp từ hai phía, quên mình hợp lực tiêu diệt quân địch, đều là công lao đặc biệt. Nếu chỉ dùng cách thưởng thông thường, e rằng không đủ khuyến khích người dũng cảm chiến đấu phá địch. Huống chi quân Hạ kéo cả nước vào cướp, tình thế không dễ, mong bệ hạ đặc biệt ban thưởng hậu hĩnh.”

Lại có tờ tấu nhỏ: “Trận Hồng Đức, quân địch mấy chục vạn, Chiết Khả Thích cùng ba tướng và quân trong trại không đầy 9.000 người, chênh lệch hơn 30 lần, cuối cùng đánh bại quân địch, khiến chúng rút lui, nếu không phải mọi người dũng cảm chiến đấu, sao có thể thành công? Các tướng và quan trong trại cùng sứ thần người Hán, Phiên, nếu dùng cách thưởng thông thường dựa trên số quân tử trận và thủ cấp, ban ân thưởng ít, e rằng không đủ khuyến khích người dũng cảm phi thường. Dám mong bệ hạ xem xét tình hình, đặc biệt ban chỉ dụ.”

Lại có tờ tấu nhỏ: “Các tướng chém được hơn 700 thủ cấp, bắt được hơn 600 ngựa, hơn 900 lạc đà. Số rơi xuống vực chết và rải rác trong dân không tính. Cùng với 24 ấn đồng từ giám quân trở xuống, quần áo, long bài của quốc mẫu giả Lương thị.”

Muốn biết rõ việc Chiết Khả Thích đánh phá trung trại quân Tây Hạ, nên lấy tờ tấu của Chương Tiết chú thêm, cần phải chỉnh sửa mới được. Ngày 12 tháng 12, ngày 23 tháng giêng năm sau.)

[21] Xu mật viện dâng lên 21 điều sách lược của bản viện, 2 điều mục lục, 30 điều xem xét kỹ lưỡng, xin ban hành từ ngày mùng một tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 8, được chấp thuận.

[22] Ngày Quý Dậu, ba tỉnh nghe tin ở vùng biên giới muốn đổi tiền vật phong trang, nhiều nơi hư báo rằng chỉ định ở các lộ khác, đến khi đổi thì lại không có tiền vật thực tế để hoàn trả. Không chỉ trông chờ vào việc bỏ quan, xá tội, mà còn ngày càng lạm dụng tiền vật phong trang, gây nhiều bất tiện. Nay lập pháp: “Tự ý chi dùng tiền vật phong trang của triều đình và Hộ bộ, cùng tiền vật thường bình, và các cơ quan khác mượn tiền thường bình để mua vật liệu, ứng phó giao dịch, chưa định giá mà tự ý chi dùng, phạt tù hai năm. Trong đó, tiền vật phong trang nếu là để ứng phó quân sự, có thể điều chỉnh nhỏ, và những khoản cấp bách không thể chờ báo cáo, mới được phép chi dùng. Phải trình báo số lượng và lý do cấp bách, xin cơ quan chủ quản kiểm tra và cho hạn hoàn trả. Nếu đổi tiền vật phong trang ở biên giới cần thiết, mà đã định ở các châu khác, hoặc gọi người nhập tiện, tiết kiệm chi phí vận chuyển mà không gây trở ngại, phải báo lên Thượng thư tỉnh và bộ chủ quản. Những vi phạm trên, không được xét giảm tội dù đã giác cử, bỏ quan, xá tội, nếu chưa xét xử mà đã hoàn trả đủ, sẽ tâu lên xin xử lý.” Được chấp thuận.

