VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 482: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 8 (QUÝ DẬU, 1093)
Từ tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 8 đời Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 3, ngày Mậu Dần, mùng một.
[2] Ngày Tân Tỵ, Ngự sử trung thừa Lý Chi Thuần tâu: “Các bậc hiền tài hòa hợp trong triều, thì vạn vật hòa hợp ngoài đồng nội, đến mức hình hòa, thanh hòa, thì sự hòa hợp của trời đất sẽ ứng nghiệm. Nay cuối tháng Trọng Xuân, là lúc vạn vật sinh sôi, mà gió bụi thỉnh thoảng nổi lên, tiếp đến là rét đậm, mưa tuyết, nước mưa, làm tổn hại khí hòa, có lẽ do việc người không tốt nên đã can thiệp vào. Việc điều hòa âm dương là chức trách của bề tôi phụ tá. Gần đây nghe quốc luận có chút thiếu hòa hợp, lời nói truyền đi, động đến sự quan sát. Xưa Cao Dao nói ‘cùng kính cẩn hòa hợp’, Y Doãn nói ‘chỉ hòa hợp và duy nhất’, vì mưu lược kín đáo, vận động trọng yếu, lời nói tuy nhỏ nhặt, nhưng ảnh hưởng rất lớn, không thể không cẩn trọng hòa hợp. Mong bệ hạ sâu sắc răn dạy, trách nhiệm họ cùng đức, trên thay trời làm việc, để triệu tập khí hòa hợp tối cao.”
(“Quốc luận có chút thiếu hòa hợp”, nên xem xét vì việc gì mà nói.)
[3] Các quan tâu: “Nay việc mùa xuân đang hưng thịnh, nông tang đúng thời, mà dân ngu phạm tội nhiều, nên tùy theo nặng nhẹ mà xử lý, để họ kịp làm nghề nông. Xin những việc không thực sự cấp bách, không được tùy tiện quấy nhiễu. Những vụ án cần chứng cứ, hãy lập tức xử lý.” Được chấp thuận.
[4] Tướng tác giám Vương Căng được bổ làm Kinh Đông Tây lộ chuyển vận sứ.
(Theo Chính mục, việc ngày mồng 4. Tháng 7 năm thứ 4, ông được bổ làm Triều phụng đại phu quyền Kinh Tây đề hình, đổi sang Tần Phượng. Ngày 22 tháng 6 năm thứ 5, làm Nông thiếu. Ngày 14 tháng 8 nhuận năm thứ 6, làm Tướng tác.)
[5] Ngày Nhâm Ngọ, chiếu rằng Thượng thư hữu bộc xạ Tô Tụng nhiều lần dâng biểu xin nghỉ hưu vì tuổi già, xin giải chức cơ chính, có thể theo lời xin, đặc cách phong làm Quan Văn điện đại học sĩ, sung chức Tập Hi quan sứ, tất cả thực phong thực ấp, theo thể lệ thường lệ thi hành, vào ngày mồng 6 tháng này tuyên đọc chiếu chỉ.
(Theo Tân lục dựa vào Ngự tập thủ trát, ghi chép lời chiếu chỉ, không sửa chữa, nay cũng theo đó.)
[6] Ngày Quý Mùi, Tả Quang lộc đại phu, Thượng thư Hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang Tô Tụng được giữ nguyên chức quan, làm Quan văn điện Đại học sĩ, Tập Hi Quán sứ. (Theo《Chính mục》, ngày 16, Tụng được giữ nguyên chức sứ tướng.) Ban đầu, khi trình lên các chương tấu của đài quan luận việc Tụng trì hoãn chế thư, Thượng thư Tả thừa Lương Đào nói: “Tụng làm tể tướng, xử lý việc bổ nhiệm, có thể nói là xứng đáng. Huống chi việc bổ nhiệm, các chấp chính đều có quyền phê chuẩn, làm tể tướng lại không được bàn việc của bản tỉnh sao?” Các chương tấu của đài quan lại cho rằng con trai của Tụng làm Thái học bác sĩ, nhiều người cùng phòng được thăng chức, Đào nói: “Việc bổ nhiệm đều do các tể tướng cùng bàn bạc, mới dám trình lên xin chỉ dụ, nếu có ý kiến khác nhau, lại tạm dừng bàn luận, không phải Tụng dám chuyên quyền. Đến như những lời nói trong gia đình cha con, người ngoài làm sao biết được? Nếu suy đoán nghi ngờ, tức là bịa đặt xảo trá, có gì không thể xảy ra! Điều này không thể không xem xét.” Tụng đã bị cách chức tể tướng, được làm Quan văn điện Đại học sĩ, ở nhà từ đường, Đào lại tranh luận: “Tụng bị cách chức tể tướng đã không hợp lý, mong hai cung xét lời nói của người tố cáo là sai, giữ Tụng lại để ngăn chặn làn sóng nghi ngờ. Triều đình vội vàng cách chức tể tướng, việc này rất hệ trọng.” Thái hoàng thái hậu nói: “Tự Tụng không muốn ở lại.” Đào nói: “Nếu dùng lời tự thỉnh, tức là chức danh không theo lệ cũ, không thể giáng chức ra ngoài, để tỏ ra xa cách.” Tụng được giữ chức Đại học sĩ ở lại kinh thành.
(Thiệu Bá Ôn nói: “Dương Úy công kích Lưu tướng ra ngoài, ý nghĩ rằng chắc chắn sẽ cử Môn hạ thị lang Tô Triệt làm tể tướng. Triều đình lại bái Tô Tụng làm Hữu bộc xạ, Úy lại nói với Lại Chi Thiệu rằng Tô tướng giữ lại mệnh lệnh trích chức của Giả Dịch không ban hành, là trì hoãn chiếu mệnh. Lúc đó, Trung thừa Lý Chi Thuần là thông gia với Tô tướng, tình cờ đang bệnh, Úy vào phòng bệnh gặp Chi Thuần nói: ‘Các đài gián đã nhiều lần dâng chương luận Tô Tụng, chưa có thi hành, ông là thông gia với ông ấy, giả bệnh xin nghỉ, e rằng người tố cáo sẽ nhắm vào ông.’ Lý công là người nhân hậu, bị Úy ép, cũng dâng chương nói rằng các thần liêu luận việc Tô Tụng, xin sớm ban hành. Tô tướng bèn bị cách chức. Thái hoàng thái hậu thấy rõ ý đồ riêng của Dương Úy, lại từ ngoài triệu Phạm Thuần Nhân về bái làm Hữu bộc xạ. Úy và Chi Thiệu lại nói Thuần Nhân không thể dùng, không được trả lời.” Chi Thuần là thông gia với Tụng, cần xem xét. Thực lục không ghi Chi Thuần có lời nói, cũng cần xem xét. Phần còn lại đã ghi ngày 29 tháng 2.
Bá Ôn viết《Dương Úy truyện》nói: “Lã tướng Đại Phòng thích Tử An, bổ làm Công bộ viên ngoại lang, Lưu tướng Chí cũng thích ông ta, giáng chức Tử An làm Giám sát ngự sử, muốn ông ta giúp đỡ. Tử An lại giúp Lã tướng công kích Lưu tướng ra ngoài, lại công kích Tô tướng Tụng ra ngoài. Tử An và Tô Môn hạ Triệt cùng là người Thục, liên tiếp công kích hai tể tướng, muốn Tô Môn hạ làm tể tướng. Nhưng Tuyên Nhân hậu lại từ ngoài triệu Phạm Trung Tuyên công về bái làm Hữu bộc xạ, Tử An lại nói không nên dùng, không được nghe. Lã tướng không biết Lưu tướng cũng thích Tử An, thăng làm Điện trung thị ngự sử, để thưởng cho lời nói của ông ta.” Úy bị giáng chức làm Sát viện, ngày 24 tháng 4 năm thứ 6 đã biện minh, thăng làm Điện viện để thưởng cho lời nói, lại không đúng. Úy tháng 6 năm thứ 7 đã từ Điện viện thăng làm Thị ngự sử, hoặc chỉ Thị ngự sử còn có thể. Đã ghi ngày 22 tháng 6 năm thứ 7.
Lý Thanh Thần viết thư cho Hứa Tướng nói: “Dung, Công bị cách chức, tuy người tố cáo thừa cơ, nhưng có lẽ còn có ý khác, không gặp mặt thì không thể biết rõ.” Không biết Thanh Thần nói “còn có ý khác” là việc gì, có lẽ là việc Thiệu Bá Ôn ghi chép Dương Úy liên tục công kích để đưa Tô Triệt lên làm tể tướng chăng? Cần xem xét. Ngày 28 tháng 12 năm thứ 7, Tô Triệt nói việc Phạm Bách Lộc bị cách chức là do bàn việc Nhữ Già, cần xem xét. Bách Lộc bị cách chức ngày 14 tháng 3.)
[7] Ba tỉnh tâu: Người bị tước danh hiệu và bị cách chức, trước đây là Tả ban điện trực Vương Tông Chính, kiện cáo Tạ Cảnh Ôn. Ban đầu, Tông Chính làm chỉ sử ở Ty an phủ lộ Chân Định, phạm tội tự đạo tang vật, theo luật phải chết, nhưng được đặc ân tha chết, tước danh hiệu, đưa đến Châu Hạ để quản thúc. Ông ta mang lòng oán hận, đi qua kinh sư, kiện cáo Cảnh Ôn cố tình đưa mình vào tội cực hình, chỉ trích Cảnh Ôn từng nói chuyện với thuộc hạ về việc Ngô Xử Hậu tố cáo Thái Xác, rồi Xử Hậu chết, như thể có ý đồ khác, lời lẽ mang tính châm chọc. Lã Đại Phòng nói: “Tông Chính là kẻ hung ác, tự chuốc lấy pháp luật, nay dùng lời lẽ kiện cáo Cảnh Ôn, chưa rõ thực hư.” Thái hoàng thái hậu nói: “Lời lẽ của kẻ oán hận không thể thi hành.” Lại nói: “Thái Xác đã chết, người này gian tà, kết bè kết đảng gây hại, được như vậy là phúc của quốc gia.” Đại Phòng nói: “Đây là trời trừng phạt.” Một ngày trước, Châu Tân báo tin Thái Xác chết, nên có lời tuyên dụ này.
(Thái Xác chết vào ngày mồng 6 tháng giêng.)
[8] Hàn lâm học sĩ Cố Lâm và các quan tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, cho phép các quan thị tòng tập hợp bàn việc thờ Hoàng Địa Kỳ, trong đó Thái thường bác sĩ Tôn Ngạc tấu xin đặt giá nhạc ở Thái Xã và Thái Tắc. Xét theo lễ Khai Nguyên, tế Xã Tắc có đặt khánh ca, nay chỉ đặt đăng ca ở đàn Xã, thực là thiếu sót. Xin theo lời thỉnh cầu của quan này, ngoài ra, Xã Tắc thêm dùng cung giá, và các đại từ khác cũng nên thêm dùng.” Cung giá không được thi hành, còn lại đều chấp thuận.
(Tôn Ngạc tấu vào ngày 18 tháng 3 năm thứ 7, Cố Lâm và các quan dâng nghị vào ngày 8 tháng 3 năm thứ 8, nay dời đến đây, e rằng xen lẫn với việc của Phạm Bách Lộc. Ngọc điệp chép: “Chiếu tế Xã Tắc dùng nhạc.”)
[9] Ngày Ất Dậu, Trung thư thị lang Phạm Bách Lộc tấu: “Các quan đài nghe nói Tô Tụng trì hoãn chiếu chỉ bổ nhiệm Cổ Dị làm Tri châu Tô Châu, nhiều lần xin từ chức. Tờ hặc tuy không nhắc đến thần, nhưng thần thực không mặt mũi nào dám trốn tránh tội lỗi? Đã tâu mặt, không dám vào tỉnh làm việc.” Chiếu không chấp thuận.
[10] Thái phủ khanh Trình Tự Cung được bổ làm Tướng tác giám.
(Việc ngày mồng 6 trong Chính mục.)
[11] Lễ bộ Thị lang Lâm Hi ra làm Tri châu Bạc Châu. (Việc này căn cứ vào sách 《Chính mục》 ngày mồng 8, tháng 2 ngày 13 Lại Chi Thiệu nói…) Tả Triều tán lang, Tri châu Bạc Châu Chu Quang Đình được làm Tập hiền điện Tu soạn, Tri châu Lộ Châu. Ban đầu, Lưu Chí bị bãi chức Tể tướng, Quang Đình làm Cấp sự trung, đã phong hoàn chiếu thư. Vì thế bị giáng chức, đến nay được phục chức.
(Sách 《Chính mục》 có ghi chép việc này. 《Tân lục》 ghi vào ngày 29 tháng 2. Nay theo 《Chính mục》.)
[12] Chiếu rằng quyền Thị lang được bổ nhiệm làm Sứ thần, theo lệ quyền Thị lang. Ban đầu, các bộ đặt chức quyền Thị lang, vị trí dưới Thị lang, bổng lộc ngang Gián nghị đại phu, không được ban đai vàng, còn lại đều theo lệ Tòng quan. Phạm Tử Kỳ từ quyền Hộ bộ Thị lang được làm Tập hiền điện Tu soạn, Tri châu Khánh Châu, chỉ được hưởng ân lệ của thứ quan. (Ngày mồng 8 tháng 2 năm thứ 8.) Tử Kỳ tự tâu lên triều đình, nên ban chiếu này. Trước đây, quyền Thị lang chưa từng được làm Sứ thần, việc làm Sứ thần bắt đầu từ Tử Kỳ. Tử Kỳ làm quyền Thị lang chỉ hơn một năm rưỡi, đến Khánh Châu hơn nửa năm, tổng cộng gần hai năm, mới được bổ nhiệm làm Bảo văn các Đãi chế, cũng bắt đầu từ Tử Kỳ.
(Việc này căn cứ vào sách 《Nam Dược tạp ký》 của Hàn Câu. Tử Kỳ ngày 18 tháng 11 năm thứ 6 được làm Tập hiền điện Tu soạn, Tri châu Hà Dương, vào làm quyền Hộ bộ Thị lang, ngày mồng 8 tháng 2 năm thứ 8 từ Hộ bộ Thị lang lại được làm Tập hiền điện Tu soạn, Tri châu Khánh Châu, ngày mồng 8 tháng 2 năm Thiệu Thánh nguyên niên từ Tập hiền điện Tu soạn được bổ nhiệm làm Bảo văn các Đãi chế.)
[13] Giám sát Ngự sử Hoàng Khánh Cơ tâu: “Tể thần Tô Tụng gần đây vì việc trì hoãn chế thư, dẫn dắt thân đảng, bổ nhiệm không đúng mà bị bãi chức. Xét việc bổ nhiệm, sai khiển, vốn thuộc về Trung thư tỉnh cùng bàn bạc, mới có thể tiến trình. Nay Tô Tụng đã bị bãi, còn Trung thư Thị lang Phạm Bách Lộc thực sự tham gia chức vụ, há lại không chịu trách nhiệm? Nếu Bách Lộc cho rằng mình không biết, thì cùng ở Trung thư, việc gì cũng phải biết, sao có thể nói là không biết? Nếu Bách Lộc biết mà vẫn cố tình làm theo, thì tội của ông ta có hai: một là kết bè với tể tướng, lừa dối triều đình, không tuân theo phép tắc, đó là bất trung; hai là trong lòng hiểm ác, để mặc Tô Tụng làm bậy, âm mưu lật đổ, đó là bất chính. Dư luận xôn xao, đều cho rằng ông ta đã đánh mất phẩm cách của bậc đại thần. Mong bệ hạ cách chức ông ta để yên lòng thiên hạ.” Thị ngự sử Dương Úy tâu: “Gần đây bàn về việc Tể thần Tô Tụng ngăn cản chiếu mệnh, Tụng đã bị bãi chức. Nhưng việc trì hoãn chế thư tuy xuất phát từ ý của Tô Tụng, mà Trung thư Thị lang Phạm Bách Lộc cùng chức vụ, thực sự cũng là bỏ bê công việc. Mong bệ hạ xử lý để răn đe những người đương chức.” Giám sát Ngự sử Lai Chi Thiệu tâu: “Gần đây tấu việc Tể thần Tô Tụng vì tư lợi mà bỏ công việc, ngăn cản chiếu chỉ. Tụng đã bị bãi chức, nhưng việc thiên vị tuy xuất phát từ Tụng, mà Trung thư Thị lang Phạm Bách Lộc cùng chức vụ, không có đóng góp gì, cũng không thể tránh khỏi trách nhiệm liên đới.”