[23] Hộ bộ tâu: “Xét theo chiếu chỉ về pháp dịch ngày 6 tháng 9 năm nay, có điều khoản như sau: ‘Tráng đinh trong các hộ phải đi dịch ở bản thôn, căn cứ vào danh sách trong sổ bạ, thực tế luân phiên đi làm dịch, nửa năm thay một lần. Ngoài việc phải đảm nhận các dịch vụ khác, nếu một thôn có 40 hộ phải đi dịch tráng đinh, thì tại thôn đó có 2 tráng đinh, mỗi năm luân phiên 4 hộ đi làm, 10 năm thì hết một vòng, rồi lại bắt đầu lại.’ Nghe nói các cơ quan ngoài địa phương có nơi để tráng đinh nhàn rỗi trong nhiều năm, hoặc có nơi làm 10 năm mới hết một vòng. Xét điều khoản trên quy định thời gian nhàn rỗi, đều là nói về các dịch vụ phải thuê người. Tráng đinh vốn là phải làm dịch tại nhà, tự nhiên không thể áp dụng thời gian nhàn rỗi. Phần chú thích nói ’10 năm hết một vòng’ chỉ là giả định, ngoài việc phải đảm nhận các dịch vụ khác, căn cứ vào các hộ phải đi dịch tráng đinh, thực tế luân phiên đi làm, hết vòng lại bắt đầu lại, không nhất thiết phải giới hạn trong 10 năm, cũng không cần áp dụng phương pháp nhàn rỗi. Hơn nữa, xét việc dịch tráng đinh, tuy gần đây đã đổi thành nửa năm thay một lần, nhưng lo rằng việc thay đổi quá thường xuyên, người dân sẽ làm qua loa, gây trở ngại cho công việc. Hiện nay số lượng tráng đinh ở các phủ, giới và các lộ phần nhiều vượt quá số lượng quy định khi thi hành pháp mộ vào năm Hi Ninh thứ 4, nay nên cắt giảm.”

Chiếu rằng: Tráng đinh ở các phủ, giới và các lộ đều theo số lượng quy định khi thi hành pháp mộ vào năm Hi Ninh thứ 4 để bố trí, nơi nào hiện có số lượng ít thì lấy số hiện có làm định mức. Những người cần giảm bớt thì cho những người vào làm dịch trước được nghỉ. Nếu có thôn nào số hộ phải đi dịch tráng đinh ít mà dịch vụ nhiều, thì cho luân phiên các hộ phải đi dịch tráng đinh ở thôn lân cận đến làm. Vẫn thay đổi mỗi năm một lần, thi hành trước. Chỉ đạo về việc tráng đinh thay đổi nửa năm một lần trong chiếu chỉ trên không thi hành nữa.

(Sách pháp: Ngày 25 tháng 2 có thánh chỉ.)

[24] Ngày Giáp Tuất, nước Liêu cử sứ là Tiết độ sứ Trường Ninh quân Tiêu Xương Hữu, Quan sát sứ Ích châu Tiêu Phúc, Phó sứ là Trung tán đại phu, Thủ Thái thường thiếu khanh, sung Sử quán tu soạn Lưu Tự Xương, Phòng ngự sứ Hải châu Hàn Thích, đến chúc mừng năm mới.

[25] Ngày Bính Tử, Đô Kiềm hạt Kinh Hồ Bắc lộ Đường Nghĩa Vấn tâu: “Người man ở Cừ Dương nhiều năm gây loạn, triều đình phát binh gần đó đi đánh dẹp, đã vạch sông lập biên giới, nay tuy yên ổn, nhưng không thể ỷ lại không có việc mà không chuẩn bị trước. Xin từ nay về sau, nếu người man tụ tập, rời khỏi hang ổ xâm phạm, thì tùy tình hình mà tùy cơ giết đuổi ra khỏi biên giới. Nếu trong các động hẻo lánh họ tự đánh giết lẫn nhau, chỉ cần lệnh cho các thành trại phòng bị kỹ, không nên khinh suất xuất binh ứng cứu. Nếu họ tấn công các làng quy phụ, không xâm phạm đất đai của triều đình, thì chỉ cần lệnh cho châu Nguyên theo lệ của Dương Thịnh, tùy việc lớn nhỏ mà cấp trâu, rượu, muối, lụa, để họ tự khao thưởng và kêu gọi các động lân cận giúp đỡ đánh đuổi.” Triều đình nghe theo.

[26] Trung thư thị lang Phạm Bách Lộc tâu:

[27] Thần gần đây vì Xu mật viện muốn liên tục tâu xin tiến hành xây dựng hai thành Nạp Mê và Kết Châu Long Xuyên ở châu Lan, đã nhiều lần bàn bạc cùng các tể chấp. Thần cho rằng việc này liên quan đến lợi hại rất lớn, không dám quyết định ngay.

[28] Thần trộm nghĩ rằng những ruộng tốt ở các nơi như Kết Châu, Long Xuyên, hơn sáu nghìn khoảnh, từ trước đến nay vùng biên giới gọi là Ngự Trang, nay muốn xây thành để chiếm giữ, không qua việc cấp cho các hộ thuộc quyền, người Phiên làm cung tiễn thủ để cày cấy, thu hoạch được thóc lúa, đem bán cho quan, nhờ đó mà bảo vệ được bộ tộc Dụ Lặc Tàng của người Phiên, lấy đó làm lợi, đó là ý định ban đầu của việc muốn tiến hành xây dựng hai thành ngày nay. Thần trộm lo rằng sau khi xây dựng hai thành, không tránh khỏi việc quân giặc thường xuyên ra tranh chiếm, vậy thì những người cày cấy của ta làm sao có thể canh tác được? Dù có thể canh tác, làm sao thu hoạch được? Nếu vài năm không thu hoạch, thì lợi ích đó ở đâu? Đến lúc đó, lại muốn bỏ đi để hòa giải với họ, thì công sức xây thành đã tốn kém không ít. Ta nhất định không chịu, thì địa giới không ổn định. Địa giới không ổn định, thì tranh chấp và xâm phạm chắc chắn không bao giờ dứt. Nay nếu vì họ liên tục gây ra lỗi lầm, tội không thể tha thứ, cần phải xây thành đoạt đất để trừng phạt sự xâm phạm của họ, lại không biết tình hình người Phiên có vì thế mà thực sự sợ ta và không xâm phạm nữa không? Hay chỉ càng thêm oán hận, mà càng gây hại cho dân biên giới của ta.

Vì kế sách lớn ngày nay, thần mong bãi bỏ ý định xây dựng hai thành, chỉ lệnh cho các vùng biên giới nghiêm ngặt tuần tra, cẩn thận phòng bị, tích trữ lương thực, giữ vững để đối phó. Nếu họ đến xâm phạm một nơi, thì các lộ của ta đều chọn quân đánh vào chỗ yếu của họ, thêm một hai năm nữa, giặc càng thêm khốn đốn, đợi họ nhiều lần cầu xin, sau đó mới phân định ranh giới, đem những ruộng đất đó ra lệnh cho người Phiên và người Hán, trừ hai bên không cày cấy, mỗi bên tự cư trú và canh tác, quan xuất tiền mua thóc, tự nhiên người Phiên và người Hán đều đến bán, lợi ích của Ngự Trang cuối cùng cũng về tay ta. Nếu từ đó ổn định, tức là lợi ích vĩnh viễn vô cùng, đạt được đạo lý nhu viễn. Hơn nữa, trước mắt còn tiết kiệm được chi phí xây dựng hai thành một hai trăm vạn quan tiền lương, cùng công sức của mấy chục vạn binh lính và dân phu. Huống chi lúc xây dựng, làm sao đảm bảo được giặc không đến, hoàn toàn không có việc gì?