[14] Ngày Mậu Tý, Hoàng Khánh Cơ lại tâu: “Gần đây bàn luận về việc Trung thư Thị lang Phạm Bách Lộc cùng Tể thần Tô Tụng đều ở Trung thư, việc bổ nhiệm không đúng, tự nhiên phải cùng chịu trách nhiệm. Xét Bách Lộc không chỉ kết bè kết đảng lừa dối, không tuân thủ phép tắc, trong lòng chứa đựng mưu mô xảo trá, âm mưu lật đổ mà còn cố chấp tự ý, dẫn dắt bè đảng, đều có bằng chứng rõ ràng. Xét Bách Lộc từ khi nắm quyền chính đến nay, đã dẫn dắt Lã Đào làm Khởi cư Xá nhân, Sầm Tượng Cầu làm Chư vương vị Thuyết thư, đều là người Xuyên. Đào làm Hữu ty Lang trung, Tượng Cầu làm Hộ bộ Lang trung, mỗi người chưa đầy nửa năm, vốn không phải lâu dài, thực ra do cố ý chủ trương, nên mới được thăng tiến nhanh chóng. Mượn danh khí của triều đình để thu lợi riêng, đó là tội thứ nhất. Đến như việc dùng Tống Chiêu làm Tri Phượng châu, Hỗ Sung làm Tri Lợi châu, cũng đều là người Xuyên. Ruộng chức ở Phượng châu cung cấp được coi là hậu hĩ, ban đầu bổ nhiệm Trầm Mại, chờ khuyết đã lâu, lại sai Mại làm Tri Tuyền châu, đem Phượng châu cho Chiêu, mọi người đều không khỏi bức xúc, đó là tội thứ hai. Phùng Như Hối làm Hộ bộ Lang trung, vì khi làm Chuyển vận sứ Quỳ châu lộ xử lý công việc không đúng, Ngự sử đài đang điều tra chưa kết thúc, Bách Lộc vì là đồng hương, vội bổ nhiệm làm Quán chức, sai làm Tri Tử châu. Hơn nữa, phàm những người có án đang ở Tự đều không được bổ nhiệm chức vụ, huống chi đang bị điều tra, chưa rõ tội danh, lại trước tiên bổ nhiệm đại phiên, thêm Quán chức? Vi phạm phép tắc triều đình, xu nịnh tình riêng quê hương, đó là tội thứ ba.
Bách Lộc trước đây từng xem xét lợi hại của sông lớn[1], lúc đó cố sức cho rằng việc đổi dòng sông là sai, dòng chảy về phía bắc là đúng. Đến năm ngoái sông lớn lại chảy về phía đông, người dâng nghị nhiều lần trình bày sự thuận lợi, xin cử cận thần xem xét có được không, nhưng Bách Lộc cố chấp theo ý kiến trước đây, cố sức ngăn cản, cuối cùng không nghe nói cử sứ đi xem xét, kéo dài đến nay, nước lũ mùa xuân đã dâng cao, không kịp nữa. Cố chấp tự ý, giữ quan điểm thiên lệch mà ngăn cản nghị luận chung, đó là tội thứ tư. Làm bề tôi không có gì là của mình, huống chi dám nghĩ đến tư lợi? Há lại có chuyện chờ khuyết lâu mà cướp cho người khác, đang bị điều tra mà vội thăng chức! Trên lừa dối thánh minh, dưới làm rối loạn kỷ cương, lạm quyền uy phúc, làm việc tà vạy, đó là tội thứ năm. Mong bệ hạ quyết đoán, sớm cách chức, để hợp với công luận.”
(Bản truyền chép Khánh Cơ luận Bách Lộc cùng Tô Thức, Tô Triệt kết bè, chương này lại không có tên Thức, Triệt, nên xem xét. Ngày 12 lại có một chương: Tống Chiêu làm Tri Phượng châu, Hỗ Sung làm Tri Lợi châu, Phùng Như Hối làm Tri Tử châu.)
[15] Ngày Kỷ Sửu, Thượng thư tỉnh tâu: Các lộ sương quân binh sĩ hiện nay thiếu số lượng nhiều, nguyên do là chuyển vận sứ keo kiệt không chi đủ y phục, lương thực và tiền lương, khiến việc chiêu mộ không đủ. Chiếu lệnh các lộ đề hình ty nghiêm khắc thúc giục, phải chiêu mộ đủ số lượng, còn các khoản y phục, lương thực và tiền lương hợp lệ, đều phải quản lý và niêm phong.
[16] Giám sát ngự sử Hoàng Khánh Cơ tâu: “Gần đây, thần đã luận tấu Trung thư thị lang Phạm Bách Lộc kết bè kết đảng, lừa dối, cố chấp tự ý, dẫn dắt đồng đảng, đều có những việc rõ ràng. Thần nghĩ rằng, làm quan đến chức chấp chính, giàu sang đã nhiều, nhưng vẫn không giữ lòng công trung, dẫn dắt đồng đảng, không vì gì khác, chỉ muốn lộng quyền thế và củng cố lợi lộc mà thôi. Lâu ngày, thần e rằng không chỉ dừng lại ở quyền thế và lợi lộc, mà còn hơn thế nữa, bệ hạ há không lo lắng sao? Trước đây, bệ hạ đã cách chức Lưu Chí, Vương Nham Tẩu, Chu Quang Đình, Tôn Thăng, Hàn Xuyên, sau đó phe Lạc suy yếu. Tuy nhiên, phe Lạc tuy suy, phe Xuyên lại thịnh. Thân thích và bạn bè của Bách Lộc đều nắm giữ quyền lực, bệ hạ có thể xem xét và biết được. Nay vì tội trạng rõ ràng, xin sớm cách chức, để tách rời đồng đảng của hắn, khiến những kẻ đương quyền biết sợ, không dám lộng quyền vì tư lợi, lừa dối thánh minh. Nếu không, thần e rằng quyền thế của hắn càng thịnh, bè đảng càng nhiều, khó mà phá vỡ, thì kỷ cương sẽ rối loạn, chưa dừng lại được. Lúc bệ hạ thùy liêm nghe chính sự, chính là lúc nên đưa ra quyết đoán anh minh, khiến bề dưới đều biết cảnh giác, không dám công khai che đậy, sau đó triều đình được tôn trọng và kỷ cương được chấn chỉnh.
Thần nghe rằng, thời Đường Văn Tông, Ngưu Tăng Nhụ, Lý Tông Mẫn, Dương Ngu Khanh kết bè kết đảng, làm loạn thiên hạ. Văn Tông đến lúc lâm triều than thở, nhưng cuối cùng không thể trừ bỏ được. Há chẳng phải vì trăm mưu ngàn kế, đủ để mê hoặc tai mắt bậc quân chủ sao? Sử xưa chê trách, cho rằng giữ lòng do dự, mở cửa cho kẻ gian tà. Thần lúc đầu thấy Bách Lộc tiến cử một hai người thân quen trong làng, vốn không cho là đúng, sau đó tiến cử càng nhiều, dư luận sôi nổi, mới biết hắn quả thật không có lòng vì nước, chỉ muốn làm bậy mà thôi. Kính mong bệ hạ tự quyết đoán mà thi hành, nếu hỏi ý các cận thần, thì đồng loại ắt sẽ bẻ cong lời lẽ, làm mê hoặc thánh thính. Thần giữ chức trách ngôn quan, nguyện dốc lòng trung, nên không sợ chúng nộ, dám hết lời nói. Mong rằng bậc đại thần giữ lòng công chính, tiểu thần tuân theo phận nghĩa, danh khí không để người khác lạm dụng, uy phúc không để kẻ dưới lộng hành, thì nền trị an mới có thể mong đợi được.”
(Theo 《Biên loại chương sớ》, ngày 12 tháng 3 năm thứ 8 tấu.)
[17] Ngày Canh Dần, Lễ bộ tâu: “Xét theo lệnh của Lễ bộ thời Nguyên Phong: ‘Các khoa thi mở ra, cứ ba năm một lần vào ngày mùng một tháng cuối xuân để quyết định.’ Bộ thần xét thấy từ kỳ thi Hương năm Nguyên Hựu thứ 5 đến nay đã đủ ba năm.” Chiếu rằng khoa thi năm nay cứ theo lệ mà thi hành.
[18] Hàn lâm Thị giảng học sĩ Phạm Tổ Vũ tâu: “Thần trước đây dâng lên 《Nhân Hoàng Huấn Điển》, mong Bệ hạ noi theo Nhân Tông, nên lấy sự chí thành ham học làm đầu. Nay nhân tiến giảng việc thánh nhân phụng sự trời theo 《Nguyệt Lệnh》, thần thiết nghĩ rằng không ai kính sợ trời bằng Nhân Tông, nên mong Bệ hạ trước hết hãy chí thành trong việc phụng sự trời. Thần nghe rằng việc thánh nhân phụng sự trời, không phải chỉ ở lúc trai giới bảy ngày, ba ngày, cầm ngọc khuê lễ vật tế ở đàn Viên Khâu; trời phù hộ thánh nhân, cũng không phải chỉ lúc tế tự thì ban phúc. Thánh nhân không ngày nào không phụng sự trời, trời không ngày nào không phù hộ thánh nhân. Xưa Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, Thuấn truyền ngôi cho Vũ, đều nói: ‘Lịch số của trời ở nơi ngươi.’ Sự hưng khởi của đế vương, nhận mệnh trời ban, há phải một sớm một chiều? Bởi do tích lũy công đức, vốn đã hợp với trời. Thần trộm thấy từ sau lễ Giao tế mùa đông năm ngoái đến nay, trời người hòa hợp, mưa thuận gió hòa, điềm lành được mùa, đó là do trời ban phúc, Bệ hạ chí thành cảm động. Nhưng từ giữa xuân đến nay, gió mưa bão tuyết dữ dội, khí lạnh quá mức, tiết khí không đúng thời, điềm lành được mùa chưa chắc đã có. Trời đối với Vua cũng như Vua đối với bề tôi. Có lỗi nhỏ thì răn dạy, nếu không sửa đổi thì sau đó mới trách phạt. Vua thấy điềm lạ nhỏ mà không cảnh giác, thì điềm lạ lớn sẽ đến. Vì thế sấm sét dồn dập thì người quân tử lo sợ tu sửa, sấm chớp dữ dội, Khổng Tử ắt thay đổi sắc mặt, là kính sợ uy nộ của trời. Mong Bệ hạ răn dạy thận trọng, đừng xem thường những điềm lạ nhỏ của trời đất, sửa mình tu đức, để tiêu trừ điềm lạ lớn khi chưa xảy ra, thì lòng trời luôn vui, lòng người luôn hòa, bốn biển may mắn biết bao!”
[19] Tả Triều tán lang Thư Hoán hiệu đối sách vở bản vàng của Bí thư tỉnh.
(Việc ngày 13 trong 《Chính Mục》, năm sau tháng 6 ngày 13 xuất hiện.)
[20] Các bề tôi dâng lời: “Phong tục của man di không biết lễ pháp, thật sự khác với Trung Quốc; nhưng nếu họ yêu quý cha mẹ, xương thịt, bảo vệ núi rừng, ruộng đất, tài sản, yêu sự sống và sợ cái chết, thì tình cảm ấy cũng giống chúng ta. Há lại vô cớ đem thân mình thử lưỡi gươm trắng sao? Vì vậy, man di không yên ổn, ắt có nguyên nhân. Hoặc là người biên giới xâm phạm bức bách họ, quan lại biên giới bất tài, không thể ngăn cấm; hoặc là quan lại biên giới mưu cầu công lao ban thưởng, gây ra sự việc, những việc như thế, tình trạng giả dối nhiều đường. Tính man di hung hãn nóng nảy, một khi nổi điên cầm vũ khí, liều mạng chống lại mệnh lệnh để đánh nhau, triều đình cách xa vạn dặm, chỉ có quan lại biên giới một mặt tâu báo, mà man di rốt cuộc không có đường để tự minh oan. Khiến triều đình chuyên trị man di, man di hoặc oán hán, mà kẻ gây sự thường đứng giữa hai bên, hình phạt không áp dụng. Đến khi sự việc yên ổn, lại có kẻ theo đó mà được ban thưởng, đây là mối lo sâu xa của biên giới. Cho rằng nên từ nay về sau, các lộ Quảng Tây, Hồ Nam Bắc, Ích, Lợi, Tử, Quỳ, phàm có việc biên giới, ắt phải xem xét việc lớn nhỏ, cử Giám ty của bản lộ, hoặc cử quan khác cùng đến tận nơi xem xét nguyên do tâu lên. Nếu việc gây sự có chứng cứ rõ ràng, ắt phải xử theo pháp luật.” Chiếu rằng các lộ Kinh Hồ, Xuyên Quảng Nam từ nay về sau, nếu việc biên giới do gây sự mà ra, và tâu báo không đúng sự thật, ngoài việc Súy ty tự mình phải xét xử, cũng cho phép Giám ty phát giác tâu lên.
(Theo sách biên giới Thành Đô, ngày 13 tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 8, tờ tráp của Xu mật viện.)
[21] Ngày Tân Mão, Trung thư thị lang Phạm Bách Lộc tấu rằng: “Thần được ban chiếu thư cho tiếp tục giữ chức, ơn sâu dày thấm thía. Nhưng thần nghĩ rằng phép nước có quy định, lời người đáng sợ, dù lòng nhân từ sáng suốt của bệ hạ không bị lay động, nhưng phần thần ngu muội khó lòng yên ổn. Kính mong bệ hạ sớm gia thêm trách phạt cho thần, để làm phúc cho kẻ tiểu nhân, và để cảnh tỉnh các bề tôi đang tại chức.” Chiếu chỉ phong Bách Lộc làm Đại trung đại phu, sung chức Tư chính điện học sĩ, nhậm chức Tri phủ Hà Trung. Trước đó, khi cách chức Bách Lộc, triều đình không bổ nhiệm chức vụ mới, Thượng thư Tả thừa Lương Đào tranh luận việc này[2], nên mới có mệnh lệnh này.
(Việc Bách Lộc không được bổ nhiệm chức, 《Chính mục》 căn cứ vào hành trạng của Lương Đào. 《Tô Triệt di lão truyền》 chép: “Phạm Bách Lộc bị cách chức, thực chất là do việc Nhữ Già.” Xét 《Thực lục》, lại có chương hặc của Hoàng Khánh Cơ, Dương Úy, Lai Chi Thiệu, không rõ vì sao Tô Triệt lại nói như vậy, cần xem xét thêm. Lại nữa, Lý Thanh Thần trong thư gửi Hứa Tướng viết: “Việc Dung, Công bị cách chức, tuy do người khác thừa cơ hội, nhưng hẳn còn có lý do khác, không gặp mặt thì khó mà hiểu hết được.” Không rõ Lý Thanh Thần nói “hẳn còn có lý do khác” là việc gì, cần xem xét thêm.)
[22] Tả ty gián Ngu Sách tâu rằng: “Tô Tụng bị cách chức tể tướng, thần đang giữ chức ngôn quan, việc triều đình thăng giáng tể tướng, lẽ ra phải có lời bàn luận. Nhưng thần tự nghĩ, Tô Tụng từng tiến cử thần vào năm Nguyên Phong, trong lòng thần thực sự lo sợ mình trở nên hẹp hòi, có lỗi với đạo nghĩa, nên không dám dâng sớ. Thần đã trễ nải chức vụ, không thể tránh khỏi tội chết. Xin bệ hạ cho thần được nhận một chức vụ nhỏ ở châu.” Chiếu chỉ không chấp thuận.
[23] Ngày Quý Tỵ, Tri châu Trịnh Châu Vương Nham Tẩu được bổ nhiệm làm Tri phủ Hà Dương. Tri phủ Hà Dương Phạm Thuần Nhân được bổ nhiệm làm Tri phủ Dĩnh Xương. (Sách 《Thực lục》 ghi ngày 25.) Tri phủ Dĩnh Xương An Đào được bổ nhiệm làm Tri phủ Hà Nam. (Sách 《Chính mục》 có ghi chép việc này. Truyện của An Đào chỉ ghi việc ông làm Tri phủ Dĩnh Xương, không ghi việc làm Tri phủ Hà Nam.) Thiên Chương các đãi chế, Tri châu Trịnh Châu Triệu Quân Tích được điều làm Tri châu Trần Châu.