[29] Kiểm tra thêm từ Lan Châu về phía tây đến các thành Tần Long Nặc dọc biên giới, tổng cộng khoảng ba trăm dặm. Trước đây, Phạm Dục và những người khác đã xin xây dựng hai thành, ngoài ra còn có năm sáu thành trại khác cần được xây dựng để hỗ trợ lẫn nhau. Trong khoảng ba trăm dặm này, nếu xây dựng hai thành, liệu những nơi khác có thể yên ổn không? Nếu xây dựng tất cả, chi phí sẽ rất lớn. Hiện nay, nếu nghe theo kế hoạch tranh giành lợi ích của những người thích gây sự, bỏ chỗ này lấy chỗ kia, e rằng sau này sẽ hối hận.

[30] Thần nghe nói rằng từ xưa đến nay, cách trị ngoại phiên chỉ có hai: một là dùng uy lực để chế phục, hai là dùng đức để thu phục. Hiện nay, chiếm đất tranh chấp, đức không đủ để thu phục. Lân, Hoàn hai vùng bị giặc cướp như vậy, uy lực không đủ để chế phục. Hai điều này chưa đạt được, lại muốn xây thêm hai thành, chi phí lớn, vị trí xây thành chưa xác định, vốn không phải đất của ta, sao không tranh chấp? Đã biết chắc sẽ tranh chấp, sao lại muốn gây sự, kích động sự hung hãn, củng cố ý chí không hòa hợp mãi mãi, và tàn phá cuộc sống của dân biên giới ta? Thần nghe nói thời Nhân Tông, Phạm Trọng Yêm xây Đại Thuận thành, Lưu Hỗ xây Thủy Lạc thành, Phạm Tường xây Thông Viễn quân; thời Anh Tông, Quách Quỳ xây Trị Bình trại; thời Thần Tông cũng xây Tuy Đức thành, còn nhiều việc khác không kể hết. Các đời trước xây dựng đều dựa vào địa thế hiểm yếu, củng cố biên giới, không tranh giành đất màu mỡ, nên kẻ địch cuối cùng cũng dễ dàng quy phục. Nay xâm chiếm đất mới, chỉ để có đất tốt, e rằng một hai mươi năm sau vẫn không thể khiến họ quay lại, quân biên giới làm sao nghỉ ngơi? Thần mong Thái hoàng thái hậu bệ hạ đặc biệt lưu tâm, quyết định rõ ràng, phân biệt đúng sai, vì sự an ninh lâu dài của dân biên giới, đừng để mệnh lệnh sai lầm, gây hậu quả khó lường, sinh sự không ngừng, hối hận không kịp.

(Ngày 12 tháng 10 năm thứ 7, giặc vây Hoàn Châu, đây nói Lân, Hoàn bị giặc cướp, nên là sau tháng 10. Nay phụ vào cuối đông, cần xem xét thêm.)

[31] Trước đó, triều đình vì người Hạ vào Hà Đông, bèn cắt bỏ lễ vật hàng năm, cấm chợ búa, sai các vùng biên giới thực hiện kế hoạch tấn công nhẹ. Lại lệnh cho Hi Hà tiến đắp thành Định Viễn, người Hạ không thể tranh giành. Không lâu sau, lại vào Hoàn, Khánh, triều đình lại bàn lệnh cho Hi Hà tiến đắp Nhữ Già, mọi người đều đồng ý, chỉ có Bách Lộc cho là không nên. Tô Triệt đoán ý Bách Lộc, Triệu Tiết trước đây ở Diên An bàn việc biên giới, muốn lấy hai mươi dặm của Tuy Châu làm lệ, Hi Hà chỉ ra sự bất tiện, bàn mãi không quyết mà Tiết chết, Bách Lộc là thân thích của Tiết, nên chủ trương ý kiến này. Một hôm, Lã Đại Phòng vào Thượng thư tỉnh trước, Triệt cùng Bách Lộc, Hàn Trung Ngạn, Lưu Phụng Thế chia phòng làm việc, bảo rằng: “Ông bàn việc phân định địa giới, muốn theo Tuy Châu, ở Diên An thì được, các nơi xa khác có khi đến bảy tám mươi dặm, đều lấy hai mươi dặm được sao? Tuy nhiên, đây không chỉ là sai lầm của ông, triều đình cũng không xem xét kỹ. Nay cùng bàn việc nước, không nên để tâm đến được mất của thân thích cũ[6].” Trung Ngạn, Phụng Thế vỗ tay khen hay, Bách Lộc tức giận không chịu. Gặp lúc người Hạ xin hòa, bàn bạc không thành. Sau đó Tô Tụng bãi chức tể tướng, Bách Lộc vì cùng tỉnh chịu tội, nhân đó xin thôi, là do việc Nhữ Già vậy.