(Sách 《Thực lục》 ghi ngày 29 tháng 2, Quân Tích từ Trần Châu được đổi sang Trịnh Châu, cần xem xét lại. Truyện của Quân Tích cũng ghi ông từ Trịnh Châu chuyển sang Trần Châu, e rằng 《Thực lục》 có sai sót.)
[24] Ngày Ất Mùi, Quan Văn điện Đại học sĩ, Tập Hi quan sứ Tô Tụng tâu: “Từ mùa đông đến mùa xuân năm nay, trong người cảm nhiễm hàn khí, khi phát bệnh thì gần như kiệt sức. Kính mong được phép dâng sớ, xin trở về quê nhà.” Chiếu chỉ không chấp thuận, ngoại trừ các buổi đại triều hội, đặc biệt miễn cho ông không phải tham dự các buổi triều hội.
[25] Chương Tiết, vừa được bổ nhiệm làm Hộ bộ Thị lang, được điều đi làm Tri châu Đồng Châu. Có người bàn rằng trong trận đánh ở Hoàn Châu, Tiết đã báo cáo số tổn thất không chính xác, lại để giặc rút lui nguyên vẹn, nên chức Hộ bộ Thị lang không phải là chức Tiết có thể đảm nhiệm, do đó có mệnh lệnh này.
Tiết được bổ nhiệm làm Hộ bộ Thị lang vào ngày 23 tháng giêng. Việc điều đi làm Tri châu Đồng Châu, trong 《Thực lục》 không ghi chép, nay căn cứ vào 《Chính mục》 ghi vào ngày 18 tháng ba. Ngày 12 tháng mười năm ngoái, Hoàn Châu bị vây, Tiết sai tướng đuổi đánh có công, việc triệu về làm quyền Hộ bộ Thị lang chắc là do đó. Sau đó vì bị người bàn tán, nên bị giáng chức. Tên người bàn tán, cần tra cứu thêm.
Lý Thanh Thần trong thư ngắn có nhắc đến việc của Tiết, nay ghi chú ở sau. 《Cựu lục》 đã thiếu, 《Tân lục》 lại không bổ sung, sử quan sơ lược như vậy, thật đáng than thở. Lý Thanh Thần trong thư gửi cho Hứa Tướng, Tri châu Định Châu, viết: “Phương Bắc rất yên tĩnh, Ngưu Ôn Nhân chắc chắn không đến nữa. Quân Hạ vây Hoàn Châu, cướp bóc tộc Mộ Ân, đất cằn cỗi không có lương thực dự trữ, ở lại mấy ngày không thu được gì. Chương Tiết sai tướng đánh chặn, giết được bốn trăm tên, thu được gần nghìn con lạc đà, bốn trăm tám mươi con ngựa, quân Hạ bỏ chạy. Triều đình sai sứ ban thưởng, Chương Chất Phu tuổi già lại có nhiều chiến công sao? Đây cũng là chuyện lạ. Ở Thái Nguyên xuất quân nhỏ, thu hoạch không nhiều.” Lại viết thư cho Hàn Chẩn ở Thái Nguyên: “Quân Hạ cướp Hoàn Châu, cướp bóc tộc Mộ Ân, tướng súy xuất quân đánh chặn. Thu được nghìn con lạc đà, bốn trăm tám mươi con ngựa, chém được ba trăm tám mươi thủ cấp, quân Hạ bỏ chạy. Triều đình sai sứ ban lụa thưởng cho người có công, Chương Chất Phu vốn nhút nhát, lại có nhiều chiến công sao? Đây cũng là chuyện lạ. Ở đây bắt được gián điệp, nói rằng người Liêu vì nước Hạ cầu viện, sai Ngưu Ôn Nhân đến làm sứ. Sau đó nghe nói nước Hạ tập hợp quân thường xuyên, các bộ tộc mệt mỏi vì chạy ngược xuôi, các quan bàn rằng không thể gây hại lớn cho Trung Quốc, há lại vì nước khác mà đánh mất tình hữu nghị lâu đời với triều đình ta? Do đó bãi bỏ việc Ngưu Ôn Nhân đến, không rõ có đúng không? Nhưng người Liêu cũng tự lo việc đánh Đạt Đát, đánh nhiều không thắng, vùng Tây Kinh, Phụng Thánh Xuyên điều động chưa dứt, nhân viết thư nhắc đến việc này.”
Lại viết thư cho Hứa Tướng: “Việc Dung, Công bị bãi, tuy do người bàn tán, nhưng chắc còn có lý do khác, không gặp mặt thì không rõ. Chương Chất Phu bị giáng chức, quân Hạ sai sứ xin giảng hòa nhưng lại xâm phạm Diên Châu, Lân Châu, đều vào tháng ba. Biên cương Thiểm Tây thay tướng liên tục, quan mới lại không đến kịp, việc biên cương rất đáng lo ngại. Phạm Tướng mắt trái hỏng, mắt phải không chịu nổi việc văn thư nhiều ở Tây Lạc, lại mệt vì tiếp khách, muốn về Dĩnh Xương, An Hậu Khanh muốn ở Lạc, xin về Lạc đã mấy tháng, mỗi người tùy ý. Lại viết thư cho Phạm Thuần Túy: “Chất Phu rốt cuộc vì báo cáo số tổn thất giảm, để giặc rút lui nguyên vẹn, cũng là do mệnh. Quân Hạ vừa sai sứ vào cõi, liền tập trung cày cấy, gần biên giới một hai trăm dặm, ruộng đất gần như không còn chỗ trống. Hai bên đang bàn hòa, không có cớ ra cướp. Trước đây Chiết Khả Thích nhân lúc dân biên giới phẫn nộ, xuất quân đánh chặn, quả nhiên thu được chiến công, nhưng quân ta phần nhiều cướp bóc dân mình. Chỉ phạt Khả Thích ba mươi cân, không truy cứu binh lính, rất hợp thời cơ. Khánh Tiết vốn là nơi ông cai trị trước đây, nên đem những điều nghe được kể lại. Phương Bắc không có tin gì[3], chúa Liêu gần đây uống nhiều thuốc, cháu chúa tính hung dữ, giống như cha nó.”)
[26] Ngày Kỷ Hợi, Quốc sử viện dâng lên bản thảo kỷ sự về Thần Tông hoàng đế. Trước đó, Hàn lâm thị giảng học sĩ kiêm Tu quốc sử Phạm Tổ Vũ tâu: “Thần trộm thấy vào thời Nhân Tông, Thái Tường dâng lên bản sao bản chép tay “Phụng Thần Thuật” do Chân Tông soạn, Nhân Tông đứng nghiêm trang, sai Thái Tường tiến lên đọc. Thần Tông ngự tại Tư Chính điện, sử thần dâng lên bản thảo kỷ sự về Nhân Tông và Anh Tông, Thần Tông đứng nghe và hỏi han, đến khi đọc xong dẹp bàn, sử thần sắp bước xuống thềm, mới ngồi xuống. Đó đều là đức hiếu của tổ tông, nghiêm cẩn trong lễ phụng thờ tiên đế. Thần ở viện này gần đây vâng theo thánh chỉ, ngày 22 sẽ dâng lên bản thảo kỷ sự về Thần Tông, nhưng ngày đó lại là ngày trước đại yến, ngự tại Tập Anh điện để đọc xem. Kính nghĩ rằng bệ hạ vừa xem xong sử sách của tiên đế, liền xem trăm trò vui, e rằng không hợp lý. Kính mong thánh từ đặc biệt ra chỉ thị, bãi bỏ việc đọc xem vào ngày 22, để tỏ rõ ý chí chuyên nhất của bệ hạ trong việc kính trọng đại điển của Thần Khảo.” Vua nghe theo.
[27] Thượng thư Lễ bộ tâu: Tây Kinh lưu thủ Phạm Thuần Nhân và các quan tấu rằng, bản phủ và Chuyển vận ty cùng với Lại bộ thị lang Phạm Thuần Lễ đã cùng xem xét, thấy góc hậu của Vĩnh Dụ lăng chỉ hơi lệch một chút, khó có thể di dời, xin không di chuyển nữa. Vua nghe theo.
[28] Ngày Canh Tý, Vua ra chiếu cho các hoàng đệ, quận vương, quốc công ra ngoài học, mỗi người được ban cho bộ “Cửu Kinh” cùng “Mạnh Tử”, “Tuân Tử”, “Dương Hùng” mỗi thứ một bộ, lệnh cho Quốc Tử Giám in và cấp phát.