(Theo 《Long Xuyên Biệt Chí》 và 《Dĩnh Tân Di Lão Truyện》 của Tô Triệt, người Tây xin hòa vào ngày mười hai tháng giêng năm sau, nay nhân phụ hai tấu của Bách Lộc, thấy việc này. Bách Lộc bãi chức ngày mười bốn tháng ba, Triệt nói Bách Lộc thực vì Nhữ Già, nên xét. Ngày hai mươi bảy tháng bảy năm thứ sáu bàn việc phân chia ở đô đường, Triệt cùng Hàn Trung Ngạn bàn, cuối tháng hai năm nay, đầu tháng năm, đều nên xét.)

[32] Tháng đó, Tả bộc xạ Lã Đại Phòng vì bệnh nên khẩn thiết xin từ chức, Thái hoàng thái hậu tuyên dụ rằng: “Chúa thượng còn trẻ, tướng công chưa thể rời bỏ vị trí, hãy đợi thêm ít năm nữa, ta cũng sẽ về Đông triều.” Đại Phòng bèn không dám xin nữa, lại tiếp tục làm việc.

(Theo hành trạng của Đại Phòng, nhật lịch ghi vào ngày 20 tháng 12. 《Triết Tông ngự tập》 chép: “Ngày 22 tháng 12 năm thứ 7, Tả bộc xạ Lã Đại Phòng xin ra ngoại quận, đã có chỉ không cho phép, có thể chỉ huy nơi tiếp nhận văn tự, nếu văn tự đến thì không được nhận và dâng lên.”)

[33] Năm đó, con cháu tông thất được ban tên và phong chức gồm 47 người, xử tội chết 4.191 người.


  1. 《Chính mục》 ngày 2 tháng 12 cũng chép việc Chương Hoành, Dương Cấp cùng được bổ làm Tập hiền viện Học sĩ, chữ 'Học' nguyên bản là 'Hiền', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại.
  2. 《Chính mục》 chép ngày 2 tháng 12, bản hoạt tự chép là ngày 20
  3. Lấy Thứ sử Ôn Châu, Đề cử Trung Thái Nhất cung kiêm Tập Hi quán sự là Tông Hồi làm Tri châu Trần Châu, 'Tông Hồi', bản các các làm 'Thượng Tông Hồi'.
  4. Quyền Phó tướng Đệ thất Trương Hi theo đường tắt chiếm Kim Thôn Bảo, vào An Tắc Trại nghỉ ngơi. Chữ 'vào' nguyên bản thiếu. Xét Kim Thôn Bảo thuộc Khánh Châu, An Tắc Trại thuộc Hoàn Châu, lại, văn trên ghi 'dùng quân nhẹ chiếm Kim Thôn Bảo, theo đường tắt đến An Tắc Trại', và tại An Tắc Trại chỉnh đốn lại ba tướng quân, đều cho thấy quân Tống từ Kim Thôn Bảo vào An Tắc Trại, nay theo các bản bổ chữ 'vào'.
  5. Chữ 'Hán' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản khác và ý văn bổ sung
  6. không nên để tâm đến được mất của thân thích cũ 'Nên' chữ nguyên thiếu, theo các bản, 《Loan Thành Hậu Tập》 quyển 13 《Dĩnh Tân Di Lão Truyện》 và 《Long Xuyên Lược Chí》 quyển 6 điều Tây Hạ xin hòa định biên giới bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.