[29] Trung thư tỉnh tâu: “Các tiến sĩ dự thi đối sách ở điện, phần lớn là văn đã chuẩn bị sẵn từ bên ngoài, sự khéo léo không khác nhau nhiều, khó mà đánh giá. Theo chế độ cũ của tổ tông, thi tiến sĩ ở điện gồm ba đề: phú, thơ và luận, đã thực hiện từ lâu, trước sau đã tuyển được nhiều người tài. Huống chi hiện nay các văn bản hành chính của triều đình phần lớn đều dùng văn biền ngẫu, nếu không thông thạo học vấn thì không thể viết thành bài. Nếu không khôi phục lại ba đề thi theo chế độ cũ của tổ tông, thì các học giả sẽ không biết triều đình hướng đến điều gì. Xét theo chỉ thị đã ban trước đây, trong khoa thi sắp tới, nếu có thí sinh chưa quen với thơ phú, thì cho phép thi theo chế độ cũ, nhưng số người đỗ không được vượt quá một phần ba tổng số người được cử đi thi, sau này sẽ thi cả thơ phú. Theo báo cáo từ Quốc tử giám, hiện Thái học có 2.175 sinh viên, trong đó 2.093 người học thơ phú, 82 người chỉ học kinh nghĩa mà không học thơ phú. Điều này cho thấy số lượng học giả trong và ngoài nước học thơ phú rất nhiều.” Chiếu rằng năm sau thi ở điện, các thí sinh thi thơ phú sẽ thi lại ba đề, còn thí sinh thi kinh nghĩa tạm thời chỉ thi đối sách, sau này sẽ thi cả ba đề. Những thí sinh phạm lỗi nhỏ chưa bị đánh trượt, sẽ được xếp riêng một hạng để tâu lên.
(Tháng 8 năm Nguyên Phù thứ nhất. 《Khổng Vũ Trọng truyện》 chép: Vũ Trọng làm Trứ tác lang, bàn về tệ nạn khoa cử, chỉ trích 《Tam kinh tân nghĩa》, xin khôi phục thi thơ phú để tuyển chọn nhân tài. Không lâu sau, thi thơ phú được khôi phục, đồng thời dùng cả kinh nghĩa. Ông lại dâng sớ xin bỏ phần đại nghĩa và thêm hai bài kinh nghĩa, thi ở điện lại dùng ba đề. Xét Vũ Trọng làm Trứ tác lang vào tháng 7 năm Nguyên Hựu thứ tư. Đến tháng 4 năm thứ tám, từ Trung thư xá nhân thăng làm Cấp sự trung, rồi từ Cấp sự trung thăng làm Lễ bộ thị lang vào tháng 5. Lần này Trung thư tỉnh dâng tấu, có lẽ cũng do Vũ Trọng đề xuất. Ngày 9 tháng 9 năm thứ ba đã có chỉ thị này, nhưng cuối cùng không thực hiện. 《Chính mục》 ghi vào ngày 23. Nay theo 《Thực lục》.)
[30] Ngày Nhâm Dần, Tư chính điện học sĩ, Tri Dương châu Hứa Tướng được bổ nhiệm làm Tri Đại Danh phủ.
[31] Ngày Quý Mão, Hàn lâm Thị giảng học sĩ Phạm Tổ Vũ được bổ làm Hàn lâm học sĩ kiêm Thị giảng học sĩ. Tổ Vũ cố từ chối, nhưng không được chấp thuận. Ông lại cố từ chối kiêm chức Thị giảng học sĩ, tâu rằng: “Thần thấy rằng vào đầu đời Nhân Tông, Tôn Thích làm Thị giảng học sĩ suốt bảy năm, sau mới kiêm chức Long Đồ các học sĩ. Bằng Kinh vì tránh thân tộc, được bổ làm Thị độc học sĩ, sau làm Hàn lâm học sĩ mà không kiêm Thị độc. Đầu đời Thần Tông, Tư Mã Quang và Lữ Công Trước đều làm Hàn lâm học sĩ kiêm Thị giảng, ban đầu không kiêm chức học sĩ. Thúc tổ của thần là Trấn, khi tái nhậm chức Hàn lâm, vào niên hiệu Trị Bình, từng làm Thị giảng học sĩ tri châu Trần, sau được Thần Tông triệu về, lại làm Hàn lâm học sĩ, cũng chỉ kiêm Thị độc mà không mang chức học sĩ. Năm ngoái, thần được bổ làm chức trong cấm, được ân điển của bệ hạ cho phép tránh thân tộc, đổi làm Thị độc học sĩ. Nay lại được ban mệnh trước, kiêm chức cũ, khiến thần vì tránh thân tộc mà chưa đầy một năm đã được hai chức học sĩ. Với phần của thần, đâu dám an nhận? Nếu triều đình không cho phép thần từ chối mệnh mới, lại vì thần đã lâu ở kinh diên, vẫn cho kiêm chức, thì xin theo lệ cũ chỉ kiêm Thị giảng mà không mang chức học sĩ, như vậy chức vụ không thay đổi mà cũng không trái điển cố.” Vua bèn hạ chiếu cho ông làm Hàn lâm học sĩ kiêm Thị giảng.
(Việc đổi mệnh vào ngày mồng 8 tháng 4, nay ghi chung. 《Chính mục》 ghi việc bổ làm Nội hàn vào ngày mồng 4 tháng 4.)
[32] Trung thư xá nhân Khổng Vũ Trọng được bổ làm Cấp sự trung. (《Chính mục》 ghi ngày 26. 《Thực lục》 ghi ngày 14 tháng 4.) Cấp sự trung Phạm Dục được bổ làm Hộ bộ Thị lang. (《Chính mục》 ghi ngày 26. 《Thực lục》 không ghi việc này.) Chuyển vận phó sứ lộ Hà Đông Chu Bột được bổ làm Hữu chánh ngôn.
(《Chính mục》 ghi việc ngày 26. 《Thực lục》 không ghi việc này. Tháng 10 năm thứ 7, Bột từ chức Chuyển vận phó sứ lộ Kinh Tây đổi sang lộ Hà Đông, nay không rõ từ chức gì vào. Ngày 27 tháng 9 năm thứ 6, Phạm Tổ Vũ tiến cử Bột, lúc đó Bột đang làm Chuyển vận phán quan lộ Kinh Tây. Ngày mồng 6 tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ 4, lại ngày 23, Bột dùng chức Hữu ty gián luận việc. Ngày mồng 5 tháng 4 nhuận, làm Chuyển vận phó sứ lộ Hà Bắc.)
[33] Ngày Giáp Thìn, Thượng thư tỉnh tâu: “Xét các lộ về sổ sách tiền vật của các phường trường thường bình và quảng huệ, đều phải lập sổ sách cuối năm để trình lên, gây trở ngại cho việc chiếu dụng. Nay xin lệnh cho Hộ bộ chỉ đạo các lộ đề hình ty, đối với sổ sách tiền trợ dịch của các phường trường thường bình và quảng huệ, mỗi năm chia làm hai kỳ thượng bán niên và hạ bán niên, theo quy định lập sổ sách trình lên. Còn từ năm Nguyên Phong thứ 8 về sau đến năm Nguyên Hựu thứ 3, thì theo sổ sách tiền vật miễn dịch trước khi chưa thi hành phép dịch từ năm Nguyên Phong thứ 8 về sau, mỗi quý lập sổ sách trình lên.”
[34] Tháng Vua thân làm lễ tế Nam Giao, Tô Thức tâu: “Thần nghe nói lúa quá rẻ thì hại nông dân, quá đắt thì hại thương nhân. Vì vậy pháp luật không đánh thuế ngũ cốc, khiến những vùng được mùa, thương nhân tranh nhau mua, để nâng giá lúa quá rẻ; những vùng bị thiên tai, thuyền xe tụ tập, để hạ giá lúa quá đắt. Từ thời tiên vương đến nay, chưa từng thay đổi. Nhưng mấy năm gần đây, pháp lệnh mới có thuế tiền lực thắng ngũ cốc, khiến thương nhân không buôn bán, cả nông dân và thương nhân đều khổ. Bỏ điển chế không thể sửa đổi của trăm vương, mà thi hành pháp tệ từ xưa chưa từng có, trăm đời sau, sử xanh sẽ ghi rằng: thu thuế tiền lực thắng ngũ cốc, bắt đầu từ năm nào đó của triều đại Hoàng Tống, thần thật lấy làm lo cho thánh thế.
Thần trước đây ở Hoàng Châu, tận mắt chứng kiến nhiều năm liền được mùa, nông dân chở lúa chất đầy xe vào chợ, không đủ tiền mua muối, dấm, những nhà tích trữ, ngày đêm cầu khấn, mong gặp năm đói kém. Lại ở Chiết Tây nhiều năm, tận mắt thấy lũ lụt, những nhà khá giả có tiền mà không có lúa, mặc gấm vóc, đeo vàng ngọc, chết đói ngoài chợ, đều là do quan thu thuế tiền lực thắng ngũ cốc khiến thương nhân không buôn bán mà ra. Thần nghe nói lấy của cải cho người, của cải hết thì thôi; lấy pháp luật cứu người, pháp luật thi hành mãi mãi. Nay bệ hạ mỗi khi gặp thiên tai, bỏ tiền của, phát thóc lúa, từ năm Nguyên Hựu đến nay, ước tính đã tốn mấy chục triệu quan tiền, thạch lúa, nhưng nạn đói và dân lưu vong không giảm bớt. Chỉ như năm ngoái ở Chiết Trung bị lũ lụt, bệ hạ sai Giang Tây, Hồ Bắc thuê thuyền chở lúa cứu dân Tô, Hồ, ước hơn một triệu thạch. Lại tính tiền mua lúa, tiền vận chuyển, quan phí không ít, mà thuyền buôn bị điều động đều thất nghiệp phá sản, không biết kêu ai.
So với việc quan tư hao phí gây hại như vậy, sao bằng bỏ điều thuế tiền lực thắng ngũ cốc mới đặt gần đây, chỉ thi hành lệnh miễn thuế phụ lục thời Thiên Thánh, thì năm được mùa, năm mất mùa đều có lợi. Dù có lũ lụt, hạn hán, cũng không đến nỗi đói kém lớn. Tuy trước mắt mất một ít thuế, nhưng những vùng bị thiên tai, không cần phiền bệ hạ bỏ tiền lúa nhiều như mấy năm gần đây. Nay trong sách lệnh thời Nguyên Hựu tuy nói ‘vùng bị thiên tai dù có lệ cũng được miễn’, nhưng lúa đưa đến, tất từ những vùng được mùa, qua những nơi khác không khỏi bị thu thuế, thì thương nhân cũng không buôn bán. Có người bàn muốn đặt pháp luật, như một lộ bị thiên tai thì lộ lân cận được miễn thuế, một châu bị thiên tai thì châu lân cận cũng vậy. Tuy so với pháp luật hiện nay có phần thông thoáng hơn, nhưng cách một lộ một châu, năm được mùa, năm mất mùa không cứu giúp được nhau, chưa phải là pháp luật tốt. Phải bỏ hết pháp tệ mấy năm gần đây, chuyên dùng lệnh phụ lục thời Thiên Thánh, mới là thông suốt. Nếu làm theo lời thần, thuế tiền cũng chưa chắc mất nhiều. Tại sao? Ngũ cốc không đánh thuế, thương nhân tất buôn bán thông suốt, không chở tiền mặt, tất có hàng hóa đổi lại. Tiền mặt, hàng hóa đổi lại, đều có thuế, số thu được chưa chắc ít hơn thuế lực thắng. Mà những vùng bị thiên tai, có không giúp nhau, dễ cứu tế. Quan tư tiết kiệm, lợi ích không thể kể xiết. Nay đại xá sắp đến, nếu được đưa vào sách xá, sẽ làm rạng rỡ thánh đức, thu phục lòng dân, thật là lợi ích vô cùng.”
[35] Tháng này, Tô Thức lại tâu: “Thần nghe rằng ứng với trời phải bằng thực chứ không bằng văn, động dân phải bằng hành động chứ không bằng lời nói. Năm ngoái, thần theo hầu đức Vua đi tế Nam Giao, tận mắt thấy bách tính phụ lão ngưỡng mộ thánh nhan, vui mừng khích lệ, có người cảm động đến rơi lệ, đều nói: ‘Không ngờ ngày nay lại được thấy Hoàng đế Nhân Tông!’ Thần liền cùng Phạm Tổ Vũ tâu lên tình hình đó. Thần nghĩ trong lòng đức Vua ắt có ý dưới thì lắng nghe lời dân, trên thì nối tiếp chí tổ tiên. Lại vâng theo thánh chỉ thúc giục, nên Tổ Vũ đã biên soạn xong những việc cũ của Hoàng đế Nhân Tông và dâng lên. Thần ngu nghĩ rằng bệ hạ đã muốn noi theo Hoàng đế Nhân Tông thì cần phải làm những việc thực tế thì mới có thể động lòng dân. Ngày 7 tháng 11 năm ngoái, thần từng tâu xin miễn thuế lực thắng ngũ cốc, vì việc này xuất phát từ lệnh phụ của niên hiệu Thiên Thánh, là việc đức lớn của Hoàng đế Nhân Tông, thấm sâu vào lòng người, ảnh hưởng rộng khắp, mong bệ hạ quyết tâm thực hiện. Sau đó được giao xuống Tam tỉnh, rồi chuyển sang Hộ bộ giao cho các chuyển vận ty xem xét, nhưng chắc chắn không thể thực hiện được. Thần liều chết, xin chép lại tờ tấu trước, dâng lên, mong bệ hạ đặc biệt xem xét. Nếu cho rằng việc bỏ ra ít mà lợi ích lớn, có thể khôi phục chính sách thánh của Hoàng đế Nhân Tông, đáp ứng lòng dân, thì xin bệ hạ trực tiếp phê chuẩn thi hành; nếu không, xin giữ lại trong cung, không ban xuống, để khỏi phiền hà xét duyệt.”
[36] Tờ phụ tâu: “Việc thần xin miễn thuế lực thắng ngũ cốc, nếu vạn nhất hợp ý bệ hạ, có thể thực hiện, xin bệ hạ ban chỉ, đại ý nói rằng: ‘Pháp cũ của tổ tông vốn không thu thuế lực thắng ngũ cốc, gần đây mới ra lệnh cho thu thuế theo lệ, khiến thương nhân không có lợi, hàng hóa không lưu thông, năm được mùa thì giá lúa thấp làm hại nông dân, năm mất mùa thì thành ra đói kém. Nên từ nay về sau, không kể có lệ cũ hay không, đều không được thu thuế lực thắng ngũ cốc. Đồng thời trong khoản thuế khóa, xóa bỏ khoản này.’ Thần liều chết xin tâu.”
(Việc này có thực hiện hay không cần tra cứu thêm. Ngày 23 tháng 10, cần tra cứu.)
[37] Môn hạ thị lang Tô Triệt tấu: “Thần gần đây vì Ngự sử Đổng Đôn Dật nói người Xuyên quá nhiều, sai Tri Tử Châu Phùng Như Hối không đúng, chỉ là lỗi của thần, bèn dâng tráp tử và trình bày trực tiếp đầu đuôi sự việc. May được lời dạy bảo của bệ hạ, xét rõ sự vu cáo của Đôn Dật, mà lấy lời thần làm đúng. Thần đức mỏng tài kém, kẻ nói càn dễ dàng vu cáo, nếu không nhờ bệ hạ sáng suốt, biết rõ tà chính, thì thân phận cô độc nguy hiểm của thần, khó mà tự an. Thần xét kỹ lời Đôn Dật, việc Phùng Như Hối chỉ là một trong những điều ông ta đã nói trước, thì những việc còn lại không thể không biện bạch, bèn xin giao hết ra ngoài xử lý, lại được bệ hạ nhiều lần dạy bảo, rằng những việc khác đều không có thực. Thần nghĩ ơn bệ hạ sâu dày, biết thần ngu muội, hết lòng che chở, thần ngưỡng nhớ ơn tạo, dù chết cũng không quên. Nhưng thần kém cỏi giữ chức chấp chính, biết người nói xấu mình mà im lặng không biện bạch, thực khó yên vị. Bệ hạ yêu thần dù sâu, nhưng không cho thần biết lời Đôn Dật, thần thấy có điều chưa rõ. Nếu lời Đôn Dật quả đúng bệnh của thần, sao tiếc để thần từ chức, tạ lỗi triều đình? Nếu lời Đôn Dật không đúng, cũng xin cho thần được biện bạch đôi lời, rồi sau mới ra vào bên cạnh bệ hạ, đỡ phần hổ thẹn. Nếu không được chấp thuận, thì không phải là yêu thương thần. Tất cả chương sớ Đổng Đôn Dật nói về thần, xin sớm ban giao Tam tỉnh thi hành.”
[38] Đôn Dật trước đó có tấu chương không được truyền lại (đây là tấu chương ngày mùng một0), sau đó lại tấu rằng: “Thần gần đây có dâng tấu xin giảm bớt thế lực quá lớn của người Xuyên, cùng xin mở rộng việc thăm dò ý kiến, đã trình lên Thánh thượng. Nay nghe theo lời nhiều người, có mấy điều cần trình bày: Một là, nghe nói Tô Thức, Tô Triệt, Phạm Bách Lộc đều có người được tiến cử và đề bạt, trong đó Tô Thức là nhiều nhất. Hoặc là người thân quen, hoặc là người cùng quê, có người ở gần, có người giữ chức vụ trong quán, có người làm giáo quan, có người làm giám ty, có người làm tri châu, tri quân, không thể kể hết. Điều này khiến sĩ phu than thở về sự bất công. Trung thư tỉnh và Thượng thư Lại bộ cần ghi chép tên họ, xin chỉ thị cung cấp đầy đủ để thấy rõ số lượng nhiều ít, tình hình ra sao. (Thần vào ngày mùng một0 tháng này có tấu chương xin lưu lại, đã nói sơ về việc người Xuyên quá nhiều và việc bổ nhiệm không đúng.)
Một là, việc Cao Ly mua sách, là mệnh lệnh của Thánh thượng đã ban, do các đại thần cùng bàn bạc, được chỉ thị rồi mới thi hành, sau đó vì Tô Thức phản đối nên bãi bỏ. Hiện có văn án tại Thượng thư tỉnh Lễ bộ và Quốc tử giám, xin lấy về xem xét. (Từ thời tổ tông, năm Tường Phù ban tặng 《Cửu kinh》, 《Sử ký》, 《Lưỡng Hán》, 《Tam quốc chí》, các sách chư tử, 《Thánh huệ phương》…, năm Thiên Hi lại ban tặng sách âm dương, địa lý…, đều theo yêu cầu của họ.)
Một là, việc đắp đập mềm trên sông Hoàng Hà, cũng là mệnh lệnh của Thánh thượng đã ban, do các đại thần cùng bàn bạc, được chỉ thị rồi mới thi hành, sau đó vì Tô Triệt phản đối nên bãi bỏ. Hiện có văn án tại Thượng thư tỉnh Công bộ và Đô thủy giám, xin lấy về xem xét. (Thần dẫn theo trát tử của Thượng thư tỉnh, lúc đó Tô Triệt đang nghỉ phép, nếu theo lời bàn của các đại thần, Triệt tham gia việc này, nhưng trước mặt Thánh thượng lại nói khác, thì giống như việc Hứa Tướng năm xưa nói về việc bổ nhiệm Trương Lợi Nhất quản quân sự. Điều này cũng là bán rẻ quan trưởng, khác với đồng liêu, huống chi Tướng vì lời tấu của Triệt mà bị bãi chức. Triệt có thể trách người, cũng nên tự trách mình. Nếu Triệt không tham gia bàn bạc, mà mệnh lệnh của Thánh thượng đã ban, có thể vi phạm và từ chối được sao?)
Thần nghe nói, bậc quân chủ là người ban ra mệnh lệnh, bậc bề tôi là người nhận mệnh lệnh mà thi hành. Mệnh lệnh được coi trọng thì quân chủ được tôn kính, mệnh lệnh bị coi nhẹ thì bề tôi lộng quyền. Nay mệnh lệnh của Thánh thượng đã ban, mà Tô Thức, Tô Triệt lại vi phạm và từ chối. Việc Triệt từ chối mệnh lệnh, trong ngoài nghe đều kinh hãi; việc Thức từ chối mệnh lệnh, không chỉ trong ngoài biết, mà cả ngoại diệc cũng biết. Ngày sau kẻ địch sinh lòng khác, biên phòng lỡ việc, thần chưa kịp bàn. Thần nghĩ, Tô Tụng và Phạm Bách Lộc vì việc trì hoãn chế thư và bổ nhiệm không đúng…, triều đình đã xử lý, còn Triệt và Thức, không chỉ lạm dụng ân sủng, kết bè kết đảng bất công, mà còn từ chối mệnh lệnh của quân chủ, xét tình hình phạm tội, còn nặng hơn Tụng và Bách Lộc, nếu không xử lý, mệnh lệnh sẽ bị coi nhẹ. Thần há không biết thế lực đảng Xuyên quá lớn, khó nói ra, bị nhiều người ghét, họa khó lường? Nhưng nếu lại sợ hãi tránh né, là phụ lòng tin cậy của Thánh thượng, xin xem lại tấu chương trước của thần (ngày mùng một0 lưu lại), cùng xem xét kỹ những điều thần trình bày hôm nay, xin Thánh thượng quyết đoán, chỉ thị thi hành.”
Trước tờ thiếp vàng viết: “Thần tấu về việc Tô Thức, Tô Triệt kết bè kết đảng bất công, cùng từ chối mệnh lệnh của quân chủ, xin lệnh cho các đại thần cùng xem xét.” Sau tờ thiếp vàng viết: “Thần cho rằng Lã Đại Phòng hẳn biết rõ việc này. Vì lúc hai Thánh thượng buông rèm, cốt để hòa hợp, nào ngờ Thức, Triệt lại ngang ngược như vậy! Xin đem tấu chương trước sau của thần cho Đại Phòng xem, xin chỉ thị. Nếu Thánh thượng không muốn để một mình tể thần gánh chịu oán giận của đảng Xuyên, thì xin chỉ thị cho Tam tỉnh và Xu mật viện, lệnh cho Hàn Trung Ngạn, Lương Đào, Trịnh Ung, Lưu Phụng Thế cùng Lã Đại Phòng xem xét, vì đại thần nên bàn việc lớn. Xin sớm thi hành, thì thiên hạ may mắn lắm!”
(Biên soạn tấu chương vào ngày 20 tháng 3 năm thứ 8. Nay vì Tô Triệt biện bạch về tấu chương đầu của Đổng Đôn Dật không rõ thời gian, vì là cuối tháng 3, nên tấu chương này của Đôn Dật không nên xuất hiện trước ngày 20, nên cũng đính kèm sau tấu chương biện bạch của Tô Triệt cuối tháng 3. Ngày 16 tháng 5, Lã Đại Phòng nói, Đôn Dật nói Triệt ứng với việc cùng ký văn tự của Tam tỉnh, đều cho là tội của Triệt, tức chỉ tấu chương ngày 20 tháng 3 của Đôn Dật. Tấu chương ngày mùng một0 của Đôn Dật chưa tìm được, nay 《Thực lục》 chỉ còn tấu chương của Hoàng Khánh Cơ[4]. 《Bổ lục》 của Vương Chí cũng chỉ còn tấu chương ngày 20 của Đôn Dật.)
[39] “Xin sai cận thần đến xem xét có được không”, “rốt cuộc không nghe nói sai sứ đến xem xét”, theo đó bổ sung.
- chữ 'thị' trong 'Bách Lộc khoảnh tằng tương thị đại hà lợi hại' bị thiếu. 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 105 'Tô Tụng bãi tướng' chép là 'tương thị', lại có thêm ở dưới ↵
- Chữ 'Tả thừa' trong 'Thượng thư Tả thừa Lương Đào tranh chi' vốn bị thiếu, căn cứ vào các bản khác, 《Tống sử》 quyển 342 truyện Lương Đào và sách này quyển 480 ngày Tân Mão tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 8, cùng đoạn văn trên ngày Quý Mùi tháng 3 bổ sung. ↵
- 'Bắc' nguyên bản viết 'Thử', căn cứ vào các bản khác, bản hoạt tự sửa lại. ↵
- Nay 《Thực lục》 chỉ còn tấu chương của Hoàng Khánh Cơ, 'Thực lục' nguyên là 'Hoàng lục', theo các bản và bản hoạt tự sửa. ↵